GIÁO HỘI HIỆN THẾ

_______

 CHÚA NHẬT 15/4/2007

BÁT NHẬT PHỤC SINH

 

?  “Chúng ta cần quyết định bước tới với Chúa Giêsu như Người Con Hoang Đàng đã làm, khi hắn trở về cả bên trong lẫn bên ngoài với cha của hắn”

?  "Hôm nay đây, tại Đền Thánh này, Tôi xin long trọng ký thác thế giới cho Lòng Thương Xót Chúa... Chớ gì lời hứa quyết của Chúa Giêsu được nên trọn, ở chỗ, từ nơi đây phải chiếu giãi ra 'tia sáng sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha'”.

? NẾU TRẦN THẾ CÓ MA … ẮT THIÊN ĐÀNG CÓ QUỈ !

 

 

 

?  “Chúng ta cần quyết định bước tới với Chúa Giêsu như Người Con Hoang Đàng đã làm, khi hắn trở về cả bên trong lẫn bên ngoài với cha của hắn”.

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI: Bài Giảng Chúa Nhật IV Mùa Chay 18/3/2007 tại Nguyện Đường Cha Thương Xót ở Nhà Tù Thiếu Niên Casal Del Marmo ở Rôma

 

Anh Chị Em thân mến,

Các em Trai Gái thân mến,

 

Tôi mong muốn đến đây để thăm viếng anh chị em, và thời điểm quan trọng nhất của cuộc chúng ta gặp gỡ là Thánh Lễ, nơi tặng ân yêu thương của Thiên Chúa được tái diễn, một tình yêu làm cho chúng ta cảm thấy ủi an và ban cho chúng ta an bình, nhất là trong những lúc khó khăn của cuộc sống.

 

Trong bầu không khí nguyện cầu này, tôi muốn gửi lời chào tới từng người trong anh chị em: tới Ông Clemente Mastella, Bộ Trưởng Công Lý, vị tôi xin đặc biệt ‘cám ơn’; tới Bà Melìta Cavallo, Thủ Trưởng Công Lý Đặc Trách Thiếu Niên, tới các vị Thẩm Quyền khác là những vị đã lên tiếng nói, tới những vị có trách nhiệm, tới những hành sự viên, các thày cô và nhân viên của trại cải huấn thiếu niên này, tới các tình nguyện viên, tới họ hàng thân thuộc của anh chị em và tới hết mọi người hiện diện nơi đây.

 

Tôi gửi lời chào ĐHY Tổng Đại Diện và Đức Giám Mục phụ tá Benedetto Tùzia. Tôi đặc biệt chào các Đức Ông Giorgio Caniato, Tổng Thanh Tra Viên của Văn Phòng Tuyên Úy Các Nhà Tù, và vị Tuyên  Úy của anh chị em, người tôi cám ơn về những bày tỏ cảm mến của anh chị em mở đầu Thánh Lễ.

 

Trong việc cử hành Thánh Thể, chính Chúa Kitô hiện diện giữa chúng ta; thật vậy, còn hơn thế nữa: Người đến soi sáng chúng ta bằng giáo huấn của Người – nơi Phụng Vụ Lời Chúa – và nuôi dưỡng chúng ta bằng Mình Máu của Người – nơi Phụng Vụ Thánh Thể và nơi việc Hiệp Lễ.

 

Như thế là Người đến để dạy chúng ta yêu thương, làm cho chúng ta có khả năng yêu thương nhờ đó có khả năng sống động. Thế nhưng, có lẽ anh chị em sẽ nói rằng yêu thương một cách nghiêm chỉnh và sống đàng hoàng thì khó khăn biết bao! Đâu là cái bí mật của yêu thương, bí mật của đời sống? Chúng ta hãy trở về với Phúc Âm (liên quan tới Người Con Hoàng Đàng).

 

Trong  bài Phúc Âm này có 3 nhân vật, đó là người cha và hai đứa con trai. Thế nhưng những người này lại tiêu biểu cho hai dự án sống đời khác nhau. Cả hai người con trai đều sống an bình, họ là những nông gia khá sung túc nên họ có đủ sống, bằng việc thu lợi ở những nông sản của mình, và đời sống có vẻ tốt đẹp.

 

Tuy nhiên, từ từ người con thứ thấy rằng cuộc sống ấy trở thành nhạt nhẽo chán ngấy, không có gì là thoải mái: ‘Tất cả cuộc đời không thể nào như thế được’, anh ta nghĩ rằng: chỗi dạy mỗi ngày, cứ cho là 6 giờ sáng đi, đoạn theo truyền thống Do Thái, cần phải cầu nguyện, đọc Thánh Kinh, rồi đi làm  việc và cuối ngày lại nguyện cầu.

 

Bởi vậy mà ngày ngày anh ta nghĩ rằng: ‘Nhưng không, đời sống còn một cái gì nữa. Tôi phải tìm một cuộc đời khác để được hoàn toàn tự do, có thể làm những gì tôi thích; một cuộc sống không bị ràng buộc kỷ cương, không có những qui tắc luật lệ của Thiên Chúa, không bị cha ra lệnh truyền  khiến; tôi muốn độc lập và có một cuộc đời đầy những duyên dáng của nó cho bản thân mình. Còn hiện giờ thì chẳng có gì khác ngoài công việc…’

 

Thế là anh ta quyết định đòi lấy tất cả phần gia sản của mình v à bỏ đi. Cha anh ta tỏ ra rất tôn trọng và quảng đại, và đã tôn trọng quyền tự do của con mình: chính nó mới là người tìm lấy dự án sống cho nó. Rồi hắn ra đi, như Phúc Âm kể, đến một miền xa. Đó là một khoảng cách xa về địa lý vì hắn muốn thực hiện một cuộc đổi thay, thế nhưng cũng là khoảng cách xa xôi nội tâm nữa, vì hắn muốn một cuộc đời hoàn toàn khác hẳn.

 

Bởi vậy mà ý nghĩa của hắn là tự do, làm những gì tôi muốn làm, bỏ qua những lề luật của vị Thiên Chúa xa vời, không bị giam nhốt bởi kỷ cương gia đình, song làm những gì đẹp đẽ, những gì tôi thích, chiếm hữu tất cả những gì là mỹ miều và trọn vẹn của đời sống.

 

Chúng ta có thể tưởng tượng là có lẽ trong vòng ít tháng, mới đầu thì mọi sự đều suông sẻ: hắn đã cảm thấy đẹp đẽ khi cuối cùng chiếm được cuộc đời, hắn cảm thấy hạnh phúc.

 

Tuy nhiên, dần dần hắn cảm thấy ở đó cũng buồn chán nữa; cả ở đó nữa mọi sự cũng luôn mãi thế thôi. Và cuối cùng hắn cảm thấy một thứ trống rỗng thậm chí còn buồn khổ hơn nữa: cái cảm giác đó vẫn không phải là cuộc sống đã trở nên day dứt hơn; thật vậy, tự động chọn lấy tất cả những điều này, đời sống lại càng trôi dạt xa hơn nữa. Tất cả mọi sự đều trở nên rỗng tuyếch: tình trạng nô lệ trong việc làm cùng những điều giống nhau lại tái diễn. Cuối cùng thì tiền bạc chẳng còn và con người trẻ ấy thấy rằng mức sống của mình còn tệ hơn cả mức sống của loài heo nữa.

 

Bấy giờ hắn mới bắt đầu phản tỉnh và ngẫm nghĩ rằng đâu mới thật sự là con đường sống: một là thứ tự do được cho rằng làm những gì tôi muốn, sống động, sống đời chỉ cho tôi thôi, hay là, trái lại, một cuộc đời sống cho kẻ khác, góp phần vào việc xây dựng thế giới, vào việc phát triển cộng đồng nhân loại…

 

Bởi vậy mà hắn đã bắt đầu một cuộc hành trình mới, một cuộc hành trình nội tâm. Thằng nhỏ suy nghĩ và cân  nhắc tất cả những khía cạnh mới này của vấn đề và bắt đầu thấy rằng hắn còn được tự do hơn là ở nhà, vì hắn cũng là một điền chủ góp phần xây dựng nhà mình và xã hội trong mối hiệp thông với Đấng Hóa Công, biết được mục đích của đời sống mình và thấy được dự án Thiên Chúa giành cho hắn.

 

Trong cuộc hành trình nội tâm ấy, trong cuộc phát triển của một dự định sống mới đồng thời sống cuộc hành trình ngoại tại ấy, người con thứ cảm thấy phấn khởi trở về, bắt đầu lại cuộc sống của mình, vì bấy giờ hắn đã hiểu được rằng hắn đã lấm đường lỡ bước. Tôi phái bắt đầu lại bằng một quan niệm khác, hắn tự nhủ; tôi phải bắt đầu lại.

 

Và hắn đã trở về nhà của cha là người đã để hắn tự do cho hắn có cơ hội sâu xa hiểu được đời sống là gì và những gì không phải là đời sống. Người cha đã ôm lấy hắn bằng tất cả lòng yêu thương của ông, đã mở tiệc linh đình và cuộc đời lại bắt đầu từ cuộc mừng rỡ này.

 

Người con ấy đã nhận thức rằng chính công việc, lòng khiêm nhượng và vấn đề kỷ cương hằng ngày mới là những gì tạo nên những gì vui mừng thực sự và tự do đích thật. Vậy là hắn đã trở về, đã trưởng thành và được thanh tẩy nội tâm: hắn đã hiểu được đầu là cuộc sống.

 

Dĩ nhiên, trong tương lai, cuộc đời của hắn cũng chẳng dễ dàng gì, các chước cám dỗ sẽ trở lại, thế nhưng từ đó hắn đã hoàn toàn nhận thức được rằng cuộc sống thiếu vắng Thiên Chúa không xong; nó thiếu những gì là chín h yếu, nó thiếu mất ánh sáng, nó thiếu mất lý do, nó thiếu mất cảm quan quan trọng về việc làm người. Hắn đã hiểu rằng chúng ta chỉ có thể nhận biết Thiên Chúa dựa trên Lời của Người.

 

Kitô hữu chúng ta có thể thêm rằng chúng ta biết được Thiên Chúa là Đấng nào từ Chúa Giêsu, nơi Người dung nhan của Thiên Chúa được thực sự tỏ ra cho chúng ta. Con người trẻ này đã hiểu được rằng các Giới Luật của Thiên Chúa không phải là những cản trở đối với tự do và đối với một cuộc đời tuyệt vời, mà là những dấu đường cho cuộc hành trình tìm kiếm sự sống.

 

Anh ta cũng nhận thức được rằng vấn đề dấn thân làm việc và giữ kỷ cương, không phải cho bản thân mà là cho kẻ khác, là những gì làm cho đời sống vươn dài trải rộng. Và chính vì nỗ lực dấn thân này qua việc làm đã làm cho đời sống vững chắc, vì người ta cuối cùng cảm thấy vui thỏa được góp phần vào tình trạng phát triển của thế giới này, làm cho nó được tự do hơn và tuyệt vời hơn.

 

Tới đây tôi không muốn nói tới người con trai khác còn ở lại nhà, thế nhưng, qua phản ứng ghen tương của hắn, chúng ta thấy rằng trong lòng mình hắn cũng đã mơ màng rằng có lẽ tốt hơn  là hắn được hoàn toàn tự do. Trong tâm can của mình, cả hắn nữa cũng đã ‘trở về’ và hiểu được một lần nữa cuộc sống là gì, hiểu được rằng thực sự là chỉ có thể sống với Thiên Chúa, với Lời của Ngài, trong mối hiệp thông của gia đình mình, của công việc làm; trong mối hiệp thông của đại Gia Đình Thiên Chúa.

 

Giờ đây tôi không muốn đi sâu vào những chi tiết: mỗi người chún g ta hãy áp dụng bài Phúc Âm này cho mình tùy theo cách thức riêng. Trường hợp của chúng ta khác nhau và mỗi người đều có một thế giới riêng của mình. Tuy nhiên, sự kiện vẫn là ở chỗ, tất cả chúng ta đều di động và tất cả chúng ta đều tiến bước theo cuộc hành trình nội tâm vào thẳm cung của Phúc Âm.

 

Chỉ còn một ít nhận định là bài Phúc  Âm này giúp chúng ta hiểu được Thiên Chúa thực sự là Đấng nào. Ngài là Người Cha Nhân Hậu, Đấng nơi Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta khôn lường.

 

Các thứ lỗi lầm chúng ta vấp phạm, cho dù có trầm trọng đi nữa, cũng không làm mai một đi tình yêu thương của Ngài. Nơi Bí Tích Giải Tội, chúng ta bao giờ cũng bắt đầu lại cuộc đời. Ngài đón nhận chúng ta, Ngài phục hồi phẩm giá làm con cái Ngài cho chúng ta.

 

Bởi thế chúng ta hãy tái nhận thức bí tích thứ tha là bí tích mang lại niềm vui nẩy nở trong một tâm hồn được tái sinh vào sự sống chân thực.

 

Ngoài ra, bài dụ ngôn này còn giúp chúng ta hiểu được con người là ai: họ không phải là một thứ ‘du mục’, một hữu thể cô lập chỉ sống cho bản thân  mình và cần phải sống cho một mình họ.

 

Trái lại, chúng ta sống với người khác, chúng ta đã được dựng nên cùng với những người khác và chỉ sống với người khác, bằng việc hiến thân cho người khác, chúng ta mới tìm thấy sự sống thôi.

 

Con người là một tạo vật được Thiên Chúa in ấn hình ảnh của Ngài, một tạo vật được thu hút tới chân trời Ân Sủng của Ngài, thế nhưng họ cũng là một tạo vật mỏng dòn yếu kém trước sự dữ mà lại có thể hành thiện. Và sau cùng, con người là một ngôi vị tự do.

 

Chúng ta cần phải hiểu được tự do là gì và đâu chỉ là tự do hời hợt bên ngoài.

 

Tự do, chúng ta có thể nói rằng, là một cái đòn bẩy giúp chúng ta lặn vào đại dương bao la của sự thiện hảo thần linh, thế nhưng nó cũng có thể trở thành một mặt phẳng chênh vênh làm chúng ta trơn tuột vào vực thẳm tội lỗi và sự dữ, bởi đó cũng làm mất đi cả tự do và phẩm vị của chúng ta nữa. 

 

Các bạn thân mến, chúng ta đang ở trong Mùa Chay, giai đoạn 40 ngày trước Phục Sinh. Trong Mùa Chay này, Giáo Hội giúp chúng ta thực hiện cuộc hành trình nội tâm này và mời gọi chúng ta hãy hoán cải, một cuộc hoán cải bao giờ cũng, ngay cả trước khi trở thành một nỗ lực đổi thay hành vi cử chỉ của chúng ta, là một cơ hội quyết định đứng lên bắt đầu lại, từ bỏ tội lỗi và quyết tâm trở về với Thiên Chúa.

 

Chúng ta hãy – theo huấn dụ của Mùa Chay – cùng nhau thực hiện cuộc hành trình giải phóng nội tâm n ày.

 

Mỗi một lần, chẳng hạn hôm nay đây, chúng ta tham dự vào Thánh Thể là nguồn mạch và là học đường của yêu thương, chúng ta tiến đến chỗ có thể sống tình yêu thương này, loan báo nó và làm chứng cho nó trong cuộc đời của chúng ta.

 

Tuy nhiên, chúng ta cần quyết định bước tới với Chúa Giêsu như Người Con Hoang Đàng đã làm, khi hắn trở về cả bên trong lẫn bên ngoài với cha của hắn.

 

Đồng thời chúng ta cần phải từ bỏ thái độ vị kỷ của người con lớn, con người tự phụ, mau mắn lên án kẻ khác và khép lòng mình lại trước sự thông cảm, chấp nhận và thứ tha cho người em của mình, và là con người đã quên  rằng cả hắn nữa cũng cần phải được thứ tha.

 

Xin Trinh Nữ Maria và Thánh Giuse, Vị Thánh Quan Thày của tôi có lễ kính vào ngày mai, xin cho chúng ta tặng ân này; giờ đây tôi đặc biệt xin Ngài cho mỗi một người trong anh chị em và cho những người thân yêu của anh chị em.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/homilies/2007/documents/hf_ben-xvi_hom_20070318_istituto-penitenziario_en.html

 

 

TOP

 

 

?  "Hôm nay đây, tại Đền Thánh này, Tôi xin long trọng ký thác thế giới cho Lòng Thương Xót Chúa... Chớ gì lời hứa quyết của Chúa Giêsu được nên trọn, ở chỗ, từ nơi đây phải chiếu giãi ra 'tia sáng sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha'”.

 

ĐTC cung hiến Tân Đền Thờ Chúa Tình Thương ở Lagiewniki, ngoại ô thành phố Krakow. 

 

Thứ Bảy, 17/8/2002, ĐTC đã dâng thánh lễ cung hiến Tân Đền Thờ Chúa Tình Thương. Có khoảng 20 ngàn người theo dõi cuộc cung hiến này ở bên ngoài ngôi đền thờ, một ngôi đền thờ được xây trên ba năm, gần tu viện của Thánh Nữ Faustina. Bên trên nhà tạm khổng lồ bằng vàng theo hình quả cầu thế giới là một bức hình Chúa Giêsu Tình Thương, bức hình được vây chung quanh bằng một bụi gai bị gió lay chuyển, tiêu biểu cho việc con người chiến đấu chống lại tình trạng yếu hèn của mình. Mặc dù không được ở gần chỗ ĐTC, các người tham dự bên ngoài đền thờ vẫn âm thầm quì gối trên vỉa hè để theo dõi lễ nghi cung hiến này qua máy phát thanh. Bất chấp khí hậu hết sức nóng bức, ĐTC cũng vẫn không rút ngắn lễ nghi cung hiến ngôi đền thờ này. Theo lòng cảm xúc, ĐTC đã nói lên những lời tự phát như sau: “Ai có thể nghĩ rằng có người đã từng bước đi ở nơi đây với những chiếc giầy bằng gỗ mà một ngày kia lại là người cung hiến ngôi đền thờ này nhỉ?” Bởi vì, cách ngôi đền thờ này ít thước là khu hầm mỏ Solvay, nơi ĐTC khi còn trẻ đã làm việc trong thời kỳ Nazi chiếm đóng Balan. Cuối lễ, ĐTC đã gặp riêng cựu tổng thống Balan thời hậu Cộng Sản cũng là vị chủ tịch Công Đoàn Liên Đới thời Cộng Sản là Lech Walesa. Sau đây là bài giảng của ĐTC trong thánh lễ cung hiến ngôi tân đền thờ Chúa Tình Thương này.

 
“Ôi Tình Thương của Thiên Chúa khôn thấu và khôn lường,
Ai mới xứng đáng tôn thờ Chúa và chúc tụng Ngài đây?
Ôi ưu phẩm cao cả nhất của Thiên Chúa Toàn Năng,                                       
Chúa là niềm hy vọng ngọt ngào của các tội nhân”
(Nhật Ký, 951).
Anh Chị Em thân mến!

1. Hôm nay Tôi muốn lập lại những lời đơn sơ và chân thành này của Thánh Nữ Faustina để hợp với thánh nhân cũng như với tất cả anh chị em tôn thờ mầu nhiệm khôn thấu và khôn lường của tình thương Thiên Chúa. Như Thánh Faustina, chúng ta muốn loan báo rằng, ngoại trừ tình thương của Thiên Chúa, không còn một nguồn hy vọng nào khác cho loài người nữa. Chúng ta cần tin tưởng lập lại rằng: Lạy Chúa Giêsu, con tin tưởng nơi Chúa!

Việc loan báo này, việc tuyên xưng lòng tin tưởng vào tình yêu toàn năng của Thiên Chúa là việc đặc biệt cần thiết ở thời đại chúng ta đây, khi mà nhân loại đang trải qua một tình trạng biến loạn trước những xuất hiện của sự dữ. Việc kêu cầu lòng thương xót Chúa cần phải được vang lên từ thẳm cung của các cõi lòng đầy những khổ đau, băn khoăn về tương lai và sống trong bất ổn, đồng thời lại trông mong một nguồn hy vọng vững chắc. Đó là lý do tại sao chúng ta đến đây hôm nay, đến Ngôi Đền Thờ Lagiewniki này, để một lần nữa thoáng thấy nơi Chúa Kitô dung nhan của Thiên Chúa Cha: “Người Cha của tình thương và là Thiên Chúa của tất cả mọi niềm ủi an” (2Cor 1:3). Bằng con mắt linh hồn của mình, chúng ta mong nhìn vào đôi mắt của Chúa Giêsu nhân hậu, để thấy được sâu xa trong ánh mắt của Người những gì phản ảnh nội tâm của Người, cũng như thấy được ánh sáng ân sủng là những gì chúng ta đã thường xuyên lãnh nhận, và là những gì Thiên Chúa ban lại cho chúng ta mỗi ngày cũng như vào ngày cuối cùng của cuộc đời chúng ta.

2.- Chúng ta sắp cung hiến ngôi nhà thờ mới này cho Tình Thương của Thiên Chúa. Trước khi thực hiện điều này, Tôi (ĐTC ngỏ lời chào những vị liên hệ với Ngôi Đền Thờ và những vị liên quan đến việc loan truyền lòng thương xót Chúa…)

3.- Hỡi Anh Chị Em! Khi chúng ta cung hiến ngôi thánh đường mới này, chúng ta cũng có thể đặt vấn đề đã làm cho vua Solomon phải bối rối khi vua cung hiến Đền Thờ Giêrusalem để làm nhà cho Thiên Chúa: “Thế nhưng, có thật Thiên Chúa sẽ ở trên mặt đất này hay chăng? Kìa, trời và trời cao không thể chứa nổi Ngài thì ngôi nhà tôi xây cất lên đây lại càng không thể nào làm nổi!” (1Kg 8:27). Phải, thoạt nhìn thì thật là bất xứng hợp khi trói buộc việc Thiên Chúa hiện diện vào một “nơi chốn” nào đó. Chúng ta không bao giờ được quên rằng thời gian và không gian đều hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa. Tuy nhiên, cho dù thời gian và cả thế giới này được coi như “đền thờ” của Ngài, Thiên Chúa vẫn chọn một thời điểm nào đó và địa điểm nào đó để con người có thể cảm nghiệm được một cách đặc biệt sự hiện diện của Ngài và ân sủng của Ngài. Được thúc đẩy bởi cảm quan đức tin của mình, con người hành trình đến những nơi này, tin tưởng rằng, ở đó họ sẽ thực sự tìm thấy chính mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa.

Trong cùng một tinh thần tin tưởng ấy, Tôi đã đến Lagiewniki để cung hiến ngôi thánh đường mới này. Tôi tin tưởng rằng đây là nơi đặc biệt Thiên Chúa chọn để gieo vãi ân sủng tình thương của Ngài. Tôi cầu xin cho ngôi thánh đường này được luôn luôn trở thành một nơi loan báo sứ điệp tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa; một nơi của hoán cải và thống hối; một nơi cử hành Thánh Thể; một suối nguồn tình thương; một nơi nguyện cầu và liên lỉ kêu xin tình thương cho chúng ta cũng như cho toàn thế giới. Tôi dùng những lời của vua Solomon mà cầu nguyện rằng: “Ôi Chúa là Thiên Chúa của tôi, xin hãy nhậm lời cầu nguyện cùng với lời van xin của tôi tớ Chúa đây, hãy lắng nghe tiếng kêu và lời cầu do tôi tớ Chúa dâng lên trước nhan Chúa hôm nay đây; xin Chúa hãy ghé mắt ngày đêm trông coi ngôi nhà này… Xin hãy nghe lời kêu cầu của tôi tớ Chúa cũng như của Yến Duyên dân Chúa, khi họ cầu xin Ngài ở nơi đây. Từ trời cao, nơi Ngài cư ngụ, xin hãy lắng nghe, và khi lắng nghe, xin Ngài hãy thứ tha cho” (1Kgs 8:28-30).
 

4.- “Thế nhưng, giờ đã đến, và giờ ấy là lúc này đây, khi mà những kẻ tôn thờ chân thực sẽ tôn thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, vì Chúa Cha tìm kiếm những người tôn thờ Ngài như thế” (Jn 4:23). Khi chúng ta đọc những lời này của Chúa Giêsu ở nơi Đền Thờ Lòng Thương Xót Chúa này, chúng ta đặc biệt nhìn nhận rằng không một ai có thể đến đây nếu không đến trong Thần Linh và chân lý. Chính là Chúa Thánh Thần, Đấng Ủi An và là Thần Chân Lý, Đấng hướng dẫn chúng ta theo những đường nẻo của Lòng Thương Xót Chúa. Bằng việc làm cho thế gian nhận ra những gì “liên quan đến tội lỗi, sự công chính và việc phân xử” (Jn 16:8), Ngài cũng làm tỏ hiện tất cả ơn cứu độ trong Chúa Kitô. Việc “thuyết phục” liên quan đến tội lỗi này có liên hệ nhị trùng với Thập Giá Chúa Kitô. Một mặt, Thánh Linh khiến cho chúng ta, nhờ Thập Giá của Chúa Kitô, có thể nhìn nhận tội lỗi, hết mọi tội lỗi, nơi tất cả chiều kích sự dữ chất chứa và tiềm ẩn nơi tội lỗi. Mặt khác, Thánh Linh cho phép chúng ta, cũng nhờ Thập Giá Chúa Kitô, thấy được tội lỗi theo chiều kích của mysterium pietatis, tức là chiều kích mầu nhiệm tình yêu nhân hậu và thứ tha của Thiên Chúa (x Thông Điệp Dominum et vivificantem, 32).

Như thế, việc “thuyết phục liên quan đến tội lỗi” này cũng trở thành một niềm xác tín là tội lỗi có thể bị loại trừ và con người có thể phục hồi phẩm vị của mình là con cái dấu yêu của Thiên Chúa. Thật vậy, Thập Giá “là việc Thiên Chúa hạ mình thẳm sâu nhất xuống với con người […]. Thập giá chẳng khác gì một sự giao chạm của tình yêu hằng hữu trên những vết thương đau trong cuộc sống của con người” (Dives in misericordia, 8). Tảng đá nền của Ngôi Đền Thờ này sẽ mãi mãi nhắc nhở cho chúng ta về chân lý này, vì nó được mang về đây từ Núi Canvê, như thể từ chân Cây Thập Giá là nơi Chúa Giêsu Kitô đã chiến thắng tội lỗi và sự chết.

Tôi hết sức tin tưởng rằng ngôi thánh đường mới này sẽ luôn luôn là một nơi được con người đến với Thiên Chúa trong Thần Linh và chân lý. Họ sẽ đến đây với lòng tin tưởng là những gì đồng hành với tất cả những ai khiêm hạ biết mở lòng mình ra cho hoạt động của tình yêu nhân hậu Thiên Chúa, cho một tình yêu mạnh hơn cả tội lỗi nặng nề nhất. Ở nơi đây, trong ngọn lửa của tình yêu thần linh, tấm lòng con người sẽ bừng lên lòng ước ao hoán cải, và ai tìm kiếm hy vọng sẽ gặp được niềm ủi an.

5.- “Lạy Cha hằng hữu, vì tội lỗi của chúng con và của toàn thế giới, con xin dâng lên Cha Mình Máu, Linh Hồn và Thiên Tính của Con Cha yêu dấu là Chúa Giêsu Kitô; vì những sự khốn khó của Cuộc Người Khổ Nạn, xin Cha thương đến chúng con và toàn thế giới” (Nhật Ký, 476). Thương đến chúng con và toàn thế giới… Thế giới ngày nay cần đến tình thương của Thiên Chúa biết bao! Nơi hết mọi lục địa, từ vực sâu khốn khổ của loài người, tiếng kêu cầu xót thương dường như đang vang dậy. Nơi nào thù hằn và đòi rửa hận thống trị, nơi nào chiến tranh mang lại đau thương và chết chóc cho thành phần vô tội, thì ở đó cần đến ân sủng tình thương để ổn định lòng trí con người và tạo lập hòa bình. Nơi nào thiếu hụt lòng trọng kính sự sống và phẩm vị con người thì ở đó cần đến tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa, Đấng mà trong ánh sáng của Ngài, chúng ta thấy được giá trị khôn tả của hữu thể con người. Cần phải có tình thương để bảo đảm rằng hết mọi bất công trên thế giới này sẽ được kết thúc trong chân lý rạng ngời.

Thế nên, hôm nay đây, tại Đền Thánh này, Tôi xin long trọng ký thác thế giới cho Lòng Thương Xót Chúa. Tôi làm như vậy với một lòng thiết tha mong ước thấy sứ điệp của tình yêu nhân hậu Thiên Chúa, được loan báo nơi đây qua Thánh Faustina, cũng được tất cả mọi dân tộc trên thế giới biết đến và làm cho lòng họ tràn đầy niềm hy vọng. Chớ gì sứ điệp này, từ nơi đây, chiếu tỏa ra cho quê hương thân yêu của chúng ta cũng cho khắp thế giới. Chớ gì lời hứa quyết của Chúa Giêsu được nên trọn, ở chỗ, từ nơi đây phải chiếu giãi ra “tia sáng sửa soạn thế giới cho lần đến cuối cùng của Cha” (x Nhật Ký, 1732).

Tia sáng này cần phải thắp lên bởi ân sủng của Thiên Chúa. Ngọn lửa tình thương này cần phải được chuyền đi cho thế giới. Trong tình thương của Thiên Chúa thế giới mới tìm thấy hòa bình và nhân loại mới tìm thấy hạnh phúc! Tôi ký thác công việc này cho Anh Chị Em thân mến, cho Giáo Hội ở Krakow và ở Balan, cũng như cho tất cả mọi người sùng mộ Lòng Thương Xót Chúa đến đây từ Balan hay từ khắp nơi trên thế giới. Chớ gì anh chị em là những chứng nhân cho tình thương!

6.- Lạy Thiên Chúa là Cha nhân hậu, nơi Con của Cha là Đức Giêsu Kitô, Cha đã mạc khải tình yêu của Cha ra và đã tuôn đổ tình yêu Cha xuống trên chúng con trong Chúa Thánh Thần, Đấng An Ủi. Hôm nay đây chúng con xin ký thác cho Cha vận mệnh của thế giới cũng như của hết mọi con người nam nữ.

Xin Cha hãy cúi mình xuống trên tội nhân chúng con, hãy chữa lành nỗi yếu hèn của chúng con, hãy chiến thắng tất cả mọi sự dữ, và hãy ban cho tất cả mọi dân tộc trên thế giới được cảm nghiệm thấy tình thương của Cha. Chớ gì họ luôn tìm thấy nguồn hy vọng nơi Cha, Thiên Chúa Ba Ngôi.

Lạy Cha Hằng Hữu, vì Cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Con Cha, xin Cha thương đến chúng con và toàn thế giới!

Amen.

 

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tài liệu của VIS)

 

 

TOP

 

 

? NẾU TRẦN THẾ CÓ MA … ẮT THIÊN ĐÀNG CÓ QUỈ !

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Có một người bạn, khi đọc thấy mấy lời đầu tiên ở ngay trang thứ nhất của tác phẩm “Cơn Khát Núi Sọ” do tôi tặng, xuất bản 5/2005, đã đặt vấn đề với tôi. Mấy lời đó là: “Thánh nhân và tội nhân đều gặp nhau nơi Lòng Thương Xót Chúa”. Vấn đề được người bạn của tôi đặt ra ở đây là:

 

-          Ở đây, qua câu này, phải chăng anh có ý nói rằng thánh nhân và tội nhân đều bằng nhau và như nhau?

 

-          Đúng thế, tôi thâm tín và tuyên xưng rằng “thánh nhân và tội nhân” đều bằng nhau và như nhau “nơi Lòng Thương Xót Chúa”. Đó là lý do, trước khi viết câu ấy, tôi đã viết ở ngay câu trên là: “Chỉ khi nào con người cảm nghiệm được Lòng Thương Xót Chúa, bấy giờ họ mới có thể thực sự hiệp thông với nhau”.

 

-          Theo tôi như vậy là không “fair”, là bất công. Vì trong khi thánh nhân suốt một đời hy sinh cố gắng lắm mới nên thánh được. Nên  thánh đâu phải là chuyện dễ. Đó là lý do, chắc anh còn nhớ Lời Chúa Giêsu khẳng định là kể từ Gioan Tẩy Giả phải có sức mạnh mới chiếm được Nước Trời hay sao (xem Mathêu 11:12)? Còn tội nhân sống theo đam mê nhục dục, theo ý riêng, hưởng thụ v.v. không thể nào làm đẹp lòng Thiên Chúa (xem Rôma 8:5-8), tức không thể nào chiếm được Thiên Đàng như các vị thánh. Bằng không, thiên đàng không phải là và không còn là thiên đàng nữa.   

 

-          Theo tôi, anh nói thế cũng hơi quá. Vẫn biết thiên đàng được giành cho thành phần được rỗi, thành phần thần lành và thánh nhân. Điều này là một sự thật hiển nhiên, theo nguyên tắc công bằng không ai có thể chối cãi được. Cả thần lành lẫn thánh nhân, loài có tự do, đều phải trả qua thử thách mới được vào đó, mới được hưởng vinh phúc trường sinh, đời đời hiệp thông thần linh với Thiên Chúa duy nhất là Cha và Con và Thánh Thần. Khi mới được dựng nên, không phải các thiên thần đã được hưởng phước thiên đàng ngay, mà chỉ sau khi bị thử thách (xem Khải Huyền 12:1-9 đối chiếu với Khởi Nguyên 1:4). Tuy nhiên, trên thực tế, xét về quyền sở hữu, thì chắc anh cũng công nhận thiên đàng là của Chúa chứ không phải của con người, nên Chúa muốn ban cho ai thì người ấy được. Theo tôi đó là ý nghĩa câu nói của Thánh Phaolô Tông Đồ, một vị thánh đã nhận mình là tỗi lỗi nhất trong các tội nhân (xem 1Timothêu 1:15), xác tín và khẳng định: “Thiên Chúa thương ai thì thương” (Roma 9:18 và 15; Xuất Hành 33:19).

 

-          Anh nói vậy có nghĩa là nơi Thiên Chúa chỉ có tình thương mà không có đức công minh. Cả tội nhân Ngài cũng có thể và có quyền cho vào thiên đàng với các thần lành và thánh nhân hay sao?

 

-          Theo tôi, nếu chúng ta chưa thấu triệt được tình yêu vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa, thì dù công chính và thánh thiện mấy đi nữa, chúng ta cũng vẫn vô tình rơi vào trường hợp bất hạnh của người con cả trong dụ ngôn người cha nhân lành, tức là người con không phung phá như đứa em của mình, nhưng lại là đứa con hoang đàng, vì ở gần cha mà chẳng hiểu cha gì, mà xa cha hơn cả đứa em phung phá nữa (xem Luca 15:11-32). Nếu anh đọc bài “Xa Cha Phung Phá – Gần Cha Hoang Đàng…” ở chương hai cuốn sách tôi tặng anh, anh sẽ hiểu rõ vấn đề. Bằng không, tôi sợ rằng, thành phần chống cộng trên thế gian này vừa vào thiên đàng, mà chẳng may trông thấy Marx, Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Pol Pot v.v. , hay ít nhất một trong thành phần trùm cộng sản này, tươi cười ra đón mừng họ, họ liền dội lại, cho rằng đây không phải là thiên đàng. Hay thành phần Công Giáo, vừa vào thiên đàng, chợt trông thấy Giuđa Íchca, Luthêrô, Hitler v.v. liền choáng váng ngất xỉu, vì trước mắt họ là cả một hỏa ngục chứ không phải thiên đàng mà họ mơ ước… Chẳng cần nói đâu xa, ngay trên trần gian này, tôi đã thấy nhiều người rất tốt lành đạo đức, thậm chí thánh thiện nữa là đằng khác, thế mà cuộc đời họ vẫn cảm thấy lo âu sợ hãi trước những bóng ma chập chờn. Họ lên rước lễ mỗi khi tham dự Thánh Lễ, rước lấy vị “Thiên Chúa là tình yêu” (1Gioan 4:8,16) đấy, nhưng họ vẫn tránh né thành phần họ không thích, vẫn sợ gặp những ai chống đối họ. Nếu trên trần gian này chúng ta còn sống trong tâm trạng sợ ma như thế, còn sống không đội trời chung với thành phần chúng ta không thích hay mộ phạm đến chúng ta như thế, thì quả thực thiên đàng chẳng khác gì hỏa ngục: có họ sẽ không có chúng ta - họ được vào thiên đàng thì chúng ta thà ở hỏa ngục còn hơn….

 

-          Những điều anh nói không phải là không có lý. Thậm chí khó có thể bẻ lại được. Nghe anh nói tôi cảm thấy anh như là một nhà luật sư thiên tài có khả năng hùng hồn biện hộ cho thành phần tội nhân trước tòa án, một luật sư khéo léo biến đen ra trắng, biến dữ thành lành. Như thế, theo tôi cái “hư hư thật thật” này cũng là những gì dường như phản ảnh một thứ chủ nghĩa tương đối theo ý hệ duy nhân hiện nay, một chủ nghĩa bị Đức Thánh Cha Biển Đức XVI liên lỉ và kịch liệt chống đối bài bác. Nhất là, tôi chỉ sợ rằng nghe thấy lập luận của anh, một lập luận hầu như tất cả mọi thành phần ma đầu gian manh độc hại nhất trên trần gian này đều có thể được cứu rỗi. Để rồi, từ đó, những kẻ vốn đang sống như không có Thiên Chúa, hay như Thiên Chúa đã chết trong thế giới hiện sinh ngày nay, lại càng vui mừng vì thấy rằng dường như không có hỏa ngục mà chỉ có thiên đàng thôi. Nghĩa là, cứ phạm tội, dù là tội gì, tội trọng đến đâu và tội nhiều đến đâu, rồi cuối cùng cũng được cứu rỗi theo Lòng Thương Xót Chúa, phải không?

 

-          Tôi không phủ nhận thực tại hỏa ngục. Chúa Giêsu nói không ít về thực tại này, và diễn tả tình trạng của thành phần ở trong thực tại ấy bằng thành ngữ “khóc lóc nghiến răng” (Mathêu 8:12; 13:42,50; 22:13; 24:51; 25:30). Sau cuộc chung thẩm, Người còn nói rõ về số phận của thành phần dê rằng: “những người này sẽ bị trừng phạt đời đời” (Mathêu 25:46). Trong dụ ngôn về người phú hộ và Lazarô, Người còn nói rõ về khoảng cách vô cùng bất khả lấp giữa thiên đàng và hỏa ngục là “từ đó không thể qua đây và từ đây không thể qua đó” (Luca 16:26). Sách Khải Huyền cũng nói tới thực tại ấy, và gọi đó là “cái chết thứ hai” (20:6,14). Tuy nhiên, về số phận đời đời của bất cứ ai, ngoại trừ thành phần thần dữ là thành phần đã bị hư đi, được Thánh Kinh ghi nhận theo mạc khải thần linh (xem Khải Huyền 12:8; Gioan 8:44), thì không ai trong chúng ta biết được chắc chắn và quyết đoán, kể cả số phận đời đời của những tên tuổi lừng danh khét tiếng trong lịch sử thế giới được tôi kể tới. Thậm chí, thân phận của Giuđa Íchca là nhân vật, theo chúng ta, có thể nói là đứng đầu trong danh sách của các kẻ đáng bị hư đi, cũng không ai biết rõ ra sao. Không biết anh có đọc cuốn “Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” của Đức Gioan Phaolô II hay chưa, (ấn bản Anh ngữ, xuất bản năm 1994), vị Giáo Hoàng của Lòng Thương Xót Chúa này, vị chết vào thời điểm áp lễ Chúa Tình Thương 2/4/2005, với lời di chúc cho toàn thể Giáo Hội về Lòng Thương Xót Chúa qua bài huấn từ truyền tin được ngài dọn sẵn cho Chúa Nhật Lễ Chúa Tình Thương hôm sau, ngày 3-4, đã viết gì về số phận đời đời của Giuđa ở trang 186, nếu không phải những lời sau đây: “Thậm chí kể cả lời Chúa Giêsu nói về Giuđa là kẻ phản bội rằng ‘thà con người ấy đừng sinh ra thì hơn’ (Mt 16:24), thì những lời của Người cũng không ám chỉ một cách chắc chắn về tình trạng muôn đời trầm luân”.

 

-          Như thế thì theo anh vấn đề “phải chăng có ít kẻ được cứu rỗi?” (Luca 13:23), một vấn nạn được một người đặt ra cho Chúa Giêsu này là sai. Vì theo chiều hướng biện hộ của anh, nhiều người, nếu không muốn nói là đa số, thậm chí là hầu hết, được cứu rỗi phải không?

 

-          Đúng vậy, trong chương 11 của tác phẩm “Cơn Khát Núi Sọ” tôi tặng anh, chương có nhan đề “Hỏa Ngục Chỉ Lượm Được Cặn Bã Thế Gian”, ở trang 131, tôi đã cảm nhận thế này: “Nếu là người, làm gì chúng ta cũng phải làm sao để mang lại lợi ích nhất cho mình, và càng khôn ngoan và quyền năng, chúng ta càng đạt được ý muốn mưu lợi của mình thế nào, thì vô cùng khôn ngoan và toàn năng như Thiên Chúa, chẳng lẽ một việc cứu chuộc con người vô cùng quan trọng, đến nỗi Người đã phải nhập thể vô cùng hèn hạ và tử giá vô cùng nhục nhã như thế, lại chỉ mang về được một thiểu số linh hồn vô giá bất tử, thua quyền lực của Satan là tạo vật của Người?!? Đó cũng là lý do, Chúa Giêsu đã khẳng định với người nữ sứ giả giáo dân (Magarita người Bỉ), như sau: ‘Khi Cha bị đóng đanh trên Thánh Giá như một tội nhân chỉ vì yêu, lẽ nào Cha lại chỉ được ôm lấy khoảng không trống rỗng’ (Thông Điệp Tình Yêu Nhân Hậu ngày 15/10/1966); ‘Hỏa ngục chỉ thu nhặt được những cặn bã xấu nhất của nhân loại. Con hãy tin rằng trước khi đành bỏ cho hỏa ngục một linh hồn, Cha đã thử dùng mọi phương thế theo lòng thương xót của Cha, để cứu rỗi linh hồn ấy. Ai là người muốn được cứu rỗi? Người công chính và tội nhân thống hối. Ai từ chối không muốn được cứu rỗi? Kẻ tội lỗi cứng lòng. Ai sẽ được cứu rỗi? Người ao ước được cứu rỗi với lòng tin tưởng và cậy trông’ “ (cùng nguồn, ngày 4/10/1967). Thực tế cho thấy, về phương diện tâm linh, con người tội lỗi trên đời này là một con người sống trong sự chết, một sự chết, đối với Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô thì  chẳng khác gì như là một giấc ngủ (xem Mathêu 9:24; Gioan 11:11), Người cần phải gọi họ dạy, lay tỉnh họ dậy, bằng hiện sủng, thậm chí bằng cả thánh giá đau khổ. Vì là một giấc ngủ, dù có ngủ say, ngủ mê ngủ mệt đến mấy, đến độ “xông mùi” (Gioan 11:39) đi nữa, như trường hợp của Lazarô, nhưng bởi “lời Chúa là những gì sống động và tác hiệu, sắc hơn gươm hai lưỡi. Thấu nhập và chia cắt hồn thiêng, xương tủy; phán quyết tâm tưởng của cõi lòng” (Do Thái 4:12), mà con người tội lỗi vẫn còn khả năng nghe được tiếng “Thiên Chúa là Thần Linh” (Gioan 4:24): “Kẻ chết sẽ nghe thấy tiếng của Con Thiên Chúa và những ai nghe theo tiếng ấy sẽ được sống” (Gioan 5:25). Đó là lý do, theo tôi, chỉ có kẻ nào muốn đời đời hư đi mới bị hư đi mà thôi, chỉ có kẻ nào nhất định chọn Satan và ma quỉ làm bạn, chọn hỏa ngục làm thiên đường mới vĩnh viễn mất Chúa là cùng đích của mình mà thôi. Nếu anh hiểu được sâu xa câu Chúa Giêsu nói trên cây thập giá, “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm, không biết việc họ làm” (Luca 23:34), anh sẽ cảm thấy tin tưởng vào Lòng Thương Xót Chúa hơn. Theo tôi hiểu, lời Chúa Giêsu nói ở đây ám chỉ chung thành phần loài người tội nhân chúng ta, (vì nếu loài người không sa ngã phạm tội thì Người đã không cần phải chết), cách riêng những ai trực tiếp can dự vào cuộc khổ nạn và tử giá vô cùng đau thương nhục nhã của Người. Thế nhưng, dù sao việc họ làm cũng là vì lầm lẫn, như vị lãnh đạo tông đồ đoàn Phêrô đã lên tiếng trong những Bài Giảng Tiên Khởi (xem Tông Vụ 3:17). Bởi họ nghĩ rằng họ sát hại một tên lộng ngôn phạm thượng, “chỉ là người mà dám cho mình ngang hàng với Thiên Chúa” (Gioan 10:33), chứ không nghĩ là sát hại một vị Thiên Chúa Làm Người, bằng không, như Thánh Phaolô quả quyết “họ sẽ không bao giờ đóng đanh vị Chúa hiển vinh này” (1Corintô 2:8). Chính vì họ chỉ bị “nhầm lạc” trước nhân tính của Chúa Kitô, chứ không phải phạm đến “thần tính” của Người, phạm đến “Thánh Linh”, mà tội lỗi của họ vẫn được thứ tha, như Người khẳng định: “Ai nói phạm đến Con Người sẽ được thứ tha, còn ai nói phạm đến Thánh Linh sẽ không được tha thứ, dù ở đời này hay ở đời sau” (Mathêu 12:32). Đó là lý do, tiến trình tu đức Kitô giáo là tiến trình “vượt qua sự chết mà vào sự sống” (Gioan 5:24), “từ tối tăm ra ánh sáng lạ lùng” (1Phêrô 2:9), từ tình trạng không nhận biết tới chỗ nhận biết, một nhận biết làm cho con người được sống đời đời (xem Gioan 17:3). Tuy nhiên, để chúng ta có thể nhận biết mình, rồi từ đó nhận biết Ngài, Ngài bao giờ cũng thanh tẩy những xấu xa và bất xứng của chúng ta, bằng chính những gì của chúng ta và nơi chúng ta, như tuyệt chiêu “gậy ông đập lưng ông” hay phương pháp trị liệu “của độc giải độc”. Thật vậy, nếu Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan và toàn năng song Ngài vẫn không dùng cách nào khác ngoài thập giá, là biểu hiệu cho nguyền rủa và sự chết đối với loài người, để cứu chuộc chúng ta thì Ngài cũng dùng sự dữ, thậm chí kể cả tội lỗi của chúng ta là những gì phạm đến Ngài, để thánh hóa chúng ta, để làm cho chúng ta biết mình, nhờ đó, nhận biết Ngài. Đó là cảm nghiệm tôi chia sẻ trong cuốn sách tôi tặng anh, ở chương 9, với tựa đề “Thiên Chúa Trừng Phạt là Người Cha Tội Nghiệp”.

 

-          Anh nói làm chính bản thân tôi cũng cảm thấy hết sức an ủi và vững tâm hơn. Thế nhưng, như anh quá rõ, chúng ta đang sống ở giữa một xã hội toàn cầu hóa văn minh hầu như tuyệt đỉnh ngày nay, thời điểm con người đã hầu như mất hết ý thức tội lỗi, không còn biết tội là gì, nhất là lại cho thiện là ác và ác là thiện, nếu không muốn nói rằng con người theo khuynh hướng “pro-choice” đã đi đến chỗ ngông cuồng mù quáng tự định đoạt lấy thiện ác, ở chỗ, tất cả những gì họ nghĩ đều là chân, và tất cả những gì họ muốn đều là thiện. Bởi thế, đời sống đạo, đời sống tu đức ngày nay, vấn đề giữ mình trong sạch và sạch tội đã là những gì hết sức khó khăn, nếu không muốn nói là bất khả đối với không ít người, chưa nói gì đến vấn đề nên thánh và làm chứng  nhân. Anh có nghĩ rằng chúng ta có thể giữ mình sạch tội, nên thánh và làm chứng nhân được trong thời buổi mà tôi cảm thấy hình như ứng nghiệm lời Chúa Giêsu tiên báo về thời tận thế: “Vì sự dữ gia tăng mà lòng mến trở nên nguội lạnh nơi nhiều người” (Mathêu 24:12), đến nỗi, “không biết khi Con Người tới, liệu Người có còn thấy đức tin trên thế gian này hay chăng?” (Luca 18:8), vì "có những thiên sai giả và tiên tri giả xuất hiện, làm được những dấu kỳ cùng sự lạ vĩ đại tới độ lừa đươc cả thành phần được tuyển chọn nữa" (Mathêu 24:24)?  

 

-          Theo tôi thì được, nhất định là được. Tại sao? Nếu anh để ý sẽ thấy, ngay sau mấy câu Phúc Âm Chúa Giêsu nói về thời tận thế anh vừa trưng dẫn, Người mở ra cho chúng ta thấy một chân trời đầy hy vọng như sau: “Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu độ. Tin mừng về nước trời sẽ được rao giảng khắp thế giới như một chứng từ cho tất cả mọi dân nước. Chỉ sau đó mới tới ngày cùng tháng tận” (Mathêu 24:13-14). Đó, anh thấy không, ngay chính lúc thế giới đang đâm đầu xuống hố diệt vong thì ơn cứu độ xuất hiện qua việc truyền bá phúc âm hóa khắp nơi, điển hình nhất từ Công Đồng Chung Vaticanô II (11/10/1962-8/12/1965) tới nay. Ngoài ra, chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khẳng định điều này với thành phần giới trẻ trong Sứ Điệp gửi cho họ vào thời điểm Đại Năm Thánh 2000 như sai: “Các con sẽ hỏi Cha: thế nhưng ngày nay còn có thể làm thánh được sao? Nếu chúng ta chỉ cậy dựa vào sức mạnh loài người thì thực sự là không thể làm được việc này. Thật vậy, các con đã quá rõ về những thành quả cũng như thất bại của mình; các con cũng biết được những gánh nặng đè trên con người, nhiều nguy hiểm đe dọa họ và những hậu quả do tội lỗi của họ gây ra. Có những lúc chúng ta bị chán nản kềm giữ, đến nỗi nghĩ rằng không thể nào thay đổi được gì hết, cả ở nơi thế gian cũng như nơi bản thân mình. Cho dù cuộc hành trình khó khăn, chúng ta cũng có thể làm được mọi sự trong Vị là Đấng Cứu Chuộc của chúng ta. Vậy các con đừng hướng về một ai khác ngoài Chúa Giêsu. Các con đừng nhìn đâu khác ngoài nơi mà chỉ có Người mới có thể ban cho các con, vì ‘trong tất cả mọi danh hiệu trên thế gian được ban cho loài người thì chúng ta được cứu độ chỉ do nơi danh hiệu duy nhất này mà thôi’ (Acts 4:12). Với Chúa Kitô thì sự thánh thiện Thiên Chúa muốn nơi mọi người lãnh nhận bí tích rửa tội vẫn có thể đạt thành. Các con hãy cậy dựa nơi Người; các con hãy tin tưởng vào quyền năng vô địch của Phúc Âm và hãy lấy đức tin làm nền tảng cho niềm hy vọng của mình. Chúa Giêsu bước đi với các con, Người canh tân tâm hồn các con và kiên cường các con bằng sức mạnh của Thần Linh Người. Hỡi giới trẻ của mọi địa lục, các con đừng sợ là những vị thánh của thiên niên mới! … Chúa muốn các con là những tông đồ gan dạ cho Phúc Âm của Người và là những nhà xây dựng cho một nhân loại mới. Thật vậy, các con làm sao có thể tin vào vị Thiên Chúa làm người mà lại không đứng vững trước tất cả những gì hủy hoại bản vị con người và gia đình con người? Nếu các con tin rằng Chúa Kitô đã tỏ cho thấy tình yêu của Chúa Cha đối với mọi người thì các con không thể không nỗ lực đóng góp vào việc xây dựng một thế giới mới, được xây dựng trên quyền năng của yêu thương và tha thứ, chống lại với bất công và tất cả mọi thảm cảnh về thể lý, luân lý và tinh thần, qui hướng chính trị, kinh tế, văn hóa và kỹ thuật vào việc phục vụ con người và việc phát triển toàn vẹn của con người”. Có một em Thiếu Nhi Fatima ở TGP/LA một lần đã email hỏi tôi một vấn đề sống đạo rất thực tế là xưng tội và giữ mình sạch tội, nhưng vẫn cứ sa ngã phạm tội thì, theo em, hình như ân sủng thua sự dữ nơi con  người của chúng ta. Sau khi đã lấy lời Chúa và gương sống thánh của một số vị để chứng min h cho em thấy rằng nên thánh được, tức ân sủng thắng sự dữ, tôi đã khuyến khích em như thế này: “nên thánh ở đây còn là và chính là biết mình vô cùng yếu đuối bất lực và hoàn toàn tin tưởng vào lòng thương xót Chúa, nhờ đó, con người tội nhân chúng ta chẳng những không dám khinh thường bất cứ một tội nhân nào (xem Luke 18:9-14), trái lại, còn biết cảm thông với những ai sa ngã phạm tội, để hy sinh cầu nguyện cho họ như Thiếu Nhi Fatima Giaxinta, nhất là biết tha thứ cho cả những người làm khốn mình, phạm đến mình, thì không phải mình đã nên giống Chúa Kitô (xem Luke 23:34), đã nên trọn lành như Cha trên trời (xem Matthew 5:43-48; Lk 6:35-36) rồi hay sao? Tóm lại, việc nên thánh là do Chúa hơn là do con người. Chúa muốn chúng ta nên thánh thế nào thì chúng ta nên thánh như vậy. Nếu chúng ta không thể nên thánh như Mẹ Têrêsa Calcutta hay như Đức Gioan Phaolô II, chúng ta vẫn có thể nên thánh short cut - đốt giai đoạn như người trộm lành, bằng cách không thôi khao khát nhân đức trọn lành, một lòng khao khát được tỏ ra bằng nhận thức con người vô cùng yêu đuối bất lực của mình để hoàn toàn tin tưởng vào Lòng Thương Xót Chúa. Dù nên thánh cách nào đi nữa, Kitô hữu chúng ta cũng gặp nhau ở chỗ lòng thương xót Chúa: Nếu con người nên thánh ‘lớn’ là con người đã được lòng thương xót Chúa chiếm đoạt để trở thành dụng cụ ban phát lòng thương xót Chúa cho tội nhân, như Mẹ Têrêsa Calcutta và Đức Gioan Phaolô II, thì con người nên thánh ‘nhỏ’ là con người cần đến lòng thương xót Chúa hơn, để càng ngày họ càng nhật biết mình yếu đuối bất lực mà tin tưởng vào Lòng Thương Xót Chúa”.

 

-          Qua những gì anh chia sẻ, tôi quả thực cảm nhận được rằng “chỉ khi nào con người cảm nghiệm được Lòng Thương Xót Chúa, bấy giờ họ mới có thể thực sự hiệp thông với nhau. Thánh nhân và tội nhân đều gặp nhau nơi Lòng Thương Xót Chúa”. Đã vào thiên đàng ai cũng là thánh, và đều cùng với đệ nhất tạo vật về ân sủng “đầy ơn phúc” (Luca 1:28) muôn đời tri ân cảm tạ rằng: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, và thần trí tôi hớn hở mừng rỡ trong Thiên Chúa Đấng cứu chuộc tôi. Ngài đã thương đến phận thấp hèn tôi tớ của Ngài. Vậy từ nay muôn đời sẽ khen tôi diễm phúc. Thiên Chúa là Đấng toàn năng đã làm cho tôi những sự trọng đại, danh Ngài là Thánh. Lòng thương xót Ngài trải qua đời nọ đến đời kia, hằng bao bọc những người kính sợ Chúa” (Luca 1:46-50). Bằng không, nếu trần thế có ma ắt thiên đàng có quỉ vậy!

 

 

TOP

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ