CHÚC MỪNG TÂN NIÊN 2008

Quí  Đức Cha, Quí Đức Ông, Quí Cha, Quí Phó Tế, Quí Nam Nữ Tu Sĩ

toàn thể Cộng Đồng Dân Chúa  

được HỒN AN, XÁC MẠNH, ĐỜI VUI, SỐNG THÁNH

trong MÙA XUÂN MUÔN THUỞ MARIA.

 

 THỨ NĂM 10/1/2008

  TUẦN SAU LỄ HIỂN LINH

 

TIN Tưởng Giáo Hội

ĐTC Biển Đức XVI

"Một năm nữa đang khép lại" (tiếp)

 CẬY Nhờ Thánh Mẫu

Thánh Long Mộng Phố

Bí Mật Maria  - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria (26-28)

MẾN Yêu Thánh Thể

        Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích            

              Bản Hướng Dẫn Cử Hành Phụng Vụ  (19-22)             

                

      

 

 

TIN TƯỞNG GIÁO HỘI

 

 

"Một năm nữa đang khép lại"

ĐTC Biển Đức XVI – Chúc Mừng Giáng Sinh 2007 Giáo Triều Rôma tại Sảnh Đường Clementine ngày Thứ Sáu 21/12/2007

(tiếp) 

Như thế, việc trở thành môn đệ của Chúa Kitô là một cuộc hành trình giáo dục tiến tới hữu thể đích thực của chúng ta, tiến tới đường lối thích đáng để làm người. Trong Cựu Ước, thái độ căn bản của một người sống Lời Chúa được tóm gọn trong chữ zadic – công chính: tức là một con người sống theo Lời Chúa thì trở nên công chính; họ thực hành và sống công lý. Ngoài ra, theo Kitô Giáo thì thái độ của thành phần môn đệ Chúa Giêsu Kitô được thể hiện bằng một chữ khác nữa, đó là trung thành. Đức tin bao hàm hết mọi sự; chữ này bởi vậy vừa có nghĩa ở với Chúa Kitô vừa có đức công chính của Người. Nơi đức tin, chúng ta lãnh nhận đức công chính của Chúa Kitô, chúng ta sống đức này và truyền  đạt nó đi. Bản văn kiện Aparecida làm cho tất cả những điều ấy trở thành cụ thể bằng việc nói tới tin mừng về phẩm vị con người, về sự sống, về gia đình, về khoa học và kỹ thuật, về lao công của con người, về mục đích chung của các sản vật thuộc trái đất này cùng với môi sinh. Đó là những chiều kích công lý được thể hiện, đức tin được sống và đáp ứng được tỏ ra trước những thách đố của thời đại chúng ta.  

1.7       Người môn đệ của Chúa Kitô cũng cần phải là một “thừa sai” 

Bản văn kiện này nói với chúng ta rằng người môn đệ của Chúa Kitô cũng cần phải là một “thừa sai” nữa, một sứ giả Phúc Âm. Thế nhưng, chính ở điểm này mới xẩy ra vấn đề chống đối, ở chỗ, ngày nay có còn hợp lý hay chăng cho việc “truyền bá phúc âm hóa”? Tất cả mọi tôn giáo và quan niệm trên thế giới này lại chẳng đồng hiện hữu với nhau một cách hòa bình để cùng nhau theo cách thức riêng của mình hết sức tìm cách phục vụ nhân loại hay sao? Đúng thế, tất cả chúng ta cần phải đồng hiện hữu và hợp tác trong việc chấp nhận và tương kính nhau là điều chắc chắn. Giáo Hội Công Giáo chủ động dấn thân thực hiện điều này, và qua hai cuộc hội ngộ ở Assisi, đã cho thấy những dấu hiệu hiển  nhiên về điều ấy, những dấu hiệu chúng ta đã lập lại một lần nữa ở cuộc Gặp Gỡ năm nay ở Naples. Về đề tài này, tôi muốn đề cập tới lá thư tốt lành do 138 vị lãnh đạo tín đồ Hồi Giáo gửi cho tôi ngày 13/10, chứng thực là việc họ quyết tâm chung để cổ võ hòa bình thế giới. Tôi đã hân hoan đáp lại, khi bày tỏ nỗi thiết tha tin tưởng của tôi đối với những ý hướng cao quí ấy, đồng thời cũng nhấn mạnh đến nhu cầu khẩn trương đối với một hòa ước có hiệu năng bảo toàn những thứ giá trị của việc kính trọng lẫn nhau, đối thoại với nhau và hợp tác với nhau. Việc cùng nhau nhìn nhận sự hiện hữu của một Thiên Chúa duy nhất, Đấng Hóa Công quan phòng và là vị Thẩm Phán chung  về việc làm của hết mọi người, trở thành nền tảng cho hoạt động chung để bênh vực việc thực sự tôn trọng phẩm vị của hết mọi con người hầu xây dựng một xã hội chân chính và hiệp nhất hơn.  

Thế nhưng, ước muốn đối thoại và hợp tác này cũng không có nghĩa là đồng thời chúng ta không còn truyền đạt sứ điệp của Chúa Giêsu Kitô nữa, không còn đề ra cho nhân loại cũng như cho thế giới tiếng gọi này và niềm hy vọng được xuất phát từ đó nữa? Những ai nhận thấy được một sự thật cao cả hay khám phá ra được một niềm vui lớn lao cần phải truyền đạt nó đi; họ chắc chắn không thể nào giữ lấy cho bản thân họ. Những tặng ân lớn lao cao cả này không bao giờ chỉ giành riêng cho một người duy nhất. Nơi Chúa Giêsu Kitô, một ánh sáng rạng ngời đã hiện lên cho chúng ta, Ánh Sáng cả thể: chúng ta khôn g thể để nó ở dưới đáy thùng, chúng ta cần phải để nó trên giá đèn, nhờ đó nó soi sáng cho tất cả những ai ở trong ngôi nhà này (x Mt 5:15). Thánh Phaolô không ngừng nghỉ thực hiện cuộc hành trình, mang theo Phúc Âm với ngài. Ngài thậm chí còn cảm thấy bị “bó buộc” phải loan truyền Phúc Âm nữa (x 1Cor 9:16) – không phải vì quan tâm đến  phần rỗi của một con người chưa lãnh nhận phép rửa vì chưa nghe thấy Phúc Âm, mà còn vì ngài nhận thấy rằng toàn thể lịch sử không thể đạt tới tầm vóc viên trọn cho đến khi Phúc Âm đạt được đầy đủ số (pléroma) Dân Ngoại (x Rm 11:25).  Để tiến tới chỗ hoàn trọn của mình, lịch sử cần đến việc loan báo Tin Mừng cho tất cả mọi dân nước, cho tất cả mọi con người nam nữ (x Mk 13:10). Thực tế cho thấy quan trọng biết bao những quyền lực của việc hòa giải, những quyền  lực của hòa bình, những quyền năng của yêu thương và của công lý tuôn chảy vào nhau nơi nhân loại này! Quan trọng biết mấy nơi “ngân quĩ” của nhân loại, việc chống đối đã bừng lên và được kiên cường trước những gì thách đố đang đe dọa các cảm thức cùng với các thực tại bạo động và bất công! Đó là chính những gì đang xẩy ra ở sứ vụ truyền giáo của Kitô Giáo. Nhờ hội ngộ với Chúa Giêsu Kitô cũng như các thánh nhân của Người, nhờ cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, mà “những thứ công phản” đã được lấp đầy bằng những quyền lực thiện hảo, mà thiếu chúng tất cả mọi chương trình cho lãnh vực xã hội của chúng ta không thể hiện thực, song – với cuộc công kích của việc áp lực hết sức mãnh liệt từ các thứ ích lợi khác phản lại hòa bình và công lý – vẫn chỉ là những thứ lý thuyết trừu tượng mà thôi.  

Bởi vậy, chúng ta trở lại với những vấn nạn được đặt ra ngay từ đầu, đó là phải chăng Aparecida có lý khi đặt ưu tiên cho vai trò làm môn đệ của Chúa Giêsu Kitô cũng như cho việc truyền bá phúc âm hóa để tìm cầu sự sống cho thế giới này? Phải chăng việc rút lui vào nội tâm là sai lầm? Không! Aparecida đã quyết định đúng vì chính nhờ một cuộc hội ngộ mới mẻ với Chúa Giêsu Kitô và với Phúc Âm của Người – và chỉ có thế – những năng lực được tác động mới giúp chúng ta có thể thực hiện việc đáp ứng xác đáng với những thứ thách đố của thời điểm này.

(còn tiếp)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh 

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/speeches/2007/december/documents/hf_ben-xvi_spe_20071221_curia-romana_en.html

 

 

  TOP

 

 

 

CẬY NHỜ THÁNH MẪU

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Bí Mật Maria - Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria

 

Thánh Long Mộng Phố (Louis Montfort)

 

Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL


Phần I - Tổng Quan về Việc Thành Thật Sùng Kính Đức Mẹ

 

Chương Một: Tôn Sùng Mẹ Maria - Cần Thiết 

 

II.  M Maria tham d vào vic thánh hóa các linh hn

 

26.          Nếu tôi nói vi thành phn được gi là trí thc ngày nay, tôi s chng minh dài dòng bng nhng câu Latinh được trích dn t Thánh Kinh cũng như t các V Giáo Ph ca Hi Thánh v tt c nhng gì gi đây tôi đang nói đến mt cách hết sc đơn gin. Tôi cũng có th trưng dn nhng chng c vng chc có th đọc thy đầy đủ trong cun “Triu Thiên Tam Cp ca Đức Trinh N” ca Cha Poir. Thế nhưng, đây tôi ch yếu nói vi thành phn nghèo nàn và đơn thành là nhng người có thin chí và đức tin hơn phn đông các v hc gi. Vì h tin tưởng mt cách đơn sơ hơn và xng đáng hơn, nên tôi ch nói s tht vi h mt cách hoàn toàn bình d, không cn phi trích dn các đon Latinh h chng hiu gì. Tuy nhiên, tôi cũng s trưng li mt s câu khi chúng ny lên trong đầu tôi khi tôi trình bày vn đề.

 

27.          Vì ân sng thăng hóa bn tính nhân loi ca chúng ta và vinh hin còn làm gia tăng mc độ thin toàn hơn na cho ân sng, mà chc chn mt điu là Chúa ca chúng ta trên tri cũng là Con ca M Maria ging như khi Người còn trên thế gian. Như thế, Người vn t ra thái độ thun phc và vâng li ca mt người con trn ho nht đối vi người m tuyt vi nht.

 

Tuy nhiên, chúng ta cn phi cn thn không được coi vic ly thuc này như là mt cái gì thp hèn hay bt toàn nơi Chúa Giêsu Kitô. Đối vi M Maria, con người vô cùng thua kém Con mình là Thiên Chúa, không truyn khiến Người theo kiu cách như mt người m trn gian đối vi con cái dưới quyn h. Vì M được hoàn toàn biến đổi trong Thiên Chúa bi ân sng cùng vi vinh hin đã biến đổi các thánh trong Ngài, mà M không đòi hi, mong mun hoc làm bt c điu gì phn li vi ý mun vĩnh hng và bt biến ca Thiên Chúa. Bi thế, khi chúng ta đọc thy trong nhng bn văn ca Thánh Bênađô, Thánh Bêđađinô, Thánh Bônaventura, và các thánh khác là tt c mi s trên tri dưới đất, k c chính Thiên Chúa, đều tùy thuc vào Đức Trinh N, các v c ý nói rng thm quyn Thiên Chúa vui lòng ban cho M ln lao đến ni M dường như có quyn lc tương t như Thiên Chúa. Nhng li cu nguyn và yêu cu ca M có quyn lc đối vi Ngài đến ni Ngài chp thun chúng như là nhng lnh truyn, ch là Ngài không bao gi cưỡng li li m du ái ca Ngài nguyn cu, vì li cu nguyn y bao gi cũng khiêm tn và hp vi ý mun ca Ngài.

 

Bng quyn lc ca li nguyn cu, Moisen đã ngăn được cơn thnh n ca Thiên Chúa mun giáng xung trên con cái Do Thái, hiu nghim đến ni v Chúa vô cùng cao c và xót thương không th nào cưỡng được ông và xin Moisen hãy để cho Ngài gin d trng pht đám dân phn lon y. Như thế thì mãnh lit hơn biết bao li nguyn cu ca Trinh N Maria khiêm h, xng đáng làm M Thiên Chúa, li nguyn cu có quyn lc đối vi Vua tri hơn các li nguyn cu và chuyn cu ca tt c mi thn tri và thánh nhân trên tri dưới đất.

 

28.          M Maria có thm quyn trên các thiên thn và các thánh trên tri. Như phn thưởng cho vic M hết sc khiêm h, Thiên Chúa đã ban cho M quyn hn và phn s ch định cho các thánh nhân nhng  tòa trng ca thành phn thiên thn bi nghĩa sa đọa bi kiêu căng ngo mn.

 

Ý mun ca Thiên Chúa toàn năng, Đấng nâng cao k hèn mn, là thế, là các quyn lc trên tri, dưới thế và trong ha ngc, dù mun hay không, cũng phi tuân phc các lnh truyn ca Trinh N Maria khiêm h. Vì Thiên Chúa đã làm cho M tr thành n vương tri đất, làm v thng lãnh các đạo quân ca Ngài, làm v canh gi các kho báu ca Ngài, làm nơi cht cha các ân sng ca Ngài, làm cán s viên thi hành các k công ca Ngài, làm v phc hi cho nhân loi, làm trung gian cho loài người, làm đấng hy dit các k thù địch ca Ngài, và làm cng s viên thc hin các công cuc và chiến thng v vang ca Ngài.

 

(còn tiếp)

 

TOP

 

 

 

MẾN YÊU THÁNH THỂ

 

 

Bản Hướng Dẫn Cử Hành Phụng Vụ


 
 
Thánh Bộ Phượng Tự và Bí Tích

 

Bản Dịch của Đaminh Maria Cao Tấn  Tĩnh,  BVL

 

http://www.vatican.va/roman_curia/congregations/ccdds/documents/rc_con_ccdds_doc_20040423_redemptionis-sacramentum_en.html

 

Chương I


 

1. Giám Mục Địa Phận, Vị Thượng Tế của Đàn Chiên (19-25)


19.     Vị Giám Mục giáo phận, vị đệ nhất thủ quản các mầu nhiệm Thiên Chúa nơi Giáo Hội riêng được trao phó cho ngài, là người điều hành, cổ động và coi sóc toàn thể sinh hoạt phụng vụ của giáo hội địa phương này (39). Vì “vị Giám Mục, được lãnh nhận trọn vẹn Bí Tích Truyền Chức Thánh, là ‘người quản lý ân sủng của thiên chức Linh Mục cao cả’ (40), nhất là nơi Thánh Thể được chính ngài dâng lễ hay ban quyền dâng lễ để nhờ đó Giáo Hội tiếp tục sống động và phát triển” (42).


20.     Thật vậy, việc biểu lộ cao cả nhất của Giáo Hội được thể hiện khi cử hành các nghi thức Thánh Lễ, nhất là ở Vương Cung Thánh Đường, “với sự tham dự trọn vẹn và chủ động của toàn thể Dân thánh Chúa, cùng hiệp nhau trong một tác động nguyện cầu, nơi bàn thờ có vị Giám Mục chủ sự”, chung quanh ngài là hàng giáo sĩ, bao gồm cả những vị Phó Tế và các thừa tác viên (43). Ngoài ra, “hết mọi cuộc cử hành Thánh Thể hợp pháp đều được điều khiến bởi vị Giám Mục là người được trao phó cho sứ vụ hướng dẫn việc tôn thờ Kitô giáo đối với Đấng Thần Linh Cao Cả, cũng như sắp xếp việc cử hành này theo những chỉ thị của Chúa và luật lệ của Giáo Hội, những gì được chi tiết hóa theo phán đoán riêng của ngài để áp dụng cho Giáo Phận mình” (44)


21.     Bởi thế, vị Giám Mục giáo phận cần phải, “trong quyền hạn của mình, phác họa những qui tắc phụng vụ ở Giáo Phận của mình cho hết mọi người buộc phải tuân giữ” (45). Chưa hết, vị Giám Mục còn phải chú ý đừng loại bỏ đi cái tự do đã được các sách về phụng vụ thấy trước và cho phép hầu việc cử hành được thích ứng một cách khôn ngoan với cơ sở của Giáo Hội, hay với nhóm tín hữu hiện diện, hoặc với những trường hợp mục vụ đặc biệt, để làm sao lễ nghi linh thánh phổ cập được thực sự hòa hợp với tầm kiến thức của con người (46).


22.     Vị Giám Mục cai quản Giáo Hội riêng được trao phó cho ngài (47), nên ngài có nhiệm vụ qui định, điều khiển, khuyến khích và đôi khi khiển trách (48); đó là một nhiệm vụ thánh ngài đã lãnh nhận qua việc Truyền Chức giáo phẩm (49), một nhiệm vụ ngài cần phải chu toàn để xây dựng đàn chiên của ngài trong chân lý và thánh thiện (50). Ngài phải làm sáng tỏ ý nghĩa sâu xa của các lễ nghi cũng như của các bản văn về phụng vụ, phải nuôi dưỡng tinh thần Phụng Vụ nơi các Linh Mục, Phó Tế và giáo dân (51), để mọi người trong họ tiến đến chỗ chủ động và hiệu nghiệm cử hành Thánh Thể (52), và ngài cũng phải làm sao để có thể bảo đảm được rằng toàn thể thân mình Giáo Hội có thể tăng triển việc hiểu biết giống nhau, trong mối hiệp nhất bác ái, nơi giáo phận, ở quốc gia và trên thế giới (53).

 

(còn tiếp)

 

TOP

 

 

GIÁO HỘI HIỆN THẾ