ĐGH BIỂN ĐỨC XVI: TÔNG DU 1

 

Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX

 

     Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX: Tại sao ở Đức Quốc? – Dấu Chỉ Thời Đại??

Bài Giảng Khai Mạc Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX 16/8/2005 của ĐHY Joachim Meisner, TGM Cologne: “Ngày Giới Trẻ Thế Giới 2005 ở Cologne không phải thuần túy là biến cố Công giáo … Chúng ta sẽ tìm kiếm Chúa Kitô không phải cho lợi ích riêng mình, mà đặc biệt cho lợi ích của anh chị em khác

     Tổng Thống Đức - Diễn Văn nghênh đón ĐTC Biển Đức XVI tại Phi Trường Konrad Adenauer: "Việc ngài được bầu làm giáo hoàng có một tầm quan trọng về lịch sử";

Đáp Từ:  "Rất nhiều giới trẻ đến để gặp gỡ Vị Thừa Kế Thánh Phêrô là một dấu hiệu cho thấy tính cách sinh động của Giáo Hội.";

Với Tín Hữu Công Giáo Cologne trước Vương Cung Thánh Đường Cologne ngày 18/8/2005: “Thành phố Cologne sẽ không thực sự là mình nếu không có các Nhà Đạo SĩTuy nhiên, Cologne không phải chỉ là thành phố của các Nhà Đạo Sĩ…

Giới Trẻ Cảm Nghiệm về ĐTC Biển Đức XVI: “Ngài thực sự rất gần với chúng ta

  Sứ Điệp đầu tiên ngỏ cùng giới trẻ ngày 18/8/2005: “Hãy mở rộng lòng mình cho Thiên Chúa! Hãy để mình ngỡ ngàng trước Chúa Kitô!

tại Hội Đường Do Thái ngày 19/8/2005: “Ai gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô là gặp gỡ Do Thái giáo”

Với Các Chủng Sinh tham dự Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX hôm 19/8/2005: “Người chủng sinh cảm nghiệm thấy vẻ đẹp của ơn gọi vào giây phút ân sủng là giây phút có thể được cho là ‘phải lòng’

Với Chư Vị Đại Diện Các Giáo Phái Tin Lành Đức Quốc 19/8/2005: “Không thể nào có vấn đề đối thoại bất chấp sự thật; đối thoại cần phải tiến triển trong bác ái và trong chân lý” 

Diễn Văn Chào Mừng ĐTC Biển Đức XVI của Vị Chủ Tịch Khối Hồi Giáo Thổ Nhĩ Kỳ Thứ Bảy 20/8/2005: “Chúng tôi tin tưởng rằng việc đối thoại liên tôn và liên văn hóa có một tầm quan trọng ghê gớm cho một thế giới an bình

Với Khối Hồi Giáo ngày 20/8/2005: “Chúng ta không được nhường bước cho những áp lực tiêu cực nơi chúng ta…

Huấn Từ Đêm Canh Thức Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX 20/8/2005: “Cách mạng thực sự chỉ xuất phát từ các thánh nhân, từ Thiên Chúa thôi”

Bài Giảng Thánh Lễ Bế Mạc Chúa Nhật 21/8/2005: “Chúng ta hãy tiến lên với Chúa Kitô và chúng ta hãy sống cuộc đời mình như là thành phần tôn thờ đích thực của Thiên Chúa!

Huấn Từ Truyền Tin Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX Chúa Nhật 21/8/2005: “Tôi hân hoan thông báo là Ngày Giới Trẻ Thế Giới tới đây sẽ diễn ra tại Sydney, Úc Đại Lợi, vào năm 2008

Với Các Vị Giám Mục Đức chiều Bế Mạc Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX Chúa Nhật 21/8/2005: “Chúng tôi đã đến bái thờ Người. Chúng tôi đã tìm thấy Người. Giờ đây xin hãy giúp chúng tôi trở thành môn đệ và chứng nhân của Người.

   tạ từ Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX 21/8/2005: “Tôi hy vọng rằng biến cố này sẽ vẫn cón sâu đậm nơi đời sống của người Công Giáo Đức"

ĐTC Biển Đức XVI trong Buổi Triều Kiến Chung Thứ Tư 24/8/2005: “Hôm nay đây, tôi cũng muốn cùng anh chị em ôn lại những ngày tôi ở Cologne vào dịp Ngày Giới Trẻ Thế Giới”.

ĐHY TGM Washington DC với Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX: “Họ có thể nếm được và thấy được tính chất hoàn vũ của Giáo Hội

 

 

Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX: Tại sao ở Đức Quốc? – Dấu Chỉ Thời Đại??

 

Chúa Nhật XXI Thường Niên ngày 21/8/2005 này cũng là ngày bế mạc Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX ở Cologne Đức Quốc, một Ngày Giới Trẻ Thế Giới đã diễn ra trong thời khoảng 16-21/8/2005. Tột đỉnh của Ngày Giới Trẻ Thế Giới bao giờ cũng là đêm canh thức Thứ Bảy trước đó, đêm giới trẻ thế giới được gặp gỡ Chúa Kitô qua hiện thân của Người là vị Giáo Hoàng. Sở dĩ Ngày Giới Trẻ Thế Giới đã trở thành một biến cố quan trọng chẳng những đối với Giáo Hội nói riêng và thế giới nói chung là vì giới trẻ chính là niềm hy vọng của lịch sử loài người  quan trọng đến nỗi ĐTC GPII đã khởi xướng nên Ngày Giới Trẻ Thế Giới này từ năm 1985, năm Liên Hiệp Quốc giành cho giới trẻ.

 

Mục đích của ĐTC GPII lập ra Ngày Giới Trẻ Thế Giới này là để cho họ gặp gỡ Chúa Kitô. Đó là lý do Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần đầu tiên và những năm sau đó, ở chính giáo đô Rôma, bao giờ cũng được cử hành vào chính Chúa Nhật Lễ Lá, một Chúa Nhật gợi lại biến cố giới trẻ Giêrusalem tiến lên nghênh đón Người. Cũng chính vì mục đích của Ngày Giới Trẻ Thế Giới là giúp cho giới trẻ gặp gỡ Chúa Kitô mà lần nào vị Đại Diện Người trên trần gian là bản thân vị Giáo Hoàng cũng tới với giới trẻ, hiện diện giữa giới trẻ, và huấn dụ giới trẻ. Cũng chính vì để giới trẻ gặp gỡ Chúa Kitô mà Ngày Giới Trẻ nào cũng có hai phần chính, đó là phần học hỏi giáo lý theo chủ đề, (có 248 buổi giáo lý trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX năm 2005 này), được chính các vị giám mục, thành phần thừa kế các tông đồ, hướng dẫn, và phần cử hành Đường Thánh Giá theo chân Chúa Kitô.

 

Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX tại Đức Quốc đã được ĐTC GPII chính thức thông báo vào Ngày Giới Trẻ Thế Giới XVII ở Toronto Canada: “Tôi muốn chính thức thông báo là Ngày Giới Trẻ Thế Giới tới đây sẽ diễn ra vào năm 2005 tại Cologne Đức Quốc. Ở đại vương cung thánh đường của Cologne có các hài tích được tôn kính của các Vị Đạo Sĩ, Những Người Hiền Triết đến từ Đông Phương theo ngôi sao dẫn đến với Chúa Kitô”.

 

Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX này được diễn trong thời khoảng 16-21/8/2005, với đề tài” Chúng tôi đến triều bái Người”, một đề tài lập lại lời của ba vị đạo sĩ Phương Đông và là lời có liên hệ với Bí Tích Cực Linh trong Năm Thánh Thể được kết thúc vào ngày 23/10/2005 tới đây.

 

Sự kiện Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX được tổ chức tại Đức đã được bắt đầu từ tâm tưởng của ĐTC GPII về Nước Đức như sau, khi ngài ngỏ cùng ĐHY Joachim Meisner, TGM của thành phố này, trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới ở Paris năm 1997. Vị hồng y này đã kể lại rằng: “Đức Giáo Hoàng đã nói với tôi rằng ngài cảm thấy một trong những Ngày Giới Trẻ Thế Giới đầu tiên trong ngàn năm mới cần phải được tổ chức ở Cologne, vì thế kỷ vừa qua Đức quốc đã chứng kiến thấy một số những thảm họa kinh hoàng cho nhân loại, và giờ đây nước này cần phải chứng kiến thấy một dấu hiệu hy vọng cả thể”.

 

Vấn đề Quan Phòng Thần Linh ở đây là Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX tại Đức Quốc này lại được chủ sự bởi chính Vị Tân Giáo Hoàng người Đức. Phải chăng đây là “dấu chỉ thời đại” về một Đức Quốc sẽ làm biến đổi thế giới nói chung và Âu Châu nói riêng, như Balan đã là nơi phát xuất một Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và là nơi đã làm biến đổi lịch sử thế giới nói chun g và Âu Châu nói riêng qua Biến Cố Đông Âu cuối năm 1989?

 

Nếu quả thực như vậy thì chuyến viếng thăm quê hương đầu tiên của Đức tân Giáo Hoàng Đức quốc này cũng mang một tầm vóc quan trọng như chuyến về thăm Balan đầu tiên của vị tiền nhiệm ngài vào tháng 6/1979. Vị tân Giáo Hoàng, trong chuyến tông du ngoài Ý quốc đầu tiên của giáo triều của mình, cũng sẽ ghé thăm thành phố Bonn là nơi ngài đã sống trong thời khoảng 1959-1963 với chức nghiệp giáo sư thần học. Và cũng tại thành phố này, ngài sẽ gặp Tổng Thống Đức Horst Koehler.

 

Thứ Năm 18/8: 10 giờ sáng, ngài rời phi trường Ciampino ở Rôma và đến Cologne/Bonn vào buổi trưa. Sau khi được chào đón, ngài đã về tòa tổng giám mục Cologne. Buổi chiều, ngài đã đến bến tầu Rodenkirchnbrucke để đi thuyền dọc theo con sông Rhine đến bến tầu Rheinwiesen và được giới trẻ nghênh đón ở đó. Rồi ngài lại dùng thuyền trở về Cologne và viếng thăm vương cung thánh đường ở đây.

 

Thứ Sáu 19/8: ĐTC đã cử hành Thánh Lễ riêng tại tòa TGM Cologne trước khi đi xe đến Villa Hammerschmidt ở Bonn là nơi, vào lúc 10 giờ 30 sáng, ngài đã thăm Tổng Thống Đức. Vào buổi trưa, sau khi dùng bữa trưa với 12 đại biểu giới trẻ, tuổi từ 18 đến 28 (Đức 2, Pháp 1, Ái Nhĩ Lan 1, Chí Lợi 1, Benin 1, Tầu 1, Congo 1, Canada 1, Slovania 1, Úc Châu 1, Palestine 1), ngài đã thăm hội đường Do Thái ở Cologne và vào lúc 1 giờ ngài trở về tòa TGM để dùng bữa trưa với giới trẻ. Vào lúc 5 giờ chiều, ngài đã gặp các chủng sinh ở nhà thờ Thánh Pantaleon ở Cologne rồi trở về tòa TGM để tham dự một cuộc họp đại kết.

 

Thứ Bảy 20/8: Ngài cũng cử hành Thánh Lễ riêng tại tòa TGM, sau đó ĐTC đã tiếp một số các vị lãnh đạo chính trị và dân sự, như Thủ Tướng Gerhard Schroeder; Chủ Tịch Quốc Hội Wolfgang Thierse; Chủ Tịch Khối Dân Chủ Kitô Giáo Angela Merkel (CDU Christian Democratic Union) v.v. Vào lúc 6 giờ chiều ngài gặp các vị đại diện cộng đồng Hồi giáo. Sau đó ngài đi xe đến Marienfeld để gặp giới trẻ trong đêm canh thức cho tới 10 giờ 30.

 

Chúa Nhật 21/8: 10 giờ sáng, ngài sẽ cử hành Lễ Bế Mạc trước khi nguyện Kinh Truyền Tin. Sau bữa trưa tại tòa TGM, ngài đã đi bộ đến “Piussaal” của chủng viện Cologne để gặp hội đồng giám mục Đức. Cuối cùng, sau khi chào uỷ ban tổ chức Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX, ngài đi xe đến phi trường tham dự lễ nghi tạ từ vào lúc 6 giờ 45 chiều, và trở về tới Rôma lúc 9 giờ 15 tối.  

 

Nước Đức có 82.520.000 triệu dân, trong đó có 27.411.000 là Công giáo, tức ở vào tỷ lệ 33.2%. Có 12.486 giáo xứ, 18.826 vị linh mục, 2.505 phó tế, 36.323 tu sĩ và 3.561 chủng sinh. Giáo Hội Công Giáo ở Đức có 10.307 cơ quan giáo dục, bao gồm từ sơ cấp đến đại học, với tổng số 959 ngàn học sinh và sinh viên. Có 536 bệnh viện, 1.359 bệnh xá, 2.588 nhà coi sóc người già và tàn tật, 1.298 cô nhi viện, 2.030 trung tâm về gia đình và bảo vệ sự sống, cùng 1.331 trung tâm đặc biệt về việc giáo dục xã hội và tái giáo dục.

 

Con số tham dự Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX lên tới 800 ngàn người, trong đó có 405 trăm

ngàn giới trẻ ghi danh (105.000 Đức, 101.174 Ý, 38.549 Pháp, 31.908 Tây Ban Nha và 24,237

Hoa Kỳ, từ 191 quốc gia), 750 giám mục, 54 hồng y, 27 ngàn tình nguyện viên thuộc 120 quốc

gia. Vấn đề an ninh là vấn đề gay go nhất trong biến cố này.

 

Trong cuộc họp báo tại tổng hành dinh Đài Phát Thanh Vatican ngày Thứ Ba 5/7/2005, ĐHY

Joachim Meisner TGM Cologne, nơi tổ chức biến cố này xác nhận rằng “những người đã ghi

danh hay đã trả tiền ở vào khoảng 400 ngàn, thế nhưng chúng tôi vẫn mở cửa cho đến ngày

cuối để tạo cơ hội tham dự. Phần chúng tôi, chúng tôi có thể điều hành đến 2 triệu người”.

 

Vị hồng y còn nói tiếp: “Cologne đã làm việc cả 8 năm trời cho biến cố này”. Nơi ĐTC sẽ

chủ tọa buổi canh thức đêm Thứ Bảy và Thánh Lễ Bế Mạc Chúa Nhật là Marienfeld, ở đó có

một quả đồi nhân tạo được hình thành bởi đất thuộc tất cả mọi châu lục.

 

Theo truyền khẩu thì Vương Cung Thánh Đường Cologne là nơi đang giữ hài tích của Các Vị

Đạo Sĩ Đông Phương. Hòm đựng hài tích các vị được đặt ở đằng sau bàn thờ, theo như thông

lệ thời Trung Cổ, để giới trẻ có thể đi dưới bàn thờ, mang về phúc lành cho mình, như những

người hành hương đã làm trong quá khứ.

 

Vị hồng y TGM Cologne còn cho biết thêm là cái vấn đề khó khăn nhất của việc tổ chức này

đó là việc cần phải tuân giữ “17 ngàn tiêu chuẩn an ninh” theo luật lệ của Đức Quốc.

 

“Trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới Năm 2000 ở Rôma đây, chính phủ Ý đã phải tạm treo những

điều kiện này trong vòng 10 ngày, một cử chỉ mà tôi cho rằng rất nhân bản. Chúng tôi buộc

phải tuân giữ những qui tắc an ninh ấy và điều này đã gây tốn kém cho chúng tôi rất nhiều, vì

chúng rất ư là mắc mỏ. Việc viếng thăm tới đây của ĐTC sẽ tốn phí gấp 10 lần cuộc viếng

thăm đầu tiên Đức quốc của ĐTC GPII. Việc sửa soạn vốn là vấn đề phức tạp theo quan điểm

kỹ thuật, gây ra bởi những đòi hỏi về an ninh, cũng như từ quan điểm tiền bạc. Thế nhưng, giờ

đây mọi sự đã được thắng vượt rồi”.

 

Cuối cùng, vị thẩm quyền Giáo Hội địa phương tổ chức Ngày Giới Trẻ Thế Giới đã kêu gọi

tham dự viên như sau: “Anh chị em cần phải đến như những Vị Vua Khôn Ngoan. Đừng đến

một mình, song hãy mang theo cả người khác nữa. Nếu chúng ta qui tụ lại nhân danh Người

thì Chúa Giêsu sẽ ở giữa chúng ta. Chúng ta cần phải tỏ cho thế giới thấy dung nhan của

Chúa Kitô”. 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

                                    TOP

 

Bài Giảng Khai Mạc Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX 16/8/2005 của ĐHY Joachim Meisner, TGM Cologne: “Ngày Giới Trẻ Thế Giới 2005 ở Cologne không phải thuần túy là biến cố Công giáo … Chúng ta sẽ tìm kiếm Chúa Kitô không phải cho lợi ích riêng mình, mà đặc biệt cho lợi ích của anh chị em khác

 

Anh Chị Em thân mến!

 

1.         Chào mừng anh chị em đến với TGP Cologne! Chúng tôi hân hoan thấy tất cả anh chị đến đây. Chúng ta đang cử hành Ngày Giới Trẻ Thế Giới đầu tiên với hai vị Giáo Hoàng: với Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ở trên trời cao, và với Giáo Hoàng Biển Đức XVI ở trên thế gian này. Đây là một việc cử hành đức tin lạ lùng biết bao! Ba tuần lễ trước khi qua đời, Đức Thánh Cha đã gọi tôi vào phòng của ngài ở bệnh viện Gemelli mà hỏi tôi rằng: “Họ đang đợi tôi ở Cologne phải không?” Tôi đáp lại rằng: “Tâu Đức Thánh Cha, chúng con vẫn chờ đợi ĐTC”. Giờ đây chúng ta kêu lên trời rằng: “Hỡi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, chúng con đang đợi chờ ĐTC đây!” Và chúng ta kêu sang Rôma là: “Hỡi Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, chúng con đang đợi chờ ĐTC đây!” Với Phêrô của ngày hôm qua là Đức Gioan Phaolô II, và với Phêrô của ngày hôm nay là Đức Biển Đức XVI, ở giữa chúng ta, chúng ta kiên cường tiến bước trong cuộc hành hương của chúng ta, vì Chúa đã nói với Phêrô rằng: “Hãy làm cho anh em (chị em) con vững mạnh” (Lk 22:32).


Giới trẻ gần gũi rất nhiều với thuở ban đầu của cuộc sống mình hơn là thành phần lớn tuổi. Đó là lý do tại sao nguồn gốc của đời sống họ ở trong tay Chúa thì mãnh liệt hơn và có một chiều kích hăng say hơn trong việc tìm kiếm sự sống thực sự hơn là những người khác. Những ai cống hiến cho thành phần trẻ trung tìm kiếm Thiên Chúa ít hơn Thiên Chúa là không cống hiến đủ cho họ. Việc anh chị em tìm kiếm một đời sống trọn vẹn đã khiến anh chị em thực hiện cuộc hành trình tới Cologne là nơi chúng ta sẽ theo bước chân của những người tìm kiếm Thiên Chúa đầu tiên là Ba Vua. Hai năm trước đây, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã lấy những lời được Thánh Ký Mathêu viết làm châm ngôn của Ngày Giới Trẻ Thế Giới ở Cologne: “Chúa tôi đã đến để triều bái Người” (Mt 2:2).

 

2.         Tất cả chúng ta chỉ có một đời sống duy nhất. Chúng ta không được ban cho một giai đoạn tập sự, phi trách nhiệm, như chúng ta ở vào trường hợp chúng ta lấy được bằng lái xe. Tất cả chúng ta bắt đầu lộ trình cuộc sống với một loạt đầy những trách nhiệm. Không có vấn đề giấy phép tạm thời để sống động, yêu thương, tin tưởng hay chết chóc. Đó là điều thực sự. Tất cả chúng ta đều thi hành đầy đủ trách nhiệm ngay từ ban đầu. Tôi thực sự không cần phải nói với anh chị em điều này, vì anh chị em là những tạo vật được Thiên Chúa dựng nên đều theo bản năng sẽ biết được nó
 
Đó là những gì anh chị em đều có với tất cả giới trẻ trên khắp thế giới. Anh chị em gặp gỡ nhau tuần lễ này không phải như những kẻ xa lạ mà là những người thân thuộc và đồng bạn. Chúng ta là “thân thuộc” vì tất cả chúng ta đều được đựng nên bởi cùng một Vị Thiên Chúa, và là “đồng bạn” vì chúng ta cùng nhau tìm kiếm một đời sống trọn vẹn đáng sống, một đời sống với Thiên Chúa. Việc tôn thờ không còn nghĩa nào hơn hay kém là giao tiếp với Thiên Chúa và quì xuống trước nhan Người _ quì gối xuống trước con trẻ trong máng cỏ, như Chư Vị Khôn Ngoan.

 

Thiên Chúa đã biến mình thành quá bé bỏng đến nỗi Người thích hợp với cuộc sống và truyện đời của chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta sẽ dễ dàng phớt qua Người nếu chúng ta nghểnh mũi tiến bước trên đời. Người đã trở nên hữu hình ở mức độ thấp hèn khi Người rửa chân cho các môn đệ của Người. Thiên Chúa hạ mình xuống thấp. Việc quì xuống tôn thờ Người không làm cho chúng ta trở thành bé mọn mà là cao cả, vì nó khiến chúng ta giao tiếp với Thiên Chúa.

 

3.         Tất cả chúng ta cùng có một ước vọng tìm kiếm những gì là thiện hảo, những gì là tinh tuyền, những gì là cao cả, và những gì là mỹ lệ. Tại sao thế? Bởi vì tất cả chúng ta đều được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng được nhân cách hóa là sự thiện tối cao và là sự tuyền vẹn đệ nhất. Đó là lý do tại sao không ai có thể muốn trở thành xấu xa, ô uế và ghê tởm. Cái đói yêu thương ở trong tất cả mọi người chúng ta.



Khi tôi hỏi một người vô tín ngưỡng là “Bạn có muốn không được yêu thương hay chăng?”, người ấy đáp rằng “Như thế sẽ là hỏa ngục”. Làm sao người này biết được điều ấy nếu không được dạy dỗ về đức tin? Vì tất cả chúng ta đều bắt nguồn từ bàn tay Thiên Chúa và đều có một kiến thức trực giác về Thiên Chúa cũng như về sự kiện chúng ta được dựng nên theo hình ảnh của Ngài. Và vì Thiên Chúa không bao giờ rời bỏ chúng ta, cho dù chúng ta có lìa bỏ Ngài, chúng ta bao giờ cũng tự nhiên ý thức về nguồn cội và đích điểm của mình. Thánh Âu Quốc Tinh đã nhận thấy điều này 1600 năm trước đây. Ngài đã tóm lại minh thức này bằng những lời đáng ghi nhớ là: “Lòng chúng tôi khắc khoải cho tới khi được nghỉ an trong Chúa”.
 

4.         Hai ngàn năm trước đây, cái năng lực thúc đẩy nội tâm phát xuất từ Thiên Chúa đã khiến cho Ba Vua bắt đầu hành trình đến với Chúa Kitô. Nó cũng đã mang anh chị em tới Cologne này để tìm kiếm và tìm thấy Thiên Chúa. Ngài bảo đảm với anh chị em một tương lai cao cả và một đời sống hoàn toàn. Đối với Chúa Kitô không còn chọn lựa nào khác. Khi một số môn đệ bất đồng với giáo huấn của Người, họ đã quyết định bỏ Người mà đi.

 

Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ còn lại rằng: “Các con cũng muốn bỏ đi hay chăng?” Chính Phêrô là người đầu tiên đã thưa cùng Chúa lời tuyên xưng vừa đầu tiên vừa ngắn nhất trong Thánh Kinh: “Lạy Thày, chúng con còn biết theo ai? Thày có những lời sự sống đời đời” (Jn 6:68). Lời truyên xưng của Phêrô cũng là của chúng ta. “Lạy Thày, chúng con còn biết theo ai? Thày có những lời sự sống đời đời”.

 

Chúa Giêsu đã minh nhiên nói với chúng ta rằng: “Không ai có thể đến được với Tôi nếu Cha là Đấng đã sai Tôi lôi kéo” (Jn 6:44). Anh chị em thân mến, anh chị em đã được Cha lôi kéo. Đó là lý do tối hậu cho thấy tại sao anh chị em đang ở Cologne đây. Việc hiện diện của anh chị em ở nơi đây là hoa trái của tác động xót thương của Thiên Chúa. Và tôi chân thành hứa cùng anh chị em rằng: Bởi thế, Ngài sẽ mãi là vị lãnh đạo của anh chị em. Ngài sẽ biến anh chị em thành phúc lành cho môi trường của anh chị em, cho quê cha đất mẹ của anh chị em, cho toàn thế giới, và hướng dẫn anh chị em trong việc làm cho thế giới gần lại hơn với Thiên Chúa. Đó là cách thế giới sẽ vẫn là một nơi đáng cư ngụ cho nhân loại chúng ta là con cái Thiên Chúa.
 

Và đó là lý do tại sao, hỡi thành phần hành hương trẻ trung từ khắp nơi trên thế giới, anh chị em mới là tương lai của Giáo Hội và là tương lai của Thế Giới, vì anh chị em là con cái của Thiên Chúa, là anh chị em của Chúa Kitô và là đền thờ sống động của Chúa Thánh Thần. Thế giới không tồn tại trước hết và trên hết bởi những con số sản xuất, bởi các thứ tủ lạnh, bởi các phi đạn và những thứ đồ tương tự như thế. Nó được bảo trì thực sự nhờ liên hệ với Vị Thiên Chúa hằng sống và từ đó với nguồn mạch của sự sống của nó.

 

Ngày Giới Trẻ Thế Giới 2005 ở Cologne không phải thuần túy là biến cố Công giáo. Nó liên quan tới toàn thế giới. Chúa Kitô không phải là một tác nhân tư hữu của Kitô giáo – Người là Chúa của thế giới. Nên tuần lễ này, chúng ta sẽ tìm kiếm Chúa Kitô không phải cho lợi ích riêng mình, mà đặc biệt cho lợi ích của anh chị em khác, để họ được cảm nghiệm niềm vui đức tin trong Chúa Kitô. Amen.

 

Hồng Y Joachim Meisner

TGM Cologne

 
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 16/8/2005

 

TOP

 

 

Tổng Thống Đức - Diễn Văn nghênh đón ĐTC Biển Đức XVI tại Phi Trường Konrad Adenauer: "Việc ngài được bầu làm giáo hoàng có một tầm quan trọng về lịch sử"

 

Kính Đức Thánh Cha,

Chào Mừng Ngài Hồi Hương!

Chào Mừng Ngài về Đức Quốc!

 

Tất cả chúng tôi đây kính chào Ngài.

 

Chúng tôi hân hạnh được gặp ngài. Chúng tôi hoan hỉ vì chuyến viếng thăm hải ngoại đầu tiên chính thức của ngài đã mang ngài về Đức Quốc. Đây là một ngày vui mừng đối với tất cả chúng tôi.

 

Ngày Giới Trẻ Thế Giới, một ngày ngài đã mời giới trẻ tham dự, là một cơ hội tuyệt vời. Tôi nghĩ rằng thật là tuyệt khi rất nhiều người trẻ đã đến hoan hưởng lòng hiếu khách của chúng tôi. 

 

Dù là một người Tin Lành, tôi cũng có thể nói rằng chúng tôi rất cảm kích về sự kiện là có một người Đức trong chúng ta đã trở thành Giáo Hoàng. Xin cho tôi được nói lại điều này với ngài một lần nữa, ở nơi đây, trên mảnh đất Đức quốc này, đó là chúng tôi chúc ngài được tất cả mọi thứ may lành nhất cùng với ân phúc Chúa ban cho vai trò cao cả của ngài.

 

Việc ngài được bầu làm giáo hoàng có một tầm quan trọng về lịch sử.

 

Theo sau vị Giáo Hoàng người Balan, đất nước đầu tiên bị Đức quốc xâm chiếm trong Thế Chiến Thứ Hai, một phần tử của thế hệ được gọi là trợ tá phòng không giờ đây đã được chọn làm vị thừa kế Thánh Phêrô. Đối với tôi thì đây là một nguồn mạch tin tưởng – sau 60 năm chấm dứt cái ý hệ phi nhân và vô thần đã khống chế ở Đức quốc.

 

Dân chúng trên thế giới cũng đã thấy được nó như là một dấu hiệu giải hòa. Xin cho tôi được chia sẻ một bí mật với ngài – đó là, chỉ sau khi ngài được chọn làm giáo hoàng mấy phút, Tổng Thống Balan Kwasniewski là người đầu tiên gọi điện thoại cho tôi và chúc mừng chúng ta.

 

Kính Đức Thánh Cha,

 

Gần 50 năm trước đây ngài đã bắt đầu nghề hàn lâm của mình như là một giáo sư thần học rất trẻ trung ở Đại Học Bonn, không xa đây lắm. Bấy giờ ngài đã làm cho thành phần thính giả nghe ngài say sưa về những gì ngài giải thích về tín lý – để rồi danh tiếng của ngài nơi thế giới hàn lâm từ đó đã tiếp tục gia tăng hơn bao giờ hết. Đối với ngài, đức tin và thần học không bao giờ lại là một thứ bảo quản cao quí của lãnh vực hàn lâm. Ngài lúc nào cũng hoạt động để bảo đảm rằng sứ điệp chính yếu của Kinh Tin Kính cũng được áp dụng cả vào lãnh vực văn hóa trần thế và lãnh vực chính trị nữa.

 

Điều này không thể nào tránh được việc gây ra bất mãn. Thế nhưng ngài thà gây ra bất mãn còn hơn tỏ ra dửng dưng. Vì cả các nguyên tắc của đức tin nữa cũng có mục đích là muối đất. Các học giả trên khắp thế giới vì thế đã đặc biệt tìm đến ngài để bàn luận với ngài, kể cả một trong những nhân vật đương thời cách đây không bao lâu là Jurgen Habermas.

 

Tôi tin rằng vinh dự cho cả lãnh vực thần học Đức quốc, cũng như cho các ngành nhân bản Đức quốc nói chung, khi có một người xuất phát từ hàng ngũ của họ được chọn để đổi bục giảng lấy “ngai tòa Phêrô”.

 

Khi ngài được nhận làm một phần tử của Hàn Lâm Viện thế giá của Pháp quốc năm 1992 để thay thế cho đại nhân vật Andrei Sakharov, ngài đã nói về nhân vật này rằng: “Ông còn hơn là một đại học giả nữa, ông là một vĩ nhân”. Ngài cũng hòa hợp cả học thức uyên thâm với đức khôn ngoan nữa. Đó là lý do tại sao nhiều người, vượt cả ngoài biên giới Giáo Hội Công Giáo, tìm kiếm và tìm thấy nơi ngài một thứ thẩm quyền về luân lý.

 

Kính Đức Thánh Cha,

 

Ngài đã đến với một đất nước có các giáo hội Kitô hữu đóng vai trò chủ động. Tôi hân hạnh về trường hợp của đất nước này.

 

Cứ lấy các nhóm giới trẻ Công Giáo và Tin Lành làm điển hình. Thành phần giới trẻ ngày nay thường bị  cáo giác là thiếu dấn thân hay chỉ biết đến bản thân mình mà thôi. Thế nhưng, điều cáo giác này chắc chắn không đúng về hằng ngàn ngàn lãnh đạo viên nhóm giới trẻ đang đảm nhận trách nhiệm đối với trẻ em hay giới trẻ thuộc lứa tuổi của mình trong ngành hướng đạo nam nữ, trong cơ cấu Katholische Junge Gemeinde (Liên Hiệp Đức Quốc Trẻ Em Công Giáo và Các Tổ Chức Giới Trẻ), ở tổ chức YMCA và ở những nơi khác với tính cách thiện nguyện. Nơi đây, nhiều người trẻ biết cách thức xứng hợp để giúp đỡ người khác cũng như cách thức để hoàn tất nhũng gì có thể. 

 

Hoạt động giới trẻ của giáo hội đặc biệt phấn khích giới trẻ hấp thụ những giá trị, và học biết tác hành cách hữu trách là những gì toàn thể xã hội của chúng ta cần phải nương dựa. Cái định hướng được nhiều người ngày nay đòi hỏi chỉ có thể xuất phát từ những ai đã tìm thấy nó. Tôi cảm thấy thật sự hoạt động giới trẻ của giáo hội là một lực lượng mạnh mẽ cho thiện ích thậm chí bất khả châm chước cho lãnh vực hoạt động này.  

 

Việc dấn thân về xã hội của các Giáo Hội xuất phát từ một quan điệm đặc biệt về nhân loại, một quan điểm về nhân loại không bị chi phối bởi chủ nghĩa duy thực dụng hay duy vật. Việc dấn thân ấy nói cho chúng ta biết rằng con người không nguyên sống bởi bánh. Và chỉ có việc vươn tới và giao tiếp với những người khác chúng ta mới cảm thấy mãn nguyện tâm can. Tự do, cá vị và đoàn kết là những gì gắn bó với nhau không thể nào tách lìa nhau. Đó là những gì được giáo huấn về xã hội của Giáo Hội Công Giáo thực sự truyền dạy. Hoạt động bác ái và an sinh của các Giáo Hội bởi thế còn vượt hẳn lên trên cả thứ cơ cấu sửa chữa xã hội nữa.

 

Việc dấn thân này bao giờ cũng trở thành một cuộc thách đố về chính trị nữa – đừng nhắm mắt làm ngơ trước thành phần yếu kém, bệnh nạn, hấp hối, lép vế. Tất cả mọi lời kêu gọi đoàn kết bằng ngôn từ vẫn không thể nào thuyết phục được trừ phi chúng được kèm theo bằng việc dấn thân cụ thể, bằng tình yêu tác hành.

 

Tôi liên lỉ thấy được chứng cớ là tình yêu thương tác hành này và việc dấn thân xây dựng một xã hội chân chính là những gì rất ư là sống động nơi các Giáo Hội ở đây. Những cán sự giáo dân, thành phần rất nhiệt thành với việc phục vụ của mình, bởi thế thực sự đáng được các vị lãnh đạo Giáo Hội cảm nhận và được tất cả chúng ta cảm tạ.

 

Kính Đức Thánh Cha,

 

Ngài đã đến với Ngày Giới Trẻ Thế Giới, một biến cố được vị tiền nhiệm của ngài là Đức Gioan Phaolô II đáng kính nhớ, đã mời gọi giới trẻ khắp thế giới tham dự. Ngày Giới Trẻ Thế Giới nhắm mục đích là để trở thành một dấu hiệu hy vọng. Việc đoàn kết hoàn vũ nơi giới trẻ có thể là một lực lượng mạnh mẽ cho thiện ích. Nó nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm của mình đối với Một Thế Giới Duy Nhất là nơi chúng ta đang sống.

 

Tuy nhiên, tôi quá rõ là Ngày Giới Trẻ Thế Giới không phải chỉ quanh quẩn có những chương trình sinh hoạt hay những buổi hội luận về lý thuyết. Nó nhấn mạnh đến linh đạo, đến cảm nghiệm linh thiêng, đến việc nguyện cầu và đến việc cử hành đức tin. Việc đổi thay, thực sự thay đổi, phải được bắt đầu từ cõi lòng của con người. Bằng việc cởi mở và tìm kiếm hướng đi, có hằng trăm ngàn giới trẻ đang đặc biệt cống hiến cho thành phần niên trưởng chúng ta đây một dấu hiệu hy vọng và tin tưởng. Tôi đã đích thân chứng kiến thấy điều này trong mấy ngày vừa qua.

 

Ở vào thời điểm có nhiều người sống trong nỗi hãi sợ bị khủng bố tấn công và bạo động gây ra bởi những động lực được cho là từ tôn giáo thì thật là hữu ích trong việc cảm nghiệm đức tin và tôn giáo như là một đường lối hòa bình và xót thương. Chính bản thân của mình, Kính Đức Thánh Cha, thường nói về sự kiện là có những “thứ bệnh học” về tôn giáo, hay có những đường lối sai lầm, thậm chí cả nơi Kitô giáo, cũng như có những đường lối sai lầm nơi lý trí minh tường. Cả tôn giáo lẫn lý trí cần phải được liên lỉ sửa chữa và thanh tẩy lẫn nhau, như ngài đã nói.

 

Tôi hy vọng rằng Ngày Giới Trẻ Thế Giới này, ngày ngài đã kêu gọi dân chúng tham dự, sẽ trở thành một biểu hiệu bất khả phủ nhận về một đức tin thương cảm và nhân bản. Một đức tin không dửng dưng trước thế giới và nhân loại, một đức tin chứng thực sự kiện là tất cả chúng ta đều là con cái của Thiên Chúa trong thế giới duy nhất này.

 

Tôi xin lập lại là Xin chào mừng Giáo Hoàng Biển Đức!

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 18/8/2005

 

 

TOP

 

 

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI - Đáp Từ Nghênh Đón: "Rất nhiều giới trẻ đến để gặp gỡ Vị Thừa Kế Thánh Phêrô là một dấu hiệu cho thấy tính cách sinh động của Giáo Hội."

 

Kính Tổng Thống,

Quí Tôn Vị Thẩm Quyền Dân Sự và Chính Trị,

Quí Huynh Khả Kính trong Hàng Giáo Phẩm,

Quí Công Dân thân mến của Cộng Hòa Liên Bang,

Quí Bạn Trẻ thân mến!

 

Tôi cảm thấy hết sức vui mừng vì lần đầu tiên sau khi được chọn lên Ngai Tòa Thánh Phêrô được ở nơi quê hương thân yêu của tôi là Đức quốc. Tôi hết lòng cảm tạ Thiên Chúa là Đấng đã cho tôi có thể bắt đầu những cuộc tông du của mình ngoài Ý quốc bằng cuộc viếng thăm về đất nước sinh trưởng này của tôi. Tôi đến Cologne với Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 20, một biến cố đã được dự trù bởi vị tiền nhiệm của tôi là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II hết sức đáng kính nhớ.

 

Tôi thành thực biết ơn tất cả mọi người hiện diện để nồng hậu đón mừng tôi. Trước hết tôi xin chào tổng thống Cộng Hòa Liên Bang là Horst Kohler, vị tôi xin cám ơn về những lời nghênh đón ưu ái đã ngỏ cùng tôi thay cho toàn thể công dân Cộng Hòa Liên Bang Đức Quốc. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đối với các vị đại diện của chính quyền, các phần tử thuộc ngoại giao đoàn cùng những vị thẩm quyền dân sự và quân sự. Tôi thân ái trong tình huynh đệ chào vị chủ chăn của TGP Cologne là ĐHY Joachim Meisner. Tôi cũng xin chào các vị giám mục và linh mục, các tu sĩ nam nữ, cùng tất cả những ai đang tham gia những sinh hoạt mục vụ khác nhau ở các giáo phận nói tiếng Đức. Vào lúc này đây tôi cũng thân ái chào tất cả những ai sống ở những Lander khác nhau thuộc Cộng Hòa Liên Bang Đức Quốc. 

 

Trong những ngày hăng say sửa soạn cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới này, các giáo phận ở Đức, nhất là giáo phận và thành phố Cologne, đã bừng lên bởi sự hiện diện của rất nhiều giới trẻ ở các phần đất khác nhau trên thế giới. Tôi muốn cám ơn tất cả những ai đã rất ư là thành thạo và quảng đại giúp vào việc tổ chức biến cố giáo hội hoàn vũ này. Tôi biết ơn các giáo xứ, các tổ chức dòng tu, các hiệp hội, các cơ quan dân sự và nhiều cá nhân đã tỏ ra hiếu khách và rất thân tình trong việc nghênh đón hằng ngàn ngàn khách hành hương đến đây từ các châu lục khác nhau. Giáo Hội ở Đức và nhân dân Cộng Hòa Liên Bang Đức Quốc có thể hãnh diện về truyền thống lâu đời cởi mở của mình đối với cộng đồng thế giới; điều này là một trong những điều được coi như là việc họ tỏ ra chủ động đối với tình đoàn kết, nhất là khi thực hiện thay cho các quốc gia phát triển.     

 

Trong tinh thần cảm mến và chấp nhận đối với tất cả những ai đến từ các nền văn hóa và truyền thống khác nhau, chúng ta sắp sửa cảm nhận được Ngày Giới Trẻ Thế Giới ở Cologne. Ở chỗ, rất nhiều giới trẻ đến để gặp gỡ Vị Thừa Kế Thánh Phêrô là một dấu hiệu cho thấy tính cách sinh động của Giáo Hội. Tôi cảm thấy hạnh phúc được ở với họ, để làm cho đức tin của họ vững mạnh và để làm bừng lên niềm hy vọng của họ. Đồng thời tôi tin rằng tôi cũng sẽ nhận được một điều gì đó từ họ, nhất là từ lòng nhiệt thành của họ, từ lòng nhập cảm của họ và từ sự sẵn sàng đương đầu với các thử thách tương lai của họ. 

 

Vậy tôi xin chào cả chính giới trẻ, cũng như tất cả những ai đón nhận họ trong những ngày đầy các biến cố này. Ngoài những giây phút thiết tha nguyện cầu, suy tư và cử hành với họ cũng như với tất cả những ai tham dự vào các biến cố khác nhau theo chương trình, tôi sẽ có cơ hội để gặp gỡ các giám mục, những vị giờ đây tôi xin gửi đến lời chào thân ái. Tôi cũng sẽ gặp những vị đại diện các giáo hội và các cộng đồng giáo hội khác, sẽ viếng thăm hội đường để gặp gỡ cộng đồng Do Thái, và sẽ tiếp đón cả những vị đại diện một số cộng đồng Hồi giáo nữa. Những cuộc gặp gỡ này là những bước quan trọng trong cuộc hành trình đối thoại và hợp tác vào vấn đề cùng nhau dấn thân xây dựng một tương lai công chính và huynh đệ hơn, một tương lai thực sự nhân bản hơn nữa.  

 

Trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới này, chúng ta sẽ cùng nhau suy tư về đề tài: “Chúng Tôi Đến Bái Thờ Người” (Mt 2:2). Đây là một cơ hội quí hóa để suy nghĩ sâu xa hơn về ý nghĩa của cuộc sống như là một “cuộc hành hương”, một cuộc hành hương được dẫn đường bởi một “ngôi sao”, trong việc tìm kiếm Chúa. Cùng nhau chúng ta sẽ nhận định về các Nhà Đạo Sĩ, những vị đến từ các mảnh đất xa xôi khác nhau, là thành phần đầu tiên đã tỏ ra nhận biết Đấng Thiên Sai theo lời hứa nơi Giêsu Nazarét, Con của Trinh Nữ Maria, và cúi mình thờ lạy Người (x Mt 2:1-12).  

 

Cộng đồng giáo hội và thành phố Cologne có một liên hệ đặc biệt với những nhân vật tiêu biểu này. Như các Nhà Đạo Sĩ, tất cả mọi tín đồ, đặc biệt là thành phần giới trẻ, đã được kêu gọi để bắt đầu cuộc hành trình cuộc sống tìm kiếm sự thật, công lý và yêu thương. Mục đích tối hậu của cuộc hành trình này chỉ có thể được tìm thấy bằng cuộc gặp gỡ Đức Kitô, một cuộc gặp gỡ không thể xẩy ra nếu không có đức tin.

 

Đi theo cuộc hành trình nội tâm này, chúng ta có thể được hướng dẫn bởi nhiều dấu hiệu được đánh dấu bất khả phai mờ nơi truyền thống Kitô giáo lâu đời và phong phú của mảnh đất Đức quốc này: từ những đài kỷ niệm lịch sử vĩ đại đến vô vàn công trình nghệ thuật khắp xứ sở đây, từ những văn kiện được bảo trì nơi các thư viện đến những truyền thống phổ thông sống động, từ việc truy tầm triết học đến suy tư thần học của rất nhiều đại tư tưởng gia, từ các truyền thông thiêng liêng đến cảm nhiệm thần bí của một lực lượng hùng hậu thánh nhân. Nơi đây chúng ta thấy một gia sản phong phú về văn hóa và tu đức là những gì thậm chí cho tới nay, ở tâm điểm của Âu Châu này, chứng tỏ cho thấy cái dồi dào của đức tin và truyền thống Kitô giáo.

 

Đặc biệt là giáo phận và vùng Cologne đang tưởng nhớ một cách sống động các đại chứng nhân cho nền văn minh Kitô giáo. Trong số đó tôi nghĩ tới Thánh Bonifaciô, Thánh Ursula, Thánh Albêtô Cả, và trong thời gian gần đây, có Thánh Teresa Benedicta Thánh Giá (Edith Stein) và Chân Phước Aldoph Kolping. Chớ gì những vị này, những người anh chị em lừng lẫy của chúng ta trong đức tin, những vị qua các thế kỷ đã nâng cao ngọn đuốc thánh thiện, trở thành “các mô phạm” và “quan thày” của Ngày Giới Trẻ Thế Giới mà giờ đây chúng ta đang cử hành. 

 

Tôi xin lập lại cùng tất cả mọi người đang hiện diện nơi đây lòng biết ơn sâu xa của tôi về việc đón tiếp ưu ái của quí vị, và tôi nguyện cầu cùng Chúa cho tương lai của Giáo Hội cũng như của toàn thể xã hội ở Cộng Hòa Liên Bang Đức Quốc rất thân thương của lòng tôi đây. Chớ gì lịch sử lâu đời cùng với những thành đạt cao cả lớn lao của nó về xã hội, kinh tế và văn hóa trở thành một động cơ thúc đẩy việc tái dấn thân theo đuổi việc tiến bỗ chân thực, đoàn kết và phát triển, chẳng những cho quốc gia Đức mà còn cho các dân tộc thuộc những châu lục khác nữa.

 

Xin Trinh Nữ Maria, vị đã để cho các Nhà Đạo Sĩ thấy Hài Nhi Giêsu khi họ tới Bêlem để tôn thờ Đấng Cứu Thế, tiếp tục chuyển cầu cho chúng ta, như Mẹ đã trông chừng nhân dân Đức quốc qua các thế kỷ từ nhiều đền thánh của Mẹ khắp Lander Đức quốc. Xin Chúa chúc lành cho hết mọi người hiện diện nơi đây, cũng như tất cả mọi khách hành hương cùng với tất cả những ai sống trên mảnh đất này. Xin Thiên Chúa bảo vệ Cộng Hòa Liên Bang Đức quốc!                                                            
 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 18/8/2005

 

 

 TOP

 

 

ĐTC Biển Đức XVI với Tín Hữu Công Giáo Cologne trước Vương Cung Thánh Đường Cologne ngày 18/8/2005: “Thành phố Cologne sẽ không thực sự là mình nếu không có các Nhà Đạo SĩTuy nhiên, Cologne không phải chỉ là thành phố của các Nhà Đạo Sĩ…

 

Anh Chị Em thân mến,

 

Tôi hân hoan được ở với anh chị em vào buổi tối hôm nay ở Cologne, một thành phố tôi yêu thích với nhiều kỷ niệm sống lại trong tôi. Vì qua một số năm tôi đã sống ở thành phố lân cận là Bonn như là một giáo sư, và từ đó tôi thường đến Cologne là nơi tôi có nhiều bạn bè. Thật vậy, tôi tin rằng, theo sự Quan Phòng đặc biệt chẳng bao lâu tôi được làm bạn với vị tổng giám mục bấy giờ là ĐHY Joseph Frings, vị đã hoàn toàn tin tưởng vào tôi và mời tôi làm thần học gia của ngài để tham dự Công Đồng Chung Vaticanô II, một vai trò làm cho tôi có thể chủ động tham dự vào biến cố lịch sử đó.

 

Tôi cũng quen biết cả vị thừa kế của ngài là ĐHY Joseph Hoffner là vị tôi có những liên hệ trong nhiều năm, đầu tiên như là đồng bạn trong Hội Đồng Giám Mục Đức, sau đó qua việc làm việc với nhau cho các văn phòng khác nhau ở Tòa Thánh Rôma. Vị TGM hiện nay của anh chị em là ĐHY Joachim Meisner, là người bạn thân của tôi, và tôi cám ơn ngài về những lời chào đón nồng hậu cũng như về công việc vất vả ngài làm trong những tháng vừa qua để sửa soạn cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới.

 

Tôi cùng bày tỏ lòng biết ơn chân thành của tôi với ĐHY Karl Lehmann, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Đức, về mọi hy sinh dấn thân của ngài, và qua ngài tôi cám ơn các vị giám mục cũng như tất cả những ai tham phần vào việc sắp xếp những lãnh vực khác nhau của Giáo Hội ở xứ sở này cho đại biến cố của giáo hội hôm nay đây.

 

Tôi cám ơn tất cả những ai, qua nhiều ngày tháng, đã sửa soạn cho giây phút quan trọng đây, một giây phút hết lòng mong đợi: đặc biệt là Tiểu Ban Hoạch Định ở Cologne, và cả các giáo phận cùng những cộng đồng địa phương đã đón tiếp giới trẻ trong những ngày gần đây. Tôi có thể tưởng tưởng thấy rõ ràng tất cả những gì bao gồm trong việc làm này liên quan tới nghị lực bỏ ra và hy sinh cần phải chấp nhận, nên tôi nguyện ước nó sẽ sinh muôn vàn hoa trái nơi việc thành đạt thiêng liêng cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới này. Sau hết, tôi không quên bày tỏ lòng biết ơn sâu xa với các vị thẩm quyền về dân sự và quân sự, các vị lãnh đạo của thành phố và vùng đất này, những lực lượng cảnh sát và an ninh Đức quốc và North Rhine-Westphalia. Qua vị thị trưởng, tôi xin cám ơn dân chúng Cologne về việc cảm thông với nạn “xâm chiếm” của quá nhiều giới trẻ đến từ khắp nơi trên thế giới.

 

Thành phố Cologne sẽ không thực sự là mình nếu không có các Nhà Đạo Sĩ, những vị đã có một ảnh hưởng rất lớn nơi lịch sử của nó, văn hóa của nó và đức tin của nó. Ở nơi đây, theo một nghĩa nào đó, Giáo Hội cử hành lễ Hiển Linh hằng ngày trong năm! Thế nên, trước khi ngỏ lời cùng anh chị em ở trước ngôi vương cung thánh đường nguy nga này, tôi đã thinh lặng nguyện cầu trong giây lát trước hòm đựng hài tích của ba Nhà Đạo Sĩ và tạ ơn Chúa về chứng tá đức tin, đức cậy và đức mến của họ. Những hài tích của các Nhà Đạo Sĩ được mang đến đây từ Milan vào năm 1164 bởi ĐTGM Cologne là Reinald von Dassel; sau khi băng qua rặng núi Alps, các hài tích này đã được hân hoan hớn hở đón nhận ở Cologne.

 

Trong cuộc hành trình của mình băng qua Âu Châu, các hài tích của các Nhà Đạo Sĩ đã để lại các dấu vết vẫn còn rõ ràng cho tới ngày nay, cả về những danh xưng địa thế cũng như về những việc sùng kính của dân gian. Để tôn kính các Nhà Đạo Sĩ ấy, dân cư ở Cologne đã làm một hòm đựng hài tích trang nhã nhất trong toàn thế giới Kitô giáo, và nếu vẫn chưa đủ, họ còn dựng lên trên nó một hòm hài tích còn cao cả hơn nữa, đó là ngôi vương cung thánh đường kiểu Gothic đồ sộ này, ngôi vương cung thánh đường mà, sau khi bị chiến tranh tàn phá, lại sừng sững diễm kiều hiện lên trước khách viếng thăm. Cùng với Giêrusalem là “Thành Thánh”, Rôma là “Thành Vĩnh Hằng” và Santiago de Compostela ở Tây Ban Nha, Cologne, nhờ các Nhà Đạo Sĩ, qua các thế kỷ đã trở thành một trong những địa điểm hành hương của Kitô hữu Tây Phương.

 

Tuy nhiên, Cologne không phải chỉ là thành phố của các Nhà Đạo Sĩ. Nó được ghi dấu sâu đậm bởi sự hiện diện của nhiều vị thánh nhân; những con người nam nữ thánh thiện này, qua chứng từ đời sống của các vị cùng với dấu vết các vị còn lưu lại cho lịch sử của nhân dân Đức quốc, đã giúp cho Âu Châu tăng trưởng từ các căn gốc của Kitô giáo. Trước hết, tôi nghĩ đến tất cả các vị tử đạo vào những thế kỷ đầu, như Thánh Ursula cùng đồng bạn của ngài, những vị, theo truyền thống, chịu tử đạo dưới thời Diocletian. Làm sao người ta có thể quên được Thánh Bônifaciô, vị tông đồ Đức quốc, vị được bầu làm giám mục Cologne vào năm 745 và được Giáo Hoàng Zachary công nhận? Tên tuổi của Thánh Albêtô Cả cũng dính liền với thành phố này; thân xác của ngài đang yên nghỉ gần hầm mộ của Nhà Thờ Thánh Anrê.

 

Ở Cologne, Thánh Tôma Aquinas là môn sinh của Thánh Albêtô và sau đó là giáo sư. Chúng ta cũng không quên Chân Phước Adolph Kolping, vị chết ở Cologne năm 1865; từ một người thợ đóng giầy ngài đã trở thành linh mục và thành lập nhiều thứ khởi công, nhất là trong lãnh vực huấn luyện chuyên nghiệp.

 

Gần với thời đại của chúng ta đây, chúng ta nghĩ đến Edith Stein, một triết gia người Do Thái nổi tiếng của thế kỷ 20, vị đã nhập dòng Camêlô ở Cologne, lấy tên là Têrêsa Bênêđicta Thánh Giá, và sau đó đã chết trong trại tập trung ở Auschwitz. ĐGH Gioan Phaolô II đã phong thánh cho chị và đã công bố chị là một vị đồng quan thày của Âu Châu cùng với Thánh Bridgita người Thụy Điển và Thánh Catarina thành Siena.

 

Nơi những vị thánh này và tất cả các vị thánh khác, được biết tới hay không, chúng ta khám phá ra khuôn mặt sâu xa nhất và đích thực nhất của thành phố này, và chúng ta biết được di sản về các thứ giá trị được truyền lại cho chúng ta từ các thế hệ Kitô hữu đã ra đi trước chúng ta. Nó là một di sản rất ư phong phú. Chúng ta cần sống xứng đáng với nó. Đó là một trách nhiệm được chính những tảng đá của các dinh thự cổ kính này nhắc nhở cho chúng ta thấy. Thật vậy, chính những thứ giá trị thiêng liêng này làm hiện thực việc hiểu biết nhau giữa các cá nhân và dân chúng, giữa các nền văn hóa và văn minh khác nhau. Trong bối cảnh này, tôi xin gửi lời chào thân ái đến các vị đại diện thuộc các Kitô giáo phái khác nhau cũng như những vị thuộc các tôn giáo khác. Tôi cám ơn tất cả anh chị em về sự hiện diện của anh chị em ở Cologne vào cuộc đại hội này, hy vọng là nó sẽ đánh dấu một bước tiến trên con đường hòa giải và hiệp nhất.

 

Vì Cologne không nói với chúng ta về Âu Châu mà thôi; nó hướng chúng ta về phổ quát tính của Giáo Hội và của thế giới. Nơi đây, một trong ba Nhà Đạo Sĩ được coi như là một vị Vua xứ Moorish, và bởi thế, đại diện cho đại lục Phi Châu. Nơi đây, theo truyền thống, Thánh Gereon cùng đồng bạn của ngài thuộc Đạo Quân Theban đã chết đi như những vị tử đạo. Bất luận tính cách khả tín thật sự về lịch sử của những truyền thống ấy, việc tôn sùng lâu đời đối với các thánh nhân chứng thực cho cái quan điểm hoàn vũ và cởi mở của tín hữu ở Cologne, và theo một nghĩa rộng hơn, của Giáo Hội được xuất phát ở Đức quốc nhờ hoạt động tông đồ của Thánh Bônifaciô.

 

Cái cởi mở này đã được xác nhận trong những năm gần đây bởi những sáng kiến cao cả về bác ái, như Misereor, Adveniat, Missio và Renovabis. Xuất phát từ Cologne, những hội này đã mang tình yêu của Chúa Kitô đến cho tất cả mọi châu lục.

 

Giới trẻ thân từ khắp nơi trên thế giới mến, giờ đây các bạn đang ở nơi đây. Các bạn đại diện cho những người ở xa là thành phần đã nhận biết Chúa Kitô nhờ các Nhà Đạo Sĩ và là những người được qui tụ lại với nhau như tân Dân Tộc của Thiên Chúa, đó là Giáo Hội, một giáo hội qui tụ con người nam nữ thuộc mọi văn hóa. Hôm nay đây việc của các bạn là sống động và hít thở tính cách phổ quát của Giáo Hội. Các bạn hãy bừng lên ngọn lửa Thần Linh, để Lễ Hiện Xuống mới canh tân tâm can của các bạn. Qua các bạn, chớ gì giới trẻ khác ở các nơi nhận thấy nơi Chúa Kitô câu giải đáp thực sự cho những khát vọng sâu xa nhất của họ, và chớ gì họ mở lòng ra lãnh nhận Lời của Vị Thiên Chúa Nhập Thể, Đấng đã chết đi và sống lại từ trong kẻ chết cho phần rỗi của thế giới.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 18/8/2005

 

 

TOP

 

 

Giới Trẻ Cảm Nghiệm về ĐTC Biển Đức XVI: “Ngài thực sự rất gần với chúng ta

 

Trưa ngày Thứ Sáu 19/8/2005, ĐTC Biển Đức đã dùng bữa trưa với 12 đại diện của giới trẻ. Sau đây là hai trong 12 người đã chia sẻ cảm nghiệm của mình về Đức Thánh Cha Biển Đức XVI cũng vào ngày được diễm hạnh dùng bữa trưa này với mạng điện toán toàn cầu Zenit và được Zenit phổ biến ngày 20/8. Trước hết là Lubica Jovanovic, 19 tuổi, ở TGP Sydney Úc Châu, người đã dâng tặng ĐGH một con gấu và con kangaroo đồ chơi, và Johnny Bassous, 20 tuổi, đại diện nhóm giới trẻ ở Bêlem Thánh Địa.

 

Jovanovic:       Bữa trưa với Đức Giáo Hoàng hôm nay mới đầu thật là xúc động, tôi bối rối trong lòng, tôi cảm thấy rất hồi hộp vì tôi không biết tôi muốn gì nữa. Thế nhưng, khi ngài bước vào, tôi mới bắt đầu khóc. Những giọt nước mắt chảy xuống má vì tôi không thể tin được rằng tôi được như thế. Đó là một vinh dự nên tôi không bao giờ quên được ngày này.

 

Trong khi dùng bữa trưa hơi khó theo dõi cuộc đối thoại vì cuộc đối thoại hầu hết bằng tiếng Đức, Pháp hay Tây Ban Nha, hơn là tiếng Anh. Thế nhưng, vừa khi tôi cảm thấy mình hơi bị ra rìa thì Đức Giáo Hoàng Biển Đức nói với tôi và nhìn thẳng vào mắt tôi. Tôi cảm thấy rất được gắn bó.

 

Vấn:     Tuy nhiên, vị Giáo Hoàng này là một vị giáo hoàng khác với những gì bạn đã mong đợi khi bạn thoạt tiên ghi danh tham dự cuộc hành hương này. Điều gì về Đức Biển Đức XVI đã đánh động giới trẻ rất nhiều?

 

Jovanovic:       Tôi nghĩ có một điều thật sự là đặc biệt về vị Giáo Hoàng này. Tôi chưa từng thực sự thấy ngài một cách xác đáng cho đến ngày hôm nay, và tôi nhận thấy cách thức ngài liên hệ và làm sao ngài gây chú ý nơi mọi người trên khắp thế giới. Ngài thực sự là một tặng ân đồng thời cũng là một cái gì đó rất khác biệt. Tôi thực sự không biết giải thích ra sao nữa.

 

Khi chúng tôi nói chuyện thì báo chí vây quanh chúng tôi, thế nhưng ngài dường như không lưu tâm đến vấn đề ấy. Chúng tôi là ưu tiên của ngài. Được nhận biết và yêu thương như thế thực sự là điều quan trọng đối với một con người trẻ.

 

Nhiều người trẻ ngày nay tìm kiếm yêu thương qua những chước cám dỗ tình dục, nghiện hút và thứ nhạc đu đưa rock and roll, thế nhưng khi thấy cách thức Đức Thánh Cha của chúng ta giao tiếp với chúng ta thì tôi nghĩ rằng ngài cống hiến một cách thức khác để cảm nghiệm yêu thương – một tình yêu tình ròng của Chúa Kitô.

 

Tôi mong muốn thấy mọi người đều có được cái cảm nghiệm này, vì tôi rất ư là sung sướng – tôi chỉ có thể nhớ được dung nhan của ngài, và tôi muốn ôm ghì lấy ngài biết bao, vì ngài đã nhắc nhở tôi về con gấu nhồi bông lớn đẹp. Bầu không khí rất ư là an bình, và tôi cảm thấy tốt đẹp đến độ tôi cảm thấy tôi nếm được một chút xíu thiên đường rồi vậy.

Vấn:     Hiện nay vị Giáo Hoàng này là người cha thiêng liêng của tín hữu trên khắp thế giới cũng như đối với giới trẻ – phải chăng đó là cảm quan của bạn có được từ cảm nghiệm về Ngày Giới Trẻ Thế Giới?

 

Jovanovic:       Phải, đúng thế. Một trong những người được dùng bữa trưa hôm nay đã hỏi ngài vấn đề là Đức Thánh Cha nghĩ chúng con cần phải làm gì? Và ngài đã trả lời rằng chúng tôi cần phải làm cho Chúa Kitô trở thành tâm điểm của chúng tôi để rồi mọi sự sẽ đâu vào đó. Tôi đã nghe điều này cả chục ngàn lần trước đây, thế nhưng vì được phát xuất từ ngài nên nó tác động tôi đi sâu hơn vào đức tin của tôi để làm cho Thiên Chúa trở thành đệ nhất của mình.

 

Ngài có rất nhiều điều để cống hiến chỉ cần bằng việc hiện diện của ngài, thực sự có một cái gì đó đặc biệt về ngài.


Vấn:     Này, nghe tin đồn rằng Ngày Giới Trẻ Thế Giới tới đây có thể ở Down Under. Bạn nghĩ gì về điều này?

 

Jovanovic:       Tôi sẽ hết sức vui mừng khi đón tiếp thế giới đến với nhà của tôi là Sydney – tôi sẽ kéo mọi người ở đó cảm nghiệm thấy niềm vui này – nó sẽ là một thời điểm đẹp nhất chưa từng thấy! Giờ đây tôi cảm thấy rằng nó sẽ xẩy ra vì khi tôi giới thiệu mình với Đức Giáo Hoàng và nói về nơi tôi ở là Úc Châu thì mắt ngài sáng lên mà nói rằng: “Ồ, phải đấy, nước chủ sự cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới tới đây, không đâu?” Tôi hứng khởi trả lời: “Vâng, nếu Chúa muốn”. Nghe thế ngài nói: “Đúng vậy, đúng vậy”.

 

Bởi thế tôi cảm thấy mãnh liệt là nó sẽ ở Sydney, mà nếu thế thì nó sẽ thực sự thay đổi lịch sử – tôi khó có thể đợi chờ cho tới khi ngài chính thức công bố vào ngày Chúa Nhật.


Vấn:     Trên chiếc thuyền hôm qua, Đức Giáo Hoàng đã nói về việc mở lòng của bạn ra cho Chúa Kitô và hãy để Người nói cùng bạn. Những lời này có nghĩa gì với bạn?

 

Jovanovic:       Khi tôi nghe thấy ngài nói những lời ấy tôi liên đồng ý với ngài ngay, vì khi tôi trở về với đức tin 4 năm trước đây, đời sống của tôi đã hoàn toàn thay đổi nên tốt hơn. Và khi tôi nhìn vào đời sống của ngài, nó là một mẫu gương tin tưởng vào ý muốn của Thiên Chúa – khi là một linh mục, rồi khi là một giám mục, đoạn khi là một vị tổng giám mục, hồng y và giờ đây là Giáo Hoàng.

 

Nó làm cho tôi cảm thấy mãnh liệt hơn là Thiên Chúa sẽ dẫn tôi đến những nơi chốn khác nhau – tôi không biết, tôi có thể trở thành một nữ tu, tôi có thể lập gia đình – bất cứ điều gì đều có thể xẩy ra khi nó hoàn toàn ở trong bàn tay Thiên Chúa.

 

Mấy năm trước đây tôi không bao giờ nghĩ rằng mình là một thừa tác viên giới trẻ của TGP Sydney, thế nhưng, với ơn Chúa giúp thì tất cả đều có thể.


Bassous:           Đối với tôi thì đó thật là một đại ân phúc, và cuộc gặp gỡ sung sướng như thế làm tôi cảm thấy trong lòng rất được vinh dự và phấn khởi khi gặp được một Đức Thánh Cha phúc hậu như vậy, và tôi cảm thấy như thể ngài thực sự rất gần với chúng ta.

 

Những lời lẽ của ngài rất tác động và phấn khích cho niềm tin Kitô giáo của chúng ta. Ngài đã đề cập tới những lời “đào sâu niềm tin của chúng ta” hơn một lần và chúng ta cần sống đời Kitô hữu của mình một cách thuận hòa giữa những con người khác cảnh huống, nhất là những người sống ở những quốc gia có  các tôn giáo khác nhau.

 

Ngài cũng đề cập tới một phần của Sách Thánh từ Thư thứ nhất của Thánh Phêrô, đoạn nói rằng chúng ta cần phải cống hiến lý do về niềm hy vọng của mình cho những ai muốn hỏi chúng ta về niềm tin Kitô giáo – nói cách khác, đời sống của chúng ta nói cho kẻ khác và thúc động họ hỏi chúng ta về lý do tại sao chúng ta sống kiểu cách như thế, bởi thế thật là tuyệt khi nghe thấy những lời phấn khích này từ ngài.


Vấn:     Bạn đề cập tới những lời của Đức Giáo Hoàng về việc bắc nhịp cầu nối những khoảng cách nơi các nền văn hóa khác nhau, và đây là một đề tài được cảm nhận sâu xa ở Thánh Địa. Bạn cảm thấy ra sao về cuộc gặp gỡ vị Giáo Hoàng này hôm nay sẽ giúp cá nhân bạn tiếp tục cố gắng thực hiện việc cổ võ hòa bình nơi quê hương đất nước của bạn?

 

Bassous:           Quí vị biết rằng một trong những giới răn cao cả nhất được Chúa ban cho chúng ta đó là yêu thương tha nhân của chúng ta, thậm chí yêu thương cả kẻ thù của mình – không phải là tôi thấy người nào đó là kẻ thù của tôi. Thánh kinh dạy chúng ta cách thức yêu thương và sống với nhau.

 

Bởi thế, đối với tôi, được phấn khích bởi những thôi thúc của vị Giáo Hoàng này, tôi nghĩ rằng việc yêu thương kẻ khác theo cách này – yêu thương những người Hồi giáo và những người Do Thái cùng với những Kitô hữu đồng đạo của tôi – là một trong những điều chắc chắc tôi có thể làm để bắt đầu việc chúng tôi đối thoại hòa bình. Đó là sứ điệp – về hòa giải – tôi muốn thi hành khi trở về bằng việc sống đời Kitô hữu thường nhật vậy.


Vấn:     Chính vị Giáo Hoàng này đã cống hiến cho chúng ta một mẫu gương về cách thức chúng ta có thể làm điều ấy. Ngay trước khi ngài đến dùng bữa trưa với tất cả các bạn, ngài đã gặp gỡ cộng đồng Do Thái ở Cologne tại hội đường đây. Cử chỉ ấy nói lên điều gì đối với bạn?

 

Bassous:           Đối với tôi, khi tôi nghe thấy những biến cố như vậy thì tôi cảm thấy rất hạnh phúc, vì là những Kitô hữu, chúng ta được kêu gọi để phá đổ tất cả mọi biên cương và cản trở nơi các dân tộc.

 

Tôi nhớ là vị tiền nhiệm của ngài là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đến cầu nguyện ở Bức Tường Than Khóc, và viếng thăm các đền đài của người Hồi giáo. Việc này nói lên cho thấy rằng ngài là một con người chẳng những của lời nói mà còn của việc làm và hoạt động nữa. Đó là một mẫu gương mà tất cả chúng ta được kêu gọi để thực hiện.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 20/8/2005

 

 

TOP

 

 

ĐTC Biển Đức XVI - Sứ Điệp đầu tiên ngỏ cùng giới trẻ ngày 18/8/2005: “Hãy mở rộng lòng mình cho Thiên Chúa! Hãy để mình ngỡ ngàng trước Chúa Kitô!

 

(Bằng tiếng Đức)

 

Giới Trẻ thân mến,

 

Tôi hân hoan được gặp gỡ các bạn ở Cologne đây, trên bờ sông Rhine! Các bạn đã đến từ các phần đất khác của của Đức quốc, Âu Châu và khắp thế giới như là thành phần hành hương theo chân của các Nhà Đạo Sĩ Phương Đông. Theo lộ trình của họ, cả các bạn nữa cũng muốn tìm kiếm Chúa Giêsu. Như các vị, các bạn đã bắt đầu cuộc hành trình này để bản thân cũng như với nhau chiêm ngưỡng dung nhan của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi Con Trẻ nằm trong máng cỏ. Như các bạn, cả tôi nữa cũng bắt đầu cùng với các bạn quí trước Tấm Bánh Thánh trắng đã được thánh hiến là nơi con mắt đức tin nhìn nhận sự hiện diện thật sự của Đấng Cứu Thế. Cùng nhau, chúng ta sẽ tiếp tục suy niệm về đề tài của Ngày Giới Trẻ Thế Giới này, đó là “Chúng Tôi Đến Để Triều Bái Người” (Mt 2:2).


(Bằng tiếng Anh)

 

Giới trẻ thân mến, tôi hết sức vui mừng chào đón các bạn. Các bạn đã đến nơi đây từ gần lẫn xa, bước đi trên các đường phố của thế giới cũng như những nẻo đường của cuộc đời. Tôi đặc biệt gửi lời chào đến những ai, như các Nhà Đạo Sĩ, đến từ Đông Phương. Các bạn là những người đại diện cho rất nhiều anh chị em đang đợi chờ trong vô thức ngôi sao mọc lên trên bầu trời của họ để dẫn họ đến với Chúa Kitô là Ánh Sáng Chư Dân, nơi Người họ sẽ thấy việc đáp ứng trọn vẹn nhất cho những ước vọng sâu xa nhất của cõi lòng họ. Tôi cũng thân ái chào những ai trong các bạn chưa được lãnh nhận phép rửa, và những ai trong các bạn chưa biết Chúa Kitô hay chưa tìm thấy mái ấm nơi Giáo Hội của Người. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đặc biệt mời gọi các bạn hãy đến với cuộc gặp gỡ này; tôi cám ơn các bạn đã quyết định tới Cologne.

 

Một số các bạn có lẽ muốn diễn tả tuổi thanh thiếu niên của mình bằng những lời lẽ được Edith Stein, vị sau cùng đã sống trong đan viện Camêlô ở Cologne, đã nói về mình rằng: “Tôi đã ý thức và cố tình làm mất đi thói quen nguyện cầu”.

 

Trong những ngày này, các bạn một lần nữa lại có được cảm nghiệm nguyện cầu là cuộc đối thoại với Thiên Chúa, Vị Thiên Chúa chúng ta biết rằng là Đấng yêu thương chúng ta và là Đấng về phần mình chúng ta muốn kính mến. Tôi kêu gọi tất cả các bạn là: Hãy mở rộng lòng mình cho Thiên Chúa! Hãy để mình ngỡ ngàng trước Chúa Kitô! Hãy để Người có “quyền tự do ngôn luận” trong những ngày này! Hãy mở của tự do của mình cho tình yêu nhân hậu của Người! Hãy chia sẻ niềm vui và nỗi đau của các bạn với Chúa Kitô, và hãy để Người soi sáng lý trí của các bạn bằng ánh quang của Người và tác động tâm can của các bạn bằng ân sủng của Người. Trong những ngày diễm phúc chia sẻ và vui mừng này, chớ gì các bạn có được cảm nghiệm giải phóng về Giáo Hội như là nơi tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa vươn tới tất cả mọi dân tộc. Nơi Giáo Hội và nhờ Giáo Hội, các bạn sẽ gặp gỡ Chúa Kitô là Đấng đang đợi chờ các bạn.


(Bằng tiếng Pháp)

 

Hôm nay, khi đến Cologne để cùng với các bạn tham dự Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thú 20, tôi tự nhiên hết sức tri ân nhớ đến Người Tôi Tớ Thiên Chúa rất kính mến của tất cả chúng ta là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, vị đã được soi động để kêu gọi giới trẻ khắp thế giới cùng nhau cử hành Chúa Kitô, Đấng Cứu Chuộc duy nhất của nhân loại. Nhờ cuộc đối thoại sâu xa được khai triển trên 20 năm giữa vị Giáo Hoàng này và giới trẻ mà nhiều người trong họ đã có thể sống đức tin sâu xa của họ, đã hình thành những mối liên hệ hiệp thông, đã phát triển lòng yêu chuộng Tin Mừng cứu độ nơi Chúa Kitô và ước muốn loan báo tin mừng này khắp thế giới. Vị đại Giáo Hoàng này đã hiểu được những thách đố đối với giới trẻ ngày nay, và, như là một dấu hiệu chứng tỏ ngài tin tưởng nơi họ, ngài đã không ngần ngại thúc đẩy họ trở thành thành phần can đảm loan báo Phúc Âm và là những tay dũng cảm xây dựng nền văn minh chân thực, yêu thương và hòa bình.

 

Hôm nay đây, tới phiên tôi tiếp nối di sản thiêng liêng phi thường này là những gì đã được Giáo Hoàng Gioan Phaolô II truyền lại. Ngài đã yêu mến các bạn – các bạn đã nhận thấy thế và các bạn đã đáp lại tình yêu thương của ngài bằng tất cả lòng nhiệt thành trẻ trung của các bạn. Giờ đây tất cả chúng ta cùng nhau đem giáo huấn của ngài ra thực hành. Chính quyết tâm này đã mang chúng ta lại Cologne đây, như những người hành hương theo bước chân của các Nhà Đạo Sĩ.

 

Theo truyền thống, các tên gọi của những Nhà Đạo Sĩ bằng tiếng Hy Lạp là Melchior, Gaspar và Balthasar. Thánh Mathêu, trong Phúc Âm của mình, đã nói đến vấn đề bừng cháy trong tâm can của các Nhà Đạo Sĩ ấy: “Hài vương của người Do Thái hiện đang ở đâu?” (Mt 2:2). Chính vì để tìm kiếm Người mà họ đã thực hiện cuộc hành trình dài đến Giêrusalem. Đó là lý do tại sao họ bất chấp những khó khăn và hy sinh, không bao giờ chịu lùi bước trước thất vọng hay cám dỗ bỏ cuộc lui bước trở về cả. Bấy giờ họ đã gần tời đích điểm của họ, họ không còn đặt vấn đề gì khác ngoài câu hỏi ấy.

 

Cả chúng ta nữa đã đến Cologne vì trong lòng chúng ta cũng có cùng một vấn nạn khẩn trương đã thúc đẩy các Nhà Đạo Sĩ Đông Phương khởi hành cuộc lên đường của họ, cho dù vấn nạn này được thể hiện khác nhau. Thật sự là hôm nay đây chúng ta không còn tìm kiếm một vị vua, thế nhưng chúng ta quan tâm tới tình trạng thế giới và chúng ta đang hỏi rằng: “Tôi tìm thấy ở đâu những tiêu chuẩn để căn cứ vào đó mà sống, đâu là những qui tắc chi phối việc hợp tác hữu trách trong việc xây dựng hiện tại và tương lai của thế giới chúng ta đây? Tôi có thể cậy dựa vào ai đây? Tôi sẽ ký thác bản thân mình cho ai đây? Đâu là Đấng có thế cống hiến cho tôi đáp ứng có thể làm thỏa nguyện những khát vọng sâu xa nhất của tôi đây?”

 

Sự kiện chúng ta đặt những vấn nạn như thế có nghĩa là chúng ta nhận thấy cuộc hành trình của chúng ta chưa chấm dứt cho tới khi chúng ta gặp được Đấng có quyền năng thiết lập Vương Quốc công lý và an bình hoàn vũ là những gì tất cả mọi dân tộc đều mong ước nhưng họ không thể tự mình dựng xây. Việc đặt ra các vấn nạn ấy cũng có nghĩa là việc tìm kiếm Một Vị chẳng những không lừa bịp hay bị lừa bịp, nên là Đấng có thể cống hiến một niềm tin vững chắc đến nỗi chúng ta có thể sống cho niềm tin này, và nếu cần thậm chí chết cho niềm tin ấy nữa.


(Bằng tiếng Tây Ban Nha)

 

Các bạn thân mến, khi những vấn đề như thế xuất hiện ở chân trời của cuộc sống thì chúng ta phải làm sao để có thể thực hiện được những chọn lựa cần thiết. Chúng ta thấy mình giống như ở ngã ba đường: chúng tôi đi hướng nào đây? Hướng đi theo các đam mê hay hướng đi được ngôi sao dẫn lối chiếu soi trong lương tâm của các bạn? Các Nhà Đạo Sĩ đã nghe thấy câu trả lời là “Ở Bêlem xứ Giuđê; vì đó là nơi theo lời tiên tri” (Mt 2:5), và, được chỉ dẫn bởi các lời ấy, họ đã quyết định tiến lên cho tới cùng. Tuư Giêrusalem, họ đã đến Bêlem. Nói cách khác, họ đã đi từ lời tỏ cho họ thấy nơi để tìm được Vị Vua của dân Do Thái là Đấng họ đang kiếm tìm cho đến cùng, cho đến khi được hội ngộ với Vị Vua đồng thời là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian.

 

Những lời ấy cũng được nói với cả chúng ta nữa. Cả chúng ta cũng cần phải thực hiện một quyết định. Nếu chúng ta nghĩ về nó thì đó chính là cảm nghiệm của chúng ta khi chúng tat ham dự vào Thánh Thể. Vì nơi hết mọi Thánh Lễ, phụng vụ Lời Chúa dẫn chúng ta đến việc tham dự vào mầu nhiệm thập giá và phục sinh của Chúa Kitô, nhờ đó cũng dẫn chúng ta đến Bữa Tiệc Thánh Thể, đến việc hiệp nhất với Chúa Kitô. Hiện diện trên bàn thờ là Đấng các Nhà Đạo Sĩ đã thấy nằm trong máng cỏ. Chúa Kitô, Bánh hằng sống từ trời xuống là để ban sự sống cho thế gian, Con Chiên thực sự hiến sự sống mình vì phần rỗi của nhân loại. Được soi động bởi Lời Chúa, chính ở nơi Bêlem – “Nhà Bánh Ăn” - mà chúng ta luôn gặp gỡ sự cao cả khôn lường của một Vị Thiên Chúa hạ mình thậm chí ở trong máng cỏ, hiến mình làm lương thực trên bàn thờ.

 

Chúng ta có thể mường tượng thấy cái kinh sợ các Nhà Đạo Sĩ cảm thấy trước Con Trẻ được bọc trong khăn. Chỉ có đức tin mới khiến họ có thể nhận ra dung nhan của Con Trẻ Hài Vương là Đấng họ đang kiếm tìm, vị Thiên Chúa được ngôi sao dẫn họ tới gặp. Nơi Người, vượt qua vực thẳm giữa hữu hạn và vô hạn, giữa hữu hình và vô hình, Đấng Vĩnh Hằng đã đi vào thời gian, Mầu Nhiệm đã tỏ mình ra bằng việc trao phó mình cho chúng ta nơi thân thể mỏng dòn của một con trẻ nhỏ bé. “Các Nhà Đạo Sĩ đầy những kinh sợ trước những gì họ thấy; trời cao trên trái đất và trái đất trong trời cao; con người nơi Thiên Chúa và Thiên Chúa trong con người; họ thấy trong một xác thân bé bỏng Đấng toàn thế giới cũng không thể nào chứa chất” (St. Peter Chrysologus, Serm. 160, No. 2). Vào những ngày này, trong “Năm Thánh Thể” đây, chúng ta sẽ trở về, bằng cùng một niềm kính sợ này, với Chúa Kitô hiện diện trong Nhà Tạm xót thương, nơi Bí Tích Bàn Thờ.


(Bằng tiếng Ý)

 

Giới trẻ thân mến, hạnh phúc các bạn đang kiếm tìm, hạnh phúc các bạn có quyền được hoan hưởng có một danh dưng và một bộ mặt: đó là Giêsu Nazarét ẩn thân trong Thánh Thể. Chỉ có Người mới ban cho nhân loại trọn vẹn sự sống mà thôi! Cùng với Mẹ Maria, các bạn hãy thưa tiếng “xin vâng” của các bạn đối với Thiên Chúa, vì Ngài muốn hiến mình cho các bạn. Hôm nay đây tôi xin lập lại những gì tôi đã nói vào lúc mở màn cho giáo triều của tôi, đó là “Nếu chúng ta để cho Chúa Kitô tiến vào cuộc đời của chúng ta thì chúng ta không mất một sự gì, không mất một cái gì hết, tuyệt đối là không một sự gì từ cái làm cho đời sống tự do, kiều diễm và cao cả. Không! Chỉ có ở nơi mối thân hữu này các cánh cửa của sự sống mới rộng mở mà thôi. Chỉ ở nơi mối thân hữu này khả năng cao cả của việc con người hiện hữu mới thực sự tỏ hiện mà thôi. Chỉ ở nơi mối thân tình này chúng ta mới cảm thấy được vẻ đẹp và giải thoát mà thôi” (Homily at the Mass of Inauguration, April 24). Các bạn hãy hoàn toàn tin tưởng về điều ấy: Chúa Kitô không lấy đi một sự gì đẹp đẽ và cao cả từ các bạn hết, thế nhưng sẽ làm cho hết mọi sự nên hoàn hảo vì hiển vinh Thiên Chúa, cho hạnh phúc của con người nam nữ, và cho phần rỗi của thế giới.

 

Trong những ngày này, tôi xin các bạn hãy dấn thân dứt khoát để phụng sự Chúa Kitô, bất chấp giá phải trả. Việc gặp gỡ Chúa Kitô sẽ khiến cho các bạn có thể cảm nghiệm thấy nơi tâm can của các bạn niềm vui về sự hiện diện sống động và ban sự sống của Người, cũng như khiến cho các bạn có thể làm chứng về sự hiện diện này trước mặt những người khác. Các bạn hãy làm cho sự hiện diện của các bạn nơi thành phố này trở thành dấu hiệu đầu tiên và là việc loan báo Phúc Âm, qua chứng từ của hành động và niềm vui của các bạn. Chúng ta hãy nâng tâm hồn của mình lên thành một bài thánh ca chúc tụng và tạ ơn Chúa Cha về nhiều phúc lành Ngài đã ban cho chúng ta cũng như về tặng ân đức tin chúng ta sẽ cùng nhau cử hành, làm cho nó tỏ hiện trước thế giới từ mảnh đất tâm điểm của Âu Châu đây, một Âu Châu nặng nợ rất nhiều với Phúc Âm cũng như với các nhân chứng của Phúc Âm qua các thế kỷ.

 

(Bằng tiếng Đức)

 

Và giờ đây tôi sẽ đi đến Vương Cung Thánh Đường Cologne như một người hành hương, để tôn kính các hài tích của những Nhà Đạo Sĩ là những người đã bỏ lại mọi sự để theo ngôi sao dẫn lối cho họ tới với Đấng Cứu Thế của nhân loại. Giới trẻ thân mến, cả các bạn nữa, cũng đã có hay sẽ có cơ hội để thực hiện cuộc hành hương này. Những hài tích này chỉ là những dấu hiệu nghèo nàn và mỏng dòn của những gì những con người ấy là và những gì họ cảm nghiệm thấy rất nhiều thế kỷ trước đây.

 

Những hài tích này hướng chúng ta tới chính Thiên Chúa: chính Ngài là Đấng, bằng quyền năng ân sủng của Ngài, ban cho nhân loại yếu đuối lòng can đảm để làm chứng cho Ngài trước thế giới. Bằng việc mời gọi chúng ta hãy tôn kính những tử hài tích của các vị tử đạo và các thánh, Giáo Hội không quên là, cuối cùng, những tử hài tích này thực sự chỉ là những xương người, song chúng là các xương thuộc về những con người được quyền năng siêu việt của Thiên Chúa chạm đến. Những hài tích này của các thánh là những di dấu của một sự hiện diện vô hình nhưng thực sự làm sáng tỏ những bóng mờ của thế giới và tỏ hiện Nước Trời giữa chúng ta. Những hài tích ấy kêu lên với chúng ta và cho chúng ta rằng: “Maranatha!” – “Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến!” Các bạn thân mến, tôi nói những lời này để tạm biệt các bạn và tôi mời các bạn hãy đến với đêm canh thức Thứ Bảy. Lúc ấy tôi sẽ gặp các bạn!


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 18/8/2005

 

 TOP

 

ĐTC Biển Đức XVI tại Hội Đường Do Thái ngày 19/8/2005: “Ai gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô là gặp gỡ Do Thái giáo”

 

Cùng Quí Vị Nam Nữ,

Anh Chị Em thân mến!

 

“Shalom lechem!” Từ ngày được chọn làm Vị Thừa Kế Tông Đồ Phêrô, tôi hết sức mong muốn trong chuyến viếng thăm đầu tiên Đức quốc của mình được gặp gỡ cộng đồng Do Thái ở Cologne và các vị đại diện Do Thái giáo ở Đức. Bằng cuộc viếng thăm này, tâm trí tôi xin trở về với cuộc gặp gỡ xẩy ra ở Mainz ngày 17/11/1980, giữa vị tiền nhiệm khả kính của tôi là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, vị bấy giờ thực hiện chuyến viếng thăm Đức quốc lần đầu tiên, với các phần tử thuộc Tiểu Ban Do Thái ở Đức và với Hội Đồng Tôn Sư. Hôm nay đây nữa, tôi muốn tái khẳng định rằng tôi có ý muốn tiếp tục con đường hướng tới những mối liên hệ cải tiến cùng thân hữu với Nhân Dân Do Thái, theo những gì được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cương quyết dẫn đường mở lối (cf. "Address to the Delegation of the International Jewish Committee on Interreligious Consultations," June 9, 2005: "L'Osservatore Romano," June 10, 2005, p. 5).

 

Cộng đồng Do Thái ở Cologne có thể thực sự cảm thấy “tự nhiên như ở nhà” nơi thành phố này. Thật vậy, Cologne là địa điểm cổ nhất của một cộng đồng Do Thái trên mảnh đất của nước Đức, mãi thời các Thuộc Địa của Đế Quốc Rôma. Lịch sử liên hệ giữa cộng đồng Do Thái và Kitô hữu đã từng là những gì phức tạp và đau thương. Có những lúc cả hai sống với nhau một cách thuận hòa, nhưng cũng có vụ tẩy chay người Do Thái khỏi Cologne vào năm 1424. Rồi trong thế kỷ 20, vào giai đoạn đen tối nhất của lịch sử Đức quốc và Âu Châu, một ý hệ duy chủng bệnh hoạn xuất phát từ chủ nghĩa tân ngoại giáo, đã làm bùng lên một nỗ lực, được chế độ này âm mưu và tìm cách thực hiện để diệt chủng Do Thái Âu Châu.

 

Hậu quả đã đi vào lịch sử như là một thứ “Shoah”. Các nạn nhân của thứ tội ác không kể xiết và không thể tưởng tượng nổi trước đó lên tới 7 ngàn người được liệt danh ở Cologne mà thôi; con số thực sự chắc chắn là cao hơn nhiều. Vì không nhận biết sự thánh thiện của Thiên Chúa nên mới xẩy ra việc khinh miệt tính cách linh thánh của sự sống con người.

 

Năm nay đánh dấu 60 năm kỷ niệm việc giải tỏa các trại tập trung Nazi, là những địa điểm có cả triệu triệu người Do Thái, nam nhân, nữ giới và trẻ em, đã bị sát hại trong những phòng hơi và hỏa lò. Tôi xin sử dụng những lời được vị Tiền Nhiệm khả kính của tôi viết nhân dịp 60 năm giải tỏa trại Auschwitz để cả tôi nữa cũng nói rằng: “Tôi xin cúi đầu trước tất cả những ai đã trải qua việc bộc phát ‘mầu nhiệm tội lỗi’ này”.

 

“Những biến cố kinh hoàng vào thời ấy không bao giờ được thôi khơi dậy lương tri, thôi giải quyết những xung khắc, thôi thúc đẩy việc xây dựng hòa bình” (Message for the Liberation of Auschwitz," Jan. 15, 2005). Cùng nhau chúng ta cần phải nhớ rằng Thiên Chúa và dự án khôn ngoan của Ngài giành cho thế giới được Ngài tạo dựng. Như chúng ta đọc thấy trong Sách Khôn Ngoan thì Ngài là “vị yêu chuộng sự sống” (11:26).

 

Năm nay kỷ niệm 40 năm việc Công Đồng Chung Vaticanô II ban bố tuyên ngôn “Nostra Aetate”, một tuyên ngôn mở ra những viễn tượng mới đối với mối liên hệ giữa Do Thái và Kitô Hữu về vấn đề đối thoại và đoàn kết. Bản tuyên ngôn này, ở chương thứ 4, nhắc lại những gốc gác chung cũng như gia sản thiêng liêng hết sức phong phú mà cả người Do Thái lẫn Kitô hữu cùng nhau có được. Cả người Do Thái lẫn Kitô hữu đều nhìn nhận nơi Abraham là cha của mình trong đức tin (x Gal 3:7; Rm 4:11ff), và họ chú ý tới các giáo huấn của Moisen và các vị tiên tri. Linh đạo Do Thái, giống như bản sao Kitô giáo của nó, là những gì lấy được dưỡng chất từ các bài thánh vịnh. Với Thánh Phaolô, Kitô hữu tin rằng “các tặng ân và ơn gọi của Thiên Chúa là những gì bất khả vãn hồi” (Rm 11:29, cf. 9:6,11; 11:1ff.). Trong việc cứu xét các căn gốc Do Thái của Kitô giáo (x Rm 11:16-24), vị Tiền Nhiệm khả kính của tôi, khi trích một câu nói của các Vị Giám Mục Đức Quốc, đã khẳng định rằng: “ai gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô là gặp gỡ Do Thái giáo” ("Insegnamenti," vol. III/2, 1980, p. 1272).

 

Bản tuyên ngôn của công đồng “Nostra Aetate” bởi thế “lấy làm xót xa về những cảm giác hận thù, về những cuộc bách hại và về những việc tỏ ra bài Do Thái nhắm đến những người Do Thái ở bất cứ lúc nào và bởi bất cứ ai” (khoản số 4). Thiên Chúa đã tạo nên chúng ta tất cả “theo hình ảnh Ngài” (x Gen 1:27), bởi thế đã ban vinh dự cho chúng ta với một phẩm vị siêu việt. Trước nhan Thiên Chúa, tất cả mọi con người nam nữ đều có phẩm vị như nhau, bất cứ là quốc gia nào, văn hoa hay tôn giáo nào. Thế nên, tuyên ngôn “Nostra Aetate” cũng rất kính trọng nói về các người Hồi giáo (x khoản số 3) cũng như về các tín đồ thuộc các tôn giáo khác (x khoản số 2).

 

Trên căn bản phẩm vị con người chung của chúng ta, Giáo Hội Công giáo “lên án như là những gì không hợp với tinh thần của Chúa Kitô bất cứ loại kỳ thị nào giữa con người, hay việc phiền nhiễu họ, được thực hiện vì lý do chủng tộc hay mầu da, tầng lớp hay tôn giáo” (khoản 5). Giáo Hội ý thức được nhiệm vụ của mình trong việc truyền đạt giáo huấn ấy, nơi việc dạy giáo lý cũng như nơi hết mọi khía cạnh của đời sống Giáo Hội, cho các thế hệ trẻ là thành phần không chứng kiến thấy các biến cố kinh hoàng đã xẩy ra trước và trong Thế Chiến Thứ Hai. Đó là một công việc đặc biệt quan trọng, vì ngày nay, tiếc thay, chúng ta đang chứng kiến thấy việc nổi lên những dấu hiệu mới của vấn đề bài Do Thái cùng với các hình thức khác của một thứ thù hằn chung đối với thành phần ngoại quốc. Làm sao chúng ta lại không thấy được nơi tình trạng này lý do để quan tâm và cảnh giác chứ? Giáo Hội Công Giáo quyết tâm thực hiện – hôm nay đây tôi xin lập lại rằng – việc khoan dung, tôn trọng, thân tình và bình an giữa tất cả mọi dân tộc, văn hóa và tôn giáo.

 

Trong 40 năm qua kể từ Bản Tuyên Ngôn công đồng “Nostra Aetate”, đã có nhiều tiến bộ được thực hiện, ở Đức cũng như trên khắp thế giới, hướng đến những mối liên hệ tốt đẹp hơn và gần gữi hơn giữa người Do Thái và Kitô hữu. Song song với những mối liên hệ chính thức, nhất là vì việc hợp tác giữa những chuyên viên về các khoa học thánh kinh, đã phát xuất ra nhiều mối thân tình. Về vấn đề này, tôi xin đề cập tới những bản tuyên ngôn khác nhau của Hội Đồng Giám Mục Đức, và hoạt động bác ái được thực hiện bởi “Hội Hợp Tác Do Thái Kitô Hữu ở Cologne”, mợt hoạt động từ năm 1945 đã khiến cho cộng đồng Do Thái có thế cảm thấy một lần nữa “tự nhiên như ở nhà” tại Cologne này đây, và thiết lập những mối liên hệ tốt đẹp với các cộng đồng Kitô hữu. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều việc cần phải làm.

 

Chúng ta cần phải tiến đến chỗ biết nhau nhiều hơn và khá hơn nữa. Bởi thế mà tôi xin khuyến khích thực hiện một cuộc đối thoại chân thành và tin tưởng giữa người Do Thái và Kitô hữu, vì chỉ nhớ thế mới có thể tiến đến chỗ cùng giải quyết những vấn đề lịch sử được trang cãi, nhất là mới thực hiện được mức tiến bộ đối với cuộc thẩm định về thần học đối với mối liên hệ giữa Do Thái giáo và Kitô giáo. Cuộc đối thoại này, nếu chân thành, không được bưng bít hay coi nhẹ những khác biệt vốn có: nơi những lãnh vực mà, theo những niềm xác tín sâu xa của chúng ta trong đức tin, chúng ta đã tách lìa nhau, và thực sự cũng chính vì ở những lãnh vực ấy mà chúng ta cần phải tỏ ra tôn trọng lẫn nhau.

 

Sau hết, ánh mắt của chúng ta không chỉ hướng về quá khứ mà còn phải hướng đến những việc làm đang đợi chờ chúng ta hôm nay và mai ngày. Gia sản chung phong phú của chúng ta cũng như các mối liên hệ huynh đệ và tin tưởng nhau hơn của chúng ta kêu gọi chúng ta hãy cùng nhau cống hiến một chứng từ hòa hợp hơn nữa, và cùng nhau hoạt động ở lãnh vực thực tiễn, đối với việc bênh vực và cổ võ các thứ nhân quyền cùng tính cách linh thánh của sự sống con người, đối với các giá trị về gia đình, đối với vấn đề công bằng xã hội, và đối với nền hòa bình trên thế giới. Bản Thập Điều (x Ex 20, Deut 5) đối với chúng ta là một di sản và là một cuộc dấn thân chung. Mười Giới Răn không phải là một gánh nặng mà là một dấu đường chỉ cho thấy lối đi đến một cuộc sống thành đạt. Điều này đặc biệt thích hợp với giới trẻ là thành phần tôi đang gặp gỡ trong các ngày này và là thành phần rất thân thương đối với tôi. Tôi ước mong là họ có thể nhận thấy nơi Bản Thập Giới một ngọn đèn soi bước chân của họ, một ánh sáng soi đường họ đi (x Ps 119:105).

 

Thành phần người lớn có trách nhiệm truyền lại cho giới trẻ ngọn đuốc hy vọng được Thiên Chúa trao cho người Do Thái cũng như Kitô hữu, nhờ đó, “không bao giờ còn tái diễn” những quyền lực sự dữ lộng hành, và các thế hệ tương lai, nhờ ơn Chúa giúp, có thể xây dựng một thế giới chân chính và an bình hơn, một thế giới tất cả mọi dân tộc đều có quyền như nhau và coi như nhà của mình giống nhau.

 

Tôi xin kết thúc với những lời của bài Thánh Vịnh 92, những lời Thánh Vịnh bày tỏ cả ước vọng lẫn nguyện cầu: “Xin Chúa ban sức mạnh cho dân Ngài, xin Ngài ban phúc an bình cho dân Ngài”. Xin Ngài nhậm lời nguyện cầu của chúng ta!


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 19/8/2005

 

 

TOP

 

 

ĐTC Biển Đức với Các Chủng Sinh tham dự Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX hôm 19/8/2005: “Người chủng sinh cảm nghiệm thấy vẻ đẹp của ơn gọi vào giây phút ân sủng là giây phút có thể được cho là ‘phải lòng’


(Bằng tiếng Đức)

 

Các chủng sinh thân mến,

 

Tôi hết sức cảm mến chào tất cả các bạn và cám ơn về việc các bạn chào đón tôi, nhất là việc các bạn đến với cuộc gặp gỡ này từ rất nhiều quốc gia trên khắp thế giới. Tôi đặc biệt chân thành cám ơn chủng sinh, linh mục và giám mục đã cống hiến cho chúng ta chứng từ bản thân của mình. Tôi rất hân hoan được dịp ở với các bạn.

 

Tôi đã yêu cầu là chương trình của những ngày này ở Cologne cần phải bao gồm cả một cuộc gặp gỡ đặc biệt với các chủng sinh trẻ, để chiều kích ơn gọi, một chiều bao giờ cũng là một phần của Ngày Giới Trẻ Thế Giới, càng trở nên hiển nhiên rõ ràng và mãnh liệt hơn. Dĩ nhiên là các bạn đang dự vào cảm nghiệm này theo cách thế riêng của mình, vì các bạn là những chủng sinh, tức các bạn là thành phần giới trẻ đã giành giai đoạn hăng say của cuộc đời mình vào việc tìm kiếm Chúa Kitô và giành thời gian sống với Người để sửa soạn cho sứ vụ quan trọng của các bạn trong Giáo Hội.

 

Đó là những gì cho một chủng viện: Không phải là một nơi chốn cho bằng là một thời gian quan trọng trong đời sống của một người theo Chúa Giêsu. Tôi có thể tưởng tượng ra việc anh em có liên hệ tới đề tài của Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 20 này ra sao – “Chúng tôi đã đến để triều bái Người” (Mt 2:2) – cũng như tới tất cả đoạn Phúc Âm trình thuật về các Nhà Đạo Sĩ chất chứa đề tài ấy. Đoạn này có một ý nghĩa đặc biệt đối với các bạn, nhất là vì các bạn đang dính dáng đến việc nhận thức và khẳng định ơn gọi làm linh mục của mình. Vậy chúng ta hãy lắng đọng và suy nghĩ về đề tài ấy.

 
(Bằng tiếng Pháp)

 

Tại sao các Nhà Đạo Sĩ từ xa lên đường đến Bêlem? Câu trả lời có liên hệ tới mầu nhiệm “ngôi sao” được họ thấy “ở Phương Đông” và là ngôi sao họ nhìn nhận là ngôi sao của “Vua dân Do Thái”, tức là dấu chỉ hạ sinh của Đấng Thiên Sai (x Mt 2:2). Bởi vậy cuộc hành trình của họ đã được thúc đẩy bởi một niềm hy vọng mãnh liệt, một niềm hy vọng được ngôi sao này củng cố và hướng dẫn, ngôi sao dẫn họ đến với Vị Vua của dân Do Thái, tới vương quyền của chính Thiên Chúa. Các Nhà Đạo Sĩ lên đường vì ước vọng sâu xa thúc đẩy họ lìa bỏ mọi sự và bắt đầu cuộc hành trình. Hình như họ đã từng đợi chờ ngôi sao ấy. Hình như cuộc hành trình này lúc nào cũng là một phần nơi số phận của họ, và cuối cùng sắp sửa bắt đầu.

 

Các bạn thân mến, đó là mầu nhiệm của lời Chúa kêu gọi, mầu nhiệm của ơn kêu gọi. Nó là một phần trong cuộc sống của hết mọi Kitô hữu, thế nhưng nó đặc biệt hiển nhiên nơi những ai được Chúa Kitô xin hãy bỏ hết mọi sự mà theo Người khít khao hơn. Người chủng sinh cảm nghiệm thấy vẻ đẹp của ơn gọi ấy vào giây phút ân sủng là giây phút có thể được gọi là  “phải lòng”. Linh hồn họ cảm thấy đầy những ngỡ ngàng bàng hoàng khiến họ đặt vấn đề khi cầu nguyện là: “Chúa ơi, tại sao lại là con nhỉ?” Thế nhưng tình yêu không hế biết đến vấn đề “tại sao”; nó là một tặng ân nhưng không mà con người đáp lại bằng việc hy hiến bản thân mình.

(Bằng tiếng Anh)

 

Những năm sống trong chủng viện là để được đào luyện và nhận thức. Việc đào luyện, như các bạn quá rõ, có những chiều kích đồng qui ở mối hiệp nhất con người: Nó bao gồm những chiều kích nhân bản, thiêng liêng và văn hóa. Mục tiêu sâu xa nhất của nó là mang người học sinh đến chỗ hiểu biết sâu xa về Thiên Chúa là Đấng đã tỏ dung nhan của Ngài ra nơi Chúa Giêsu Kitô. Bởi thế cần phải sâu xa học hỏi Thánh Kinh cũng như học hỏi về đức tin và đời sống của Giáo Hội là nơi Thánh Kinh cư ngụ như là Lời sự sống. Tất cả những điều ấy cần phải liên hệ với những vấn đề được trí khôn của chúng ta đặt ra cũng như với môi trường bao rộng hơn của cuộc sống tân tiến. Việc học hỏi như thế có lúc dường như gay go, song nó là một phần bất khả châm chước của việc chúng ta gặp gỡ Chúa Kitô cũng như của việc chúng ta được ơn gọi để loan báo về Người.

 

Tất cả những điều ấy là để nhắm đến việc hình thành một nhân cách vững vàng và quân bình, một nhân cách có khả năng mau mắn lãnh nhận và hữu trách làm trọn sứ vụ linh mục. Vai trò của thành phần huấn luyện viên là một vai trò quan trọng: Phẩm chất của linh mục nơi một Giáo Hội riêng phần lớn lệ thuộc vào phẩm chất của chủng viện, bởi thế, lệ thuộc vào phẩm chất của những ai có trách nhiệm đối với việc đào luyện.

 

Các chủng sinh thân mến, chính vì lý do này mà chúng ta hôm nay với lòng tri ân chân thành nguyện cầu cho các vị bề trên của các bạn, các vị giáo sư và các nhà giáo dục, thành phần hiện diện ở buổi họp này trong tinh thần. Chúng ta hãy xin Chúa giúp họ thi hành tốt đẹp bao nhiêu có thể công việc quan trọng được trao phó cho họ.

 

Những năm chủng viện là một thời gian hành trình, một thời gian thăm dò, nhất là một thời gian khám phá ra Chúa Kitô. Chỉ khi nào một con người trẻ có được một cảm nghiệm riêng tư về Chúa Kitô họ mới có thể thực sự hiểu được ý của Chúa và nhờ đó hiểu được ơn gọi của mình. Các bạn càng biết Chúa Giêsu thì mầu nhiệm của Người càng thu hút các bạn. Các bạn càng khám phá ra Người các bạn càng được thúc đẩy tìm kiếm Người. Đó là một biến động của một tinh thần kéo dài suốt cuộc đời của các bạn, và là tinh thần làm cho chủng viện trở thành một thời gian đầy hứa hẹn, một “mùa xuân” thực sự vậy.

(Bằng tiếng Ý)

 

Khi các Nhà Đạo Sĩ đến Bêlem, “tiến vào nhà họ thấy con trẻ với Maria mẹ của Người, thì họ phục xuống tôn thờ Người” (Mt 2:11). Cuối cùng thì đây là giây phút hằng mong đợi – đó là việc họ gặp gỡ Chúa Giêsu. “Tiến vào nhà”: ngôi nhà này ở một nghĩa nào đó là tiêu biểu cho Giáo Hội. Để tìm kiếm Đấng Cứu Thế, người ta phải tiến vào nhà đó là Giáo Hội. Trong thời gian ở chủng viện, một tiến trình quan trọng đặc biệt của việc trưởng thành diễn tiến nơi tâm thức của người chủng sinh trẻ: họ không còn thấy Giáo Hội “từ bên ngoài” nữa, mà thực sự là “từ bên trong”, và họ cảm thấy rằng Giáo Hội là “nhà” của họ, vì Giáo Hội là nhà của Chúa Kitô, nơi “Maria Mẹ Người cư trú.

 

Chính Mẹ Maria tỏ cho họ thấy Chúa Giêsu Con của Mẹ; Mẹ dẫn họ tới, và ở một nghĩa nào đó Mẹ cho họ có thể thấy cùng chạm đến Chúa Giêsu, rồi ẵm lấy Người trong tay của họ. Mẹ Maria dạy người chủng sinh ấy chiêm ngưỡng Chúa Giêsu bằng con mắt của cõi lòng và làm cho Chúa Giêsu thành chính sự sống của họ. Mỗi giây phút của cuộc đời chủng viện có thể trở thành dịp cho cái cảm nghiệm yêu thương về sự hiện diện của Đức Mẹ, vị dẫn mọi người đến gặp gỡ Chúa Kitô trong thinh lặng của việc niệm suy, của nguyện cầu và tình huynh đệ. Mẹ Maria giúp chúng ta gặp gỡ Chúa trước hết ở nơi việc cử hành Thánh Thể là lúc, qua Lời Chúa và Tấm Bánh được thánh hiến, Người trở nên dưỡng chất thiêng liêng hằng ngày của chúng ta.

(Bằng tiếng Tây Ban Nha)

 

“Họ phục xuống tôn thờ Người… rồi dâng hiến Người các lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược” (Mt 2:11-12). Đây là tột đỉnh của tất cả cuộc hành trình: đó là việc gặp gỡ trở thành việc tôn thờ; nó nở ra thành một tác động đức tin và yêu mến đó là việc nhận biết nơi Chúa Giêsu được hạ sinh bởi Đức Maria Con Thiên Chúa làm người. Làm sao chúng ta không thấy được cử chỉ này của các Nhà Đạo Sĩ tiền thân của đức tin của Simon Phêrô cũng như của các Tông Đồ khác, đức tin của Phaolô cũng như của tất cả mọi vị thánh, nhất là của nhiều chủng sinh và linh mục thánh đức là thành phần đã làm vẻ vang hai ngàn năm lịch sử Giáo Hội chứ?

 

Cái bí mật của thánh đức đó là mối thân tình với Chúa Kitô và trung thành tuân phục ý muốn của Người. Thánh Ambrôsiô đã nói: “Chúa Kitô là tất cả đối với chúng ta”; và Thánh Biển Đức đã cảnh giác việc coi bất cứ sự gì hơn tình yêu Chúa Kitô. Chớ gì Chúa Kitô là tất cả mọi sự cho các bạn. Các chủng sinh thân mến, các bạn hãy là những người đầu tiên hiến dâng lên Người những gì cao quí nhất đối với các bạn, như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nêu lên trong sứ điệp ngài viết cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới này: đó là thứ vàng tự do của các bạn, nhũ hương thiết tha nguyện cầu của các bạn, mộc dược cảm tình sâu xa nhất của các bạn (x khoản số 4).

(Bằng tiếng Đức)

 

Những năm chủng viện là một thời gian sửa soạn cho sứ vụ. Các Nhà Đạo Sĩ “lên đường trở về xứ sở của mình” và nhất định làm chứng cho việc họ gặp gỡ Vị Vua của dân Do Thái. Các bbạn cũng thế, sau chương trình lâu dài và cần thiết của việc đào luyện ở chủng viện, sẽ được sai đi như các thừa tác viên của Chúa Kitô; thật vậy, mỗi một người trong các bạn sẽ trở về như là một “Chúa Kitô khác”. Ở cuộc hành trình hồi hương của mình, các Nhà Đạo Sĩ chắc chắn phải đương đầu với các hiểm nguy, nhọc mệt, lạc hướng, ngờ vực… Ngôi sao không còn nữa để hướng lộ cho họ! Ánh sáng bấy giờ ở trong họ. Công việc của họ đó là canh giữ và nuôi dưỡng nó bằng một ký ức liên lỉ về Chúa Kitô, về Dung Nhan Thánh của Người, về Tình Yêu bất khả phai nhòa của Người.

 

Các chủng sinh thân mến! Một ngày kia, nếu Chúa muốn, bằng việc thánh hiến của Thánh Linh, các bạn cũng sẽ bắt đầu sứ vụ của các bạn. Hãy luôn nhớ những lời của Chúa Giêsu: “Các con hãy ở trong Thày” (Jn 15:9). Nếu các bạn ở trong Chúa Kitô, các bạn sẽ sinh nhiều hoa trái. Các bạn đã không chọn Người mà là Người đã chọn các bạn (x Jn 15:16). Đó là cái bí mật ơn gọi của các bạn và sứ vụ của các bạn! Bí mật này được giữ trong Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, Đấng canh chừng mỗi một người trong các bạn bằng tình yêu thương từ mẫu. Các bạn hãy chạy đến với Mẹ một cách thường xuyên và với lòng tin tưởng. Các bạn hãy an tâm, tôi quí mến và nguyện cầu cho các bạn hằng ngày. Và tôi ưu ái chúc lành cho tất cả các bạn.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 19/8/2005

 

 TOP

 

 

ĐTC Biển Đức XVI với Chư Vị Đại Diện Các Giáo Phái Tin Lành Đức Quốc 19/8/2005: “Không thể nào có vấn đề đối thoại bất chấp sự thật; đối thoại cần phải tiến triển trong bác ái và trong chân lý” 

 

 

Anh Chị Em thân mến trong Chúa Kitô, Vị Chúa chung của chúng ta!

 

Tôi hân hoan được gặp gỡ anh chị em, những vị đại diện các Giáo Hội và Cộng Đồng giáo hội khác trong chuyến viếng thăm Đức quốc của tôi. Tôi hết sức thân ái chào toàn thể anh chị em!

 

Là người bản xứ của đất nước này, tôi quá biết về tình trạng đau thương gây ra bởi cuộc đổ vỡ mối hiệp nhất trong việc tuyên xưng đức tin đối với rất nhiều cá nhân và gia đình. Đó là một trong những lý do tại sao, ngay sau khi được bầu làm Giám Mục Rôma, tôi đã tuyên bố, với tư cách là Vị Thừa Kế Tông Đồ Phêrô, rằng ưu tiên của Giáo Triều tôi đó là việc tôi mạnh mẽ quyết tâm phục hồi mối hiệp nhất Kitô giáo một cách trọn vẹn và hữu hình. Để làm như thế, tôi thực sự muốn theo bước chân của hai vị đại Tiền Nhiệm của tôi: đó là Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, vị 40 năm trước đây đã ký sắc lệnh công đồng về vấn đề đại kết “Unitatis Redintegratio”, và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, vị đã làm cho văn kiện này trở thành nguồn hứng khởi cho hoạt động của ngài.

 

Trong cuộc đối thoại đại kết, Đức quốc giữ một vị thế đặc biệt quan trọng. Chẳng những nó là nơi xuất phát ra cuộc Cải Cách; nó còn là một trong những xứ sở mà phong trào đại kết từ thế kỷ 20 bắt nguồn. Với những làn sóng liên tục di dân trong thế kỷ vừa qua, các Kitô hữu thuộc Chư Giáo Hội Chính Thống cũng như các Giáo Hội cổ thời Đông Phương cũng đã lấy đất nước này làm quê hương mới của họ. Sự kiện này chắc chắn thuận lợi cho việc liên hệ và trao đổi nhiều hơn nữa. Cùng nhau chúng ta có thể hân hoan ở sự kiện là cuộc đối thoại đại kết, qua giòng thời gian, đã mang lại một cảm quan mới về tình huynh đệ và đã tạo nên một bầu khí cởi mở hơn cùng tin tưởng hơn giữa thành phần các Kitô hữu thuộc các Giáo Hội cũng như Cộng Đồng giáo hội khác nhau. Vị Tiền Nhiệm khả kính của tôi, trong thông điệp của ngài là “Ut Unum Sint” (1995) đã thấy được điều này như là một hoa trái đặc biệt đáng kể của việc đối thoại (x các khoản số 41ff; 64).

 

Trong thành phần Kitô hữu, tình huynh đệ không phải chỉ là một cảm tình mông lung mơ hồ, cũng không phải là một dấu hiệu tỏ ra dửng dưng trước sự thật. Nó được căn cứ vào thực tại siêu nhiên của một phép rửa duy nhất là những gì làm cho chúng ta trở thành phần tử của Thân Mình Chúa Kitô duy nhất (x 1Cor 12:13; Gal 3:28; Col 2:12). Cùng nhau chúng ta tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa và là Chúa; cùng nhau chúng ta nhận biết Người là Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người (x 1Tim 2:5), và chúng ta nhấn mạnh rằng cùng nhau chúng ta là phần tử của Thân Thể Người (cf. "Unitatis Redintegratio," 22; "Ut Unum Sint," 42). Từ căn bản chung này việc đối thoại đã sinh hoa kết trái. Tôi xin đề cập tới việc tái kiểm điểm về vấn đề luận án nhau, một việc được Đức Gioan Phaolô II kêu gọi thực hiện trong chuyến viếng thăm Đức quốc lần đầu tiên vào năm 1980, và nhất là tới “Bản Tuyên Ngôn Chung về Tín Lý Công Chính Hóa” (1999), một bản tuyên ngôn đã xuất phát từ việc tái kiểm điểm này để rồi dẫn tới việc đồng thuận về những vấn đề căn bản đã từng là đề tài tranh luận từ thế kỷ 16.

 

Chúng ta cũng cần phải tri ân nhìn nhận các thứ thành quả của việc chúng ta cùng tranh đấu cho những vấn đề quan trọng như các vấn đề nồng cốt liên quan tới việc bênh vực sự sống cũng như việc cổ võ công lý và hòa bình. Tôi quá biết rằng nhiều Kitô hữu ở xứ sở này, không phải chỉ ở xứ sở này mà thôi, mong thấy được những bước tiến cụ thể hơn nữa để mang chúng ta lại gần nhau hơn. Chính bản thân tôi cũng có cùng một nỗi mong đợi như thế. Đó là lệnh truyền của Chúa Kitô, song cũng là trách nhiệm của thời điểm hiện nay, trong việc thực hiện vấn đề đối thoại, một cách tin tưởng, ở tất cả mọi tầm cấp sinh hoạt của Giáo Hội. Điều này hiển nhiên là cần phải diễn ra một cách chân tình và thực tiễn, một cách nhẫn nại và kiên trì, hoàn toàn trung thành với những đòi hỏi của lương tâm con người. Không thể nào có vấn đề đối thoại bất chấp sự thật; đối thoại cần phải tiến triển trong bác ái và trong chân lý.

 

Ở đây tôi không có ý vạch ra một chương trình cho những đề tài trực tiếp liên quan tới vấn đề đối thoại - công việc này thuộc về các thần học gia làm việc bên cạnh các vị giám mục. Tôi chỉ muốn nhận định rằng: các vấn đề về Giáo Hội học, nhất là vấn đề thừa tác vụ thánh hay thiên chức linh mục, là những gì liên kết bất khả phân ly với vấn đề về mối liên hệ giữa Thánh Kinh và Giáo Hội, tức là việc giải thích xác thực Lời Chúa cùng với việc phát triển của việc giải thích này trong đời sống của Giáo Hội.

 

Ở đây tôi không có ý vạch ra một chương trình cho những đề tài trực tiếp liên quan tới vấn đề đối thoại - công việc này thuộc về các thần học gia làm việc bên cạnh các vị giám mục: các thần học gia, theo kiến thức của họ về vấn đề; các vị giám mục, theo kiến thức của các vị về tình hình cụ thể trong Giáo Hội ở xứ sở chúng ta cũng như trên thế giới.

Xin cho tôi được nêu lên một nhận định nhỏ: giờ đây vấn đề được cho là sau việc làm sáng tỏ tín lý về việc công chính hóa thì việc soạn thảo kỹ lưỡng về các vấn đề giáo hội học cùng những vấn đề liên quan đến thừa tác vụ vẫn là những trổ ngại chính cần phải được thắng vượt. Tóm lại thì đúng như thế, nhưng tôi cũng cần phải nói rằng tôi không thích kiểu dùng chữ này, một thuật dụng ngữ, theo một quan điểm nào đó đã phân định vấn đề ấy, vì nó như thể giờ đây chúng ta cần phải tranh luận về các thứ cơ chế thay vì Lời Chúa, như thể chúng ta cần phải đặt trọng tâm vào các thứ cơ chế của chúng ta và phải tranh đấu cho các cơ chế ấy. Tôi nghĩ rằng như thế thì vấn đề giáo hội học cũng như vấn đề ‘thừa tác vụ’ không được hành sử một cách đúng đắn.

Vấn đề thực sự này là vấn đề hiện diện của Lời Chúa trên thế giới đây. Trong thế kỷ thứ hai, Giáo Hội sơ khai thực sự đã thực hiện một quyết định tam diện: thứ nhất, thiết lập một sổ bộ, nhờ đó nhấn mạnh đến tính chất chủ trị của Lời Chúa và giải thích rằng không phải chỉ có Cựu Ước mới là ‘hai graphai’ mà cùng với Tân Ước kiến tạo nên một Thánh Kinh duy nhất là những gì, bởi thế, đối với chúng ta là cuốn sách chính yếu.

Tuy nhiên, Giáo Hội đồng thời cũng hình thành việc tông truyền, tức thừa tác vụ của hàng giáo phẩm, với ý thức là Lời Chúa và chứng nhân đi liền với nhau; tức là, Lời Chúa sống động và hiện diện có thể nói chỉ nhờ có chứng nhân, và nhận lãnh từ chứng nhân ấy lời dẫn giải về mình. Tuy nhiên, chứng nhân chỉ có thể gây tác dụng như vậy nếu họ làm chứng cho Lời Chúa.

Nhận định thứ ba cũng là nhận định cuối cùng, đó là Giáo Hội đã thêm đến qui luật đức tin ‘regula fidei” như là cái then chốt trong việc giải thích Lời Chúa nữa. Tôi tin rằng việc cùng thấu nhập Lời Chúa một cách hỗ tương này đã trở thành đối tượng bất hòa giữa chúng ta, cho dù chúng ta chắc chắn liên kết về những điều nống cốt.

Bởi thế, khi chúng ta nói về giáo hội học và về thừa tác vụ tốt nhất chúng ta cần phải bao gồm Lời Chúa, chứng từ và qui luật đức tin, và coi cái bao gồm này như là vấn đề về giáo hội học, và bởi thế như là vấn đề về Lời Chúa, về chủ quyền cùng sự khiêm nhượng của Người, vì Chúa đã ký thác Lời của Người, cùng trao nhượng việc cắt nghĩa Lời Người, cho các chứng nhân, thành phần dù sao bao giờ cũng phải tương xứng với ‘qui luật đức tin - regula fidei’ cũng như với tính cách nguyên tuyền của Lời Chúa. Xin tha lỗi cho tôi nếu tôi đã bày tỏ ý nghĩ riêng tư; tôi cho rằng cần phải làm như thế.

 

Một ưu tiên khẩn thiết khác trong vấn đề đối thoại đại kết được xuất phát từ những vấn đề đạo đức học lớn lao của thời đại chúng ta; về lãnh vực này, việc nghiên cứu mới mẻ đã có lý để mong đợi việc đáp ứng chung từ phía các Kitô hữu, thành phần mà, tạ ơn Chúa, thường tỏ ra sẵn sàng. Thế nhưng, than ôi, không phải bao giờ cũng xẩy ra như thế. Vì những chủ trương tương khắc trong các lãnh vực này mà việc làm chứng của chúng ta cho Phúc Âm cũng như việc hướng dẫn về đạo lý chúng ta mắc nợ với tín hữu cũng như với xã hội đã mất đi ảnh hưởng của chúng và thường trở thành quá ư là mơ hồ, kết quả là chúng ta không thể cống hiến chứng từ cần thiết cho thời đại của chuúg ta. Những việc chia rẽ của chúng ta là những gì phản lại với ý muốn của Chúa Giêsu và chúng làm cho thành phần đương thời của chúng ta thất vọng về các điều họ trông mong.

 

Việc phục hồi mối hiệp nhất cho tất cả mọi Kitô hữu nghĩa là gì? Giáo Hội Công Giáo đã lấy làm mục đích của mình là việc các môn đệ của Chúa Kitô hiệp nhất với nhau một cách trọn vẹn hữu hình, như được Công Đồng Chung Vaticanô II xác định ở những văn kiện khác nhau của công đồng này (cf. "Lumen Gentium," 8, 13; "Unitatis Redintegratio," 2, 4, etc.). Chúng tôi tin tưởng rằng mối hiệp nhất này vẫn tiếp tục tồn tại nơi Giáo Hội Công Giáo, không phải là không có thể bị mất đi (cf. "Unitatis Redintegratio," 4). Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là đồng nhất nơi tất cả mọi thứ diễn đạt về thần học và tu đức, nơi những hình thức về phụng vụ cũng như nơi kỷ luật.

 

Hiệp nhất trong đa dạng và đa dạng trong hiệp nhất: trong bài giảng cho Lễ Trọng Kính Hai Thánh Phêrô và Phaolô ngày 29/6 vừa rồi, tôi đã nhấn mạnh rằng mối hiệp nhất trọn vẹn và công giáo tính trọn vẹn là những gì đi đôi với nhau. Là một điều kiện cần thiết cho việc đạt chiếm lấy tình trạng cùng chung sống này, vấn đề dấn thân cho mối hiệp nhất cần phải được liên lỉ thanh tẩy và đổi mới; nó cần phải liên lỉ phát triển và trưởng thành. Để đạt được mục đích ấy, việc đối thoại đã đóng góp phần của mình. Nó không phải là một thứ trao đổi tư tưởng, nó là một thứ trao đổi về các tặng ân (cf. "Ut Unum Sint," 28), một thứ trao đổi được các Giáo Hội cũng như các Cộng Đồng giáo hội cống hiến những thứ phong phú dồi dào của mình (cf. "Lumen Gentium," 8, 15; "Unitatis Redintegratio," 3, 14ff; "Ut Unum Sint, 10-14).

 

Là thành quả của việc dấn thân này, cuộc hành trình ấy có thể từng bước tiến lên theo con đường trọn vẹn hiệp nhất, khi mà cuối cùng chúng ta tất cả sẽ “đạt tới mối hiệp nhất đức tin và nhận biết Con Thiên Chúa, tới thân phận làm người trưởng thành, tới tầm vóc viên trọn của Chúa Kitô” (Eph 4:13). Hiển nhiên là, cuối cùng, cuộc đối thoại ấy có thể phát triển chỉ trong môi trường của thứ linh đạo chân tình và dấn thân. Chúng ta không thể “làm phát sinh ra” mối hiệp nhất bằng quyền năng của chúng ta mà thôi. Chúng ta chỉ có thể đạt được mối hiệp nhất như là một tặng ân của Thánh Linh. Do đó, vấn đề đại kết thiêng liêng – như việc nguyện cầu, việc cải hối và việc thánh hóa đời sống – làm nên tâm điểm của phong trào đại kết (cf. "Unitatis Redintegratio," 8; "Ut Unum Sint," 15ff., 21, etc.). Có thể nói rằng hình thức hay nhất của vấn đề đại kết là ở chỗ sống theo Phúc Âm.

 

Tôi thấy có lý do để mà lạc quan ở sự kiện là ngày nay có một thứ “liên kết” về các mối liên hệ thiêng liêng đang phát triển giữa những người Công giáo với các người Kitô giáo thuộc chư Giáo Hội và các Cộng Đồng giáo hội khác: ở chỗ, mỗi người dấn thân cầu nguyện, kiểm điểm đời sống của mình, thanh tẩy ký ức, cởi mở bác ái. Ông tổ của vấn đề đại kết thiêng liêng là Paul Couturier, về vấn đề này, đã nói đến một “thứ nội vi tu viện vô hình” là nơi hiệp nhất trong các bức tường của nó các linh hồn cháy lửa mến yêu Chúa Kitô cùng Giáo Hội của Người.

 

Tôi tin rằng nếu càng nhiều người liên kết mình với lời nguyện cầu của Chúa là “xin cho tất cả được hiệp nhất nên một” (Jn 17:21), thì kinh nguyện này, một kinh nguyện được dâng lên nhân danh Chúa Giêsu, sẽ không bị vô vọng (cf. John 14:13; 15:7, 16, etc.). Với ơn trợ giúp từ trời, chúng ta cũng sẽ tìm thấy những giải pháp cụ thể cho những vấn đề khác nhau vẫn còn chưa giải quyết, để rồi cuối cùng niềm mong ước hiệp nhất của chúng ta sẽ được mãn nguyện, bất cứ khi nào và cách Chúa muốn. Tôi kêu gọi tất cả anh chị em hãy cùng tôi tiến bước theo con đường này.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 19+26/8/2005

 

Trong hai bản văn về bài ĐTC Biển Đức XVI ngỏ cùng thành phần anh chị em Tin Lành Đức Quốc dịp Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX trên đây được mạng điện toán toàn cầu Zenit phổ biến hôm 19/8/2005 và sau đó phổ biến lại vào ngày 26/8/2005, có những chỗ vừa dư  (in nghiêng) vừa thiếu  (in đậm). Cuối mỗi bài đều có những hàng chữ [Translation of German original issued by the Vatican press office] hay [Translation of German original by the Vatican press office], tức “bài chuyển dịch từ nguyên Đức ngữ của văn phòng báo chí Tòa Thánh Vatican”. Tuy nhiên, đọc bài được phổ biến lần thứ hai, người dịch bản Việt ngữ của thoidiemmaria.net thấy trong những điều không có trong bản văn trước có những điểm rất quan trọng (in đậm), được ĐTC Biển Đức vừa nói thẳng vừa nói mạnh, (và cũng có thể, theo người dịch, vì tính cách tế nhị của vấn đề nên các điểm ấy không nên phổ biến hay chăng?). 

 

 

 TOP

 

 

Diễn Văn Chào Mừng ĐTC Biển Đức XVI của Vị Chủ Tịch Khối Hồi Giáo Thổ Nhĩ Kỳ Thứ Bảy 20/8/2005: “Chúng tôi tin tưởng rằng việc đối thoại liên tôn và liên văn hóa có một tầm quan trọng ghê gớm cho một thế giới an bình

 

Trọng Kính Đức Giáo Hoàng, thay mặt phái đoàn đại biểu, tôi xin chào mừng ngài, và cám ơn ngài về cơ hội được gặp gỡ ngài đây.

 

Mục tiêu của các tôn giáo thuộc tổ phụ Abraham đó là để cho tất cả mọi dân tộc cùng nhau chung sống trong tình thân hữu và thứ tha.

 

Hôm nay đây, những ký ức về hận thù và chiến tranh đang là mạch nguồn đau thương cho tất cả loài người. Nếu chúng ta muốn tránh cứ phải trải qua nỗi đớn đau này thì chúng ta, thành phần thuộc các tôn giáo thuộc tổ phụ Abraham – nhất là Kitô hữu và Hồi hữu – có những trách nhiệm quan trọng cần phải hoàn tất.

 

Trong thế hệ truyền thông này, những khái niệm về trạng thái gần xa đã mất đi ý nghĩa của mình. Ngày nay, tất cả mọi dân tộc là những người láng giềng gần gũi nhau. Điều này lại càng trở nên quan trọng đối với chúng ta trong việc hiểu biết nhau hơn, cũng như trong việc làm bạn với nhau. Như Sách Thánh Koran viết: “Chúng tôi… làm cho các người thành những quốc gia và bộ tộc, để các người biết nhau”. Con người tốt đẹp hiểu biết nhau, và họ càng biết về nhau, mối thân hữu của họ mới có thể càng trở nên sâu xa hơn.

 

Hết mọi tôn giáo, và hết mọi phần tử của một cộng đồng tôn giáo, đều có những cảm thức đặc biệt, những cảm thức chúng ta buộc phải tôn trọng.

 

Theo Kinh Koran Thánh thì không ai có thể bị gièm phê chê trách bởi việc sát nhập tôn giáo, hay bị bắt buộc từ bỏ niềm tin của mình. Kinh Koran viết: “Các người có tôn giáo của mình và tôi có tôn giáo của tôi”.

 

Chúng tôi tin tưởng rằng việc đối thoại liên tôn và liên văn hóa có một tầm quan trọng ghê gớm cho một thế giới an bình. Nếu chúng ta có thể tiếp tục cùng nhau đối thoại, nó sẽ cho thấy rằng lý thuyết về một “cuộc đụng độ về các nền văn hóa” là những gì không có cơ sở vững chắc. Các cộng đồng tôn giáo và văn hóa càng có thể biết về nhau, họ sẽ càng nhận thấy rằng không có lý do nào để thù hận cả, và thực sự có nhiều lý do để thân tình và thân ái sống chung. Kinh nghiệm của người Thổ Nhĩ Kỳ đã cho thấy một thí dụ điển hình đáng kể về cách các tôn giáo và văn hóa khác nhau có thể cùng nhau chung sống trong thân tình. Tiến trình của việc Thổ Nhĩ Kỳ tiến vào Khối Hiệp Nhất Âu Châu cũng là một cơ hội quan trọng, một cơ hội cần phải được cứu xét theo khía cạnh này.

 

Chúng tôi hoàn toàn ủng hộ tiến trình đối thoại được Vatican khởi xướng và theo đuổi. Xin Thiên Chúa giúp chúng ta có thể tiếp tục theo đuổi tiến trình này.

 

Chúng tôi nhìn nhận rằng tiến trình này sẽ góp phần một cách quan trọng cho mối thân hữu, cho nền hòa bình thế giới và cho nhân loại.

 

Một lần nữa tôi xin cám ơn ngài đã bỏ giờ cho cuộc gặp gỡ này. Xin Thiên Chúa chúc lành cho ngài luôn mãi.

 

Ridvan Cakir,

Chủ Tịch Khối Hồi Giáo Thổ Nhĩ Kỳ

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 21/8/2005

 

 

 TOP

 

 

ĐTC Biển Đức XVI với Khối Hồi Giáo ngày 20/8/2005: “Chúng ta không được nhường bước cho những áp lực tiêu cực nơi chúng ta…

 

Các Bạn Hồi Giáo thân mến!

 

Tôi hết sức vui mừng được có thể đến với các bạn và gửi đến các bạn lời chào chân thành của tôi. Tôi đến đây để gặp gỡ giới trẻ thuộc mọi phần đất Âu Châu và thế giới. Giới trẻ là tương lai của nhân loại và là niềm hy vọng của các quốc gia. Vị tiên nhiệm yêu dấu của tôi là Giáo Hoàng Gioan Phaolô II có lần đã nói với giới trẻ Hồi giáo tụ họp ở vận động trường Casablanca (Morocco) rằng: “Tuổi trẻ có thể xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn nếu trước hết họ tin tưởng vào Thiên Chúa và nếu họ hứa quyết dựng xây thế giới mới ấy theo dự án của Thiên Chúa, một cách khôn ngoan và tin tưởng” ("Insegnamenti," VIII/2, 1985, p. 500). Chính tinh thần này khiến tôi hướng về các bạn, hỡi các bạn Hồi giáo thân mến, để chia sẻ niềm hy vọng của tôi với các bạn và để các bạn biết được những mối quan tâm của tôi ở vào những thời điểm đặc biệt khó khăn này trong lịch sử của chúng ta.

 

Tôi tin rằng tôi làm ân vang những tư tưởng của các bạn khi tôi nêu lên tình trạng lan tràn nạn khủng bố như là một trong những quan tâm của chúng ta. Hoạt động khủng bố đang tiếp tục diễn ra ở các phần đất khác nhau trên thế giới, gieo rắc chết chóc và hủy hoại, và nhận chìm nhiều anh chị em của chúng ta vào sầu thương và tuyệt vọng. Những ai xúi giục và mưu đồ những cuộc tấn công này rõ ràng là muốn đầu độc mối liên hệ của chúng ta, khi sử dụng mọi phương tiện, kể cả tôn giáo, để chống lại mọi nỗ lực xây dựng một cuộc sống chung an bình, đẹp đẽ và bình thản.

 

Nạn khủng bố bất cứ ở thể loại nào cũng là một quyết định quái ác và tàn bạo cho thấy thái độ tỏ ra khinh miệt quyền sống linh thánh và coi nhẹ chính nền tảng của tất cả mọi xã hội dân sự. Nếu cùng nhau chúng ta thành công trong việc loại trừ đi khỏi tâm can bất cứ dấu vết của cảm thức đắng cay nào, trong việc chống lại hết mọi hình thức bất khoan dung cũng như trong việc chống lại hết mọi bộc phát bạo động, chúng ta sẽ quay long lại với làn sóng cuồng tín độc hại đang gây nguy hiểm cho mạng sống của rất nhiều người cũng như đang làm cản trở việc tiến tới nền hòa bình thế giới. Công việc thì khó khăn nhưng không phải là bất khả thực hiện. Thành phần tín hữu biết rằng, bất chấp nỗi yếu hèn của mình, họ vẫn có thể cậy dựa vào quyền lực thiêng liêng của lời cầu nguyện.

 

Các bạn thân mến, tôi hết sức thâm tín rằng chúng ta không được nhường bước cho những áp lực tiêu cực nơi chúng ta, nhưng phải khẳng định các giá trị của việc tôn trọng nhau, của tình đoàn kết và của an bình. Mạng sống của hết mọi con người là những gì linh thánh, cả đối với Kitô hữu lẫn đối với Hồi hữu. Đối với chúng ta có nhiều tiêu điểm cần phải cùng nhau hoạt động để phục vụ các thứ giá trị luân lý căn bản. Phẩm vị của con người và việc bênh vực các thứ quyền lợi nhờ phẩm vị ấy mà có cần phải tiêu biểu cho mục tiêu của mọi nỗ lực về xã hội cũng như của mọi nỗ lực làm cho nó sinh hoa kết trái. Sứ điệp này được chuyển đến chúng ta một cách không sai lầm bởi tiếng nói âm thầm nhưng rõ ràng của lương tâm. Nó là một sứ điệp cần phải được lắng nghe và truyền đạt cho người khác: Nếu nó thôi vang vọng trong tâm can con người thì thế giới này sẽ bị phơi bày trước bóng tối của một thứ tân trạng man di mọi rợ. Chỉ nhờ biết nhìn nhận tính cách trọng yếu của con người mới có chung căn bản kiến thức, một căn bản kiến thức chung khiến chúng ta có thể vượt ra ngoài những xung khắc về văn hóa cũng như có thể hóa giải quyền lực lũng đoạn của các ý hệ.

 

Trong cuộc gặp gỡ của tôi vào Tháng Tư vừa rồi với các vị đại biểu Chư Giáo Hội và các cộng đồng Kitô hữu, cũng như với các vị đại diện những truyền thống tôn giáo khác nhau, tôi đã khẳng định rằng: “Giáo Hội muốn tiếp tục xây dựng những chiếc cầu thân hữu với các môn đề thuộc tất cả mọi tôn giáo, để tìm kiếm sự thiện đích thực của hết mọi người cũng như của toàn thể xã hội” (L'Osservatore Romano, 25 April 2005, p. 4). Kinh nghiệm quá khứ dạy cho chúng ta biết rằng những liên hệ giữa Kitô hữu và Hồi hữu không phải bao giờ cũng được ghi dấu bằng việc tôn trọng lẫn nhau và hiểu biết lẫn nhau. Biết bao nhiêu là trang sử đã ghi chép các cuộc chiến đấu, thậm chí những cuộc chiến tranh, được gây ra bởi cả hai phía đều nhân danh Thiên Chúa, như thể việc đánh nhau và sát hại kẻ thù là những gì có thể làm hài lòng Ngài vậy. Việc hồi tưởng những biến cố buồn thảm này phải làm cho chúng ta cảm thấy hết sức hổ thẹn, vì chúng ta quá biết những gì là tàn ác nhân danh tôn giáo gây ra như thế nào. Những bài học trong quá khứ cần phải giúp cho chúng ta tránh được việc tái diễn cùng những sai lầm. Chúng ta cần phải tìm kiếm con đường hòa giải và biết sống một cách tôn trọng căn tính của nhau. Việc bênh vực quyền tự do tôn giáo, theo nghĩa này, là những gì vĩnh viễn đòi buộc, và việc tôn trọng thành phần thiểu số là một dấu hiệu rõ ràng cho nền văn minh chân thực.

 

Về khía cạnh này bao giờ cũng cần phải nhắc lại những gì được các vị Nghị Phụ Công Đồng Chung Vaticanô II nói về mối liên hệ với người Hồi giáo. “Giáo Hội trân trọng nhìn đến những người Hồi giáo. Họ tôn thờ Vị Thiên Chúa duy nhất hằng sống và tồn tại, xót thương và toàn năng, Đấng dựng nên trời đất, Đấng đã nói với loài người, và họ tìm cách hết lòng thuần phục những lệnh truyền của Ngài, cho dù là những lệnh truyền kín đáo, như Abraham, vị được đức tin Hồi giáo vốn liên hệ với, tùng phục Thiên Chúa… Mặc dù có những bất đồng và thù hằn đáng kể xẩy ra giữa Kitô hữu và Hồi hữu trong giòng lịch sử, Công Đồng này cũng thúc giục mọi phía rằng, bằng việc quên đi những gì trong quá khứ, họ hãy cố gắng hướng tới việc hiểu biết nhau và cùng nhau bảo tồn, cổ võ sự công bình xã hội và các giá trị luân lý, cũng như hòa bình và tự do cho tất cả mọi dân tộc” (Tuyên Ngôn “Nostra Aetate”, khoản số 3).

 

Hỡi các bạn quí mến của tôi, các bạn đại diện cho một số cộng đồng Hồi hữu ở xứ sở tôi được sinh vào đời này, nơi tôi đã học hành và là nơi tôi đã sống một phần đời tốt đẹp của mình. Đó là lý do tại sao tôi muốn gặp gỡ các bạn. Các bạn hướng dẫn các tín đồ Hồi hữu và huấn luyện họ sống theo niềm tin Hồi giáo. Việc giảng dạy là phương tiện để truyền đạt các tư tưởng và niềm xác tín. Ngôn từ có một tác dụng lớn trong việc giáo dục tâm trí. Bởi thế, các bạn có một trách nhiệm lớn lao đối với vấn đề đào luyện thành phần thế hệ trẻ. Là Kitô hữu và Hồi hữu, chúng ta phải cùng nhau đương đầu với nhiều thách đố của thời đại chúng ta. Không có chỗ cho việc lạnh cảm và dửng dưng, thậm chí càng không có chỗ cho việc thiên vị và bè phái. Chúng ta không được nhường bước cho sợ hãi hay bi quan. Trái lại, chúng ta phải gieo rắc vun trồng lạc quan và hy vọng.

 

Việc đối thoại liên tôn và liên văn hóa giữa Kitô hữu và Hồi hữu không thể bị biến thành một thứ ngoại lệ tùy nghi. Nó thực sự là một nhu cầu quan trọng mà phần lớn tương lai của chúng ta tùy thuộc vào nó. Giới trẻ từ nhiều phần đất trên thế giới ở nơi Cologne này đây như là những chứng tá sống động của tình đoàn kết, của tình huynh đệ và của yêu thương. Họ là những hoa trái đầu mùa của một tân rạng đông của nhân loại. Tôi nguyện cầu với cả tâm can, các bạn Hồi hữu thân mến, để xin vị Thiên Chúa thương xót và thương cảm bảo vệ các bạn, chúc phúc cho các bạn và luôn soi sáng cho các bạn. Chớ gì Thiên Chúa của an bình nâng lòng trí chúng ta lên, nuôi dưỡng niềm hy vọng của chúng ta, và hướng dẫn bước chân của chúng ta trên các nẻo đường thế giới.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 20/8/2005

 

 

 TOP

 

ĐTC Biển Đức XVI - Huấn Từ Đêm Canh Thức Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX 20/8/2005: “Cách mạng thực sự chỉ xuất phát từ các thánh nhân, từ Thiên Chúa mà thôi”

(Bằng tiếng Đức)

 

Các bạn trẻ thân mến,

 

Trong cuộc hành hương của chúng ta với các Nhà Đạo Sĩ lạ đến từ Đông phương ở vào lúc được Thánh Mathêu diễn tả trong Phúc Âm của ngài bằng những lời là: “Đi vào nhà (là nơi có ngôi sao đậu lại), họ thấy con trẻ và Maria mẹ của Người, rồi họ quì xuống thờ lạy Người” (Mt 2:11). Xét theo bề ngoài thì cuộc hành trình của họ bấy giờ kết thúc. Họ đã tiến tới đích điểm của mình. Thế nhưng, vào lúc ấy họ lại bắt đầu một cuộc hành trình mới, một cuộc hành trình nội tâm làm biến đổi cuộc sống của họ. Hình ảnh họ có trong óc về Hài Vương mà họ mong đợi được gặp chắc hẳn là rất khác.

 

Họ đã dừng bước ở Giêrusalem để đặc biệt hỏi xem Vị Vua sống ở đó về tin tức liên quan tới Đức Vua được hứa hẹn sinh ra. Họ biết rằng thế giới này đã bị hư hoại, và đó là lý do lòng của họ cảm thấy bất ổn. Họ tin rằng Thiên Chúa hiện hữu và Ngài là một vị Thiên Chúa công minh lẫn nhân ái. Và có thể họ biết tới những lời tiên tri quan trọng của dân Do Thái về một Đức Vua hết sức liên hệ với Thiên Chúa, về một Đức Vua hoạt động cho Thiên Chúa và nhân danh Ngài để phục hồi lại trật tự cho thế giới. Chính vì để tìm kiếm vị Vua này mà họ đã lên đường: Tận đáy lòng họ cảm thấy được thúc đẩy ra đi tìm kiếm sự công chính đích thực là những gì chỉ xuất phát từ Thiên Chúa mà thôi, và họ muốn phụng sự vị Vua này, muốn quì phục xuống để thực hiện phần của mình trong việc canh tân thế giới. Họ thuộc về thành phần “đói khát công lý” (Mt 5:6). Cơn đói khát này đã thúc đẩy họ thực hiện cuộc hành hương – họ đã trở thành những người hành hương để tìm kiếm công lý mà họ trông mong được xuất phát từ Thiên Chúa, với ý định hiến mình để phục vụ cho công lý.

 

Bất chấp những kẻ ở lại nhà có thể cho rằng họ là những kẻ mơ màng mộng tưởng, họ vẫn lên đường, và họ biết rằng để biến đổi thế giới này cần phải có quyền lực. Bởi thế họ có thể khó lòng mà tìm kiếm con trẻ được hứa hẹn ở bất cứ nơi nào khác ngoài cung đình của một vị Vua. Thế nhưng, bấy giờ họ đang cúi mình trước một con trẻ thuộc thành phần nghèo khổ, và họ sớm nhận ra rằng Hêrôđê, ông Vua mà họ đến hỏi thăm, đã có ý định sử dụng quyền lực để gài bẫy Người, buộc gia đình của Người phải tẩu thoát lưu vong. Vị tân Vương, Đấng họ bấy giờ tỏ ra cung kính là vị hoàn toàn khác với những gì họ trông đợi. Nhờ đó, họ biết rằng Thiên Chúa không phải như những gì chúng ta thường mường tượng về Ngài. Đó là khởi điểm cho cuộc hành trình nội tâm của họ. Nó đã được bắt đầu vào chính lúc họ quì xuống trước con trẻ ấy và nhìn nhận Người là Vị Vua được hứa hẹn. Thế nhưng, họ vẫn cần phải đồng hóa những cử chỉ vui mừng này cả bề trong nữa.

 

(Bằng tiếng Anh)

 

Họ đã thay đổi ý nghĩ của họ về quyền lực, về Thiên Chúa và về con người, nhờ đó, họ cũng thay đổi chính bản thân họ. Bấy giờ họ đã có thể thấy rằng quyền lực của Thiên Chúa không phải là quyền lực của thành phần quyền thế trên thế gian này. Đường lối của Thiên Chúa không phải như chúng ta tưởng tượng hay như chúng ta muốn. Thiên Chúa không muốn tranh giành quyền lực với thế giới này. Ngài không dàn quân quốc của mình với các quân quốc khác. Thiên Chúa đã không gửi 12 đạo binh thiên thần đến để hỗ trợ Chúa Giêsu trong Vườn Cây Dầu (x Mt 26:53). Ngài đã chống lại quyền lực ầm ĩ và phô trương của thế gian này bằng thứ quyền lực yêu thương không tự vệ, một tình yêu chịu chết trên Thập Tự Giá, và bằng những cái chết hằng làm mới mẻ suốt giòng lịch sử; tuy nhiên, chính tình yêu này tạo nên việc can thiệp thần linh mới mẻ trong việc chống lại cái bất chính và dẫn vào Vương Quốc của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng khác biệt – đó là những gì họ bấy giờ nhận thấy được. Nó cũng có nghĩa là chính họ bấy giờ cũng phải trở thành khác nữa, họ phải học biết đường lối của Thiên Chúa.

 

Họ đã đến để sẵn sàng phụng sự Vị Vua này, để làm cho vương quốc của họ phỏng theo mô phạm của Người. Đó là ý nghĩa của tác động tôn kính, của việc họ tôn thờ. Trong tác động này gói ghém cả những tặng vật của họ là vàng, nhũ hương và mộc dược, những tặng ân được hiến dâng cho một Vị Vua được cho là thần linh. Việc tôn thờ chất chứa một nội dung và bao hàm cả việc ban tặng. Bằng tác động tôn thờ này, những con người từ Phương Đông ấy muốn tỏ ra nhìn nhận con trẻ này là Vua của mình và trao phó quyền lực của mình cùng với khả năng của mình để tùy Người sử dụng, như thế là họ chắc chắn đã đi đúng đường lối. Bằng việc phụng sự và theo gương Người, họ muốn, cùng với Người, phục vụ cho thiện ích và cho công lý trên thế giới này.

 

Như thế là họ đã làm đúng. Mặc dù bấy giờ họ cần phải biết rằng điều ấy không thể đạt được chỉ bằng cách ngồi trên tòa cao để ban bố các thứ mệnh lệnh. Bấy giờ họ phải biết hiến ban chính mình – Vị Vua này không mong một tặng vật nào hơn thế. Bấy giờ họ cần phải biết rằng đời sống của họ cần phải hợp với đường lối thần linh trong việc hành sử quyền bính, với cách sống động của Thiên Chúa. Họ phải trở thành những con người của chân lý, công lý, thiện hảo, thứ tha, thương xót. Họ sẽ không còn hỏi là làm cách nào để điều này giúp cho tôi? Trái lại, họ sẽ phải hỏi rằng làm sao tôi có thể phụng sự cho việc Thiên Chúa hiện diện trên thế gian này? Họ phải biết mất mạng sống mình để nhờ đó tìm thấy nó. Khi bỏ lại Giêrusalem ở đằng sau, họ không được đi lệch con đường được đánh dấu bởi Vị Vua chân thực ấy, khi họ theo bước Chúa Giêsu.

 

(Bằng tiếng Pháp)

 

Các bạn thân mến, tất cả những điều ấy có nghĩa gì đối với chúng ta đây? Những gì chúng ta vừa nói về bản tính khác biệt của Thiên Chúa, cũng như về đường lối mà đời sống của chúng ta cần phải hình thành theo đó, dường như rất hay, thế nhưng vẫn là những gì mơ hồ và chưa tập trung hẳn. Đó là lý do tại sao Thiên Chúa đã ban cho chúng ta những gương mẫu. Các Nhà Đạo Sĩ từ Phương Đông chính là thành phần dẫn đầu trong một đám rước dài của những con người nam nữ liên lỉ cố gắng hướng mắt nhìn lên ngôi sao của Thiên Chúa nơi đời sống của họ, khi tìm kiếm Thiên Chúa là Đấng đến gần chúng ta và tỏ cho chúng ta thấy đường lối. Có cả một đoàn lũ đông đảo các thánh nhân, được biết đến hay vô danh, có một đời sống được Thiên Chúa mở ra trước mắt chúng ta như cuốn Sách Phúc Âm và lật qua các trang giấy; Ngài đã thực hiện điều này qua giòng lịch sử và ngày nay Ngài vẫn còn tiếp tục làm như thế. Nơi đời sống của các vị, như trong một cuốn sách hình ảnh lớn, kho tàng Phúc Âm được tỏ hiện. Các vị là con đường ngời sáng được chính Thiên Chúa vạch vẽ qua giòng lịch sử và vẫn còn vẽ vạch cho tới ngày hôm nay.

 

Vị tiền nhiệm của tôi là Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên phong chân phước và hiển thánh rất ư là nhiều người thuộc cả quá khứ xa lẫn gần. Nơi những con người ấy, ngài muốn cho chúng ta thấy cách làm người Kitô hữu; cách sống một đời sống như nó cần phải sống – theo đường lối của Thiên Chúa. Các vị thánh và chân phước đã không gan lì tìm kiếm hạnh phúc riêng của các vị, nhưng chỉ muốn hiến thân, vì ánh sáng của Chúa Kitô đã chiếu tỏa trên các vị. Các vị tỏ cho chúng ta thấy con đường để đạt tới hạnh phúc, các vị tỏ cho chúng ta thấy cách làm người thực sự. Qua tất cả những thăng trầm của lịch sử, các vị là thành phần cải cách thực sự, những vị liên lỉ phục hồi lịch sử khỏi rơi vào thung lũng tối tăm; chính các vị là thành phần liên lỉ chiếu giải trên lịch sử ánh sáng cần thiết để làm sáng tỏ – cho dù giữa những khổ đau – những lời Thiên Chúa phán khi kết thúc công trình sáng tạo của Ngài là: “Thật là tốt đẹp”.

 

Người ta chỉ cần nghĩ đến những nhân vật như Thánh Biển Đức, Thánh Phanxicô Assisi, Thánh Têrêsa Avila, Thánh Ignatiô Loyola, Thánh Charles Borromeo, những vị sáng lập dòng thế kỷ 19 đã khởi động và hướng dẫn phong trào xã hội, hay những vị thánh của thời chúng ta đây – Maximilian Kolbe, Edith Stein, Mẹ Têrêsa, Cha Piô Năm Dấu. Trong việc chiêm ngưỡng những nhân vật này, chúng ta biết được những gì là “tôn thờ” và những gì là sống theo tấm vóc của con trẻ Bêlem, bằng tấm vóc của Chúa Giêsu Kitô và của chính Thiên Chúa.

 

(Bằng tiếng Tây Ban Nha)

 

Các thánh nhân, như chúng ta đã nói, thực sự là thành phần cải cách. Giờ đây tôi muốn bày tỏ điều này một cách thậm chí quyết liệt hơn nữa, đó là cách mạng thực sự chỉ xuất phát từ các thánh nhân, từ Thiên Chúa mà thôi, con đường tối hậu để biến đổi thế giới. Trong thế kỷ vừa qua chúng ta đã trải qua những cuộc cách mạng có cùng một dự tính – ở chỗ không trông mong gì ở Thiên Chúa cả, chúng lãnh nhận tất cả trách nhiệm phục vụ thế giới để biến đổi thế giới. Để rồi, như chúng ta thấy, điều ấy có nghĩa là quan điểm về con người và thiên lệch bao giờ cũng được coi như là nguyên tắc hướng dẫn tuyệt đối. Việc tuyệt đối hóa những gì không tuyệt đối mà là tương đối được gọi là chủ nghĩa độc đoán. Nó không giải phóng con người song lấy đi phẩm vị của họ và bắt họ làm nô lệ. Đó không phải là những ý hệ cứu vớt thế giới mà chỉ khi nào trở về với Thiên Chúa, với Đấng Hóa Công của chúng ta, với vị bảo đảm tự do của chúng ta, vị bảo đảm những gì thực sự là thiện hảo và chân thật. Cuộc cách mạng đích thực chỉ là ở chỗ trở về với Thiên Chúa, Đấng là tầm vóc của những gì là đúng và Đấng đồng thời là tình yêu vĩnh hằng. Còn gì có thể cứu vớt chúng ta ngoài yêu thương đây?

 

Các bạn thân mến! Xin cho tôi được thêm hai tư tưởng ngắn nữa. Có nhiều người nói về Thiên Chúa; một số thậm chí còn rao giảng việc bạo động hận thù và vi phạm nhân danh Thiên Chúa nữa. Bởi thế mới cần phải tái khám phá ra dung nhan chân thực của Thiên Chúa. Các Nhà Đạo Sĩ Phương Đông đã tìm thấy dung nhan này, khi họ quì xuống trước con trẻ Bêlem. “Ai thấy Thày là thấy Cha”, Chúa Giêsu đã nói cùng Philiphê như thế (Jn 14:9). Nơi Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã để cho trái tim của mình bị đâm thâu vì chúng ta, chúng ta thấy được dung nhan đích thực của Thiên Chúa. Chúng ta sẽ cùng nhau theo Người với đám đông đảo những vị đã ra đi trước chúng ta. Bấy giờ chúng ta mới thực hiện một cuộc hành trình đúng đường lối.

 

(Bằng tiếng Ý)

 

Điều này có nghĩa là chúng ta không cấu tạo nên một vị Thiên Chúa tư riêng, một Giêsu riêng biệt, nhưng chúng ta tin tưởng và tôn thờ Chúa Giêsu là Đấng đã tỏ mình ra cho chúng ta nơi Sách Thánh và là Đấng tỏ mình đang sống động nơi đại đoàn lũ tín hữu được gọi là Giáo Hội bao giờ cũng đi bên và lúc nào cũng đi trước chúng ta. Trong Giáo Hội có nhiều cần có thể bị phê bình chỉ trích. Chúng ta biết điều ấy và chính Chúa đã nói với chúng ta như thế: Nó là một lưới bắt được cả cá tốt lẫn cá xấu, là một thửa ruộng có cả lúa lẫn cỏ lùng. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, cũng như khi tỏ ra dung nhan đích thực của Giáo Hội nơi nhiều vị thánh được ngài tôn phong, đã xin lỗi về những sai lầm xẩy ra trong giòng lịch sử bởi lời nói và việc làm của các phần tử trong Giáo Hội. Như thế ngài đã tỏ cho chúng ta thấy hình ảnh đích thực của chúng ta và thôi thúc chúng ta hãy đứng vào vị trí của mình, bằng tất cả những lỗi lầm và yếu kém của chúng ta, trong cuộc diễn hành của các vị thánh nhân được bắt đầu với các Nhà Đạo Sĩ Đông Phương. 

 

Thật là an ủi khi nhận ra rằng có những thứ cỏ lùng ở trong Giáo Hội. Nhờ đó, bất chấp tất cả những khiếm khuyết của mình, chúng ta vẫn có thể hy vọng được liệt vào thành phần môn đệ Chúa Kitô là Đấng đã đến để kêu gọi các tội nhân. Giáo Hội giống như một gia đình nhân loại, thế nhưng đồng thời nó cũng là đại gia đình của Thiên Chúa, nhờ đó Ngài thiết lập một mối hiệp thông và hiệp nhất phổ quát bao gồm hết mọi châu lục, văn hóa và quốc gia. Vậy chúng ta lấy làm hãnh diện được thuộc về đại gia đình này; chúng ta hân hạnh có anh chị em và bạn hữu trên khắp thế giới. Ở Cologne đây chúng ta đã tìm thấy được niềm vui thuộc về một gia đình rộng lớn như thế giới, bao gồm cả trời đất, quá khứ, hiện tại, tương lai và hết mọi phần đất trên thế giới. Trong đoàn lũ đông đảo thành phần hành hương này, chúng ta bước đi bên Chúa Kitô, chúng ta bước đi với ngôi sao chiếu soi lịch sử của chúng ta.
 

(Bằng tiếng Đức)

 

“Tiến vào nhà, họ thấy con trẻ với Maria mẹ Người, rồi họ phục xuống tôn thờ Người” (Mt 2:11). Các bạn thân mến, đây không phải là một câu truyện xa vời xẩy ra lâu đời trước đây. Nó là câu truyện liên hêävới chúng ta hiện nay. Này nhé, ở nơi Bánh thánh Người đang hiện diện trước mắt chúng ta và giữa chúng ta. Như vào bấy giờ, cũng thế, giờ đây Người tỏ mình cách mầu nhiệm trong sự thinh lặng linh thánh; như vào lúc bấy giờ, nơi đây dung nhan đích thực của Thiên Chúa đã tỏ hiện. Đối với chúng ta, Người đã trở thành một hạt lúa miến rơi xuống đất mục nát đi sinh hoa kết trái cho tới tận thế (x Jn 12:24). Giờ đây Người hiện diện như bấy giờ Người đã hiện diện ở Bêlem. Người mời gọi chúng ta thực hiện cuộc hành trình nội tâm được gọi là tôn thờ này. Chúng ta hãy bắt đầu cuộc hành trình này của tâm linh và chúng ta hãy xin Người là hướng đạo viên của chúng ta. Amen.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 20/8/2005

 

 

TOP

 

 

ĐTC Biển Đức XVI – Bài Giảng Thánh Lễ Bế Mạc Chúa Nhật 21/8/2005: “Chúng ta hãy tiến lên với Chúa Kitô và chúng ta hãy sống cuộc đời mình như là thành phần tôn thờ đích thực của Thiên Chúa!

 

(Bằng tiếng Đức)

 

Các bạn trẻ thân mến,

 

Tối hôm qua chúng ta đã đến với nhau trước sự hiện diện của Tấm Bánh Thánh là nơi đối với chúng ta Chúa Giêsu đã trở nên bánh bảo trì và nuôi dưỡng chúng ta (x Jn 6:35), và ở đó chúng ta bắt đầu cuộc hành trình nội tâm tôn thờ của chúng ta. Nơi Thánh Thể, việc tôn thờ phải trở thành việc hiệp nhất. Khi cử hành Thánh Thể, chúng ta cảm thấy mình ở vào “giờ khắc” của Chúa Giêsu, nếu sử dụng ngôn từ của Phúc Âm Thánh Gioan. Nhờ Thánh Thể, “giờ khắc” này của Chúa Giêsu trở thành giờ khắc của chúng ta, giờ khắc Người hiện diện giữa chúng ta. Cùng với các môn đệ, Người đã cử hành Lễ Vượt Qua của dân Do Thái là việc tưởng niệm hành động Thiên Chúa giải phóng dân Do Thái làm cho họ từ tình trạng bị nô lệ được trở thành tự do. Chúa Giêsu theo các nghi thức của dân Do Thái. Người đã đọc lời chúc tụng và ngợi khen trên bánh.

 

Thế nhưng, lúc ấy đã xẩy ra một điều mới lạ. Người tạ ơn Thiên Chúa chẳng những vì những việc cao cả Thiên Chúa đã làm trong quá khứ; Người còn tạ ơn Thiên Chúa về việc được tôn vinh của Người là việc chẳng mấy chốc sẽ được hoàn tất bằng Thập Tự Giá và Phục Sinh, và Người đã nói với các môn đệ những lời tóm tắt toàn thể Lề Luật và các vị Tiên Tri, đó là lời “Này là Mình Thày hy sinh cho các con. Chén này là Tân Ước trong Máu Thày”. Đoạn Người phân phát bánh và rượu, rồi căn dặn các vị hãy lập đi lập lại những lời lẽ và tác động của Người bấy giờ để tưởng nhớ đến Người.

 

Những gì đang xẩy ra đây? Làm sao Chúa Giêsu có thể phân phát Mình Người và Máu Người? Bằng việc làm cho tấm bánh trở thành Mình Người và rượu trở thành Máu Người, Người đã ngưỡng vọng cái chết của mình, Người chấp nhận nó trong tâm can và biến nó thành tác động yêu thương. Những gì bề ngoài chỉ là bạo lực bạo tàn thì bề trong lại trở thành một tác động của tình yêu trọn vẹn hiến thân. Đó là một việc biến đổi theo bản thể được hoàn tất ở Bữa Tiệc Ly và được thực hiện để tiếp tục trở thành một chuỗi biến đổi cuối cùng dẫn đến chỗ biến đổi thế giới này vào lúc Thiên Chúa sẽ là tất cả trong mọi sự (x 1Cor 15:28). Trong tâm can của mình, con người luôn luôn và ở mọi nơi đều trông mong thấy được một thứ thay đổi cách nào đó, một thứ biến đổi thế giới. Bởi thế mà hành động biến đổi chính yếu duy nhất có thể thực sự canh tân thế giới là ở nơi đây: Bạo lực được biến đổi thành yêu thương, và chết chóc được biến đổi thành sự sống.

 

Vì tác động này chuyển hóa chết chóc thành yêu thương, mà chết chóc bởi thế tự bản chất đã bị khống chế, Phục Sinh đã hiện diện nơi chết chóc. Có thể nói chết chóc đã bị tử thương, do đó nó không còn là phán quyết cuối cùng nữa. Nếu sử dụng một hình ảnh quá quen thuộc với chúng ta ngày nay thì điều ấy giống như việc phân nhân nguyên tử ở chính tâm điểm của sự vật – đó là việc chiến thắng của yêu thương trên hận thù, việc chiến thắng của yêu thương trên chết chóc. Chỉ có việc bùng nổ thâm sâu này của sự thiện chiến thắng sự dữ mới có thể gây ra hàng loạt những biến đổi là những gì dần dần sẽ làm thay đổi thế giới.


(Bằng tiếng Anh)

 

Viện biến đổi nồng cốt tiên khởi từ bạo lực thành yêu thương này, từ chết chóc thành sự sống ấy, mang lại những thay đổi khác theo sau. Bánh và rượu trở thành Mình và Máu của Người. Thế nhưng không được dừng lại ở đó, trái lại, tiến trình biến đổi bấy giờ cần phải cô đọng lại với nhau. Mình và Máu Chúa Kitô được hiến ban cho chúng ta, để về phần mình, chính chúng ta cũng được biển đổi nữa. Chúng ta phải trở thành Mình Chúa Kitô, thành thịt và máu của Người. Tất cả chúng ta đều ăn cùng một tấm bánh duy nhất, nên điều này có nghĩa là chính chúng ta trở nên một. Nhờ đó, việc tôn thờ, như chúng ta đã nói trên đây, trở thành việc hiệp nhất. Thiên Chúa không còn chỉ đứng trước chúng ta, như một vị hoàn toàn là một Đấng Khác. Ngài ở trong chúng ta, và chúng ta ở trong Ngài. Năng lực của Ngài nhập vào chúng ta, rồi tìm cách lan tỏa ra những người khác, cho đến khi nó tràn đầy thế giới, để tình yêu của Ngài thực sự trở thành tấm vóc chủ chốt của thế giới này.

 

Tôi xin làm sáng tỏ cái bước mới mẻ thôi thúc chúng ta bởi Bữa Tiệc Ly đây, bằng việc rút tỉa ra những sắc thái khác nhau của chữ “tôn thờ” theo Hy ngữ và La ngữ. Hy ngữ là “proskynesis”. Chữ này ám chỉ cử chỉ thuần phục, việc nhìn nhận Thiên Chúa là tầm vóc đích thực của chúng ta, với qui tắc chúng ta chọn để tuân theo. Nó có nghĩa là tự do không phải chỉ là việc hoan hưởng đời sống hoàn toàn độc lập, mà là sống theo tấm mức của chân lý và thiện hảo, nhờ đó chính chúng ta mới có thể trở nên chân thực và thiện hảo. Cử chỉ này cần thiết cho dù thoạt tiên việc chúng t among ước tự do làm cho chúng ta có khuynh hướng chống lại nó. Chúng ta chỉ có thể hoàn toàn chấp nhận nó khi chúng ta thực hiện bước thứ hai được Bữa Tiệc Ly đề ra cho chúng ta. Hy ngữ của chữ tôn thờ đó là “ad-oratio” – là việc giao tiếp bằng miệng với nhau, là một cái hôn, một thứ ôm ghì và bởi đó cuối cùng chính là việc yêu thương. Việc thuận phục trở thành việc hiệp nhất, vì Đấng chúng ta thuận phục là Tình Yêu. Như thế, việc thuận phục mới có ý nghĩa, vì nó không áp đặt bất cứ sự gì trên chúng ta từ bên ngoài, mà giải thoát chúng ta sâu xa từ bên trong.


(Bằng tiếng Pháp)

 

Chúng ta hãy trở lại một lần nữa với Bữa Tiệc Ly. Yếu tố mới xuất phát ở đây là ý nghĩa sâu xa được cống hiến cho lời nguyện chúc tụng cổ thời của dân Do Thái, lời nguyện từ đó trở đi trở thành lời biến đổi, khiến chúng ta có thể tham dự vào “giờ khắc” của Chúa Kitô. Chúa Giêsu đã không bảo chúng ta lập lại bữa Vượt Qua là những gì vì là một kỷ niệm nên bất khả lập lại theo ý muốn. Người đã bảo chúng ta hãy tham dự vào “giờ khắc” của Người. Chúng tat ham dự vào giờ khắc này bằng linh quyền của những lời thánh hiến – một biến đổi xẩy ra nhờ lời cầu chúc tụng là những gì chẳng những làm cho chúng ta tiếp tục với dân Do Thái cùng với toàn thể lịch sử cứu độ, mà đồng thời còn dẫn chúng ta vào cái mới mẻ được lời nguyện xưa hướng tới ở tầm mức sâu xa nhất của mình. Kinh nguyện mới này – kinh nguyện được Giáo Hội gọi là “Kinh Nguyện Thánh Thể” – làm cho Thánh Thể hiện hữu. Chính lời quyền năng này biến đổi các tặng vật của trái đất một cách hoàn toàn mới mẻ thành tặng ân chính mình của Thiên Chúa và lôi kéo chúng ta vào tiến trình biến đổi ấy. Đó là lý do tại sao chúng ta gọi hành động này là “Thánh Thể”, một từ ngữ được dịch từ chữ Do Thái “beracha” – là tạ ơn, chúc tụng, ngợi khen, và là một biến đổi do Chúa thực hiện – sự hiện tại của “giờ khắc” của Người.

 

Giờ khắc của Chúa Giêsu là giờ khắc yêu thương chiến thắng. Nói cách khác: Chính Thiên Chúa đã chiến thắng, vì Ngài là Tình Yêu. Giờ khắc của Chúa Giêsu tìm cách trở thành giờ khắc của chúng ta và thực sự sẽ trở nên như thế nếu chúng ta để mình, nhờ việc cử hành Thánh Thể, được lôi kéo vào tiến trình biến đổi được Chúa có ý thực hiện. Thánh Thể cần phải trở thành tâm điểm của đời sống chúng ta. Nếu Giáo Hội nói với chúng ta rằng Thánh Thể là một phần thiết yếu của Ngày Chúa Nhật thì đây không phải là những gì thuần thực chứng chủ nghĩa hay khát vọng quyền lực. Vào buổi sáng Phục Sinh, đầu tiên là nữ giới, rồi sau đó mới tới các môn đệ được diễm phúc thấy Chúa. Từ lúc ấy trở đi, họ biết rằng ngày thứ nhất trong tuần, là Chúa Nhật, sẽ là ngày của Người, ngày của Đức Kitô là Chúa. Ngày mà việc tạo dựng bắt đầu trở thành ngày việc tạo dựng được tái tấu. Việc tạo dựng và việc cứu chuộc thuộc về nhau. Đó là lý do tại sao Chúa Nhật là ngày rất ư quan trọng. Thật là tốt đẹp ngày nay, nơi nhiều nền văn hóa, Chúa Nhật là một ngày tự do thong thả, và thường được ghép với ngày Thứ Bảy để làm thành một thứ “cuối tuần” thảnh thơi thì giờ. Tuy nhiên, thời gian tự do thảnh thơi này chẳng có lợi gì nếu không có Thiên Chúa.

 

Các bạn thân mến!

 

Đôi khi, cái ấn tượng đầu tiên của chúng ta là việc phải có giờ tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật là một cái gì đó đúng là bất tiện. Thế nhưng, nếu các bạn cố gắng, các bạn sẽ thấy rằng đó là những gì cống hiến cho thời gian thảnh thơi thoải mái của mình một cái mục tiêu xứng hợp. Các bạn đừng nản tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật, và giúp cho người khác khám phá ra nó nữa. Đó là vì Thánh Thể ban phát niềm vui chúng ta rất cần đến, và chúng ta cần phải biết nắm bắt lấy nó sâu xa hơn nữa, chúng ta cần phải biết yêu chuộng nó. Chúng ta hãy hứa quyết thực hiện điều này – nó xứng đáng với việc nỗ lực của chúng ta! Chúng ta hãy khám phá ra những kho tàng sâu xa nơi phụng vụ của Giáo Hội cùng với sự cao cả thực sự của phụng vụ: không phải là chúng ta cử hành cho chính chúng ta, mà là Thiên Chúa hằng sống là Đấng đang sửa dọn một bữa tiệc cho chúng ta. Nhờ lòng mến yêu Thánh Thể của mình, các bạn cũng sẽ tái nhận thức được bí tích Hòa Giải, là bí tích sự thiện hảo nhân hậu của Thiên Chúa bao giờ cũng khiến cho chúng ta có thể bắt đầu lại cuộc sống của chúng ta.


(Bằng tiếng Ý)

 

Bất cứ ai đã khám phá ra Chúa Kitô đều dẫn kẻ khác đến cùng Người. Một niềm vui lớn lao không thể nào chỉ giữ lấy cho mình. Nó cần phải được truyền lan ra. Ở những miền rộng lớn trên thế giới này, ngày nay đang xẩy ra một thứ lãng quên Thiên Chúa một cách lạ lùng. Dường như là mọi sự cũng chẳng có gì khác nếu thiếu mất Ngài. Thế nhưng, đồng thời cũng có một cảm giác chán chường, một cảm quan bất mãn với hết mọi người và mọi sự. Con người có khuynh hướng than rằng: “Đó không thể nào là tất cả nghĩa lý của đời sống!” Thật sự không phải vậy. Bởi đó mà, cùng với việc quên lãng Thiên Chúa còn có một thứ bùng nổ mới về tôn giáo nữa. Tôi không có ý muốn làm mất mặt tất cả mọi hình thức của hiện tượng này. Niềm vui chân thực có thể ở nơi việc khám phá ấy. Tuy nhiên, nếu bị đẩy quá xa thì tôn giáo hầu như trở thành một sản phẩm tiêu thụ. Người ta chọn lựa những gì họ thích, một số thậm chí còn kiếm được lợi lộc từ nó nữa. Thế nhưng thứ tôn giáo đã kiến tạo trên căn bản “tự động làm lấy” cuối cùng không thể nào giúp chúng ta được. Nó có thể là dễ chịu đấy nhưng có những lúc gặp khủng hoảng chúng ta lại loay hoay một mình thôi. Hãy giúp người ta khám phá ra ngôi sao đích thực là những gì soi đường chỉ lối cho chúng ta: đó là Chúa Giêsu Kitô! Chúng ta hãy tìm cách nhận biết Người mỗi ngày một hơn, để có thể hướng dẫn kẻ khác ý thức đến với Người.

 

Đó là lý do tại sao, đối với Sách Thánh, yêu thương là những gì rất hệ trọng, nên bởi đó, cần phải biết đức tin của Giáo Hội là đức tin mở ra cho chúng ta thấy ý nghĩa của Thánh Kinh. Chính Thánh Thần là Đấng dẫn dắt Giáo Hội khi đức tin của Giáo Hội tăng tiến, khiến Giáo Hội tiến sâu hơn nữa vào sự thật (x Jn 16:13). Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cống hiến cho chúng ta một công trình tuyệt vời trong đó những gì đức tin của các thế kỷ được dẫn giải một cách tổng luận, đó là cuốn Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo. Chính tôi mới đây cũng ban hành cuốn Tổng Tắt Giáo Lý này, một cuốn được soạn dọn theo lời yêu cầu của cố Giáo Hoàng. Đó là hai cuốn sách nồng cốt tôi khuyên tất cả các bạn hãy đọc.


(Bằng tiếng Tây Ban Nha)

 

Tất nhiên sách vở mà thôi cũng chưa đủ. Các bạn hãy hình thành những cộng đồng được xây dựng trên đức tin! Trong những thập niên vừa qua, các phong trào và cộng đồng đã xuất hiện, những gì cảm thấy thấm thía quyền lực của Phúc Âm. Hãy tìm kiếm mối hiệp thông trong đức tin, như những kẻ đồng hành cùng nhau tiếp tục theo đường lối của cuộc hành hương cao cả được các Nhà Đạo Sĩ Đông Phương tiên khởi vạch ra cho chúng ta. Tính chất tự phát của các cộng đồng mới là những gì quan trọng, thế nhưng cũng quan trọng nữa trong việc bảo tồn mối hiệp thông với Giáo Hoàng cũng như với các vị giám mục. Chính các vị là người bảo đảm là chúng ta không tìm kiếm những con đường riêng rẽ mà là sống như đại gia đình của Thiên Chúa được Chúa thiết lập qua 12 Vị Tông Đồ.

 

(Bằng tiếng Đức)

 

Một lần nữa, tôi cần phải trở về với Thánh Thể. “Vì chỉ có một tấm bánh duy nhất, mặc dù là nhiều, chúng ta cũng chỉ là một thân thể duy nhất”, Thánh Phaolô đã nói như thế (1Cor 10:17). Nói như thế ngài có ý là: Vì chúng ta lãnh nhận cùng một Chúa và Người qui tụ chúng ta lại với nhau, kéo chúng ta lại với Người, nên chính chúng ta là một. Điều này cần phải trở thành hiển nhiên nơi đời sống của chúng ta. Nó cần phải được tỏ ra nơi khả năng tha thứ của chúng ta. Nó cần phải được thấy nơi cảm thức của chúng ta về các nhu cầu của người khác. Nó cần phải được thấy nơi việc chúng ta sẵn sàng chia sẻ. Nó cần phải được tỏ ra nơi việc chúng ta dấn thân cho tha nhân của mình, có những ai gần gũi lẫn những người xa cách về thể lý, thành phần chúng ta vẫn coi là gần gũi. Ngày nay có nhiều hình thức tình nguyện trợ giúp, những mẫu thức của việc phục vụ lẫn nhau là những gì xã hội của chúng ta hết sức cần thiết. Chẳng hạn, chúng ta không được bỏ mặc thành phần lão thành lẻ loi cô độc, chúng ta không được bỏ đi khi gặp những người đang gặp khổ đau. Nếu chúng ta nghĩ và sống theo mối hiệp thông của chúng ta với Chúa Kitô thì mắt của chúng ta sẽ mở ra.

 

Bấy giờ chúng ta sẽ không còn thỏa mãn với việc đánh bóng cuộc đời cho bản thân mình, song chúng ta sẽ thấy chúng ta cần phải có ở đâu và cách nào. Sống động và hành động như thế, chúng ta sẽ sớm nhận ra rằng tốt hơn là trở thành hữu dụng và tùy nghi cho kẻ khác sử dụng mình hơn là chỉ quan tâm tới những thoải mái được giành cho chúng ta. Tôi biết rằng là giới trẻ các bạn có những ước vọng lớn lao, là các bạn muốn hứa quyết xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Hãy làm cho người khác thấy được điều ấy, hãy làm cho thế giới thấy được như vậy, vì đó chính là chứng từ thế giới mong đợi nơi thành phần môn đệ Chúa Kitô; có thế, nhất là nhờ tình yêu của các bạn, thế giới mới có thể khám phá ra ngôi sao được chúng ta là tín hữu dõi theo.

 

Chúng ta hãy tiến lên với Chúa Kitô và chúng ta hãy sống cuộc đời mình như là thành phần tôn thờ đích thực của Thiên Chúa! Amen.



Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 21/8/2005

 

 

 TOP

 

 

ĐTC Biển Đức XVI – Huấn Từ Truyền Tin Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX Chúa Nhật 21/8/2005: “Tôi hân hoan thông báo là Ngày Giới Trẻ Thế Giới tới đây sẽ diễn ra tại Sydney, Úc Đại Lợi, vào năm 2008

 

Các bạn thân mến,

 

Chúng ta đã đến lúc kết thúc việc cử hành tuyệt vời này và thực sự là việc cử hành Ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 20. Trong tâm hồn mình, tôi cảm thấy nổi lên nơi mình tư tưởng duy nhất, đó là “Cám ơn các bạn!”. Tôi tin rằng tư tưởng này cũng vang vọng nơi mỗi một người trong các bạn. Chính Thiên Chúa đã gieo nó vào lòng chúng ta và Ngài đã đóng ấn nó bằng Thánh Thể được hiểu theo chữ nghĩa là “tạ ơn”. Phải, giới trẻ thân mến, việc tri ân cảm tạ của chúng ta, xuất phát từ đức tin, được diễn đạt nơi bài ca chúng ta dâng lên chúc tụng Ngài là Cha và Con và Thánh Thần, Đấng đã còn ban cho chúng ta một dấu hiệu khác của tình Ngài yêu thương bao la.

 

Những lời tạ ơn của chúng ta dâng lên Thiên Chúa nơi tặng ân gặp gỡ không thể nào quên được này, và giờ đây lời tạ ơn ấy được gửi tới tất cả những ai tham gia vào việc sửa soạn và tổ chức nó. Tôi muốn lập lại lời tri ân cảm tạ của tôi với Hội Đồng Tòa Thánh về Giáo Dân, dưới sự lãnh đạo của ĐTGM Stanislaw Rylko, được hỗ trợ bởi vị thư ký là Giám Mục Josef Clemens, cũng như với an hem thuộc Hội Đồng Giám Mục Đức, nhất là ĐTGM Cologne là Hồng Y Joachim Meisner. Tôi cảm tạ các vị thẩm quyền về chính trị và hành chánh đã giúp cho biến cố này được diễn tiến êm đẹp; tôi cám ơn nhiều thiện nguyện viên thuộc các giáo phận Đức quốc cũng như từ các quốc gia khác nhau. Tôi cũng xin ngỏ lời cám ơn thân ái đến nhiều cộng đồng chiêm niệm đã nâng đỡ chúng tôi bằng lời cầu nguyện trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới này.

 

Và giờ đây, vì sự hiện diện sống động của Chúa Kitô phục sinh giữa chúng ta nuôi dưỡng đức tin và đức cậy của chúng ta, tôi hân hoan thông báo là Ngày Giới Trẻ Thế Giới tới đây sẽ diễn ra tại Sydney, Úc Đại Lợi, vào năm 2008. Chúng ta ký thác cho việc hướng dẫn từ mẫu của Mẹ Maria rất thánh tương lai của giới trẻ thế giới.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 21/8/2005

 

 

 TOP

 

 

ĐTC Biển Đức XVI với Các Vị Giám Mục Đức chiều Bế Mạc Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX Chúa Nhật 21/8/2005: “Chúng tôi đã đến bái thờ Người. Chúng tôi đã tìm thấy Người. Giờ đây xin hãy giúp chúng tôi trở thành môn đệ và chứng nhân của Người.

 

Chư Huynh trong Hàng Giáo Phẩm thân mến,

 

Tôi chúc tụng Chúa là Đấng đã cho tôi niềm vui được gặp chư huynh nơi đây, trên mảnh đất Đức quốc, vào lúc bế mạc Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX đây. Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể nói là bàn tay Quan Phòng đã tỏ hiện trong những ngày này, chẳng những ban tay ấy đã phấn khích tôi, Vị Thừa Kế Thánh Phêrô, mà còn cống hiến một dấu hiệu hy vọng cho Giáo Hội ở xứ sở này nữa, nhất là cho chư huynh là các vị Chủ Chiên của Giáo Hội đây. Tôi xin lập lại cùng tất cả chư huynh lời cám ơn chân thành của tôi về nỗ lực chư huynh đã bỏ ra để sửa soạn cho biến cố này. Tôi đặc biệt cám ơn ĐHY Joachim Meisner và những người phụ tá của ngài, cũng như vị chủ tịch hội đồng giám mục là ĐHY Karl Lehmann, và tất cả những ai đã hỗ trợ bất cứ cách nào. 

 

Như tôi đã nói sáng nay khi kết thúc việc cử hành long trọng Thánh Thể ở Marienfeld, Đức quốc đã chứng kiến thấy một cuộc hành hương đáng kể trong những ngày gần đây. Đây không phải là một nhóm hành hương bình thường mà là một cuộc hành hương của giới trẻ! Biến cố này, một biến cố được Giáo Phận Cologne cùng tất cả chư huynh làm việc rất vất vả để sửa soạn, giờ đây đã kết thúc: và đó là lý do cần phải tạ ơn Thiên Chúa, cần phải suy nghĩ và cần phải tái dấn thân! Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II rất yêu dấu, vị sáng lập Ngày Giới Trẻ Thế Giới, thường nói rằng ở những cuộc hành hương này, giới trẻ là thành phần đóng vai chính, và Giáo Hoàng, ở một nghĩa nào đó, theo họ thôi. Một nhận định khôi hài nhưng cũng là một nhận định cho thấy một sự thật sâu xa, đó là giới trẻ, thành phần đang tìm kiếm một đời sống viên mãn, bất chấp những yếu hèn và giới hạn của họ, thôi thúc những vị mục tử của họ lắng nghe những vấn nạn của họ và làm mọi sự có thể để giúp họ hiểu được câu trả lời chân thực duy nhất đó là Chúa Kitô. Bởi thế, chúng ta cần yêu chuộng tặng ân này được Thiên Chúa ban cho Giáo Hội ở Đức, cần chấp nhận thách đố đang diễn ra, và cần biết lợi dụng khả năng có được của tặng ân ấy.

 

Cần phải nhấn mạnh là biến cố này, dù ngoại thường, nhưng không phải là chuyên nhất. Vương Cung Thánh Đường ở Cologne không phải, theo một thành ngữ quen thuộc, “một Vương Cung Thánh Đường ở trong sa mạc”. Tôi đang nghĩ đến nhiều tặng ân làm phong phú Giáo Hội ở Đức. Tôi hoan hỉ liệt kê cùng chư huynh ở đâu một cách vắn tắt những tặng ân ấy, với cùng một tinh thần chúc tụng và tạ ơn là những gì đánh dấu những ngày ân sủng này đây. Nhiều người ở xứ sở này sống đức tin của họ một cách gương mẫu, có một lòng hết sức mến yêu Giáo Hội, mến yêu các vị chủ chăn của Giáo Hội và Vị Thừa Kế Thánh Phêrô. Một số khá đông tình nguyện đảm nhận những gì đôi khi đòi hỏi những trách nhiệm nơi sinh hoạt giáo phận và giáo xứ, nơi các hội đoàn và phong trào, nhất là để giúp đỡ giới trẻ.

 

Nhiều linh mục, tu sĩ và giáo dân thi hành việc trung thành phục vụ ở những trường hợp mục vụ thường khó khăn. Và người Công Giáo Đức rất quảng đại đối với người nghèo. Nhiều vị linh mục “Fidei Donum” và các vị thừa sai Đức quốc thi hành việc tông đồ ở những miền đất xa xôi. Giáo Hội Công Giáo bảo trì việc hiện diện của mình nơi sinh hoạt quần chúng bằng nhiều tổ chức khác nhau. Hoạt động đáng kể đang được thực hiện bởi những cơ quan từ thiện khác nhau, như Misereor, Adveniat, Missio, Renovabis, cũng như các tổ chức Caritas giáo phận và giáo xứ. Hoạt động về giáo dục cũng lớn rộng không kém, được thực hiện nơi các trường Công giáo cũng như nơi các cơ cấu và tổ chức Công giáo vì giới trẻ. Đó chỉ là một ít thí dụ vắn vỏi, không đầy đủ nhưng đáng kể, những thí dụ thực sự vẻ lên chân dung của một Giáo Hội sống động, một Giáo Hội sinh ra chúng ta trong đức tin và là một Giáo Hội chúng ta được hân hạnh hân hoan phục vụ.

 

Chúng ta biết rằng trên dung nhan của Giáo Hội cũng có những vết nhăn nheo đáng tiếc, những bóng tối làm lu mờ đi ánh quang của Giáo Hội. Cả những điều ấy nữa, trong tinh thần của một tình yêu bất khuất, chúng ta cũng cần phải nhớ tới vào lúc tán tụng và tạ ơn này. Chủ nghĩa tục hóa và thoái hóa Kitô giáo vẫn tiếp tục gia tăng. Ảnh hưởng của đạo lý và luân lý Công giáo liên tục xuống dốc. Nhiều người đã bỏ Giáo Hội, hay nếu còn, họ chỉ chấp nhận một phần giáo huấn Công giáo mà thôi. Tình hình đạo giáo ở Đông Phương là một tình hình đặc biệt đáng lo ngại, vì đa số dân chúng chưa chịu phép rửa và không được giao tiếp với Giáo Hội. Nơi mỗi một vấn đề này chúng ta đều thấy được một thách đố mới. 

 

Chính chư huynh biết được điều ấy hơn ai hết, như được thấy rõ trong bức thư mục vụ ngày 21/9/2004, dịp tưởng niệm 1250 năm tử đạo của Thánh Bônifaciô. Trong bức thư ấy, trích lại lời của vị linh mục Dòng Tên Alfred Delp, chư huynh đã nói rằng “chúng ta đã trở thành một khu vực truyền giáo”. Là người bản quốc của xứ sở rất thân thương của mình đây, tôi đặc biệt cảm thấy được những vấn đề của nó. Hôm nay đây tôi muốn chư huynh hãy tin tưởng vào lòng quí mến và gắn bó của tôi, cùng với lòng quí mến và gắn bó của toàn thể Giám Mục Đoàn, và tôi xin chư huynh hãy cứ đoàn kết và hiên ngang kiên trì trong sứ vụ của chư huynh. Giáo Hội ở Đức cần phải trở thành Giáo Hội truyền giáo hơn bao giờ hết, một Giáo Hội truyền giáo quyết tâm tìm kiếm những đường lối hay nhất để truyền đạt đức tin cho các thế hệ mai hậu.

 

Đó là toàn cảnh được Ngày Giới Trẻ Thế Giới mở ra trước chúng ta: Nó mời chúng ta hãy nhìn đến tương lai. Đối với Giáo Hội, nhất là với các vị chủ chăn, cha mẹ và các nhà giáo dục thì giới trẻ là một lời mời gọi sống động đến với đức tin và hy vọng. Vị Tiền Nhiệm khả kính của tôi, khi chọn cho Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX này chủ đề: “Chúng tôi đến để triều bái Người” (Mt 2:2), thì đã ngầm xác nhận lời mời gọi ấy. Ngài đã phác họa một con đường rõ ràng cho giới trẻ tiến bước. Ngài đã thôi thúc họ tìm kiếm Chúa Kitô, lấy các Nhà Đạo Sĩ làm mô phạm; ngài mời họ hãy theo ngôi sao là những gì phản ảnh Chúa Kitô nơi khung trời của cuộc sống cá nhân và xã hội; ngài huấn luyện họ, bằng tấm gương mãnh liệt song dịu dàng của mình, quì gối xuống trước Vị Thiên Chúa làm người, Con của Trinh Nữ Maria, và nhìn nhận nơi Người Đấng Cứu Chuộc của nhân trần.

 

Cùng một mô phạm nêu lên cho giới trẻ ấy, Đức Gioan Phaolô II cũng muốn cống hiến cả cho các vị chủ chăn của họ nữa, như phương tiện để hướng dẫn thừa tác vụ của các vị nơi thế hệ trẻ cũng như nơi toàn thể gia đình Giáo Hội. Đường Lối, Sự Thật và Sự Sống mà mọi người tìm kiếm, nhất là mọi giới trẻ, đã được trao phó cho những vị chủ chiên chúng ta bởi chính Chúa Kitô là Đấng làm cho chúng ta nên chứng nhân của Người và là thừa tác viên cho Phúc Âm của Người (x Mt 28:18-20). Bởi thế, chúng ta không được giảm sút cường độ tìm kiếm sự thật hay che giấu sự thật, trái lại hãy bảo tồn cái căng thẳng hữu hiệu đang có giữa hai cực: một cái căng thẳng rất tương hợp với đặc tính của con người tân tiến. Với ánh sáng và sức mạnh xuất phát từ tặng ân này, tức là Phúc Âm được Thánh Thần không ngừng làm cho sinh động và chủ động, chúng ta có thể hiên ngang loan báo Chúa Kitô và mời gọi hết mọi người đừng sợ mở lòng mình ra cho Người, vì chúng ta tin rằng nơi Người mới có trọn vẹn sự sống và hạnh phúc.

 

Điều này có nghĩa là trở thành một Giáo Hội hướng về tương lai, do đó là một Giáo Hội đầy hứa hẹn cho các thệ hệ mai này. Thật thế, giới trẻ không tìm kiếm một Giáo Hội xúi bẩy tuổi trẻ mà là một Giáo Hội thực sự trẻ trung trong tinh thần; một Giáo Hội hoàn toàn hướng về Chúa Kitô là Con Người mới. Đó là cuộc dấn thân chúng ta muốn thực hiện hôm nay đây, ở vào giây phút thực sự quan trọng này, ở vào lúc kết thúc biến cố trọng đại đối với tuổi trẻ đây, một biến cố buộc chúng ta nghĩ đến tương lai của Giáo Hội cũng như của xã hội. Chính trong ánh sáng t ích cực và đầy hy vọng này chúng ta có thể tin tưởng đương đầu với những vấn đề khó khăn nhất mà Giáo Hội ở Đức đang phải đối diện. Một lần nữa, giới trẻ đang cống hiến cho chúng ta là chủ chiên của họ một phấn khích bổ ích, vì họ đang xin chúng ta hãy nhất trí, liên kết và can trường. Về phần mình, chúng ta cần phải huấn luyện họ một cách nhẫn nại, sáng suốt và thực tiễn lành mạnh. Tuy nhiên không thể nào có vấn đề dung hòa ngụy tạo, không thể nào có vấn đề pha loãng Phúc Âm.

 

Chư Huynh thân mến, kinh nghiệm 20 năm qua đã dạy cho chúng ta rằng mỗi một Ngày Giới Trẻ Thế Giới tiêu biểu cho một thứ khởi đầu mới đối với việc chăm sóc mục vụ cho giới trẻ ở quốc gia chủ sự. Việc sửa soạn cho biến cố ấy là những gì động viên nhân sự cùng các phương tiện, và việc cử hành ngày này làm dậy lên lòng nhiệt thành cần phải được tung tỏa ra bằng đường lối hay nhất. Nó chất chứa thứ năng lực khả thể lớn lao có thể tăng trưởng khi nó lan phát. Ở đây tôi đang nghĩ đến các giáo xứ, các hiệp hội giáo dân, các phong trào; đến các vị linh mục, tu sĩ, giáo lý viên và các cán sự trẻ trung. Tôi nghĩ rằng ở Đức một số rất lớn trong họ đã tham gia vào biến cố này. Tôi ước nguyện là đối với hết mọi người nó sẽ là một cơ hội thực sự tăng trưởng lòng mến yêu Chúa Kitô và Giáo Hội, và tôi xin tất cả mọi người hãy tiếp tục hợp tác, trong một tinh thần phục vụ mới, để cải tiến việc chăm sóc mục vụ cho giới trẻ.

 

Đa số người trẻ Đức quốc sống trong những hoàn cảnh về xã hội và kinh tế thoải mái, tuy nhiên cũng không thiếu những trường hợp khó khăn. Nơi tất cả mọi tầng lớp xã hội, giới trẻ xuất thân từ các gia đình bị đổ vỡ với con số càng ngày càng gia tăng. Vấn đề thất nghiệp nơi giới trẻ ở Đức tiếc thay cũng gia tăng. Ngoài ra nhiều con người nam nữ trẻ cảm thấy bị bối rối, thiếu những giải đáp thực sự cho các vấn đề của họ về ý nghĩa của sự sống và sự chết, về hiện tại và tương lai của họ. Nhiều ý nghĩ được xã hội tân tiên bày ra chẳng đi đến đâu, và nhiều giới trẻ cuối cùng đã sa vào tình trạng nghiện rượu và nghiện hút, hoặc bị rơi vào cạm bẫy của những nhóm cực đoan. Một số giới trẻ Đức quốc, nhất là ở phía Đông, bản thân chưa bao giờ được gặp gỡ Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô.

 

Ngay cả ở những miền vốn theo truyền thống Công giáo, giáo huấn về đạo nghĩa và giáo lý không phải lúc nào cũng có thể hình thành những liên hệ bền chặt giữa giới trẻ và cộng đồng Giáo Hội đâu. Vì lý do này mà Giáo Hội ở Đức mới quyết tâm tìm những đường lối mới để vươn ra với giới trẻ hầu loan báo Chúa Kitô cho họ. Ngày Giới Trẻ Thế Giới, theo thành ngữ thân thương của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, bao giờ cũng là một “phòng thí nghiệm” ngoại hạng cho vấn đề này.

 

Nó cũng là một phòng thí nghiệm của các ơn kêu gọi nữa, vì trong thời gian của mấy ngày này, Chúa sẽ không thôi làm cho lời mời gọi của Người được lắng nghe nơi tâm khảm của nhiều giới trẻ. Nó là một lời mời gọi dễ dàng lãnh nhận và thấm thía trong tâm hồn, nếu nó được cắm rễ sâu xa để nhờ đó sinh hoa kết trái tốt đẹp lâu bền. Bởi vậy mà nhiều chứng từ của giới trẻ và các đôi phối ngẫu trẻ cho thấy rằng cảm nghiệm về những cuộc gặp gỡ thế giới này, khi nó nở ra trong cuộc hành trình đức tin, nhận thức và phục vụ giáo hội, có thể dẫn đến những quyết định chín chắn đối với vấn đề hôn nhân, vấn đề sống đời tu sĩ, vấn đề phục vụ làm linh mục và thừa sai. Trước tình trạng thiếu hụt linh mục và tu sĩ, một tình trạng đang tiến đến những tỷ lệ thê thảm ở Đức quốc đây, tôi xin chư huynh, hỡi chư huynh thân mến, hãy tái cương quyết phát động việc chăm sóc mục vụ cho các ơn gọi, để tiến đến với các giáo xứ, các trung tâm giáo dục và các gia đình.

 

Việc chăm sóc mục vụ cho giới trẻ và ơn gọi thật sự có liên quan đến việc chăm sóc mục vụ cho gia đình. Tôi chẳng nói điều gì là mới mẻ khi tôi nhận định rằng gia đình ngày nay đang đương đầu với nhiều vấn đề và nhiều khó khăn. Tôi thiết tha kêu gọi chư huynh đừng thất đảm, song hãy tin tưởng thi hành việc dấn thân của mình trong vấn đề nâng đỡ các gia đình Kitô hữu. Mục tiêu chúng ta tìm kiếm đó là bảo đảm rằng các đôi phối ngẫu có thể hoàn thành sứ vụ của họ một cách trọn vẹn, nhất là sự vụ truyền bá phúc âm hóa cho trẻ em và giới trẻ.

 

Nơi giới trẻ, các hội đoàn và phong trào đóng một vai trò quan trọng, những hội đoàn và phong trào này chắc chắn là một phương tiện làm cho giới trẻ được phong phú rất nhiều. Giáo Hội cần phải trân quí chúng, đồng thời cần phải hướng dẫn chúng bằng sự khôn ngoan mục vụ, nhờ đó chúng sẽ góp phần một cách tốt đẹp nhất, qua những tặng ân khác nhau của chúng, vào việc xây dựng cộng đồng, không đụng độ nhau mà tôn trọng nhau cùng hoạt động với nhau để làm bừng lên nơi giới trẻ niềm vui của đức tin, lòng mến yêu Giáo Hội và lòng say mê với Vương Quốc của Thiên Chúa. Vì mục đích ấy những người có liên hệ với giới trẻ và cho giới trẻ cần phải trở thành những chứng nhân sống động cho Chúa Kitô và trung thành với giáo huấn của Giáo Hội. Cũng được áp dụng như thế vào lãnh vực giáo dục và giáo lý Công giáo: tôi tin tưởng rằng chư huynh sẽ cẩn trọng bảo đảm rằng những con người được chọn làm thày cô dạy về tôn giáo và những giáo lý viên là những người được huấn luyện kỹ lưỡng và trung thành với huấn quyền của Giáo Hội. Một phương trợ hữu dụng cho việc dấn thân đào luyện thế hệ trẻ này chắc chắn sẽ là cuốn Tổng Tắt Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, một cuốn sách thu thập và tổng hợp tất cả mọi yếu tố chính yếu của đức tin và luân lý Công giáo bằng một ngôn ngữ rõ ràng và dễ hiểu.

 

Chư huynh trong hàng giáo phẩm thân mến, nếu Chúa muốn sẽ có những cơ hội khác để đi sâu hơn nhiều vấn đề cần đến việc chăm sóc mục vụ của chư huynh cũng như của tôi. Trong dịp này, tôi muốn chia sẻ với chư huynh về sứ điệp của cuộc hành trình cao cả này của giới trẻ. Tôi dường như cảm thấy rằng, tận cùng của cảm nghiệm này, đó là giới trẻ muốn nói với chúng ta rằng: “Chúng tôi đã đến bái thờ Người. Chúng tôi đã tìm thấy Người. Giờ đây xin hãy giúp chúng tôi trở thành môn đệ và chứng nhân của Người”.

 

Đó là một lời kêu gọi gay go, thế nhưng an ủi nhiều biết mấy đối với tấm lòng của một vị mục tử! Chớ gì hình ảnh về những ngày đầy hy vọng ở Cologne đây bảo trì thừa tác vụ của chư huynh, thừa tác vụ của chúng ta. Tôi xin cống hiến cho chư huynh những lời nồng nàn khích lệ cùng với lời yêu cầu thiết tha theo tình huynh đệ là hãy sống và hoạt động với nhau trong hiệp nhất, theo mối hiệp thông có tột đỉnh của nó và nguồn mạch vô tận của nó nơi Thánh Thể. Trao phó chư huynh cho Đức Maria Rất Thánh, Mẹ của Chúa Kitô và của Giáo Hội, tôi thân ái ban cho mỗi chư huynh cũng như cho tất cả mọi cộng đồng của chư huynh phép lành tòa thành đặc biệt.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 21/8/2005

 

 

TOP

 

 

ĐTC Biển Đức XVI tạ từ Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX 21/8/2005: “Tôi hy vọng rằng biến cố này sẽ vẫn cón sâu đậm nơi đời sống của người Công Giáo Đức Quốc

 

Vào lúc kết thúc của chuyến viếng thăm đầu tiên Đức quốc này của tôi với tư cách là Giám Mục Rôma và là Vị Thừa Kế Thánh Phêrô, tôi cần phải bày tỏ một lần nữa lòng biết ơn chân thành của tôi đối với việc tiếp đón tôi, tiếp đón các vị cộng tác của tôi và nhất là tiếp đón nhiều giới trẻ đến Cologne từ hết mọi châu lục vì Ngày Giới TRẻ Thế Giới này. Chúa đã kêu gọi tôi tiếp tục Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II yêu dấu của chúng ta, vị được soi động khởi xướng lên một loạt Ngày Giới Trẻ Thế Giới. Tôi đã hân hoan tiếp tục di sản này, và tôi tạ ơn Chúa đã ban cho tôi cơ hội để cảm nghiệm thấy trong cuộc đồng hành với rất nhiều giới trẻ bước tiến thêm nữa này trong cuộc hành trình thiêng liêng của họ từ châu lục này đến châu lục kia, để bước theo Thập Tự Giá của Chúa Kitô.

 

Tôi cám ơn tất cả những ai đã hết sức hiệu nghiệm trong việc bảo đảm rằng hết mọi giai đoạn của cuộc tụ hợp ngoại thường này được diễn tiến một cách thứ tự và yên ổn. Những ngày cùng nhau sống này đã cống hiến cho nhiều con người nam nữ trẻ trung đến từ khắp nơi trên thế giới cơ hội để trở nên quen thuộc hơn với Đức quốc. Tất cả chúng ta đã quá rõ về sự dữ xuất phát từ quê hương của chúng ta trong thế kỷ 20, và chúng tôi hổ thẹn đớn đau nhìn nhận sự kiện này. Trong những ngày này, nhờ Chúa, vấn đề trở nên rất rõ ràng là đã có và đang có một Đức quốc khác, một mảnh đất của những nguồn mạch về nhân bản, văn hóa và thiêng liêng đặc thù. Tôi hy vọng và nguyện cầu để những nguồn mạch ấy, nhờ không ít các biến cố của những ngày mới đây, một lần nữa có thể được quảng bá hơn nữa trên khắp thế giới!

 

Giờ đây giới trẻ từ các nơi trên thế giới có thể trở về với những gì thăng hoa bởi các cuộc giao tiếp và cảm nghiệm của họ về cuộc đối thoại và mối hiệp thông ở các miền khác nhau nơi quê hương của chúng ta. Tôi tin rằng việc họ lưu ngụ, được đánh dấu bằng lòng nhiệt thành trẻ trung của họ, sẽ tồn tại như là một ký ức đẹp đẽ với thành phần cống hiến cho họ tấm lòng nồng nhiệt hiếu khách ấy, và cũng sẽ là một dấu hiệu hy vọng cho Đức quốc. Thật thế, người ta có thể nói rằng trong những ngày này Đức quốc đã là tâm điểm của thế giới Công giáo. Giới trẻ từ hết mọi châu lục và văn hóa, qui tụ lại trong đức tin chung quanh các vị chủ chiên của chúng cũng như vị Thừa Kế Thánh Phêrô đã cho chúng ta thấy một Giáo Hội trẻ trung, một Giáo Hội tìm cách mướng tượng và can đảm hình thành dung nhan của một nhân loại chân chính và quảng đại hơn. Theo gương của các Nhà Đại Sĩ, những con người nam nữ trẻ trung ấy lên đường để gặp gỡ Chúa Kitô, theo như đề tài của Ngày Giới Trẻ Thế Giới này. Giờ đây họ đang trở về các vùng đất và phố xá của họ để làm chứng cho ánh sáng, sự mỹ và quyền năng của Phúc Âm mà họ vẫn cảm thấy mới mẻ.

 

Tôi cũng cần phải bày tỏ lòng biết ơn với tất cả những ai mở lòng và nhà mình ra cho vô số khách hành hương trẻ trung. Tôi cảm tạ các vị thẩm quyền trong chính phủ, cảm tạ những vị lãnh đạo chính trị và các phân bộ dân sự và quân sự khác nhau, cũng như dịch vụ an ninh và nhiều tổ chức thiện nguyện đã dồn nỗ lực vào việc sửa soạn và hiện thực mỗi một khởi động và biến cố của Ngày Giới Trẻ Thế Giới này. Tôi cũng đặc biệt cám ơn tất cả những ai phác họa ra những giây phút nguyện cầu và suy niệm, cũng như các cuộc cử hành phụng vụ, những gương mẫu sống động của tính cách sinh động hân hoan của niềm tin làm phấn khởi thế hệ này nơi thời đại của chúng ta. Tôi cũng bày tỏ lòng biết ơn với các vị lãnh đạo thuộc các giáo hội cùng các cộng đồng giáo hội khác, và cho cả các vị đại diện thuộc các tôn giáo khác muốn hiện diện trong cuộc gặp gỡ quan trọng này. Tôi bày tỏ niềm hy vọng là chúng ta có thể củng cố việc dấn thân chung của chúng ta trong vấn đề huấn luyện thế hệ trẻ theo các giá trị về nhân bản và thiêng liêng là những gì bất khả châm chước để xây dựng một tương lai thực sự tự do và an bình.

 

Tôi hết sức cảm tạ ĐHY Joachim Meisner, TGM Cologne, giáo phận đã chủ sự cuộc họp quốc tế này, cảm tạ các vị giám mục Đức, có vị chủ tịch hội đồng giám mục là ĐHY Karl Lehmann, cám tạ các vị linh mục, tu sĩ nam nữ, các cộng đồng giáo xứ, các hiệp hội và phong trào giáo dân đã vận dụng nghị lực để giúp giới trẻ hiện diện gặt hái được những hoa trái thiêng liêng nơi việc lưu ngụ của họ. Tôi cám ơn đặc biệt giới trẻ ở Đức, thành phần đã giúp đỡ bằng nhiều cách thức khác nhau, giới trẻ khác, và chia sẻ với họ những giây phút đức tin thực sự đáng ghi nhớ. Tôi hy vọng rằng biến cố này sẽ còn đậm nét nơi đời sống của người Công giáo Đức và sẽ là một động lực thúc đẩy việc vươn rộng mới về lãnh vực thiêng liêng và tông đồ! Chớ gì Phúc Âm được tất cả các môn đệ của Chúa Kitô lãnh nhận một cách nguyên vẹn và chứng kiến một cách sâu xa ý thức, nhờ đó nó trở thành một nguồn mạch canh tân chân thực đối với toàn xã hội Đức quốc, cũng nhờ việc đối thoại với các cộng đồng Kitô hữu khác nhau và với các tín đồ thuộc các tôn giáo khác.

 

Sau hết, tôi xin trân trọng và thân ái chào các vị thẩm quyền về chính trị, dân sự và ngoại giao hiện diện ở nghi thức lên đường này. Tôi đặc biệt cám ơn ông Thủ Tướng, và tôi xin ông làm ơn chuyển lòng biết ơn sâu xa của tôi tới ông tổng thống cộng hòa, tới các phần tử trong chính quyền, cũng như tới toàn thể nhân dân Đức quốc. Đầy lòng cảm mến và ký ức về những ngày này, giờ đây tôi trở về Rôma. Tôi xin muôn vàn phép lành của Chúa cho một tương lai yên hạn thịnh vượng, hòa hợp và an bình.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 21/8/2005

 

 

TOP

 

ĐTC Biển Đức XVI trong Buổi Triều Kiến Chung Thứ Tư 24/8/2005: “Hôm nay đây, tôi cũng muốn cùng anh chị em ôn lại những ngày tôi ở Cologne vào dịp Ngày Giới Trẻ Thế Giới”.

 

Sau đây là nguyên văn bài chia sẻ liên quan đến cảm nhận của ngài về Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX của ĐTC Biển Đức XVI tại Sảnh Đường Phaolô VI vào buổi triều kiến chung hằng tuần, Thứ Tư 24/8/2005, tạm thay cho loạt bài giáo lý về Thánh Vịnh đang được ngài tiếp tục những gì còn dang dở của ĐTC Gioan Phaolô II.

 

Anh Chị Em thân mến!

 

Như Đức Gioan Phaolô II thường làm sau mỗi cuộc tông du của ngài, hôm nay đây, tôi cũng muốn cùng anh chị em ôn lại những ngày tôi ở Cologne vào dịp Ngày Giới Trẻ Thế Giới. Đấng Quan Phòng Thần Linh đã muốn rằng chuyến tông du đầu tiên của tôi ngoài Ý quốc cần phải về quê hương sinh quán của tôi như mục tiêu của chuyến đi ấy, và chuyến đi này phải vào dịp đại hội của giới trẻ thế giới, 20 năm sau Ngày Giới Trẻ Thế Giới hình thành bởi trực giác khôn ngoan của Vị Tiền Nhiệm đáng nhớ của tôi.

 

Sau khi trở về, tôi hết lòng tạ ơn Chúa vệ tặng ân chuyến hành hương này, một chuyến hành hương đầy những kỷ niệm lưu luyến. Tất cả chúng ta đều cảm thấy đó là một tặng ân Thiên Chúa ban. Dĩ nhiên là có nhiều người cộng tác vào để thực hiện, nhưng cuối cùng ân sủng về cuộc gặp gỡ này vẫn là tặng ân của Trời Cao, của Chúa. Tôi đồng thời cũng cám ơn tất cả những ai dấn thân và thiết tha sửa soạn và tổ chức cuộc gặp gỡ này ở tất cả mọi giai đoạn của nó: trước hết là ĐHY Joachim Meisner, TGM Cologne; ĐHY Karl Lehmann, chủ tịch hội đồng giám mục Đức, và các vị giám mục Đức là những vị tôi thật sự đã được gặp gỡ vào lúc kết thúc cuộc viếng thăm của tôi.

 

Tôi cám ơn các vị có thẩm quyền, thành phần tổ chức và thiện nguyện viên góp phần vào việc tổ chức này. Tôi cũng biết ơn những con người và những cộng đồng trên khắp thế giới đã hỗ trợ cuộc gặp gỡ này bằng lời nguyện cầu, và biết ơn thành phần bệnh nhân đã dâng khổ đau của mình cho sự thành đạt thiêng liêng của cuộc gặp gỡ quan trọng ấy.

 

Mối quyến luyến tuyệt vời với giới trẻ trong Ngày Giới Trẻ Thế Giới này được bắt đầu từ lúc tôi đến phi trường Cologne-Bonn và trở nên cảm kích hơn khi tôi đi tầu trên sông Rhine từ bến Rodenkirchenbruecke tới Cologne được hộ tống bởi 5 con tầu tiêu biểu cho 5 châu. Tôi cũng cảm kích nữa là lúc dừng chân trước đầu cầu Poller Rheinwiesen là nơi có cả hằng ngàn ngàn giới trẻ đang đợi chờ tôi, thành phần tôi chính thức gặp gỡ họ lần đầu tiên, một cuộc gặp gỡ đáng gọi là “một cuộc hội lễ hân hoan” và là một cuộc gặp gỡ lấy làm tâm niệm những lời của các Nhà Đạo Sĩ: “Vua dân Do Thái mới sinh ra ở đâu?” (Mt 2:2a).

 

Chính các Nhà Đạo Sĩ là những người “hướng đạo” của thành phần hành hương trẻ trung đến với Chúa Kitô. Thật là ý nghĩa biết bao khi tất cả những điều này xẩy ra vào lúc chúng ta đang sửa soạn kết thúc Năm Thánh Thể được Đức Gioan Phaolô II mở ra! “Chúng tôi đã đến tôn thờ Người”: Đề tài này của cuộc gặp gỡ đây, về lý thuyết, kêu gọi hết mọi người hãy theo gương các Nhà Đạo Sĩ, và hãy cùng nhau thực hiện với họ một hành trình nội tâm hoán cải về với Đấng Emmanuel, Vị Thiên Chúa ở cùng chúng ta, để nhận biết Người, gặp gỡ Người, tôn thờ Người, và sau cuộc gặp gỡ và tôn thờ Người ấy, lên đường mang trong tinh thần, trong thẳm cung của con người mình, ánh sáng và niềm vui của Người.

 

Ở Cologne, giới trẻ đã có nhiều dịp suy nghĩ sâu xa về những đề tài thiêng liêng này vả cảm thấy được Thánh Thần thôi thúc trở thành những nhân chứng của Chúa Kitô, Đấng trong Thánh Thể, đã hứa thực sự ở lại giữa chúng ta cho đến tận thế. Tôi nhớ lại những giây phút khác nhau Tôi được chia sẻ với họ, nhất là vào đêm tối Canh Thức Thứ Bảy và cuộc cử hành bế mạc Chúa Nhật. Nhiều triệu giới trẻ khác trên khắp thế giới đã tham dự vào những cuộc biểu lộ đức tin khơi dạy tâm can này, nhờ những gắn nối khéo léo của truyền thanh và truyền hình.

 

Thế nhưng, tôi muốn nhắc lại ở đây một cuộc gặp gỡ đặc biệt, cuộc gặp gỡ với thành phần chủng sinh, những con người trẻ được kêu gọi theo Chúa Kitô là Tôn Sư và là Mục Tử khít khao hơn. Tôi muốn có giờ riêng giành cho họ, để nhấn mạnh tới khía cạnh ơn gọi tiêu biểu của Ngày Giới Trẻ Thế Giới. Không phải là ít ơn gọi làm linh mục và sống đời tận hiến tu trì đã phát triển trong 20 năm qua đâu, những cơ hội thuận lợi để Thánh Thần lên tiếng kêu gọi.

 

Rất hợp với môi trường phong phú hy vọng của Ngày Cologne ấy là cuộc gặp gỡ đại kết với thành phần đại diện các Giáo Hội cùng các cộng đồng giáo hội khác. Vai trò của Đức quốc trong vấn đề đối thoại đại kết là vai trò quan trọng, hoặc là vì lịch sử của những cuộc phân rẽ buồn thảm hay là vì đã góp phần đáng kể trên con đường hòa giải. Ngoài ra, tôi hy vọng rằng việc đối thoại, như là một cuộc trao đổi những tặng ân chứ không phải trao đổi ngôn từ, sẽ góp phần vào việc làm cho cái “dạo khúc mở đầu” êm đềm và hòa hợp ấy là mối hiệp nhất Công giáo được tăng triển. Theo viễn quan ấy thì Ngày Giới Trẻ Thế Giới tiêu biểu cho một “phòng thí nghiệm” đại kết đáng kể vậy.

 

Và làm sao tôi không  bồi hồi sống lại cuộc viếng thăm Hội Đường Do Thái ở Cologne là địa điểm Trung Ương của cộng đồng Do Thái cổ nhất chứ? Cùng với an hem Do Thái của chúng ta, tôi đã nhớ đến biến cố Shoah và 60 năm kỷ niệm việc giải tỏa các trại tập trung Nazi. Ngoài ra, năm nay còn là năm đánh dấu 40 năm bản tuyên ngôn “Nostra Aetate” của Công Đồng Chung Vaticanô II, một tuyên ngôn mở ra một thời điểm mới của việc đối thoại cũng như của tình đoàn kết thiêng liêng giữa người Do Thái và Kitô hữu, của việc quí trọng những truyền thống của các cao cả khác. Trong số đó Hồi giáo giữ một vị thế đặc biệt, một tôn giáo có thành phần tín đồ tôn thờ một vị Thiên Chúa duy nhất và thích nói đến Tổ Phụ Abraham. Vì lý do ấy tôi muốn gặp gỡ thành phần đại diện một số cộng đồng Hồi giáo, những người tôi bày tỏ niềm hy vọng và quan tâm về thời điểm lịch sử khó khăn đang xẩy ra, hy vọng rằng vấn đề cuồng tín và bạo động sẽ bị triệt tiêu để chúng ta có thể hợp tác với nhau trong việc luôn luôn bênh vực phẩm vị con người cũng như trong việc bảo vệ các quyền lợi căn bản của họ.

 

Anh chị em thân mến, từ lòng của Âu Châu “cổ”, một châu lục trong thế kỷ vừa qua thật là đáng tiếc đã chứng kiến thấy những cuộc xung đột kinh hoàng và những chế độ phi nhân, giới trẻ đã tung ra cho nhân loại thuộc thời điểm của chúng ta đây một sứ điệp hy vọng không làm thất vọng, vì nó được căn cứ vào Lời Chúa làm người nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết và sống lại vì phần rỗi của chúng ta. Ở Cologne, giới trẻ đã gặp gỡ và tôn thờ Emmanuel, vị Thiên Chúa ở với chúng ta, nơi mầu nhiệm Thánh Thể, và hiểu hơn rằng Giáo Hội là đại gia đình là nơi Thiên Chúa làm thành nơi hiệp thông và hiệp nhất giữa mọi châu lục, văn hóa và chủng tộc, có thể nói là “một nhóm hành hường lớn” được Chúa Kitô dẫn dắt, ngôi sao sáng lạnh đang tỏa chiếu lịch sử.

 

Chúa Giêsu biến mình thành người đồng hành nơi Thánh Thể, và nơi Thánh Thể, như tôi nói trong bài giảng lễ bế mạc, khi sử dụng hình ảnh vốn quen biết của vật lý học, Người làm thực hiện “việc phân tâm nguyên tử” trong thâm tâm con người. Chỉ có cái bùng nổ sâu xa này của sự thiện thắng vượt sự dữ này mới ban sự sống cho các cuộc biến đổi khác cần cho việc thay đổi thế giới. Bởi thế chúng ta hãy cầu nguyện để giới trẻ ở Cologne ấy mang theo mình ánh sáng của Chúa Kitô, Đấng là sự thật và là tình yêu, và sẽ chiếu tỏa nó ra khắp mọi nơi. Nhờ đó chúng ta mới có thể chứng kiến thấy một mùa xuân hy vọng ở Đức quốc, ở Âu Châu và trên toàn thế giới.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, theo Zenit ngày 24/8/2005

 

TOP

 

 

ĐHY TGM Washington DC với Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX: “Họ có thể nếm được và thấy được tính chất hoàn vũ của Giáo Hội

 

ĐHY Theodore McCarrick, 75 tuổi, TGM Washington DC Hoa Kỳ, vị đã tham dự Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX tại Cologne Đức Quốc, đã chia sẻ với mạng điện toán Zenit những cảm nhận của mình về biến cố này như sau:

 

Vấn:     Ngày Giới Trẻ Thế Giới XX có ý nghĩa như thế nào đối ĐHY cũng như với nhóm giáo phận của ngài?

 

Đáp:    Tôi nghĩ rằng đó là một cảm nghiệm rất hay – như cảm nghiệm của mỗi một Ngày Giới Trẻ Thế Giới vậy. Khi Vị Đại Giáo Hoàng Gioan Phaolô II còn làm giáo hoàng của chúng ta, những Ngày Giới Trẻ Thế Giới đã là một thời điểm hân hoan và qui tụ của giới trẻ Công Giáo, và dĩ nhiên tôi nghĩ rằng cũng xẩy ra như thế lần này với Giáo Hoàng Biển Đức XVI và tôi lấy làm vui phải nói rằng quả thật là như thế…

 

Giới trẻ hết sức hào hứng về việc gặp gỡ vị tân Giáo Hoàng này, về việc nhìn thấy ngài và lắng nghe ngài, và ngài đã làm cho họ được mãn nguyện.

 

ĐTC tỏ ra rất nồng hậu, ngài tỏ ra rất từ ái – ngài có một kiểu cách khác với vị tiền nhiệm của mình, dĩ nhiên vì ngài là một con người khác và ngài muốn là con người của mình.

 

Ngài là một con người rất chân thực và tôi nghĩ rằng ngài đã tỏ ra như thế đối với họ. Họ biết rằng họ đang cảm thấy một cái gì khác thế nhưng đó là một cảm nghiệm rất mãn nguyện và thánh đức.

 

Tuổi trẻ đã tìm thấy một con người rất khiêm tốn, vị rất thông minh, rất khôn ngoan và rất lỗi lạc, nhưng cũng là một con người rõ ràng là cảm thấy vui mừng được ở với họ khi ngài vẫy chào và mỉm cười…
 

Vấn:     Chắc là phải có những yếu tố nào khác giúp vào việc làm bừng lên cái cảm quan thánh thiện này?

 

Đáp:    Vấn đề ca nhạc thật là tuyệt vời. Tôi rất cảm kích trước vấn đề ca nhạc được thành phần tổ chức dàn dựng. Ở đêm canh thức và rồi váo Thánh Lễ Chúa Nhật, những yếu tố về ca nhạc làm cho tôi cảm thấy lâng lâng.

 

Sự kiện thuộc về phụng vụ trang trọng này đã khiến tôi lấy một cuốn sách dư về Thánh Lễ ở ghế ngồi của tôi. Giờ đây tôi mang nó về Washington và nếu cần chúng tôi học hỏi một số bài thánh ca ấy vì chúng rất ư là mãnh liệt. Tôi nghĩ rằng thành phần giới trẻ tham phần vào thứ ca nhạc này họ thực sự cũng cảm thấy phấn khởi.

Vấn:     Hiển nhiên là tuần lễ này và những biến cố diễn ra được nổi bật bởi một số việc biểu lộ tuyệt vời, nhất là lại được các nhóm quốc tế thực hiện. Những việc này thu hút giới trẻ hướng về đức tin ra sao?

 

Đáp:    Nhóm chúng tôi khoảng 300 người từ Washington theo chỗ chúng tôi biết… bởi thế đó là một cái bắt đầu khá lắm. Tôi nghĩ rằng một trong những điều quan trọng nhất đối với giới trẻ của chúng ta đó là được dịp gặp gỡ những người thuộc các nền văn hóa và các quốc gia khác.

 

Họ có thể nói ngay với quí vị rằng – “Ồ, tôi đã gặp một chàng ở Phi Châu… hay ở Nam Mỹ… Tôi đã gặp một nàng ở Balan”, và đó là một điều tuyệt vời, để họ có thể nếm được và thấy được tính chất hoàn vũ tính này của Giáo Hội. Chính tôi đã thường có dịp nói và giảng bằng Đức ngữ, những gì làm cho tôi nhớ lại vấn đề học vấn của tôi ở Thụy Sĩ trước đây trong đời.

 

Họ đã biết đến tính chất này và chúng tôi đã dạy họ về tính chất ấy trước đây và thực sự phơi bày tính chất ấy ra cho họ, nhưng ở nơi đây họ thấy thấy tính chất này hiện lên ngay trước mắt họ.

 

Người ta nói các thứ ngôn ngữ khác nhau mà chúng không hiểu – tất cả đều bàn đến những mầu nhiệm cao cả về tôn giáo của chúng ta được họ theo đuổi. Đó là một trong những điều đặc biệt họ sẽ mãi trân quí.

Vấn:     ĐHY McCarrick, bản thân ngài có cơ hội nào sống điều này chưa?

 

Đáp:    Tôi được vinh dự có hai buổi dạy giáo lý – một buổi vào Thứ Tư với 10 ngàn người và buổi này thật là tuyệt! Nó ở một vận đồng trường và tôi nghĩ là thành quả khá lắm – tôi bị thu hút vào nó vì Chúa chắc chắn là hiện diện nơi đám trẻ này.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo Zenit ngày 28/8/2005

 

TOP