VI 

CÁC NHÂN VIÊN CỦA VIỆC TRUYỀN BÁ PHÚC ÂM HÓA 

 

59.  Toàn Thể Giáo Hội là Truyền Giáo

 

Nếu con người loan báo trên thế giới này Phúc Âm cứu độ, thì họ làm như thế theo lệnh của, nhân danh của và với ơn của Chúa Kitô Cứu Thế. “Không thể nào có người rao giảng nếu họ không được sai đi” (Rm.10:15), vị được cho là nhà truyền bá phúc âm hóa vĩ đại nhất đã viết như thế. Không ai có thể làm điều ấy nếu họ không được sai đi.

 

Thế nhưng, vậy ai là người có sứ mạng thực hiện việc truyền bá phúc âm hóa?

 

Công Đồng Chung Vaticanô II đã trả lời vấn nạn này một cách rõ ràng: đó là, Giáo Hội “theo lệnh truyền thần linh, có nhiệm vụ ra đi khắp thế gian rao giảng phúc âm cho mọi tạo vật” (Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo Dignitaties Humanae, đoạn 13: AAS 58 – 1966 – p.939; xem Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 5: AAS 57 – 1965 – pp.7-8; Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 1: AAS 58 – 1966 – 947). Ở một đoạn văn khác, “... toàn thể Giáo Hội là truyền giáo, và công việc truyền bá phúc âm hóa là nhiệm vụ căn bản của Dân Chúa” (Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 35: AAS 58 – 1966 – 983).

 

Chúng ta đã đề cập đến mối liên kết sâu xa này giữa Giáo Hội và việc truyền bá phúc âm hóa. Trong khi loan báo vương quốc của Thiên Chúa và xây dựng vương quốc này, Giáo Hội hình thành chính mình giữa lòng thế giới như một dấu hiệu và là một dụng cụ của vương quốc đang trị đến và sẽ trị đến này. Công Đồng Chung Vaticanô II lập lại lời diễn tả sau đây của Thánh Âu-Quốc-Tinh về hoạt động truyền giáo của 12 Vị: “Họ đã rao giảng lời chân lý và đã làm nẩy sinh ra các Giáo Hội” (Thánh Âu-Quốc-Tinh, Enarratio in Ps 44:23: CCL XXXVIII, p. 510; xem Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 1: AAS 58 – 1966 – 947).

 

60.  Tác Động của Giáo Hội

 

Nhận thấy rằng Giáo Hội đã được sai đi và được lệnh phúc âm hóa thế giới phải làm cho chúng ta ý thức lại hai xác tín.

           

Xác tín thứ nhất, đó là: việc truyền bá phúc âm hóa không phải là một tác động cá nhân và là một tác động lẻ loi đối với một ai cả; nó là một tác động có tính cách ăn sâu vào giáo hội. Khi một giảng viên, giáo lý viên hay chủ chiên âm thầm nhất, ở một miền đất xa xăm nhất, rao truyền Phúc Âm, quây quần cộng đoàn nhỏ bé của mình lại hay ban phát các bí tích, cho dù đơn độc một mình, là vị ấy đang thực hiện một tác động có tính cách giáo hội, và tác động của họ nhất định gắn liền với hoạt động truyền bá phúc âm hóa của toàn thể Giáo Hội, bởi những liên hệ về cơ cấu, cũng như bởi những liên hệ vô hình sâu xa trong trật tự của ân sủng nữa. Điều này nói lên rằng, vị ấy tác động không vì sứ vụ qui về cho mình, hay theo cảm hứng cá nhân, mà là hiệp nhất với sứ vụ của Giáo Hội và nhân danh Giáo Hội.

           

Từ đó mới có niềm xác tín thứ hai: đó là, khi mỗi một người truyền bá phúc âm hóa nhân danh Giáo Hội, một Giáo Hội thực hiện việc này theo lệnh Chúa truyền, thì không có một nhà truyền bá phúc âm hóa nào được nắm chủ quyền tuyệt đối nơi hoạt động truyền bá phúc âm hóa của mình, bằng khả năng phán quyết trong việc làm ấy, theo tiêu chuẩn và những quan điểm cá nhân; họ hành động trong việc hiệp thông với Giáo Hội và với các vị chủ chiên của Giáo Hội.

           

Chúng ta đã ghi nhận rằng Giáo Hội đang truyền bá phúc âm hóa một cách toàn diện và toàn vẹn. Điều này có nghĩa là, trong toàn thế giới, cũng như ở từng phần thế giới, có sự hiện diện của Giáo Hội, Giáo Hội cảm thấy có trách nhiệm đối với công việc truyền đạt Phúc Âm.

 

61.  Quan Điểm về Giáo Hội Hoàn Vũ

 

Đến phần suy niệm này, Chúng Tôi muốn ngưng lại với Qúi huynh và con cái nam nữ ở một vấn đề quan trọng đặc biệt vào lúc này đây. Trong việc cử hành phụng vụ, trong việc làm chứng trước quan quyền và kẻ hành xử, cũng như trong các bản văn hộ giáo của mình, các Kitô hữu tiên khởi lúc nào cũng sẵn sàng cho thấy đức tin sâu xa của mình nơi Giáo Hội, bằng việc diễn tả Giáo Hội như đang lan tràn khắp thế giới. Họ hết sức ý thức được việc họ thuộc về một cộng đồng lớn không bị giới hạn trong không gian và thời gian này: Từ Abel công chính cho tới con người được tuyển chọn cuối cùng (xem Thánh Grêgôry Cả, Homil. in Evangelica 19, 1: PL 76, 1154), “thật sự cho đến tận cùng trái đất” (Acts 1:8; xem Didache 9, 1: Funk, Patres Apostolici 1, 22), “cho đến tận cùng thời gian” (Mt.28:20).

 

Đó là cách Chúa muốn Giáo Hội của Người phải trở nên: phải trở nên phổ quát, trở nên một cây vĩ đại với cành lá làm tổ trú cho chim trời (x.Mt.13:32), trở thành một màng lưới bắt đủ mọi thứ cá (x.Mt.13:47), hay một mẻ lưới đầy Phêrô kéo lên bắt được 153 con cá lớn (x.Jn.21:11), trở thành một đàn chiên dưới quyền chăn dắt của vị chủ chiên duy nhất (x.Jn.10:1-16). Một Giáo Hội hoàn vũ không giới tuyến hay biên cương bờ cõi, ngoại trừ, tiếc thay, những ai có lòng trí của một con người tội lỗi.

 

62.  Quan Điểm về Từng Giáo Hội riêng

 

Tuy nhiên, trong thực hành, Giáo Hội hoàn vũ này lại nhập thể nơi các Giáo Hội riêng, là nơi được làm nên bởi một phần thực sự nhân loại ở đâu đó, nói cùng một ngôn ngữ này nọ, hưởng cùng một văn hóa cha ông để lại, có cùng một vũ trụ quan, cùng một quá trình lịch sử, cùng một hạ tầng lớp nhân loại riêng. Tính cách biết đón nhận sự phong phú nơi từng Giáo Hội riêng biệt tương hợp với tính cách nhậy cảm đặc biệt của con người tân tiến ngày nay.

 

Chúng ta phải cẩn thận đừng quan niệm Giáo Hội hoàn vũ như là một tổng hợp, hay nói rõ hơn, tương tự như là một liên bang ngoại thường, được làm nên bởi các Giáo Hội riêng biệt khác nhau thực sự. Theo ý Chúa, Giáo Hội phổ quát theo ơn gọi và sứ mệnh của mình, nhưng một khi đâm rễ vào một nền văn hóa nào đó, vào lãnh thổ của một xã hội và nhân loại nào đó, bấy giờ Giáo Hội mặc lấy những thể hiện và hình dáng ngoại tại khác nhau nơi mỗi một miền trên thế giới.

 

Như thế, nếu mỗi một Giáo Hội riêng tự ý muốn tách mình ra khỏi Giáo Hội hoàn vũ, thì sẽ bị mất đi mối liên hệ với dự án của Thiên Chúa, và sẽ trở thành nghèo nàn về mặt giáo hội của mình. Tuy nhiên, ngược lại, một Giáo Hội toto orbe diffusa (các chữ Latinh đứng sau chữ một Giáo Hội này có thể được tạm dịch thành nguyên câu là một Giáo Hội tràn lan khắp hoàn vũ) sẽ trở thành trừu tượng, nếu Giáo Hội không có một thân thể và sự sống thực sự qua các Giáo Hội riêng. Chỉ khi nào liên tục để ý đến hai cột trụ về Giáo Hội này, chúng ta mới nhận thấy tính cách phong phú của mối liên hệ giữa Giáo Hội hoàn vũ và các Giáo Hội riêng tư.

 

63.  Tính Cách Thích Ứng và

Trung Thực trong Việc Thể Hiện

 

Các Giáo Hội riêng, được xây dựng nên không phải bởi nhân sự mà còn bởi các khát vọng, bởi cả những gì phong phú lẫn giới hạn, bởi đường lối nguyện cầu, đường lối yêu thương, đường lối nhìn đời và thế giới, là tất cả những gì phân biệt nhóm người này với nhóm người kia, có nhiệm vụ phải đồng hóa và chuyển đạt sứ điệp Phúc Âm, không sai xẩy một chút nào nơi sự thật chính yếu của sứ điệp Phúc Âm ấy, vào ngôn ngữ để dân chúng riêng của mình hiểu được, rồi đem sứ điệp Phúc Âm này loan báo bằng thứ ngôn ngữ ấy.

 

Việc chuyển đạt phải được thực hiện một cách ý thức, nghiêm cẩn, tôn trọng và đầy đủ, một việc chuyển đạt cần thiết cho lãnh vực cử hành phụng vụ (xem Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế về Phụng Vụ Thánh Sacrosanctum Concilium, đoạn 37-38: AAS 56 (1964), p.110; cũng xin xem các sách về phụng vụ và các văn kiện hậu công đồng do Tòa Thánh ban bố để áp dụng thực hành việc canh tân phụng vụ theo ý của Công Đồng), cũng cần thiết cho cả lãnh vực giáo lý, cho việc diễn đạt về thần học, cho các cơ cấu hạ tầng giáo hội, và cho các thừa tác vụ. Chữ “ngôn ngữ” ở đây phải hiểu theo nghĩa được người ta gọi là nhân chủng học và văn hóa hơn là theo chữ nghĩa.

 

Chắc chắn đây là một vấn đề tinh tế. Viêïc truyền bá phúc âm hóa sẽ mất đi công sức và hiệu lực của mình, nếu việc này không để ý đến thành phần dân chúng thực tế được nhắm tới, nếu việc này không sử dụng đến ngôn ngữ của họ, dấu hiệu và biểu hiệu của họ, nếu việc này không giải đáp nổi những vấn đề họ nêu lên, và nếu việc này không tác dụng nơi đời sống thực tiễn. Thế nhưng, ngược lại, việc truyền bá phúc âm hóa cũng sẽ gặp cơ nguy mất đi năng lực của mình và hoàn toàn bị biến mất, nếu người ta làm trống rỗng hay nghèo nàn nội dung của việc này, bằng việc chuyển dịch nó; nghĩa là, nếu người ta hy sinh thực tại này và hủy hoại tính cách hiệp nhất không thể thiếu để làm nên mối hiệp nhất, chỉ vì muốn thích ứng thực tại phổ quát này với hoàn cảnh địa phương. Thế nên, chỉ có Giáo Hội, một Giáo Hội bảo trì nhận thức về tính cách phổ quát của mình và tỏ ra mình thực sự phổ quát, mới có thể làm cho mọi người, bất kể biên cương bờ cõi, nghe thấy được sứ điệp của mình.

 

Việc chú ý hợp tình hợp lý đến các Giáo Hội riêng không thể không làm cho Giáo Hội thăng tiến. Việc chú ý như vậy là một việc không thể thiếu và là một việc khẩn thiết. Nó đáp ứng những khát vọng rất sâu xa của các dân cũng như của các cộng đồng nhân loại, trong việc tìm kiếm căn tính của mình cho càng ngày càng sáng tỏ hơn.

 

64.  Cởi Mở với Giáo Hội Hoàn Vũ

 

Thế nhưng, việc làm cho mình nên phong phú này đòi hỏi các Giáo Hội riêng phải hết sức cởi mở đối với Giáo Hội hoàn vũ. Ngoài ra, cũng rất đáng chú ý là những Kitô hữu đơn thành nhất, những người trung thành với Phúc Âm nhất và cởi mở nhất trước ý nghĩa đích thực của Giáo Hội, có một cảm nhận hoàn toàn tự nhiên đối với chiều kích hoàn vũ. Họ cảm thấy một cách tự nhiên và hết sức mạnh mẽ cần đến chiều kích này. Họ cảm được theo chiều kích này, và họ cảm thấy hết sức đau khổ khi họ bị bắt buộc, bởi một mớ lý thuyết họ không hiểu nổi, phải chấp nhận việc một Giáo Hội bị tước đoạt mất tính cách hoàn vũ này, phải chấp nhận một Giáo Hội theo khu vực, không còn thấy đâu là chân trời.

 

Như lịch sử đã thật sự cho thấy, khi một Giáo Hội riêng tự tách mình khỏi Giáo Hội hoàn vũ, cũng là tách khỏi trung tâm sống động hữu hình của mình – đôi khi với những chủ ý rất tốt, với những lý luận về thần học, xã hội học, chính trị hay mục vụ, thậm chí với ý muốn được tự do thoải mái sinh hoạt hay hoạt động – thì Giáo Hội này cũng rất khó lòng tránh được (nếu thật sự đã tránh được) hai nguy hiểm trầm trọng ngang nhau. Nguy hiểm thứ nhất, đó là Giáo Hội ấy sống trong tình trạng cô lập suy tàn, để rồi, chẳng bao lâu, sẽ bị phân tán mỏng thành từng phần nhỏ, như chính Giáo Hội ấy tách rời khỏi tâm điểm của mình vậy. Nguy hiểm thứ hai đó là Giáo Hội ấy bị mất đi tự do của mình, bởi vì, khi bị tách lìa khỏi tâm điểm cũng như khỏi các Giáo Hội khác là nơi vốn hiến cho Giáo Hội ấy sức mạnh và nghị lực, Giáo Hội ấy sẽ thấy mình hoàn toàn bị lẻ loi, để rồi trở thành miếng mồi ngon cho rất nhiều áp lực nô lệ và khai thác.

 

Một Giáo Hội riêng càng gắn bó với Giáo Hội hoàn vũ bằng mối giây hiệp thông, bằng tấm lòng yêu thương và trung thành, bằng việc tiếp nhận Huấn Quyền Phêrô, bằng mối hiệp nhất theo lex orandi (qui luật cầu nguyện) cũng là lex credendi (qui luật tin tưởng), bằng lòng mong ước hiệp nhất với tất cả mọi Giáo Hội khác làm nên toàn khối – thì Giáo Hội ấy càng có khả năng truyền đạt kho tàng đức tin tới những thể hiện hợp pháp khác nhau của việc tuyên xưng đức tin, của việc nguyện cầu và phụng tự, của đời sống và tác hành Kitô hữu, cũng như của các ảnh hưởng thiêng liêng tác động nơi những người chung quanh mình. Giáo Hội ấy cũng càng thực sự thực hiện việc truyền bá phúc âm hóa, tức là, càng có khả năng rút lấy gia sản chung để làm lợi cho người của mình, và càng có khả năng thông đạt cho Giáo Hội hoàn vũ kinh nghiệm và đời sống, từ các người của mình cho lợi ích của mọi người.

 

65.  Kho Tàng Đức Tin Bất Khả Dịch

 

Theo đúng chiều hướng này, khi kết thúc cuộc Thượng Hội Giám Mục, với đầy tình cảm mến cha con, Chúng Tôi đã nói rõ ràng khi nhấn mạnh đến vai trò của Vị Thừa Kế Thánh Phêrô như là một yếu tố hữu hình, sống động và kết cấu của mối hiệp nhất giữa các Giáo Hội, và do đó cũng là yếu tố cho tính cách đại đồng của một Giáo Hội duy nhất (ĐTC Phaolô VI, Diễn Từ kết thúc Thượng Hội Giám Mục Thế Giới Lần 3, 26/10/1974: AAS 66 – 1974 – p. 636). Chúng Tôi cũng nhấn mạnh đến trách nhiệm nặng nề Chúng Tôi phải nắm giữ, nhưng cũng là trách nhiệm Chúng Tôi chia sẻ với Quí Huynh trong Hàng Giáo Phẩm, về việc bảo trì vững vàng nội dung của đức tin Công Giáo đã được Chúa ký thác cho các vị tông đồ. Nội dung này, trong khi được biểu lộ ra dưới mọi hình thức, cũng không bị hư hại hay hủy hoại. Trong khi được thể hiện bằng những hình thức bề ngoài, là những gì liên quan đến môi trường văn hóa, xã hội và ngay cả chủng tộc khác nhau, nó vẫn phải là nội dung của đức tin Công Giáo đúng như huấn quyền hội thánh đã lãnh nhận và truyền đạt.

 

66.  Những Công Việc Khác Nhau

 

Thế nên, cả Giáo Hội được kêu gọi để truyền bá phúc âm hóa, song trong nội bộ, chúng ta có những việc truyền bá phúc âm hóa cần phải hoàn thành. Tính cách đa diện của những việc làm trong mối hiệp nhất của cùng một sứ mệnh đã làm nên tình trạng phong phú và vẻ đẹp của việc truyền bá phúc âm hóa. Chúng tôi sẽ tóm tắt nhắc lại đây những việc làm này.

Trước hết, Chúng Tôi muốn chỉ cho thấy trong các trang Phúc Âm, Chúa liên tục trao phó cho các vị tông đồ công việc loan báo Lời Chúa. Người đã chọn các vị (x. Jn.15:16; Mk.3:13-19; Lk.6:13-16), đã huấn luyện các vị trong mấy năm của nhóm người tình nghĩa này (x. Acts 1:21-22), đã thiết lập các vị (x.Mk.3:14) và đã sai các vị đi (x. Mk.3:14-15; Lk.9:2), như những chứng nhân có uy thế và là những thày dạy sứ điệp cứu độ. Thế rồi, đến phiên mình, các tông đồ cũng sai các người thừa kế của các vị theo truyền thống tông đồ ra đi để tiếp tục rao giảng Tin Mừng.

 

67.  Vị Thừa Kế Thánh Phêrô

 

Như thế, theo ý của Chúa Kitô, Vị Thừa Kế Thánh Phêrô được trao phó thừa tác vụ thượng hạng trong việc rao giảng chân lý mạc khải. Tân Ước thường cho thấy Thánh Phêrô “đầy Thánh Thần” nhân danh mọi người trong nhóm mà nói (x. Acts 4:8; x. 2:14, 3:12). Chính vì lý do này, Thánh Giáo Hoàng Lêô Cả mới diễn tả mình như một người nắm chủ quyền trong sứ vụ tông đồ (x. Thánh Lêô Cả, Sermo 69.3, Sermo 70, 1-3, Sermo 95, 2: S.C. 200, pp. 50-52, 55-56, 258-260, 268). Đó cũng còn là lý do tại sao Giáo Hội lên tiếng cho thấy Giáo Hoàng “ở chỗ cao nhất – in apice, in specula – trong sứ vụ tông đồ” (xem Công Đồng Chung Lyon I, Hiến Chế Ad Apostocicae Dignitatis: Conciliorum Oecumenicorum Decreta, ed. Istituto per le Scienze Religiose, Bologna 1973, p. 278; Công Đồng Chung Vienne, Hiến Chế Ad Providam Christi, ed. cit., p. 343; Công Đồng Chung Latêranô V, Hiến Chế In Apostolici Culminis, ed. cit., p. 608; Hiến Chế Postquam ad Universalis, ed. cit., 609; Hiến Chế Dupernae Dispositionis, ed. cit., p. 614; Hiến Chế Divina Disponente Clementia, ed. cit., p. 638). Công Đồng Chung Vaticanô II muốn tái xác nhận điều này khi tuyên bố rằng: “Lệnh Chúa Kitô truyền phải rao giảng Phúc Âm cho mọi tạo vật (x.Mk.16:15) chính yếu và trực tiếp liên quan đến các vị giám mục hiệp nhất với Phêrô và tùy thuộc vào Phêrô” (Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 38: AAS 58 – 1966 – p. 985)

 

Như thế, trọn quyền hành tối cao phổ quát (xem Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 22: AAS 57 – 1965 – p. 26) Chúa Kitô đã ban cho Vị Đại Diện của mình để quản trị chăn dắt Giáo Hội của Người, được vị Giáo Hoàng thực thi trong hoạt động rao giảng và thôi thúc rao giảng Tin Mừng cứu độ.

 

68.  Giám Mục và Linh Mục

 

Hiệp nhất với Vị Thừa Kế Thánh Phêrô, các giám mục thừa kế các tông đồ, nhờ quyền năng truyền chức theo hàng giáo phẩm của mình, đã nhận lãnh thẩm quyền giảng dạy chân lý mạc khải trong Giáo Hội. Các vị là thày dạy đức tin.

 

Liên kết với các vị giám mục trong thừa tác vụ truyền bá phúc âm hóa và mang trách nhiệm theo danh hiệu đặc biệt là những người, qua việc thụ phong chức thánh, “tác hành thay Chúa Kitô” (xem Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 10, 37: AAS 57 – 1965 – pp. 14, 43; Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 39: AAS 58 – 1966 – p. 986; Sắc Lệnh về Tác Vụ và Đời Sống của Linh Mục Presbyterorum Ordinis, 2, 12, 13: AAS 58 – 1966 – pp. 992, 1010, 1011). Họ là những vị giáo dục Dân Chúa theo đức tin và là những nhà rao giảng, đồng thời cũng là những thừa tác viên Thánh Thể và các bí tích khác.

 

Bởi thế, mục tử chúng ta được mời gọi để ý đến phận vụ này hơn những phần tử khác trong Giáo Hội. Cái làm nên căn tính tác vụ tư tế của chúng ta, cái làm thành mối hiệp nhất sâu xa cho cả trăm, cả ngàn việc, bắt chúng ta chú ý tới, từ ngày này qua ngày khác và trọn cuộc sống của mình, và cái ban cho đặc tính đặc thù nơi các hoạt động của chúng ta, đó là loan báo Phúc Âm của Thiên Chúa (x.1Thess 2:9), một mục tiêu từng hiện diện trong tất cả mọi hành động của chúng ta

 

Một dấu cho thấy căn tính của chúng ta, một căn tính chắc chắn phải trổi vượt và không gì ngăn cản được, đó là chúng ta đã được chọn làm những mục tử bởi tình thương của Vị Mục Tử Tối Cao (x.1Pt.5:4), bất chấp nỗi thiếu kém của chúng ta, để dùng quyền loan báo Lời Chúa, để tập hợp Dân Chúa phân tán lại, để chăn nuôi Dân này bằng các bí tích là những dấu Chúa Kitô tác động, để dẫn Dân này trên con đường cứu độ, để bảo tồn họ trong niềm hiệp nhất mà chúng ta đóng vai trò chủ động và là các dụng cụ sống động ở cấp độ khác nhau, cũng như để không ngừng giữ cho cộng đồng tụ họp quanh Chúa Kitô này trung thành với ơn kêu gọi sâu xa nhất của họ. Khi chúng ta làm tất cả những điều ấy, trong giới hạn loài người của mình và nhờ ơn Chúa giúp, thì đó là chúng ta đang thực hiện một công việc của vấn đề truyền bá phúc âm hóa. Công việc này bao gồm cả Chúng Tôi là các mục tử của Giáo Hội hoàn vũ, cả các anh em giám mục lãnh đạo các Giáo Hội riêng, cả các linh mục và phó tế hiệp nhất với giám mục của mình cùng các vị phụ tá của các vị, bằng mối hiệp thông bắt  nguồn từ bí tích Truyền Chức Thánh và trong tình bác ái của Giáo Hội.

69.  Tu Sĩ Nam Nữ

 

Về phần mình, tu sĩ thấy đời tận hiến của mình như là một phương tiện thuận lợi cho việc truyền bá phúc âm hóa. Trong thẳm cung con người mình, họ được cuốn hút vào hoạt năng của đời sống Giáo Hội, một đời sống khao khát Tuyệt Đối Thể thần linh và được kêu gọi đến sự thánh thiện. Họ làm chứng cho chính sự thánh thiện này. Họ thể hiện ước muốn của Giáo Hội trong việc hoàn toàn dấn thân cho những đòi hỏi thực sự của các mối phúc đức. Qua đời sống của mình, họ là dấu hiệu hoàn toàn sẵn sàng sống cho Thiên Chúa, cho Giáo Hội và cho anh em mình.

 

Như thế, họ giữ một vai trò quan trọng liên quan đến việc làm chứng, một việc làm chứng, như chúng ta đã nói, có tính cách quan trọng bậc nhất trong việc truyền bá phúc âm hóa. Như là một thách đố cho cả thế giới lẫn chính Giáo Hội, việc làm chứng thầm lặng này, bằng đời sống khó nghèo và từ bỏ, thanh sạch và chân thành, hy sinh mình vì đức vâng lời, cũng có thể trở nên một chứng từ sống động có khả năng đánh động cả những người ngoài Kitô giáo, những người thiện tâm và nhậy cảm với các giá trị nào đó.

 

Theo quan điểm này, người ta thấy được vai trò của người tu sĩ nam nữ tận hiến sống đời cầu nguyện, âm thầm, hãm mình và hy sinh, thực hiện trong việc truyền bá phúc âm hóa. Rất nhiều tu sĩ khác trực tiếp dấn thân cho việc loan báo Chúa Kitô. Hoạt động truyền giáo của họ dĩ nhiên lệ thuộc vào hàng giáo phẩm và phải theo chương trình mục vụ do hàng giáo phẩm phác họa. Thế nhưng, ai mà không thấy việc những tu sĩ này đã và đang đóng góp lớn lao cho việc truyền bá phúc âm hóa? Nhờ việc tận hiến của mình, họ đã hoàn toàn tình nguyện và tự do từ bỏ mọi sự để ra đi loan báo Phúc Âm cho đến tận cùng trái đất. Họ đang đảm nhiệm và việc tông đồ của họ thường có tính cách nguyên tuyền, bằng một năng lực đáng khen ngợi. Họ quảng đại: thường thấy họ ở những thí điểm truyền giáo, và họ dám liều cả sức khỏe và ngay cả mạng sống mình. Giáo Hội quả thực mắc nợ họ rất nhiều.

 

70.  Giáo Dân

 

Chính vì giáo dân, với ơn gọi riêng trong việc sống giữa lòng thế giới và đảm nhận những công tác trần gian khác nhau nhất, mà họ phải thực hiện một hình thức đặc biệt trong việc truyền bá phúc âm hóa.

 

Công việc trọng yếu và trực tiếp nhất của họ không phải là thiết lập và phát triển cộng đồng giáo hội – đây là vai trò riêng của các vị mục tử – mà là sử dụng mọi năng lực Kitô hữu và năng lực phúc âm được tiềm ẩn song đã hiện diện và chủ động nơi các sinh hoạt trần thế. Lãnh vực của hoạt động truyền bá phúc âm hóa riêng của họ là một thế giới rộng lớn và phức tạp về chính trị, xã hội và kinh tế, thế nhưng cũng là một thế giới về văn hóa, về khoa học và nghệ thuật, về sinh hoạt quốc tế, về truyền thông xã hội. Lãnh vực của họ cũng bao gồm cả những thực tại khác hướng đến việc truyền bá phúc âm hóa, như tình yêu nhân bản, gia đình, giáo dục con cái và vị thành niên, việc làm nghề nghiệp, chịu đựng khổ đau. Người giáo dân càng được Phúc Âm cảm hứng sẽ càng dấn thân vào các thực tại này, càng đảm trách chúng một cách tỏ tường, càng có khả năng đề cao chúng và càng nhận thức được rằng, chúng phải được thi hành với hết năng lực Kitô hữu của mình, những năng lực thường bị chôn vùi đi hay bị dập tắt mất, thì các thực tại này mới càng giúp cho công cuộc phục vụ nước Chúa, nhờ đó, mới càng phục vụ ơn cứu độ trong Chúa Giêsu Kitô, không hề làm mất đi tí nào hay làm thiệt hại đến những gì thuộc về nhân bản, mà còn hướng chúng tới chiều kích siêu việt thường bị quên sót.

 

71.  Gia Đình

 

Người ta cũng không thể không nhấn mạnh đến tác động truyền bá phúc âm hóa của gia đình trong công cuộc tông đồ truyền bá phúc âm hóa của người giáo dân.

 

Ở vào những lúc khác nhau trong giòng lịch sử của Giáo Hội cũng như ở Công Đồng Chung Vaticanô II, gia đình rất xứng đáng mang danh xưng là một “giáo hội tại gia” (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium, đoạn 11: AAS: 57 – 1965 – p.16; Sắc Lệnh về Việc Tông Đồ của Người Giáo Dân Apostolicam Actuositatem, đoạn 11: AAS 58 – 1966 – p. 848; Thánh Gioan Chrysostom, In Genesim Serm. VI, 2; VII, a: PG 54, 607-608). Điều này có nghĩa là, ở nơi mọi gia đình Kitô hữu phải có những khía cạnh khác nhau của toàn thể Giáo Hội. Hơn thế nữa, giống như Giáo Hội, gia đình phải là nơi truyền đạt Phúc Âm và chiếu tỏa Phúc Âm.

           

Trong một gia đình nhận thức được sứ vụ này, tất cả mọi phần tử cần phải truyền bá phúc âm hóa và cần được truyền bá phúc âm hóa. Cha mẹ chẳng những thông đạt Phúc Âm cho con cái của mình, mà bản thân họ còn nhận được từ con cái mình chính Phúc Âm họ hết sức sống theo nữa.

           

Một gia đình như vậy trở nên một nhà truyền bá phúc âm hóa cho nhiều gia đình khác, và cho hàng xóm láng giềng chung quanh họ. Các gia đình được làm nên bởi một cuộc hôn nhân lương giáo cũng có nhiệm vụ loan báo Chúa Kitô cho con cái mình, đạt được trọn vẹn hoa trái của Phép Rửa chung; họ còn phải làm một công việc khó khăn hơn nữa để trở nên những nhà đắp xây hiệp nhất.

 

72.  Giới Trẻ

 

Các hoàn cảnh cũng kêu mời chúng ta phải đặc biệt nhắc đến giới trẻ. Việc họ tăng nhân số và càng ngày càng góp mặt với xã hội, song song với các tệ nạn tấn công họ, phải thức tỉnh nơi mọi người lòng mong ước cung hiến cho chúng, một cách nhiệt tình và khôn ngoan, lý tưởng Phúc Âm như là một điều gì phải được nhận biết và sống theo. Ngoài ra, thành phần giới trẻ được huấn luyện đàng hoàng trong đức tin và cầu nguyện phải càng ngày càng trở nên thành phần tông đồ giới trẻ. Giáo Hội hết sức trông cậy vào việc đóng góp của họ, và chính Chúng Tôi cũng thường bộc lộ cho thấy niềm tin cậy của Chúng Tôi nơi họ nữa.

 

73.  Các Thừa Tác Vụ Đa Dạng

 

Bởi thế, việc hiện diện chủ động của giáo dân nơi các thực tại trần thế mang lấy tất cả tầm vóc quan trọng của mình. Tuy nhiên, người ta không thể coi thường hay bỏ quên một chiều kích khác, đó là chiều kích giáo dân cũng có thể tự cảm thấy cần phải kêu gọi và được kêu gọi làm việc với các vị mục tử của mình, trong việc phục vụ cộng đồng giáo hội, cho Giáo Hội phát triển và sống động, bằng việc thực thi nhiều thừa tác vụ khác nhau, theo ân sủng và đặc sủng được Chúa cố ý ban cho họ.

 

Chúng ta không thể không cảm nghiệm thấy một niềm vui trong lòng, khi thấy có rất nhiều vị mục tử, tu sĩ và giáo dân, sốt sắng với sứ mệnh truyền bá phúc âm hóa của mình, bằng việc tìm kiếm những đường lối thích hợp hơn trong việc loan báo Phúc Âm cho có công hiệu. Chúng Tôi khích lệ việc cởi mở này, việc cởi mở Giáo Hội đang tỏ ra cho thấy hôm nay đây, theo chiều hướng ấy và trong mối quan tâm ấy. Đó là một việc cởi mở trước tiên là để suy niệm, sau đó là việc cởi mở đối với những thừa tác vụ của giáo hội có khả năng cải tiến và kiên cường sức lực truyền bá phúc âm hóa của Giáo Hội.

 

Chắc chắn một điều là, song song với các thừa tác vụ thánh do một số người được bổ nhiệm làm mục tử và hiến mình một cách đặc biệt để phục vụ cộng đồng, Giáo Hội cũng công nhận vai trò của các thừa tác vụ không có chức thánh có thể đặc biệt đóng góp cho Giáo Hội.

 

Khi nhìn vào gốc tích của Giáo Hội, chúng ta thấy được hết sức rõ ràng lợi ích của kinh nghiệm ban đầu trong vấn đề về các thừa tác vụ. Kinh nghiệm này càng đạt được hết giá trị của mình, nếu nó giúp cho Giáo Hội biết gắn bó lại để phát triển và vươn lên. Tuy nhiên, việc chú ý đến các gốc tích cũng phải được bổ khuyến bởi việc lưu ý tới những nhu cầu hiện tại của con người cũng như của Giáo Hội. Để uống tận nguồn cảm hứng hơn bao giờ hết này, mà không phương hại đến giá trị của chúng một chút nào, đồng thời biết thích nghi mình với các đòi hỏi và nhu cầu hiện đại – những đòi hỏi và nhu cầu này là tiêu chuẩn sẽ giúp vào việc có thể tìm kiếm một cách khôn ngoan và nhận ra những thừa tác vụ Giáo Hội cần, cũng là tiêu chuẩn nhiều phần tử Giáo Hội hết sức nắm giữ để bảo đảm tính cách sống động hơn trong cộng đồng giáo hội. Những thừa tác vụ này sẽ có một giá trị mục vụ thật sự, ở chỗ, chúng được thiết lập với một lòng tuyệt đối hiệp nhất và vâng phục những chỉ dẫn của các vị mục tử, những vị có trách nhiệm đối với việc hiệp nhất của Giáo Hội và là những nhà xây dựng việc hiệp nhất này.

 

Những thừa tác vụ này, bề ngoài thì mới mẻ song lại gắn liền với kinh nghiệm sống của Giáo Hội qua các thế kỷ – như thừa tác vụ làm giáo lý viên, thừa tác vụ làm người điều khiển cầu nguyện và hát xướng, thừa tác vụ làm các Kitô hữu hiến thân phục vụ Lời Chúa hay trợ giúp anh chị em mình khi cần thiết, thừa tác vụ làm người đầu trong các cộng đoàn nhỏ, hay những người mang trách nhiệm lo cho các phong trào tông đồ – những thừa tác vụ này góp phần vào việc thiết lập, vào đời sống và vào việc phát triển của Giáo Hội, cũng như góp phần vào khả năng của Giáo Hội trong việc gây ảnh hưởng chung quanh mình, và trong việc vươn tới những người ở cách xa mình. Chúng tôi cũng đặc biệt biết ơn tất cả những người giáo dân nào đã chấp nhận hiến một phần thời giờ của mình, năng lực của mình, và đôi khi cả đời sống của mình, cho việc phục vụ những sứ vụ này.

Cần phải có một cuộc sửa soạn nghiêm chỉnh cho tất cả mọi nhân viên hoạt động cho việc truyền bá phúc âm hóa. Việc sửa soạn này càng hết sức cần thiết cho những ai hiến mình cho thừa tác vụ Lời Chúa. Được sinh động bằng niềm xác tín không ngừng sâu xa hơn về tính cách cao cả và phong phú của Lời Chúa, những ai mang sứ mệnh truyền đạt Lời Chúa phải hết sức để ý đến phẩm chất, tính chất chính xác và thích nghi nơi ngôn ngữ của mình. Ai cũng biết rằng, nghệ thuật nói năng hiện nay hết sức quan trọng. Các vị rao giảng và các giáo lý viên làm sao có thể lơ là với nghệ thuật này được?

 

Chúng tôi tha thiết mong ước là, nơi mỗi một Giáo Hội, các vị giám mục phải khôn ngoan để ý đến việc huấn luyện đầy đủ cho tất cả mọi thừa tác viên Lời Chúa. Việc sửa soạn nghiêm chỉnh này sẽ làm tăng thêm nơi họ tính cách bảo đảm không thể thiếu, cùng với lòng nhiệt thành, trong việc loan báo Chúa Kitô ở ngày hôm nay đây.