VII 

TINH THẦN TRUYỀN BÁ PHÚC ÂM HÓA 

 

74.  Lời Kêu Gọi Tha Thiết

 

Chúng Tôi không muốn kết thúc việc chúng ta trao đổi với nhau ở đây, với quí huynh yêu dấu cũng như với con cái nam nữ của mình, mà lại không nói lên lời thiết tha kêu gọi, liên quan đến thái độ nội tâm là điều phải làm sinh động những ai thực hiện việc truyền bá phúc âm hóa.

 

Nhân danh Chúa Giêsu Kitô cũng như nhân danh hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô, Chúng Tôi muốn khuyến dụ tất cả những ai, nhờ đặc sủng của Chúa Thánh Thần và sứ mệnh của Giáo Hội, là những nhà truyền bá phúc âm hóa thật sự, phải sống xứng đáng với ơn gọi này, phải thực hiện ơn gọi ấy mà không đếm xỉa tới những nghi ngại hay lo âu sợ hãi, và không coi thường những điều kiện giúp làm cho việc truyền bá phúc âm hóa này chẳng những khả dĩ lại còn chủ động và đạt thành hiệu quả nữa. Đó là những điều kiện, trong số nhiều vấn đề khác nữa, Chúng Tôi coi là quan trọng và thấy cần phải được nhấn mạnh.

 

75.  Theo Tác Động của Chúa Thánh Thần

 

Việc truyền bá phúc âm hóa sẽ không bao giờ khả dĩ nếu không có tác động của Chúa Thánh Thần. Thần Linh ngự xuống trên Chúa Giêsu Nazarét vào lúc Người lãnh phép rửa, khi có tiếng của Chúa Cha vang lên – “Đây là Con yêu dấu của Ta, Người mà Ta rất hài lòng” (Mt.3:17) – cho thấy một cách tỏ tường việc Chúa Giêsu được chọn lựa và sứ vụ của Người. Chúa Giêsu “được Thần Linh dẫn” vào sa mạc để trải qua một trận chiến quyết liệt và một cuộc thử thách hết cỡ trước khi bắt đầu sứ vụ này (x.Mt.4:1). Chính “nhờ quyền lực của Thần Linh” (Lk.4:14), Người đã trở về Galilêa và bắt đầu rao giảng ở Nazarét, áp dụng vào trường hợp của Mình lời tiên tri Isaia: “Thần Linh Chúa ở trên tôi”. Và Người đã công bố: “Hôm nay đoạn Sách Thánh này đã nên trọn” (Lk.4:18, 21; x. Is. 61:1). Với các môn đệ, thành phần Người sắp sai đi, khi thở hơi trên họ, Người đã phán: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần” (Jn.20:22).

 

Thật vậy, chỉ sau khi Chúa Thánh Thần hiện xuống vào Ngày Lễ Ngũ Tuần, các tông đồ mới ra đi cho đến tận cùng trái đất, để mở màn cho công cuộc truyền bá phúc âm hóa cao cả của Giáo Hội. Thánh Phêrô đã cắt nghĩa biến cố này như là việc hoàn tất lời tiên tri Joel: “Ta sẽ đổ thần linh của Ta xuống” (Acts 2:17). Thánh Phêrô tràn đầy Chúa Thánh Thần để ngài có thể nói với dân chúng về Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa” (x. Acts 4:8). Thánh Phaolô cũng đầy Thánh Linh (x. Acts 9:17) trước khi hiến thân cho thừa tác vụ tông đồ, trường hợp Stêphanô cũng thế, khi thánh nhân được chọn vào thừa tác phục vụ, và sau đó vào việc làm chứng bằng máu mình đổ ra (x. Acts 6:5, 10; 7:55). Thần Linh là Đấng đã khiến cho Phêrô, Phaolô và Nhóm 12 Vị rao giảng, là Đấng soi sáng những lời họ phải phát ngôn, và cũng là Đấng đã xuống “trên cả những ai đang nghe lời rao giảng” (Acts 10:44).

           

Chính ở nơi "ơn an ủi của Chúa Thánh Thần" mà Giáo Hội tiến triển (Acts 9:31). Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo Hội. Chính Ngài là Đấng dẫn giải cho tín hữu ý nghĩa sâu xa nơi giáo huấn của Chúa Giêsu cũng như nơi mầu nhiệm của Người. Chính Chúa Thánh Thần, Đấng mà hôm nay, cũng như ở vào lúc khai sinh Giáo Hội, tác hành nơi mọi nhà truyền bá phúc âm hóa để mặc cho Ngài chiếm đoạt và dẫn dắt. Chúa Thánh Thần đặt nơi miệng lưỡi họ những lời mà họ không thể tự mình có được, đồng thời, Chúa Thánh Thần sửa soạn tâm hồn người nghe biết cởi mở và chấp nhận Tin Mừng cùng với vương quốc được loan báo.

           

Những kỹ thuật truyền bá phúc âm hóa thì tốt, thế nhưng, ngay cả đến những kỹ thuật tân tiến nhất cũng không thể nào thay thế được tác động êm ái của Thần Linh. Việc trang bị toàn vẹn nhất nơi một nhà truyền bá phúc âm hóa cũng sẽ không gây tác dụng gì, nếu không có Chúa Thánh Thần. Nếu không có Chúa Thánh Thần thì biện chứng hùng hồn nhất cũng không có tác hiệu gì nơi tâm hồn con người. Không có Ngài thì những dự án được phác họa ra dù có cao kiến mấy chăng nữa, dựa trên căn bản về xã hội cũng như về tâm lý đi nữa, cũng chẳng mấy chốc sẽ trở thành vô giá trị.

 

Chúng ta đang sống trong Giáo Hội ở vào một thời điểm hồng phúc Thần Linh. Người ta ở khắp nơi đang cố gắng nhận biết Ngài hơn, như Sách Thánh cho thấy về Ngài. Họ lấy làm sung sướng theo ơn tác động của Ngài. Họ đang qui tụ chung quanh Ngài; họ muốn để mặc cho Ngài dẫn dắt họ. Bởi vậy, nếu Thần Linh của Thiên Chúa giữ một địa vị nổi bật trong cả cuộc sống của Giáo Hội, thì Ngài sống động nhất là nơi sứ mệnh truyền bá phúc âm hóa của Giáo Hội. Cuộc khai mở long trọng vào buổi sáng ngày Lễ Ngũ Tuần, theo ơn linh ứng của Thần Linh, không phải là một biến cố bất ngờ xẩy ra đâu.

 

Phải công nhận rằng, Chúa Thánh Thần là tác nhân chính yếu của việc truyền bá phúc âm hóa: chính Ngài là Đấng thôi thúc mỗi một cá nhân trong việc loan báo Phúc Âm, cũng chính Ngài là Đấng ở trong thâm tâm người nghe để làm cho lời cứu độ được chấp nhận và hiểu biết (x. sắc lệnh Ad Gentes, 4). Thế nhưng, cũng có thể nói rằng, Ngài là mục đích của việc truyền giáo: Một mình Ngài tạo nên tạo vật mới, tạo nên nhân loại mới, qua việc truyền bá phúc âm hóa, bằng một mối hiệp nhất trong đa diện là những gì việc truyền bá phúc âm hóa muốn đạt được trong cộng đồng Kitô hữu. Nhờ Chúa Thánh Thần, Phúc Âm thấu nhập vào lòng thế giới, vì chính Ngài là Đấng khiến cho người ta nhận ra những dấu chỉ thời đại - những dấu chỉ Thiên Chúa muốn - mà trong giòng lịch sử việc truyền bá phúc âm hóa muốn tỏ ra cho thấy và lợi dụng.

 

Cuộc Thượng Hội Giám Mục năm 1974 đã nhấn mạnh đến vai trò của Chúa Thánh Thần trong việc truyền bá phúc âm hóa, cũng như đã tỏ ra niềm mong ước là các vị mục tử cũng như các nhà thần học – Chúng Tôi còn muốn nói tới cả tín hữu được niêm ấn Thần Linh nơi Phép Rửa – phải học hỏi hoàn toàn hơn về bản tính cũng như về cách thức tác động của Thánh Linh trong việc truyền bá phúc âm hóa hiện nay. Đây cũng là niềm mong ước của cả Chúng Tôi nữa, và Chúng Tôi kêu gọi tất cả các nhà truyền bá phúc âm hóa, bất kể là ai, hãy tin tưởng và sốt sắng cầu nguyện không ngừng cùng Chúa Thánh Linh, và hãy khôn ngoan để Ngài, như Đấng tác động tối thượng, hướng dẫn các dự án của họ, các sáng kiến của họ và hoạt động truyền bá phúc âm hóa của họ.

 

76.  Chứng Từ Chân Chính của Đời Sống

 

Đến đây chúng ta hãy xét đến chính con người của những nhà truyền bá phúc âm hóa.

 

Ngày nay, người ta thường hay nói rằng, thế kỷ hiện tại đang khao khát những gì là chuyên chính. Nhất là đối với giới trẻ, thành phần được cho là đang khiếp đảm trước những giả tạo hay sai lầm, và là thành phần hết sức tìm kiếm sự thật và chân tình.

 

Chúng ta phải để ý đến những “dấu chỉ thời đại” ấy. Một cách ngấm ngầm hay rõ ràng song lúc nào cũng mãnh liệt, chúng ta phải lưu ý tới những vấn nạn này: Quí vị có thực sự tin những gì mình đang loan báo hay chăng? Quí vị có sống những gì quí vị tin tưởng hay chăng? Quí vị có thực sự rao giảng những gì quí vị sống hay chăng? Hơn bao giờ hết, chứng từ cuộc sống đã trở thành một điều kiện thiết yếu để đạt tới thành quả thực sự trong việc rao giảng. Chính vì lý do này chúng ta phải có trách nhiệm, ở một mức độ nào đó, đối với việc tiến bộ của Phúc Âm do chúng ta loan báo.

 

Chúng Tôi đã đặt vấn đề ở ngay đầu cuộc suy niệm này, đó là “tình trạng của Giáo Hội mười năm sau Công Đồng Chung Vaticanô II ra sao?” Giáo Hội có được thiết lập một cách chắc chắn ở giữa lòng thế giới, song vẫn tự do và độc lập đủ để khiến cho thế giới phải chú ý hay chăng? Giáo Hội có chứng tỏ mình liên kết với con người cũng như với Tuyệt Đối Thể thần linh hay chăng? Giáo Hội có sốt sắng hơn trong việc chiêm niệm và tôn thờ, cũng như trong nhiệt tình hoạt động truyền giáo, bác ái và giải phóng hay chăng? Giáo Hội đã dấn thân hơn bao giờ hết chưa, trong việc nỗ lực tìm kiếm đường lối để phục hồi tình trạng hoàn toàn hiệp nhất Kitô giáo, một tình trạng hiệp nhất mang lại hiệu quả hơn cho việc làm chứng chung, “để làm cho thế giới tin” (Jn.17:21)? Tất cả chúng ta có trách nhiệm trả lời cho những vấn nạn này.

 

Bởi thế, chúng tôi ngỏ lời kêu gọi của mình đến quí huynh trong Hàng Giáo Phẩm, được Chúa Thánh Thần đặt lên cai quản Giáo Hội (x. Acts 2:28). Chúng tôi kêu gọi các linh mục và phó tế, những cộng tác viên của các vị giám mục, trong việc tập hợp cộng đoàn Dân Chúa cũng như trong việc làm sinh động về mặt thiêng liêng các cộng đoàn địa phương. Chúng tôi kêu gọi các tu sĩ, những chứng nhân của Giáo Hội được mời gọi sống thánh thiện, và do đó cũng được mời gọi sống chứng thực cho các mối phúc đức của Phúc Âm. Chúng tôi kêu gọi giáo dân: các gia đình Kitô hữu, giới trẻ, người lớn, tất cả những ai buôn bán hay hành nghề, các nhà lãnh đạo, cả người nghèo là thành phần thường mạnh lòng tin cậy – tất cả những người giáo dân ý thức được vai trò truyền bá phúc âm hóa của mình trong việc phục vụ Giáo Hội cũng như trong lòng xã hội và thế giới. Chúng tôi muốn nói với tất cả mọi người là: nhiệt tình truyền bá phúc âm hóa của chúng ta phải được xuất phát từ một đời sống thánh thiện thực sự, và như Công Đồng Chung Vaticanô II đề nghị, việc rao giảng tự nó phải làm sao cho các nhà rao giảng thêm thánh thiện, một đời sống thánh thiện được dưỡng nuôi bằng nguyện cầu, nhất là bằng lòng mến yêu Thánh Thể (xem Sắc Lệnh về Thừa Tác Vụ và Đời Sống Linh Mục Presbyterorum Ordinis, đoạn 13: AAS 58 – 1966 – p. 1011).

 

Thế giới, ngược đời thay, bất chấp vô số những dấu hiệu chối bỏ Thiên Chúa, vẫn đang tìm kiếm Ngài bằng những cách thức không ngờ, và đang cảm thấy cần đến Ngài một cách đáng thương – một thế giới đang cần đến các nhà truyền bá phúc âm hóa để nói với nó về Thiên Chúa, Đấng mà các vị truyền bá phúc âm hóa phải biết và quen thuộc như thể họ thấy được đấng vô hình (x.Heb.11:27). Thế giới cần đến và mong đợi từ chúng ta một đời sống giản dị, một tinh thần cầu nguyện, một đức bác ái đối với tất cả mọi người, nhất là đối với thành phần thấp hèn và nghèo khổ, một đức tuân phục và khiêm hạ, một tấm lòng không dính bén và biết hy sinh bản thân mình. Không có dấu vết thánh thiện này, lời nói của chúng ta khó có thể đánh động được tâm can con người tân tiến ngày nay. Nó có thể trở thành mất công vô ích và chẳng sinh hoa kết trái gì.

 

77.  Tìm Cầu Hiệp Nhất

 

Năng lực của việc truyền bá phúc âm hóa sẽ cảm thấy rằng mình bị suy giảm đi rất nhiều, nếu những người loan báo Phúc Âm chia rẽ với nhau trong nội bộ về đủ mọi thứ vấn đề. Đây chẳng lẽ không phải là một trong những yếu điểm trầm trọng cho việc truyền bá phúc âm hóa hiện nay hay sao? Thật vậy, nếu Phúc Âm chúng ta loan báo bị xâu xé bởi những tranh cãi về tín lý, bởi những đối chọi về ý hệ, hay bởi những vụ lên án nhau giữa thành phần Kitô hữu, cho thấy, qua các vụ lên án nhau, những quan điểm khác nhau về Chúa Kitô, về Giáo Hội, thậm chí bài bác nhau vì những quan niệm khác nhau về xã hội cũng như về các cơ cấu tổ chức của loài người nữa, thì làm sao những người nghe chúng ta rao giảng cho lại không gặp phải rắc rối, họ sẽ chẳng biết đâu mà mò, nhất là làm sao họ lại không lấy làm chướng tai gai mắt được chăng?

 

Lời phát biểu thiêng liêng của Chúa nói cho chúng ta biết rằng tình trạng hiệp nhất giữa các kẻ theo Người chẳng những là một chứng cớ cho thấy chúng ta thuộc về Người, mà còn là một chứng cớ Người được Cha sai nữa. Đó là một việc thử xem uy tín của Kitô hữu cũng như của Bản Thân Chúa Kitô. Là những nhà truyền bá phúc âm hóa, chúng ta phải cống hiến cho tín hữu Chúa Kitô hình ảnh của một dân trưởng thành trong đức tin, có khả năng tìm thấy một điểm chung vượt ra ngoài những căng thẳng thực sự, nhờ việc cùng nhau chân thành và vô tư tìm kiếm chân lý, chứ không phải là hình ảnh của một dân chia rẽ nhau và tách lìa nhau bởi những tranh cãi thiếu xây dựng. Phải, định mệnh của việc truyền bá phúc âm hóa chắc chắn gắn liền với chứng từ về việc hiệp nhất được Giáo Hội biểu lộ cho thấy này. Trách nhiệm là ở chỗ đó và niềm an ủi cũng là ở chỗ đó vậy.

 

Về điểm này, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến dấu hiệu hiệp nhất giữa tất cả mọi Kitô hữu như là đường lối và dụng cụ của việc truyền bá phúc âm hóa. Việc chia rẽ giữa Kitô hữu là một thực tại trầm trọng làm ngăn trở chính công việc của Chúa Kitô. Công Đồng Chung Vaticanô II đã nói một cách rõ ràng minh bạch và mạnh mẽ là, việc chia rẽ này “làm tổn hại đến bản chất thánh thiện nhất của việc rao giảng Phúc Âm cho mọi người, và làm trở ngại cho nhiều người tiếp nhận đức tin” (Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 6: AAS 58 – 1966 – pp. 954-955; xem Sắc Lệnh về Đại Kết Unitatis Redintegratio, đoạn 1: AAS 57 – 1965 – pp. 90-91). Vì lý do này, trong việc công bố Năm Thánh, Chúng Tôi đã phải nhắc lại với tất cả mọi tín hữu thuộc thế giới Công Giáo là, “trước khi qui tụ tất cả mọi người lại với nhau và dẫn họ về với ơn Chúa là Cha của chúng ta, cần phải tái thiết lập việc hiệp thông giữa những người tin tưởng nhận biết và chấp nhận Chúa Giêsu Kitô như Chúa của tình thương, Đấng giải thoát con người và hiệp nhất họ trong Thần Linh yêu thương và chân lý” (Sắc Dụ Apostolorum Limina, VII: AAS 66 – 1974 – p. 305)

 

Với niềm hy vọng Kitô giáo mạnh mẽ, chúng ta lưu ý tới những nỗ lực đã được thực hiện nơi thế giới Kitô giáo đối với việc phục hồi trọn vẹn tình trạng hiệp nhất theo ý Chúa Kitô ấy. Thánh Phaolô đã bảo đảm với chúng ta rằng “hy vọng không làm chúng ta thất vọng” (Rm.5:5). Trong khi chúng ta còn phải hoạt động để xin Chúa cho được hoàn toàn hiệp nhất với nhau, Chúng Tôi muốn tăng thêm lời cầu nguyện. Ngoài ra, Chúng Tôi muốn thực hiện niềm mong ước của các Vị Nghị Phụ tham dự Thượng Hội Giám Mục Thế Giới Lần Ba, trong việc dấn thân hợp tác hơn nữa với anh em Kitô giáo có cùng một nguồn Phép Rửa và gia sản đức tin chung với chúng ta, thành phần chúng ta chưa hoàn toàn hiệp nhất. Thực hiện như thế, chúng ta đã cùng nhau làm chứng hơn nữa cho Chúa Kitô trước thế giới trong chính việc truyền bá phúc âm hóa. Lệnh truyền của Chúa Kitô thôi thúc chúng ta phải làm điều này; nhiệm vụ rao giảng và làm chứng cho Phúc Âm đòi hỏi phải như thế.

 

78.  Các Kẻ Phục Vụ Chân Lý

 

Phúc Âm được ký thác cho chúng ta cũng là lời chân lý. Một chân lý giải thoát (x.Jn.8:32), và chỉ có chân lý này mới ban bình an cho cõi lòng, một bình an con người tìm kiếm nơi việc chúng ta loan báo Tin Mừng cho họ. Một chân lý về Thiên Chúa, về con người và về định mệnh huyền nhiệm của họ, về thế giới; một chân lý chúng ta khổ công tìm kiếm ở nơi Lời Chúa, và là một chân lý, Chúng Tôi xin lập lại, chúng ta không làm chủ hay giữ chủ quyền, mà chỉ là những nơi chứa đựng, những người loan báo và là những tôi tớ phục vụ thôi.

 

Mọi nhà truyền bá phúc âm hóa cần phải tôn trọng chân lý, nhất là vì chân lý họ học hỏi và thông đạt chính là chân lý được mạc khải cho thấy, bởi đó, hơn bất cứ một chân lý nào khác, cũng là chân lý được tham phần vào chân lý đệ nhất là Chính Thiên Chúa. Do đó, người rao giảng Phúc Âm sẽ là một con người luôn luôn tìm kiếm chân lý họ muốn truyền đạt cho kẻ khác, dù họ phải trả bằng giá khước từ bản thân và chịu đựng đau khổ. Họ không bao giờ phản bội hay giấu diếm chân lý, vì muốn chiều lòng người, để gây kinh ngạc hay chấn động, họ cũng không bao giờ phản bội hay giấu diếm chân lý bởi tính cách nguyên tuyền của chân lý hay vì muốn gây ấn tượng. Họ không chối bỏ chân lý. Họ không làm lu mờ chân lý mạc khải, bằng việc lười biếng tìm kiếm chân lý, hay vì tiện ích riêng của mình, hoặc vì lo âu sợ hãi. Họ không chểnh mảng trong việc học hỏi chân lý. Họ phụng sự chân lý cách quảng đại chứ không bắt chân lý phải phục vụ mình.

 

Chúng ta là những vị mục tử của thành phần tín hữu, và việc mục vụ của chúng ta thúc đẩy chúng ta phải bảo trì, bảo vệ và thông đạt chân lý, cho dù chân lý có đòi chúng ta phải hy sinh. Có rất nhiều vị mục tử nổi nang và thánh thiện đã để lại cho chúng ta thấy mẫu gương về lòng yêu mến chân lý này. Trong nhiều trường hợp, nó là một lòng yêu mến hùng dũng can trường. Vị Thiên Chúa của chân lý muốn chúng ta là những kẻ bảo vệ tinh khôn và là những người nhiệt tình rao giảng chân lý.

 

Hỡi những người phụ huynh và những người làm thầy, công việc của các con – một công việc không dễ dàng gì trước nhiều thứ xung khắc hiện nay – là giúp cho con cái của mình và học sinh của mình khám phá ra chân lý, gồm cả chân lý về đạo nghĩa lẫn tâm linh.

 

79.  Được Tình Yêu Linh Hoạt

 

Công việc truyền bá phúc âm hóa đã làm nẩy sinh nơi nhà truyền bá phúc âm hóa một tình yêu thương càng ngày càng mạnh mẽ hơn đối với những người họ truyền bá phúc âm hóa. Thánh Phaolô Tông Đồ, nhà truyền bá phúc âm hóa gương mẫu, đã viết cho giáo đoàn Thessalônica những lời làm nên một chương trình sống cho tất cả chúng ta, đó là “với tình yêu thương tha thiết, chúng tôi muốn ban cho anh em chẳng những Phúc Âm của Thiên Chúa mà còn cả chính mình chúng tôi nữa, vì anh em là những người chúng tôi rất yêu dấu” (1Thes.2:8; x.Phil.1:8). Tình yêu này là gì? Tình yêu này còn hơn tình yêu của một vị thày; nó là tình yêu của một người cha; nó cũng là tình yêu của một người mẹ (x. 1Thes. 2:7-11; 1Cor.4:15; Gal.4:19). Chính tình yêu này là tình yêu Chúa muốn thấy nơi mọi người rao giảng Phúc Âm, nơi mọi người xây dựng Giáo Hội. Dấu hiệu của tình yêu này là tỏ ra quan tâm đến việc hiến ban chân lý và làm cho con người được hiệp nhất với nhau. Dấu hiệu khác của tình yêu này là việc sốt sắng loan báo Chúa Giêsu Kitô, không do dự và lùi bước. Chúng ta hãy kể thêm một số dấu hiệu khác nữa của tình yêu này.

 

Dấu hiệu thứ nhất là tôn trọng hoàn cảnh đạo nghĩa và tâm linh của những ai được truyền bá phúc âm hóa. Tôn trọng đường đi nước bước của họ; không ai có quyền bắt họ quá mức. Tôn trọng lương tâm và niềm tin của họ, không được đối xử với họ cách tàn tệ.

 

Một dấu hiệu khác của tình yêu này là để ý đừng làm tổn thương người khác, nhất là lúc họ yếu kém về đức tin (x.1Cor.8:9-13; Rm.14:15), bằng những lời phát biểu, đối với những người hiểu được thì không thành vấn đề, song đối với tín hữu lại có thể là nguyên cớ gây bối rối và gương mù, như gây thương tích cho linh hồn họ vậy.

 

Còn một dấu hiệu khác nữa tỏ ra tình yêu này, đó là nỗ lực trong việc thông đạt cho các người Kitô hữu những niềm xác tín vững chắc được cắm neo vào Lời Chúa, chứ không phải những gì là nghi ngờ và bất định phát sinh từ một thứ uyên bác được áp dụng một cách nghèo nàn. Tín hữu cần những xác tín này cho cuộc sống Kitô hữu của họ; họ được quyền có những xác tín này, như là những người con của Thiên Chúa, thành phần hoàn toàn phó mình trong tay Ngài và cho những đòi hỏi của tình yêu.

 

80.  Bằng Lòng Sốt Mến của Thánh Nhân

 

Lời kêu gọi của Chúng Tôi ở đây được khích động bởi lòng sốt mến của những nhà rao giảng và truyền bá phúc âm hóa cao cả nhất, những vị hiến đời mình cho sứ vụ tông đồ. Trong số những vị này, Chúng Tôi được hân hạnh nêu gương một số vị chúng tôi đã dự định tôn vinh trước tín hữu trong dịp Năm Thánh này. Các vị ấy đã biết thắng vượt các trở ngại trong việc truyền bá phúc âm hóa.

 

Những trở ngại ấy cũng xẩy ra hiện nay nữa, và Chúng Tôi sẽ chỉ đề cập đến tình trạng thiếu lòng sốt mến. Trở ngại này càng trầm trọng hơn nữa vì nó phát xuất từ bên trong. Nó bộc lộ cho thấy ở chỗ mệt mỏi, mất hăng hái, dung hòa, thiếu hào hứng, nhất là thiếu vui vẻ và hy vọng. Chúng Tôi kêu gọi tất cả những ai đang hoạt động truyền bá phúc âm hóa, bất kể mang chức vụ hay ở lãnh vực nào, hãy luôn luôn nuôi dưỡng lòng sốt mến đạo đức của mình (x.Rm.12:11).

 

Lòng sốt mến này trước hết đòi chúng ta phải biết loại trừ những lý do tránh né làm ngăn trở việc truyền bá phúc âm hóa. Chắc chắn lý do tránh né tai hại ngấm ngầm nhất đó là những lý do người ta nại vào giáo huấn này nọ của Công Đồng Chung Vaticanô II.

 

Bởi thế, người ta rất thường hay nghe thấy các kiểu nói  khác nhau là, việc áp đặt chân lý, cho dù là chân lý của Phúc Âm, hay việc áp đặt đường lối, cho dù là đường lối cứu độ, chính là việc vi phạm đến quyền tự do tôn giáo. Chưa hết, tại sao lại phải loan truyền Phúc Âm mà làm gì, vì cả thế giới được cứu độ khi họ sống theo lòng chính trực? Cũng thế, chúng ta biết rằng, thế giới và lịch sử đầy những “hạt giống Lời Chúa”; bởi thế, không phải là ảo tưởng hay sao khi chủ trương mang Phúc Âm đến chỗ có sẵn hạt giống do chính Chúa đã gieo vãi?

 

Ai chịu khó học hỏi theo các văn kiện của Công Đồng Chung Vaticanô II sẽ có một cái nhìn khác hẳn về những vấn đề được nại vào để tránh né này.

 

Chắc chắn việc áp đặt một điều gì đó trên lương tâm anh chị em của mình là làm một việc sai lầm. Thế nhưng, việc nêu lên cho lương tâm họ thấy chân lý của Phúc Âm và ơn cứu độ nơi Chúa Giêsu Kitô, một cách hoàn toàn minh bạch và hết sức tôn trọng chọn lựa tự do được chân lý Phúc Âm cho thấy – “không bó buộc, không áp lực một cách bất kính hay bất xứng” (xem Công Đồng Chung Vaticanô II, Tuyên Ngôn về Tự Do Tôn Giáo Dignitatis Humanae, đoạn 4: AAS 58 – 1966 – p. 933) – tránh lánh việc tấn công quyền tự do tôn giáo, thì hoàn toàn là một việc tôn trọng quyền tự do này, một quyền tự do có được là để chọn con đường mà ngay cả những người ngoài Kitô giáo cho rằng cao quí và thanh thoát. Nếu làm như thế thì có phải là việc phạm tội chạm đến tự do của những người được quyền hân hoan loan truyền Tin Mừng họ đã nhận biết nhờ tình Chúa thương hay chăng? (xem như vừa dẫn, các đoạn 9-14: loc. cit. pp. 935-940). Vậy thì tại sao chỉ có những gì là sai lạc và lỗi lầm, những gì là đê tiện và sách báo khiêu dâm lại có quyền phơi bầy ra trước mắt con người, và bất hạnh thay, những thứ ấy lại thường áp đặt lên con người, do việc quảng bá tai hại của phương tiện truyền thông xã hội, do việc dung túng của ngành lập pháp, việc nhút nhát của kẻ tốt và bất khôn của kẻ xấu? Việc trình bày kính cẩn về Chúa Kitô và về vương quốc của Người còn hơn là một quyền lợi của nhà truyền bá phúc âm hóa nữa; nó là nhiệm vụ của họ. Cũng thế, nó là quyền lợi của người đồng loại được phép nghe họ loan truyền Tin Mừng cứu độ. Thiên Chúa có thể hoàn thành việc cứu độ này nơi bất cứ ai Ngài muốn, bằng  đường lối chỉ có mình Ngài biết (xem Công Đồng Chung Vaticanô II, Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội Ad Gentes, đoạn 7: AAS 58 – 1966 – p. 955). Tuy nhiên, Con Ngài đến chính là để mạc khải cho chúng ta, bằng lời nói cũng như bằng đời sống của Người, những đường lối cứu độ thông thường. Người đã truyền chúng ta thực hiện việc thông truyền mạc khải này cho những người khác bằng quyền bính Người ủy thác. Cũng tốt thôi nếu mọi Kitô hữu và mọi nhà truyền bá phúc âm hóa cầu nguyện xoay quanh tư tưởng sau đây: bởi tình thương Thiên Chúa, con người cũng có thể chiếm được ơn cứu độ bằng những đường lối khác, cho dù chúng ta không rao giảng Phúc Âm cho họ; thế nhưng, về phần chúng ta, chúng ta có thể chiếm được ơn cứu độ được chăng, nếu chúng ta không rao giảng Phúc Âm, chỉ vì lơ là, sợ hãi hay xấu hổ – điều Thánh Phaolô gọi là “hổ thẹn vì Phúc Âm” (x.Rm.1:16) – hay do bởi những tư tưởng sai lầm? Làm như thế là chúng ta phản bội lời mời gọi của Thiên Chúa, Đấng muốn hạt giống sinh hoa kết trái nhờ tiếng nói của các thừa tác viên Phúc Âm; hạt giống này lệ thuộc vào chúng ta, trong việc lớn lên thành cây cũng như trong việc sinh nhiều hoa trái.

 

Bởi thế, chúng ta hãy bảo trì tinh thần sốt mến của mình. Chúng ta hãy bảo trì niềm vui hoan lạc và an ủi trong việc truyền bá phúc âm hóa, ngay cả lúc chúng ta phải gieo trong nước mắt. Chớ gì đối với chúng ta – cũng như đối với Thánh Gioan Tẩy Giả, với Thánh Phêrô và Phaolô, với các tông đồ khác cũng như với vô số những nhà truyền bá phúc âm hóa sáng ngời qua giòng lịch sử Giáo Hội – tinh thần sốt mến này là một nhiệt tình nội tâm không bị dập tắt bởi bất cứ một ai hay bởi bất kỳ điều gì. Chớ gì tinh thần sốt mến này là niềm vui cao cả cho những cuộc đời tận hiến. Và chớ gì thế giới của thời đại chúng ta đây, một thời đại đang tìm kiếm, đôi khi với lo âu, đôi khi với hy vọng, có thể lãnh nhận Tin Mừng từ các nhà truyền bá phúc âm hóa, không phải là thành phần buồn thảm, thất đảm, bất nhẫn hay lo âu, mà là từ các thừa tác viên Phúc Âm có một đời sống tỏa ra lòng sốt mến, thành phần đã lãnh nhận niềm vui của Chúa Kitô trước, và là thành phần sẵn sàng liều mạng mình để vương quốc của Người được loan truyền và Giáo Hội được thiết lập giữa lòng thế giới.