Bối Cảnh

Ở Trong Thế Gian
 

BỘT VĂN HÓA
 

“Nói đến Đạo thường là nói đến Đức Tin. Bởi thế, tử vì Đạo mới là chết vì Đức Tin, bỏ Đạo tức là bỏ Đức Tin và truyền Đạo là truyền bá Đức Tin. Như vậy, theo ý nghĩa, Đức Tin đồng nghĩa với Đạo, là mầu nhiệm của Đạo và là biểu hiệu cho Đạo, và trên thực tế, Đức Tin chẳng những là việc chấp nhận Đạo mà còn là việc phản ảnh Đạo nữa.

“Nếu Đức Tin là biểu hiệu cho Đạo thì văn hóa là biểu hiệu cho đời. Đức Tin phản ảnh Đạo ra sao, thì văn hóa cũng phản ảnh đời như vậy. Nếu Đạo thuộc về trời thế nào, thì đời cũng thuộc về con người như vậy, vì Đạo liên quan đến mạc khải và đời liên quan đến nhân tạo. Mà nói đến mạc khải là nói đến những gì thần linh, chân thật nhất và trọn hảo nhất. Trong khi đó, nói đến nhân tạo là nói đến những gì phàm tục, tạm bợ và tương đối. Do đó, văn hóa của con người và làm nên con người phải được thần linh hóa bởi mạc khải mới trọn hảo và bền vững.

           

“Như thế, Đạo hiện hữu là vì đời và cho đời. Và đã là Đạo thì phải là Đạo nhập thể (incarnation) và cứu thế (salvation). Đạo nào không có tính cách hội nhập văn hóa (inculturation) và biến đổi văn hóa (transculturation) thì không thực sự là và hoàn toàn là Đạo.

           

“Theo bản chất được mạc khải của mình, Kitô giáo thực sự là một Thiên Đạo. Thế nhưng, Kitô giáo còn là một Đạo nhập thể nữa, qua các công trình về giáo dục và bác ái khắp thế giới, được thực hiện bởi việc Truyền Bá Đức Tin”.

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, Giòng Sông Chảy Nước Ban Sự Sống Đời Đời, Cao-Bùi, 1998, trang 208)

Thật vậy, nếu không có Đức Tin thì chỉ có văn hóa sự chết chứ không thể nào có văn hóa sự sống, một thứ văn hóa xứng với nhân phẩm của con người là loài được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa và tương tự như Thiên Chúa. Bởi vì, "Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bởi mọi lời phát ra từ miệng Thiên Chúa" (Mt.4:4).

               

Xét về yếu tố làm nên hữu thể, con người khác với con vật ở tại linh hồn của mình. Bởi linh hồn và nhờ linh hồn này, con người có thể nhận biết mình và biết sống sao cho xứng hợp với thân phận của mình trong việc "làm chủ trái đất" (Gen.1:28). Như thế, xét về yếu tố sinh hoạt, con người tỏ ra trổi vượt hơn con vật ở tại văn hóa của mình. Văn hóa chính là bộ mặt của con người và là chân tướng của con người. Đến nỗi, nếu không có văn hóa con người cũng không còn là con người nữa, hay có là con người cũng không hơn gì một con vật.

               

Vậy nói đến con người là nói đến văn hóa. Mà văn hóa là gì, nếu không phải, về phẩm chất, là tinh hoa của con người, và về tính chất, là nhân cách của con người, hay là chính chủ trương sống của con người, được thể hiện qua luật pháp và tục lệ của họ, qua tín ngưỡng và giáo dục của họ, qua văn học và nghệ thuật của họ, qua khoa học và kỹ thuật của họ v.v. Tuy nhiên, vì văn hóa là "những gì thế gian", những gì phát xuất từ con người và thuộc về con người, mà con người lại "nhân vô thập toàn". Do đó, thực tế cho thấy, văn hóa hoàn toàn có tính cách tương đối, tức có thể sai lầm và bất toàn, có thể thay đổi và nghịch nhau.

               

Văn hóa của con người không sai lầm và bất toàn là gì, khi mà, trong chính thời điểm hầu như văn minh tuyệt đỉnh ngày nay, con người lại chủ trương làm những việc phạm đến chính nhân phẩm linh thiêng bất khả xâm phạm của con người, như đã từng xẩy ra trong chế độ cộng sản chuyên chế độc tài hay đang xẩy ra nơi các ống nghiệm tạo nhân, cũng như những việc phạm đến chính sự sống hết sức cao qúi của con người, như luật cho phép phá thai, hay luật cho phép giết êm dịu thành phần yếu bệnh vô phương cứu chữa, sống chỉ thêm gánh nặng và tốn phí cho xã hội.

Ngoài ra, văn hóa của con người cũng không tương đối ở chỗ nó có thể thay đổi và tỏ ra đối nghịch nhau là gì, giữa văn hóa của dân tộc này với dân tộc kia, giữa văn hóa của thời này với thời khác. Không phải hay sao, trong khi văn hóa của dân tộc Ấn Độ theo đạo Bà-La-Môn coi trọng con bò như một vị thần linh bất khả xúc phạm và đáng tôn kính, thì đối với văn hóa Việt Nam con bò chỉ là một con vật kéo cầy và là biểu tượng cho ngu si đần độn: "Ngu như con bò!"

               

Cũng không phải hay sao, văn hóa còn thay đổi theo thời thế, theo thị hiếu của con người, điển hình nhất là trong vấn đề thời trang, được thể hiện qua nhiều kiểu cách ăn mặc cũng như trang điểm đầu tóc nơi cả hai phái nam nữ, đến nỗi có những lúc nhìn đằng sau không còn phân biệt là nam hay nữ. Về phương diện văn hóa thay đổi theo thời thế liên quan đến phái tính này không thể không kể đến luật pháp cho phép hôn nhân đồng tính luyến ái tại Hoa Kỳ cũng như tại Âu Châu.  

               

Một sự kiện hiển nhiên hơn nữa có thể chứng minh văn hóa của con người hoàn toàn có tính cách tương đối, vì nó thay đổi theo thời gian và không gian (địa phương), đó là các thể chế chính trị. Trước cách mạng Pháp 1789, các nước trên thế giới đều theo chế độ quân chủ. Sau đó, chế độ dân chủ bắt đầu hình thành cho tới nay. Tuy nhiên, vẫn còn một số nước, chưa hoàn toàn dứt bỏ chế độ quân chủ này, ở chỗ có cả vua lẫn quốc hội, như Anh Quốc, Nhật Bản, Thái Lan v.v. Thế rồi, sau cách mạng Nga 1917, chế độ cộng sản đã ra đời và, cho đến năm 1989 là năm cộng sản Đông Âu sụp đổ và năm 1991 là năm Liên Bang Sô Viết từ bỏ cả chủ nghĩa lẫn chế độ cộng sản, chế độ này đã tràn lan đến cả nửa phần địa dư của thế giới. Ngoài ra, còn có một thể chế chính trị có tính cách trung dung giữa cộng sản và dân chủ, đó là chế độ xã hội vẫn được các nước Bắc Âu theo đuổi, như Đan Mạch, Thụy Điển, Na-Uy v.v.

               

Nếu văn hóa của con người có tính cách tương đối, bất toàn, bất nhất và đổi thay như thế, thì cho dù về khoa học và kỹ thuật con người có tiến hóa đến đâu đi nữa, văn hóa cũng không thể nào làm cho con người thăng tiến và hoàn toàn đạt đến tầm vóc nhân bản cao qúi của mình. Cũng chính vì không có một nền văn hóa hết sức kiện toàn mà, trong thời điểm văn minh vật chất vượt bậc này, văn hóa của con người đã trở thành một thứ "văn hóa tử vong", một thứ văn hóa tác hại đến chính nhân phẩm làm nên con người cũng như sát hại đến cả sự sống còn của con người, một thứ văn hóa làm cho con người sống trong thù hằn ghen ghét cũng như trong lo âu sợ hãi bị diệt vong.

               

Đó là lý do tại sao văn hóa của con người cần đến Đức Tin Kitô Giáo hơn bao giờ hết, nhất là kể từ thập niên 1960 đến nay, một thập niên đánh dấu một nền văn minh vật chất càng ngày càng lên đến tuyệt đỉnh của con người, qua việc con người bắt đầu thám hiểm không gian, và qua những phát minh tân kỳ cả về kỹ thuật điện tử lẫn điện toán, ngoài ra, thập niên này cũng đánh dấu một cuộc cách mạng nhân bản hầu như muốn lật đổ đến tận gốc rễ tất cả những gì làm nên xã hội loài người, qua việc bắt đầu ban bố những luật pháp cho phép ly dị và phá thai.