“Các Thực Tại Á Châu”

 

 

Để giải quyết cho vấn đề được đặt ra, Đức Thánh Cha đã khẳng định ngay sau đó:

 

·        “Chúng ta tìm thấy câu trả lời chính thức ở ngay trong phụng vụ hôm nay: đó là chúng ta phải làm chứng cho Chúa Kitô tử giá và phục sinh, Đấng Cứu Chuộc thế giới. Đồng thời, về phần mình, chúng ta phải tiếp tục lịch sử đã được khởi xướng bới các Vị Tông Đồ: công việc của chúng ta là viết lên một chương chứng nhân Kitô giáo mới ở mọi phần đất trên thế giới cũng như ở Á Châu: từ Aán Độ tới Nam Dương, từ Nhật Bản tới Lê Bá Long (Lebanon), từ Đại Hàn tới Kazakhstan, từ Việt Nam tới Phi Luật Tân, từ Sibêria tới Trung Hoa”.

 

(cùng nguồn, đoạn 6)

 

Thế nhưng, trong bản Instrumentum Laboris (phổ biến ngày 13-2-1998), bản văn đúc kết các câu trả lời từ bản Lineamenta (phổ biến ngày 3-9-1997), để phác họa nghị sự bao quát cho Cuộc Họp của Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu, đã nêu lên những thách đố trong việc làm chứng của Kitô giáo tại Á Châu như sau:

 

·        “Nhiều câu trả lời nói lên rằng, trong công việc truyền bá phúc âm, Giáo Hội ở Á Châu cần nhận thức được hình ảnh của mình nơi các tín hữu mang niềm tin khác hay nơi các người vô tín ngưỡng. Trong khi Giáo Hội được ca ngợi về cơ cấu tổ chức, về việc quản trị, về học đường và về việc chăm sóc sức khỏe, cùng với những công cuộc phát triển, thì những người này thường không nhìn thấy Giáo Hội hoàn toàn là Á Châu, không phải chỉ vì được nhiều tài trợ từ các nước Tây phương, mà còn vì tính cách Tây phương nơi thần học, kiến trúc, nghệ thuật v.v. nữa, cũng như còn vì có dính dáng đến qúa trình lịch sử nơi một số phần đất ở Á Châu. Bởi thế, một số người tỏ ra lưỡng lự trong việc chấp nhận Kitô giáo, vì sợ rằng sẽ bị mất đi căn tính dân tộc và văn hóa của mình”.

 

(Instrumentum Laboris, đoạn 13,

L’Osservatore Romano, ấn bản Anh Ngữ 25-2-1998)

 

Chưa hết:

·        “Những câu trả lời cho bản Limeamenta cũng kể lại Kitô hữu đôi khi được những tín đồ của các tôn giáo khác có những cách thức nhận định khác biệt. Chẳng hạn, Kitô hữu được kính trọng và ca ngợi vì tính chất của các học đường, các cơ sở chăm sóc sức khỏe và những chương trình xã hội dành cho người nghèo, tuy nhiên, một số người lại nghi ngờ những ý đồ của Giáo Hội qua những hoạt động này”.

 

(cùng nguồn vừa trích, đoạn 39)

 

Bởi thế, cũng trong bài giảng cho Thánh Lễ khai mạc này, Đức Thánh Cha đã đề ra nguyên tắc của việc làm chứng cho Chúa Kitô tại Á Châu, như sau:

 

·        “Thật vậy, chỉ gắn bó chặt chẽ với Chúa Kitô Giáo Hội mới có thể đáp ứng một cách xứng hợp những hy vọng và thách đố của đại lục Á Châu, cũng như của các lục địa khác trên thế giới. Việc mở màn một cuộc tân phúc âm hóa cho ngàn năm thứ ba đòi phải có một kiến thức sâu xa hơn bao giờ hết về Chúa Giêsu, cũng như đòi phải có một lòng trung tín không lay chuyển đối với Phúc Aâm. Đồng thời, cuộc tân phúc âm hóa cũng kêu gọi một sự chú trọng kính cẩn trước ‘các thực tại Á Châu’ và một nhận thức lành mạnh liên quan đến các thực tại này”.

(cùng nguồn, đoạn 4 và 5)

 

Vậy đâu là “các thực tại Á Châu” mà Kitô Giáo cần phải có “một nhận thức lành mạnh” trong việc truyền giáo? Bản đúc kết để gợi ý cho Cuộc Họp của Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã nêu lên một số “các thực tại Á Châu” trực tiếp liên quan đến tôn giáo như sau (những chỗ đậm là do người dịch cố ý nhấn mạnh cho rõ từng thực tại một):

 

Thực tại 1:

 

·        Á Châu là gốc gác của những tôn giáo lớn trên thế giới, như Aán Giáo, Phật Giáo, Do Thái Giáo, Kitô Giáo và Hồi Giáo. Nó cũng là nơi phát sinh của các truyền thống tôn giáo như Lão Giáo, Khổng Giáo, Minh Giáo (Zoroastrianism), Khổ Giáo hay Kỳ Na Giáo (Jainism), Chân Giáo (Sikhism), Nhật Giáo (Shintoism) v.v. Hầu hết mang đặc tính cứu độ và có những dẫn giải về Đấng Tuyệt Đối, về vũ trụ, về con người và về cảnh huống hiện hữu của con người, cũng như về sự dữ cùng với đường lối giải phóng. Chính trong tương quan tôn giáo này mà Giáo Hội tại Á Châu sinh động và làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô”.

 

(Instrumentum Laboris, đoạn 7, L’Osservatore Romano, ấn bản Anh Ngữ, 25-2-1998; các chỗ in đậm trên đây và sau này là do ý người viết)

 

Thực tại 2:

 

·        Các tôn giáo ở Á Châu đã khuôn đúc đời sống và văn hóa của người dân Châu Á cả mấy ngàn năm và tiếp tục làm cho cuộc sống của họ có ý nghĩa và hướng đi ngay cả cho đến ngày hôm nay. Theo ý nghĩa này, nhiều câu trả lời nói lên rằng các tôn giáo ở Á Châu thật sự là những tôn giáo sống, hòa nhập vào mọi lãnh vực của đời sống cá nhân, gia đình và xã hội. Bản chất sâu nặng tín ngưỡng là một trong những đặc tính chính yếu của người dân Châu Á, được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau trong gia đình cũng như ngoài xã hội, ở những lúc ngặt nghèo, qua những nghi thức của cuộc sống lữ hành, như sinh nở, cưới hỏi và tang chế. Những lúc như thế được đi kèm với việc cầu nguyện, lễ nghi, cúng tế, đọc Sách Thánh, chay tịnh, hành hương và bố thí. Theo một số câu trả lời thì những yếu tố tôn giáo ở Á Châu có tính cách tích cực này đã sửa soạn cho dân chúng sẵn sàng đón nhận sứ điệp cứu độ của Chúa Giêsu Kitô”.

 

(cùng nguồn, đoạn 7)

 

Thực tại 3:

 

·        Các tôn giáo Á Châu cố gắng đưa ra những giải đáp cho việc con người tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống, những giá trị, cũng như cố gắng đưa ra những cắt nghĩa và dẫn giải về vũ trụ, về tình trạng thực sự của con người nơi những khắc khoải đạo lý và luân lý, về tình trạng đổ vỡ cùng phân thân của họ, và về sự dữ. Các tôn giáo Á Châu cũng đưa ra đường lối cụ thể cho việc giải thoát con người khỏi vấn đề khúc mắc về sự dữ nơi cuộc sống hiện tại, về đau khổ, về sự chết, và cung cấp những thực hành tu đức để con người tự giác ngộ. Hơn thế nữa, các tôn giáo Á Châu còn gắn bó với giá trị cao qúi nơi những truyền thống tôn giáo của mình, những dẫn giải cùng với đường lối giải thoát cứu độ của họ. Đó là mối tương giao cho cuộc truyền bá Kitô giáo hiện nay. Thế nên, cuộc tân phúc âm hóa được kêu gọi thực hiện không phải chỉ chú trọng đến nội dung của sứ điệp Phúc Aâm thôi, còn đến cả thành phần mà việc làm này nhắm tới nữa...”

 

(cùng nguồn, đoạn 23)

 

Thực tại 4:

 

·        Dân chúng Á Châu, cả những người theo đạo cổ kính, lẫn đạo cổ truyền và tự nhiên, đều tìm cách sống hòa hợp giữa trời với đất, giữa lãnh giới thần linh với nhân trần, giữa siêu việt với thường tình. Những thực tại mẫu thuẫn và tương phản hiển nhiên này đã lẫn lộn cách nghịch thường với một số trong nhiều tôn giáo Á Châu. Khoảng cách giữa những thực tại này được giải quyết bằng triết lý và theo phụng vụ. Phụng vụ Kitô giáo đã diễn tả khoảng cách này một cách tuyệt diệu qua câu: ‘Ngài đã rẽ tầng trời mà xuống’ (Is.63:19). Cuộc hội ngộ giữa thần linh và nhân trần, tuyệt siêu việt thể và hữu hạn thể đã thực sự thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô”.

(cùng nguồn, đoạn 30)

 

Vậy, để có thể “viết lên một chương chứng nhân Kitô giáo mới ở mọi phần đất trên thế giới cũng như ở Á Châu”, như Đức Thánh Cha gợi ý cho 252 vị tham dự Cuộc Họp của Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu trong Thánh Lễ khai mạc, bằng “một sự chú trọng kính cẩn trước ‘các thực tại Á Châu’ và một nhận thức lành mạnh liên quan đến các thực tại này”, ngài đã kêu gọi trong phần kết của bài giảng như sau:

 

·        “Chúng ta cần lắng nghe điều Thần Linh đang nói với các Giáo Hội, để các Giáo Hội có thể loan báo Chúa Kitô trong tương quan với Aán Giáo, Phật Giáo, Nhật Giáo cũng như tất cả những đường lối suy tư và sinh hoạt đã đâm rễ ở Á Châu trước việc rao giảng Phúc Aâm diễn tiến ở đó. Hơn nữa, chúng ta cũng muốn cùng nhau suy nghĩ về cách thức  làm sao để sứ điệp của Chúa Kitô được các người đương thời chấp nhận, làm sao để ngày hôm nay đây lịch sử cứu độ vẫn được tiếp tục ở nơi họ, và làm sao để những lời của Tin Mừng được vang dội trong các linh hồn. Chúng ta sẽ tự hỏi mình, trong nguyện cầu và lắng nghe nhau, cách thức Chúa Kitô, ‘tảng đá mà những người thợ xây loại bỏ’, có thể vẫn là tảng đá nền cho việc dựng xây Giáo Hội ở Á Châu”.

 

(Tuần San L’Osservatore Romano, ấn bản Anh Ngữ, ngày 22-4-1998, đoạn  7)