Án Tử Hình và Thành Phần Tù Nhân

 

Vụ 3 Người Công Giáo bị tử hình ở Nam Dương: Dù người chết đã nằm xuống nhưng người sống vẫn chưa nguôi

Quốc Hội Phi Luật Tân Bỏ Phiếu Chấm Dứt Vấn Đề Án Tử Hình

Ba Tội Phạm Công Giáo Ở Nam Dương bị y án tử hình

Đại Diện Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ Xin Thống Đốc California Ân Xá Cho Tử Tội Stanley Williams

Các Vị Giám Mục Hoa Kỳ kêu gọi chấm dứt án tử hình

ĐTC Gioan Phaolô II: Vị Giáo Hoàng Đẩy Mạnh Chiến Dịch Hủy Bỏ Án Tử Hình

Nỗ Lực Vận Động Chống Lại Án Tử Hình

ĐTC GPII với về cuộc họp các vị quản đốc lao tù về những quyền lợi của thành phần tù phạm

Trừng Phạt Thành Phần Khủng Bố và Cuộc Vận Động Loại Trừ Án Tử

 

 

 

Vụ 3 Người Công Giáo bị tử hình ở Nam Dương: Dù người chết đã nằm xuống nhưng người sống vẫn chưa nguôi

 

Thật vậy, ngày định mệnh của 3 người Công Giáo Nam Dương là hôm Thứ Năm 21/9/2006, khi họ bị xử bắn bởi cảnh sát ở một địa điểm quanh khu vực phi trường. Cảnh sát đã nói thế nhưng không cho biết đích xác địa điểm. Còn cơ quan Học Viện Tòa Thánh Đặc Trách Truyền Giáo Hải Ngoại cho biết 3 tử tội này đã bị tử hình vào những phút đầu tiên của Ngày Thứ Sáu 22/9, tức vừa qua nửa đêm Thứ Năm 21/9.

 

Ba người này là Fabianus Tibo, 60 tuổi, Marinus Riwu, 48 tuổi và Dominggus da Silva, 42 tuổi. Họ bị án tử hình vào năm 2001, vì án tội dẫn đầu nhóm loạn dân vào năm 2000 đã ra tay sát hại 200 tín đồ Hồi Giáo ở một trường nội trú Hồi Giáo trong cuộc đụng độ giữa tín đồ Hồi Giáo và Kitô Giáo tại Poso thuộc Central Sulawesi. Nam Dương có 90 % theo Hồi Giáo, trong tổng số 245 triệu dân. 

 

Cuộc tử hình này, sau mấy lần bị đình hoãn và đáng lẽ cuối cùng đã được thi hành vào hôm 12/8/2006, song đã được đình hoãn một lần nữa, trước lời xin ân xá của chính Đức Thánh Cha Biển Đức XVI hôm 11/8/2006, cũng như bởi hằng ngàn người dân Nam Dương xuống đường phản đối. Các nhóm bảo vệ nhân quyền đã phản đối vụ án này và cho rằng bất công.

 

Ngày hôm trước khi bị tử hình là Thứ Tư 20/9, tức sau ngày Thứ Ba 19/9 là ngày tòa chính thức tuyên bố ngày tử hình là Thứ Năm 21/9, ba người tử tội Công Giáo đã yêu cầu được chết một cách công khai. Chính người con trai lớn nhất của Tibo là Robert đã công bố ước vọng này của cha mình: “Việc tử hình cần phải được diễn ra công khai để thỏa mãn những ai muốn chúng tôi phải chết”.

 

Ba người Công Giáo chẳng những xin được xử tử ở nơi công cộng mà còn muốn quan tài của họ được trưng bày công khai tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Maria ở Palu.

 

Vụ 3 tử tội này được xử có những tính cách mập mờ. Chẳng hạn thành phần người làm chứng không được hỏi tới và một số chứng cớ không được tòa chấp nhận. Chưa kể đến tiến trình phân xử còn bị đe dọa bởi thành phần Hồi Giáo cực đoan. Thân nhân họ hàng của 3 tử tội được đến thăm họ lần cuối vào hôm Thứ Ba là hôm tòa tuyên bố ngày xử tử. Họ được đi kèm theo bởi Cha Jimmy Tumbelaka thuộc Giáo Phận Manado và hai luật sư thuộc nhóm PADMA là Cha Norbert Bethan và Stephen Roy Rening.

 

Vị luật sư thứ hai cho rằng việc xử tử này “trái luật, vì những người đàn ông bị lên án này vẫn đang chờ đợi việc đáp ứng chính thức của Tổng Thống Susilo Bambang Yudhoyono về lời yêu cầu ân xá lần thứ hai”. Cơ quan Tín Vụ Á Châu cho biết vẫn không ngớt làn sóng chỉ trích pháp lệnh của tòa án. Theo ông Usman Hamid, vị lãnh đạo Ủy Ban Đặc Trách Người Mất Tích Và Nạn Nhân Của Bạo Lực, thì “Qua việc sát hại 3 người này, quốc gia này vi phạm tới nhân quyền và ngăn chặn việc cho biết danh tính của những ai thực sự gây ra những cuộc đụng độ ấy”.

 

Sau cuộc xử tử 3 người Công Giáo này, dân chúng ở Atambua, một tỉnh hầu hết Công Giáo, đã xuống đường và thành phần nổi loạn đã xông vào ngục giải thoát 200 tù nhân, chỉ có 20 tù phạm trở lại nhà tù mà thôi, như cảnh sát cho biết. Thành phần nổi loạn cũng đập phá văn phòng và nhà ở của công tố viên của nước này. Tuy nhiên, vụ nổi loạn này đã được lắng dịu một cách nhanh chóng, một phần là do sự can thiệp của Đức Giám Mục Anton Pain Ratu giáo phận Atambua. Ở Palu, Đức Giám Mục địa phương là Joseph Suwatan cũng lên tiếng kêu gọi tín hữu hãy tôn trọng trật tự chung.

 

Người con trai cả của ông Tibo nói với dân chúng rằng: “Trước khi chết, cha của tôi đã yêu cầu rằng đừng có ai muốn tìm cách trả thù mà là hãy thứ tha”.

 

Tòa Thánh Vatican tỏ ra đau buồn trước vụ án này. Cha Giám Đốc Văn Phòng Báo Chí của Tòa Thánh là linh mục dòng Tên Federico Lombardi đã cho biết: “Tin này là những gì rất đau buồn. Mỗi lần xẩy ra một vụ án tử hình là mỗi lần nhân loại lại bị thảm bại”.

 

Mặc dù chính quyền cấm không cho thực hiện các cuộc lễ an táng xẩy ra tại Vương Cung Thánh Đường ở Palu theo lời yêu cầu của người quá cố, vẫn có hằng ngàn người tấp nập kéo tới ngôi thánh đường ấy để hát Lễ Mồ dù không có thi hài của họ. Tibo và Riwu được chôn táng ở Beteleme, quê quán Nusa Tenggarra Timur của họ. Còn thi thể của Da Silva vẫn còn lưu lại ở Palu vì “lý do an ninh”.

 

Đức Giám Mục Vincentius Sensi Potokota Giáo Phận Maumere trên đảo Flores đã lên tiếng nhận định khi có những người khác đặt vấn đề đối xử với ba người bị kết án tử hình này. Vị giám mục nói: “Chúng tôi la ó và vận động cho tất cả mọi sự sống con người, chứ không phải chỉ cho sự sống của 3 người Công Giáo, và chúng tôi sẽ tiếp tục sánh cánh với anh chị em Hồi Giáo chiến đấu”.

 

Giáo phận này là giáo phận nhà của Dominggus da Silva, một trong ba người bị tử quyết. Vị giám mục địa phương 55 tuổi của người tử tội này nói tiếp với cơ quan Fides rằng:

 

“Chúng tôi cảm thấy rất buồn trước hậu quả ấy. Trong những tháng qua, chúng tôi đã lên tiếng và cố gắng hết sức để làm cho chính quyền thay đổi ý định của họ. Chúng tôi không tranh đấu chỉ để cứu mạng của 3 người Công Giáo này; việc chiến đấu của chúng tôi là một cuộc chiến đấu cho sự sống, chống lại án tử hình giành cho bất cứ ai”.

 

Thẩm quyền chính phủ đã trao thi thể của da Silva cho cộng đồng địa phương để cử hành lễ an táng trong vương cung thánh đường đầy chặt các tín hữu. Vị giám mục địa phương vẫn ngẫm nghĩ là tại sao “chính quyền đã xử tử 3 người này quá ư là nhanh chóng”:

 

“Có nhiều người khác được đợi chờ hành quyết lâu hơn thế nữa. Điều này cho thấy như là một cái gì đó bất công, và chúng tôi muốn cộng đồng quốc tế biết đến điều ấy. Chính quyền tỏ ra yếu kém và dường như nhường bước trước áp lực của thành phần cực đoan.

 

“Trong giáo phận của chúng tôi và ở tất cả các nơi, Kitô hữu và Hồi hữu đã cùng nhau vận động hủy bỏ án tử hình này. Cuộc vận động này chẳng có liên quan gì tới tôn giáo cả. Mọi sự sống đều quí giá. Việc vận động của chúng tôi là để cứu tất cả mọi sự sống con người”.

 

Cơ quan Tín Vụ Á Châu đã lập đi lập lại lời cảnh giác là 3 người Công Giáo bị xử án “mang tính cách bị áp lực mạnh mẽ bởi thành phần cực đoan Hồi Giáo, bởi những nỗ lực băng hoại và những phương thức xét xử phạm pháp”.

 

Hôm 27/9, cơ quan tín vụ Á Châu này cho biết họ hành thân nhân và luật sư của ba nạn nhân Công Giáo bị tử hình đã yêu cầu thực hiện một cuộc giảo nghiệm lần hai để xác nhận xem ba người này có bị hành hạ trước và sau khi bị xử tử hay chăng.  

 

Cảnh sát và thẩm quyền pháp đình đã chối bỏ bất cứ hành động lạm dụng bạo hành nào, nhưng các vị luật sư thuộc tổ chức PADMA, một nhóm luật sư liên tôn bênh vực 3 người này đã nộp đơn cho rằng thi thể của 3 người ấy cho thấy những dấu vết không thể bị gây ra chỉ bởi những viên đạn bắn gục họ.

 

Thi thể của Tibo rõ ràng là có 3 xương sườn bị gẫy, trong khi của Dominggus da Silva bị đâm vào tim bằng một khí cụ sắc nhọn. Và cả 3 thi thể đều bị bắn 5 lần vào ngực thay vì chỉ 1 lần. Cơ quan tín vụ Á Châu cho rằng quyết định của Văn Phòng Công Tố Viện ở Palu thực hiện việc chôn táng mau chóng 3 người chết này mà không cho họ được hưởng những cử hành an táng theo nghi thức tôn giáo là những gì cho thấy cuộc hành tử này đã không theo đúng các tiêu chẩn pháp lý vậy.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 20, 21, 22 và 27/9/2006

 

 

TOP

 

 

Quốc Hội Phi Luật Tân Bỏ Phiếu Chấm Dứt Vấn Đề Án Tử Hình

 

Tổng Thống Phi Luật Tân là Bà Gloria Arroyo đã hoan nghênh Quốc Hội đã thông qua dự luật hủy bỏ án tử và bảo đảm với quần chúng rằng bước tiến này ‘không có nghĩa là tỏ ra nhường bước trước tội ác’.

 

Lời của vị nữ tổng thống này được tuyên bố hôm Thứ Tư 7/6/2006 sau khi các phần tử của Quốc Hội chuẩn nhận hủy bỏ yếu tố ‘những tội ác cực kỳ ghê tởm’ trong luật năm 1994, tức là án tử hình cho một số tội ác bao gồm cả tội bắt cóc, sát nhân và buôn bán thuốc phiện.

 

Bà nữ tổng thống này tuyên bố rằng bà sẽ nhanh chóng ký cho dự lật ấy thành đạo luật: ‘Không có gì là lầm lần về vấn đề này cả: Việc hủy bỏ án tử hình sẽ được bổ túc bằng việc áp dụng luật lệ để hết sức đương đầu với tội ác một cách ngặt nghèo hơn và khiêm khắc hơn”.

 

Có 1.200 người đang chờ án tử ở xứ sở này, bao gồm cả 11 tay khủng bố liên quan tới nhóm al-Qaida. Khi đạo luật này được thông qua thì những bản án đang treo chưa kịp thi hành sẽ tự động trở thành án chung thân.

 

Chính phủ Phi Luật Tân đã hành quyết 7 người giữa năm 1999-2000, nhưng sau đó ít lâu, chính phủ này đã tuyên bố là tạm ngưng những cuộc hành hình, vì họ được đánh động bởi Giáo Hội Công Giáo và Khối Hiệp Nhất Âu Châu.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 7/6/2006

 

 

TOP

 

 

Ba Tội Phạm Công Giáo Ở Nam Dương bị y án tử hình

 

Văn phòng Tổng Biện Lý Quốc Gia, qua vị phát ngôn viên là Masyudi Ridwan,  đã loan báo quyết định trì hoãn án tử hình của ba phạm nhân Công Giáo, một án tử hình đáng lẽ được thi hành vào Thứ Bảy 1/4/2006, lý do trì hoãn là vì thiếu ‘những giấy tờ quan trọng’.

 

PADMA là một nhóm luật sư bênh vực cho ba phạm nhân Công Giáo này, Fabianus Tibo 60 tuổi, Dominggus da Silva 42 và Marianus Riwu 48, đã cố gắng ngăn chặn án tử hình ấy, một án tử hình đã được nhiều người cho là bất công vì còn có những điểm mập mờ chưa sáng tỏ, và bị áp lực của thành phần Hồi Giáo cực đoan.

 

Tháng Ba vừa qua, vào chính ngày lễ Thánh Giuse 19, Đức Giám Mục Joseph Theodorus Suwatan thuộc giáo phận Manado đã đến nhà tù thăm họ như ‘đặc sứ’ của Dức Giáo Hoàng và chuyển tới họ những lời an ủi của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI. Ngài nói với 3 tử tội này rằng Đức Thánh Cha gửi tới họ phép lành tòa thánh.

 

Ba tử tội này đã bị bắt giam năm vào 2000, vì bị tố cáo đã nhúng tay vào việc giết người và bạo loạn về sắc tộc ở Poso, thuộc hạt Central Sulawesi, và bị kết án tử bởi tòa án vùng Palu vào năm 2001 vì tội thảm sát những người Hồi Giáo.

 

Cộng Đồng Sant’Egido ở Rôma gần đây đã thực hiện một cuộc kêu gọi để cứu ba người Nam Dương Công Giáo ấy. Trong một văn thư, phong trào Công Giáo này đã nói rằng ba người ấy “mù chữ và nghèo nàn, có lẽ chỉ là những kẻ bị giật giây, bởi vì, căn cứ vào khám phá những chứng cớ mới, thì họ không phải là nguyên thành phần thực hiện tội ác ấy, vì những âm mưu của những cuộc khủng hoảng đẫm máu ở Poso vẫn chưa được khám phá ra”.

 

Nhiều tổ chức ở cấp quốc tế và quốc gia, bao gồm cả những đại diện cộng đồng Hồi Giáo, đã bày tỏ việc họ ủng hộ ‘Tibo và đồng bạn’, vì ba người này hiện nay đã nổi tiếng. Tối Cao Pháp Viện đã bác đơn khiếu nại bản án của ba người này hai lần.

 

Hôm Thứ Năm 6/4/2006, Vị Chánh Thẩm Phán Bagir Manan của Tối Cao Pháp Viện đã tuyên bố là các thủ tục về pháp lý đã kết thúc, không còn khiếu nại gì nữa:

 

“Những nỗ lực của PADMA là những gì phạm đến pháp luật. Bản án tử hình đã xong và số mệnh của ba người bị kết án không còn thuộc về tay của chúng tôi nữa”.

 

Vị Tổng Biện Lý Quốc Gia là Abdul Rahman Saleh cho biết ba nạn nhân này sẽ bị tử hình trong Tháng Tư. Các vị lãnh đạo của cộng đồng tôn giáo ở Central Sulawesi sợ rằng việc xử tử này sẽ làm bùng lên những cuộc đụng độ liên tôn ở vùng này.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 6/4/2006

 

 

TOP

 

Bản Án Tử Hình bị đình lại vì lương tâm nghề nghiệp thành phần chuyên viên y khoa gây mê

 

Hôm Thứ Ba 21/2/2006, mạng điện toán toàn cầu CNN đã phổ biến bài viết tựa đề “California execution delayed as doctors walk out”, với những hàng chữ chính như sau: “Việc hành quyết được ấn định cho một nam nhân bị án hiếp dâm và sát hại một thiếu nữ 17 tuổi đã bị đình hoãn cho tới tối Thứ Ba, sau khi hai chuyên viên gây mê không chịu ra tay vì lo ngại về vấn đề đạo lý”; và hôm Thứ Tư 22/6/2006 với bài “Killer's execution on indefinite hold”, cùng với hàng chữ nổi “Michael Morales không bị hành quyết như được ấn định vào đêm Thứ Ba, sau khi các viên chức nhà tù quyết định họ không thể tuân hợp lệnh của vị thẩm phán là cần phải có một chuyên viên y khoa thực hiện việc tiêm tử dược, người phát ngôn viên nhà tù nói như thế”.

 

Thật vậy, việc hành quyết án tử này được ấn định vào lúc nửa đêm 12:01 sáng Thứ Ba 21/2/2006, các vị luật sư biện hộ của tử tội yêu cầu thi hành lệnh của vị thẩm phán liên bang tuần vừa rồi muốn Nhà Tù Tiểu Bang San Quentin phải có một chuyên viên gây mê túc trực để giảm thiểu tối đa cái đau đớn của tử tội Michael Angelo Morales, 46 tuổi, khi người này bị chích thuốc cho chết, và một chuyên viên gây mê thứ hai cũng phải ở đó để thay thế khi cần.

 

Cho dù Thẩm Phán Liên Bang Vùng là Jeremy Fogel bác bỏ quyết định trên, cả hai chuyên viên gây mê đã không chịu thi hành chức nghiệp của mình trong vụ này, viện cớ là có những quan tâm về đạo lý nơi phán quyết của ông thẩm phán vùng đây. Hai chuyên viên gây mê này đã phổ biến một văn thư qua nhà tù này cho biết rằng họ lo ngại về một điều đòi hỏi trong việc họ nhúng tay vào biến cố mà tử tội Marales đã thức giấc hay đã tỏ ra ở trong tình trạng cảm thấy đớn đau. Hai vị bác sĩ gây mê này viết:

 

“Bất cứ việc nhúng tay nào như thế đều rõ ràng là những gì phi đạo lý về ý khoa. Bởi thế, chúng ta đã quyết định không dự phần vào tiến trình hiện nay”.

 

Hiệp Hội Y Khoa Hoa Kỳ, Hội Chuyên Viên Gây Mê Hoa Kỳ và Hiệp Hội Y Khoa California tất cả đều chống lại việc dự phần của hai vị bác sĩ gây mê ấy như thể việc ấy là những gì phi đạo đức và không chuyên nghiệp.

 

Các viên chức nhà tù này cho biết cuộc hành quyết bởi thế đã được dời lại tới 7 giờ 30 tối cùng ngày và họ sẽ sử dụng kỹ thuật khác, đó là sử dụng một liều thuốc an thần qua độ thay vì thứ nước hoa quả có ba loại thuốc thường được sử dụng trong các thuốc chích vong mạng.

 

Các vị luật sư biện hộ cho tử tội cho rằng thứ nước trái cây chích cho chết có ba phần ấy được sử dụng ở California cũng như ở 35 tiểu bang khác là những gì vi phạm điều cấm Tu Chính 8 về vấn đề trừng phạt hung dữ và dị thường. Họ nói rằng người tử tội sẽ cảm thấy quằn quại đau từ hai loại hóa chất cuối cùng nếu người tử tội này không hoàn toàn bị mê man đi.

 

Vị thẩm phán Fogel không chịu tha cuộc hành quyết này. Nhưng ông cho các viên chức nhà tù này được chọn một trong hai giải pháp, một là phải có hai vị bác sĩ túc trực để bảo đảm là thuốc mê công hiệu, hai là bỏ những thứ thuốc làm tê liệt và ngưng tim đi mà cho tử tội uống quá liều thuốc an thần. Vì sự kiện các chuyên viên gây mê rút lui không chịu hành sự nên các viên chức nhà tù này cho biết là họ sẽ sử dụng giải pháp thứ hai là giải pháp không cần đến các chuyên viên gây mê nữa.

 

Phát ngôn viên của nhà tù này là Vernell Crittendon cho biết án lệnh hành quyết có công hiệu cho tới 11:59 pm cùng ngày. Sau đó thì án lệnh không còn công hiệu nữa, và các viên chức phải trở về với vị thẩm phán xét xử vụ này là Charles McGrath, vị đã ra án tử hình vào năm 1983 để nhận được một án lệnh khác. Tuy nhiên, chính vị thẩm phán này, trong tháng vừa rồi, đã cùng với tử tội để xin thống đốc Arnold Schwarzenegger ân xá cho tử tội song không thành.

 

Vị thẩm phán McGrath này cho biết ông không còn tin tưởng tính chất khả tín của một thành phần nhà tù cung cấp tín liệu đưa ra chứng từ mang Morales đến chỗ chết. Morales đã nhận tội ác làm cho mình bị án tử. Trong đơn xin ân xá bị thống đốc California bác bỏ hôm Thứ Sáu 17/2/2006, người tử tội này cho rằng mình đã giết nữ nạn nhân Terri Winchell 25 năm trước vì đang say chất PCP và rượu.

 

Vị phát ngôn viên của nhà tù này trên kia cho biết là tử tội Morales được báo cho biết về việc đình hoãn hành quyết này, song người tử tội tỏ ra “ơ hờ”. Còn gia đình của nữ nạn nhân lại tỏ ra bực bội, như người phát ngôn viên này cho biết:

 

“Có nhiều dấu hiệu cho thấy trên khuôn mặt của họ qua một số người rất quan tâm tới việc tử tội Michael Morales sẽ không phải chịu đớn đau. Họ tỏ ra rất bất bình”.

 

Sáng Thứ Hai, 20/2/2006, tử tội Morales đã hết cách xin được ân xá, sau khi Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ từ chối cứu xét yêu cầu của mình và thống đốc bác bỏ yêu cầu của mình lần thứ hai.

 

Cho đến giờ hành quyết tử tội mà án lệnh vẫn không thể thi hành được. Ngay trước giờ hành quyết như được dự định vào 7 giờ 30 tối Thứ Ba ở California, phát ngôn viên Nhà Tù San Quentin của Tiểu Bang cho biết trong cuộc họp báo là “Vào lúc này đây … sẽ không hành quyết Michael Morales”.

 

Lý do là vì các viên chức nhà tù này đã nhất quyết thực hiện bản án tử hình này vào đúng giờ đã ấn định bằng cách sử dụng giải pháp thứ hai. Thế nhưng thuốc an thần được sử dụng cho việc hành quyết án tử hình lại cần phải được thực hiện trong phòng hành quyết bởi một người có giấy phép của tiểu bang, như bác sĩ, y tá hay các chuyên viên y khoa khác.

 

Trong cuộc họp báo trên, vị phát ngôn viên cho biết “chúng tôi không thể có được một chuyên viên y khoa có giấy phép thi hành việc chích thuốc vào tĩnh mạch để chấm dứt sự sống. Chúng tôi không tìm thấy một chuyên viên y khoa đạt được những tiêu chuẩn được tòa án ấn định”.

 

Được hỏi thái độ của tử tội ra sao khi nghe tin trì hoãn này, vị phát ngôn viên cho biết: “Anh ta cảm thấy nhẹ nhõm hẳn đi khi thấy mình không bị hành quyết. Anh ta mỉm cười. Anh ta gật đầu. Anh ta cám ơn tôi”.

 

Về thái độ của gia đình nạn nhân bị hiếp và giết cách đây 25 năm, vị phát ngôn viên này cũng cho biết là “rất khó chấp nhận. Cho dù chúng tôi đã giải thích cho họ là vấn đề không được giải quyết theo quan niệm của tiểu bang California”.

 

Người cha của nạn nhân là Mack nói rằng “tôi chỉ nghĩ được rằng toàn thể guồng máy pháp luật thật là quái gỡ. Tôi không thể nào hiểu nổi. Thật là lộn ruột cho cả Barbara và tôi”.

 

Mẹ của nạn nhân là Barbara Christian tỏ ra giận dữ trước việc trì hoãn cho đến giây phút cuối cùng cuộc hành quyết tên tử tội đã hiết giết con gái của bà: “Tôi hoàn toàn vỡ mộng với hệ thống pháp luật này. Chúng tôi đã chờ đợi 25 năm trời để mong hắn đền lại tội ác của hắn. Chúng tôi cảm thấy mình như bị đấm ngay vào bụng vậy”.

 

Sau khi cuộc hành quyết bị bãi, Thống Đốc Arnold Schwarzenegger, trong một văn bản, đã lên án quyết định này và tuyên bố ông nhất định không ân xá cho một “tên sát nhân và hiếp dâm bị kết án này”: “Tòa án liên bang đã pha mình vào những chi tiết của tiến trình hành quyết của tiểu bang. Tôi tin rằng những kết tội và bản án thích đáng trong vụ này. Tôi sẽ tiếp tục tranh đấu để chấp nhận luật lệ của tiểu bang California”.

 

Đaminh Maria Cao tấn Tĩnh, BVL

 

 

TOP

 

Đại Diện Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ Xin Thống Đốc California Ân Xá Cho Tử Tội Stanley Williams

 

Vị giám mục lãnh đạo Tiểu Ban Qui Chế Quốc Nội của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đã lên tiếng xin Thống Đốc California là Arnold Schwarzenegger ân xá cho bản án tử hình của kẻ bị cáo buộc là sát nhân Stanley Williams, 51 tuổi, một đồng sáng lập viên băng đảng, bị tử hình sáng Thứ Ba 13/12/2005 ở nhà tù tiểu bang San Quentin.

 

Tuy nhiên, trước đó, Đức Giám Mục Nicholas DiMarzio giáo phận Brooklyn, Nữu Ước, vị lãnh đạo Tiểu Ban Qui Chế Quốc Nội của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, đã kêu gọi vị thống đốc California qua một bức thư đề ngày Thứ Sáu 9/12/2005, một bức thư được phổ biến trên mạng điện toán toàn cầu hôm Thứ Hai 12/12/2005, trước ngày hành quyết người tử tội. Vị giám mục này viết như sau:

 

“Tôi không có ý làm giảm bớt trách nhiệm của những ai phạm những tội ác khiếp đảm; tuy nhiên, việc hành sử này chỉ có thể là những gì hòa trộn với bạo lực vốn đã xẩy ra trong xã hội của chúng ta mà thôi.

 

“Là những mục tử phục vụ cho cả thành phần nạn nhân của những tử tội lẫn những ai đang ngồi ở dãy xà lim tử hình, chúng tôi mạnh mẽ tin tưởng rằng việc sử dụng án tử là những gì làm suy giảm tất cả chúng ta khi một người nam hay một người nữ bị sát hại vì chúng ta.

 

Vị giám mục kêu gọi chính quyền hãy sử dụng “những phương tiện không gây sát hại sinh mạng” như sau:

 

“Những biện pháp bất bạo động như thế có thể cống hiến cho phạm nhân thời gian để thống hối tội ác của mình và giúp cho họ có cơ hội để lãnh nhận ơn Chúa….

 

“Đối với chúng tôi thì đây không phải là điều gì về ý hệ cả mà là việc tôn trọng căn bản đối với sự sống thôi. Chúng tôi không tin ông có thể dạy rằng sát nhân là sai trái do bởi việc sát nhân. Chúng tôi không tin ông có thể bênh vực sự sống bằng việc sát hại sự sống. Trong thông điệp ‘Phúc Âm Sự Sống’, Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thách thức tất cả mọi thành phần môn đệ Chúa Kitô làm sao để trở nên thành phần ‘phò sự sống vô điều kiện’. Vì đây là một đường lối không dễ dàng thực hiện mà nó trở thành một thách đố tất cả chúng ta mỗi người đều được kêu gọi thực hiện”.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 13/12/2005

 

 

TOP

 

 

Các Vị Giám Mục Hoa Kỳ kêu gọi chấm dứt án tử hình

 

Hôm Thứ Ba 15/11/2005 đã chấp thuận, với số phiếu 237-4, ‘Một Nền Văn Hóa Sự Sống và Án Tử Hình”, một bản văn kiện chủ trương rằng việc thi hành án tử là việc góp phần vào vòng bạo lực trong xã hội:

 

“Hình phạt tử hình là những gì vi phạm đến việc tôn trọng sự sống và phẩm giá của con người”.

 

“Đã đến lúc quốc gia của chúng ta cần loại trừ đi cái ảo tưởng là chúng ta có thể bảo vệ sự sống bằng việc sát hại sự sống.

 

“Khi quốc gia, nhân danh chúng ta và bằng thuế má của chúng ta, chấm dứt sự sống con người trong khi có những giải pháp bất sát hại khác, làm cho chúng ta thấy rằng xã hội có thể chế ngự bạo lực bằng bạo lực.

 

“Cần phải loại bỏ án tử hình chẳng những về những gì nó gây ra cho thành phần bị hành quyết mà còn về những gì gây ra cho toàn thể xã hội nữa”.

 

“Họ đáng được chúng ta xót thương, gắn bó và nâng đỡ – về tâm linh, mục vụ và cá nhân. Tuy nhiên, việc thông cảm với các gia đình của nạn nhân không thúc buộc chúng ta phải ủng hộ việc sử dụng tới án tử… Không có một hành động này, thậm chí cả việc hành quyết đi nữa, có thể trả về được một con người được mộ mến hay chữa lành những vết thương kinh hoàng. Nỗi đớn đau và cái mất mát của cái chết duy nhất không thể được tẩy trừ bởi một cái chết khác”. 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 16/11/2005

 TOP

 

 

ĐTC Gioan Phaolô II: Vị Giáo Hoàng Đẩy Mạnh Chiến Dịch Hủy Bỏ Án Tử Hình
 

HY Theodore McCarrick, TGM Washington, làm đầu Tiểu Ban Chính Sách Tại Nội của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, đã gửi thư kêu gọi các nghị viên Hạ Viện và Thượng Viện đang phác họa một khoản luật hậu biến cố 911 đừng áp dụng án tử hình với thành phần khủng bố. Sau đây là mấy ý tưởng chính yếu tiêu biểu của ngài:

 

“Những hành động đề hèn trong ngày 11/9 cùng với những giá thê thảm phải trả của con người vẫn còn là những gì ám ảnh quốc gia chúng ta. Không thể nào có vấn đề làm suy giảm cái khủng khiếp ghê rợn của nạn khủng bố hay trách nhiệm của những kẻ sử dụng bạo lực một cách ngang tàng phạm đến thành phần vô tội.

 

“Tuy nhiên, theo giáo huấn của Giáo Hội chúng tôi, chúng tôi phản đối việc áp dụng án tử hình ngay cả cho thành phần khủng bố. Giáo huấn Công Giáo về án tử hình minh định: Nếu phương tiện không đổ máu đã đủ để bênh vực mạng sống con người chống lại thành phần tấn công, cũng như đủ để bảo vệ đời sống quần chúng và sự an toàn của con người, thì công quyền cần phải sử dụng các phương tiện đó thôi, vì chúng đáp ứng hơn với những điều kiện cụ thể của công ích cũng như tương hợp hơn với phẩm giá của con người.

 

“Sau nữa, chúng tôi hết sức cảm thấy rằng những kẻ khủng bố tự sát không sợ bị án tử hình. Đúng vậy, nhiều kẻ khủng bố tin rằng nếu họ chết vì hành động khủng bố họ sẽ trở thành những vị tử đạo. Vấn đề hành quyết những tay khủng bố ít ra cũng biến họ thành các bậc anh hùng trước mắt của thành phần có cùng một chủ trương khủng bố tương tự như thế.

 

“Là những mục tử, chúng tôi tin rằng việc sử dụng án tử hình ở bất cứ trường hợp nào cũng đều làm giảm giá trị chúng ta là con người. Như chúng tôi đã đề cập đến trong văn kiện ‘Đối Đầu Với Một Thứ Văn Hóa Bạo Lực’ là ‘Chúng Ta không thể giảng dạy rằng sát hại là việc làm sai trái bằng cách thực hiện việc sát hại’”.

 

Trong khi đó, ở Âu Châu, có hai phạm nhân mang án tử nhưng được trắng án vô tội đã kêu gọi loại bỏ án tử và gọi án tử hình là những gì “tàn bạo vô nhân đạo”. Thật thế, hai phạm nhân này là Nick Yarris và Ray Kron, những người đã ở trong tù tất cả là 30 năm, đang thực hiện một cuộc du hành vòng quanh Âu Châu mang ý nghĩa “Từ Vòng Tay Tử Thần Đến Tự Do: Chứng Nhân Cho Việc Vô Tội”.

 

Tại các trung tâm ở Rôma của Cộng Đồng Sant’Egidio, hai người Mỹ này đã kể lại về trường hợp của họ cũng như về niềm tin của họ nơi Thiên Chúa, và kêu gọi Âu Châu giúp vào việc chấm dứt án tử hình. Hai chứng nhân này được cộng đồng này mời, những người đã trình bày cho báo chí Ngày Thế Giới Các Thành Phố Chống Án Tử Hình tới đây, 30/11/2004 ở 200 thành phố trên khắp thế giới.

 

Một viên chức của cộng đồng này là Mario Marioãiti cho biết việc chống lại án tử hình này do tổ chức của ông phát động “đã kiếm được 5 triệu ủng hộ viên, kể cả nhiều vị lãnh đạo tôn giáo. Việc hủy bỏ án tử hình có thể là một quà tặng cho gia đình của các nạn nhân nữa, vì họ có thể thôi hận thù và muốn trả đũa. Một thế giới không có án tử vẫn có thể hiện hữu”.

 

Lời kêu gọi của cộng đồng Sant’Egidio xẩy ra vào ngày hành quyết người tội phạm mang tên Dominique Green ở Texas.

 

Đúng như dự định, vào Ngày Thứ Ba 30/11/2004, 300 thành phố trên thế giới cùng với thành phố Rôma hợp tiếng phản đối chống lại án tử hình, bằng các loạt biến cố công khai khắp thế giới. Thật vậy, Cộng Đồng Sant’Egidio giáo dân đã phát động chiến dịch liên kết toàn cầu “Các Thành Phố Tranh Đấu Cho Sự Sống – Các Thành Phố Chống Án Tử Hình”.

 

Cộng đồng này đã xin được khoảng 5 triệu hội viên ở 150 quốc gia, làm bừng lên một cuộc đi tiên phong về liên tôn trong việc chống lại án tử hình. Vào năm 2002, cộng đồng này đã mở màn lần đầu tiên Ngày Quốc Tế Các Thành Phố Chống Án Tử Hình, đó là ngày 30/11/2002. Ngày này sở dĩ được chọn là để nhắc nhở việc hủy bỏ lần đầu tiên án tử hình tại Grand Duchy ở Tuscany ngày 30/11/1786.

 

Trong số những thành phố ủng hộ cuộc vận động chống án tử hình là Amsterdam, New York, Buenos Aires, Berlin, Hiroshima và Paris. Hí Trường ở Rôma sẽ là khởi điểm của một số trình diễn được cộng đồng này phát động.

 

Ngay trong Tuần Cửu Nhật Tòa Thánh giành riêng để cầu cho linh hồn vị cố giáo hoàng Gioan Phaolô II vừa qua đời thì chính quyền nước Guatemala, một quốc gia có 14.2 triệu và đã xử tử 36 người, ở Nam Mỹ Châu Latinh cứu xét đến vấn đề hủy bỏ án tử hình “để tôn kính” ngài. Tại sao vậy? Nếu không phải tại vì ngài là vì giáo hoàng của nền “văn hóa sự sống” (một thành ngữ do ngài sử dụng lần đầu tiên trong Thông Điệp “Phúc Âm Sự Sống ban hành ngày 25/3/1995, và đã trở thành thông dụng), mà còn vì ngài là vị đã phát động chiến dịch chống án tử trên thế giới nữa.

 

Về việc bảo vệ sự sống con người nói chung, chưa bao giờ người ta thấy Giáo Hội Công Giáo tỏ ra cương quyết và mạnh mẽ như vào thời gian tranh cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2004, liên quan đến một ứng cử viên người Công giáo là thượng nghị sĩ Kerry thuộc đảng Dân chủ mà lại công khai phò văn hóa sự chết như ủng hộ vấn đề phá thai. Ngoài ra, cũng tại Hoa Kỳ, cho dù chỉ là sự sống của một cá nhân, đó là bà Terri Schiavo, 41 tuổi, theo yêu cầu của người chồng giám hộ pháp lý của bà, đã bị tòa án (sau đó cả một hệ thống luật pháp Hoa Kỳ đã tỏ ra đồng loạt chấp nhận) án lệnh triệt sinh an tử bà, một người chỉ ở vào trạng thái nhận thức tối thiểu nhất hơn là trạng thái thực vật miên viễn, bằng cách rút ống dinh dưỡng ra, vào ngày 18/3/2005 (và bà đã quả thực qua đời ngày 1 tháng 4, tức trước 1 ngày vị giáo hoàng của văn hóa sự sống qua đời), nhưng sự sống nơi cá nhân con người nạn nhân vô tội này đã được cả giáo quyền địa phương Florida lẫn Hoa Kỳ và Tòa Thánh đã công khai lên tiếng bênh vực. 

 

Tại Liên Hiệp Quốc, vị quan sát viên thường trực của Tòa Thánh còn tỏ ra chống đối việc tạo sinh sao bản phôi bào con người dưới bất cứ hình thức nào và với mục đích nào, một cuộc tranh đấu cuối cùng đã được đáp ứng một phần nào qua quyết định của Tổng Hội Đồng LHQ hôm Thứ Ba 8/3/2005, Ngày Nữ Giới Quốc Tế, khi cơ cấu thẩm quyền này đã phê chuẩn quyết nghị (với hiệu lực không bắt buộc thi hành) kêu gọi các chính quyền hãy chuẩn nhận các khoản luật “cấm tất cả mọi hình thức tạo sinh sao bản con người vì chúng không xứng hợp với phẩm giá con người cũng như việc bảo vệ sự sống con người”, kể cả việc tạo sinh sao bản phôi bào con người để thực hiện việc nghiên cứu thân bào.

 

Thật vậy, tất cả những biến động và vận động phò sự sống và chống án tử ấy đã được bùng lên từ vị giáo hoàng Gioan Phaolô II. Vì, sau khi ban hành Cuốn Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo vào ngày 11/10/1992 bằng Tông Hiến Kho Tàng Đức Tin Fidei Depositum, ngài đã bắt đầu phát động và đẩy mạnh chiến dịch chống án tử hình này bằng Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống được ban hành ngày 25/3/1995, Lễ Mẹ Thai Lời liên quan đến sự sống. Ở chỗ, trong khi Cuốn Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, ở khoản số 2266, vẫn chấp nhận cho phép thi hành án tử trong những trường hợp vi phạm tội ác cực kỳ trầm trọng, vị giáo hoàng “vui mừng và hy vọng” Gioan Phaolô II này đã còn đi đến độ hoàn toàn chống lại việc thi hành án tử hình nữa. Đúng thế, trong Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống, một thông điệp mà, lần đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội, một vị giáo hoàng đã chính thức long trọng lấy quyền mình công khai tuyên bố những vấn đề về luân lý (chứ không phải tín lý như các tín điều Thánh Mẫu), như việc sát nhân nói chung (khoản số 57), cách riêng việc phá thai (khoản số 62), và triệt sinh an tử (khoản số 65), là những hành động hoàn toàn vô luân rất nặng, vị giáo hoàng là người đầu tiên sử dụng thành ngữ “văn hóa sự chết” này đã đặt vấn đề hủy bỏ án tử ở khoản số 27, 55 và 56 như sau.

 

“Có những dấu hiệu cho thấy việc công chúng càng ngày càng tỏ ra chống lại án tử hình, cho dù án tử hình ấy được coi như là một thứ ‘tự vệ hợp lý’ về phía xã hội. Xã hội tân tiến thực sự có cách để chế ngự tội ác một cách hiệu nghiệm, bằng việc trừng phạt thành phần phạm tội ác một cách vô hại khi không vĩnh viễn từ khước họ cơ hội để hoán cải” (khoản số 27).

 

“Không được lấy làm lạ lùng ở đây là việc sát hại một con người phản ảnh Thiên Chúa là một tội hết sức trầm trọng. Chỉ có một mình Thiên Chúa mới làm chủ sự sống mà thôi! Tuy nhiên, từ ban đầu, đương đầu với nhiều trường hợp thường thê thảm xẩy ra trong đời sống cá nhân và xã hội, Kitô giáo đã suy nghĩ  để hiểu biết trọn vẹn hơn và sâu xa hơn về những gì bị cấm đoán hay qui định bởi lệnh truyền của Thiên Chúa (x Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo hay GLGHCG, các khoản 327-332). Thực sự là có những trường hợp các giá trị được luật Chúa nêu lên dường như có gì hoàn toàn mâu thuẫn nhau. Chẳng hạn như trong trường hợp được phép tự vệ, một trường hợp mà quyền của kẻ bảo vệ mạng sống của mình và nhiệm vụ không được hại đến sự sống của người khác trên thực tế là những gì khó có thể dung hòa với nhau được. Chắc chắn một điều là giá trị nội tại của sự sống và nhiệm vụ yêu thương bản thân mình không kém người khác là những gì căn bản cho một thứ quyền tự vệ chân chính. Lệnh truyền buộc phải yêu thương tha nhân, một lệnh truyền được đề ra trong Cựu Ước và được xác nhận bởi Chúa Giêsu, tự nó là những gì bao hàm cả tình yêu thương bản thân mình như là nền tảng của việc so sánh: ‘Các người hãy yêu thương tha nhân như bản thân mình’ (Mk 12:31). Như thế, không ai có thể chối bỏ được quyền được tự vệ vì thiếu lòng quí chuộng sự sống hay bản thân. Điều này chỉ có thể thực hiện vì tình yêu thương anh hùng, một tình yêu sâu xa và biến đổi tình yêu bản thân thành một thứ tự hiến thực sự theo tinh thần các mối Phúc Đức của Phúc Âm (x Mt 5:38-40). Gương mẫu cao cả cho việc tự hiến mình là chính Chúa Giêsu.

 

“Ngoài ra, ‘việc tự vệ hợp lý có thể chẳng những là một quyền lợi mà còn là một nhiệm vụ nặng nề đối với những ai có trách nhiệm đối với mạng sống của kẻ khác nữa, đối với công ích của gia đình hay của Quốc gia” (Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, khoản số 2265). Tiếc thay, vấn đề xẩy ra là nhu cầu cần phải làm cho kẻ tấn công không còn khả năng tác hại nữa đôi khi lại đi đến chỗ làm cho họ mất cả mạng sống. Trong trường hợp ấy, hậu quả không thể tránh được qui cho kẻ tấn công có hành động gây ra hậu quả ấy, cho dù về luân lý họ có thể không phải chịu trách nhiệm vì việc thiếu sử dụng lý trí ( Cf. Saint Thomas Aquinas, Summa Theologiae, II-II, q. 64, a. 7; Saint Alphonsus De' Liguori, Theologia Moralis, l. III, tr. 4, c. 1, dub.3.)” (khoản số 55).

 

“Đó là bối cảnh cần phải đặt ra vấn đề án tử hình. Về vấn đề này đang có một khuynh hướng gia tăng, trong cả Giáo Hội lẫn ngoài xã hội dân sự, yêu cầu là cần phải áp dụng một cách rất hạn chế, thậm chí tới chỗ hoàn toàn hủy bỏ nó đi. Vấn đề này cần phải được quan niệm trong mối tương quan của một hệ thống công lý trừng phạt càng ngày càng phải hợp với phẩm giá con người hơn, tức là với dự án của Thiên Chúa đối với con người và xã hội. Mục đích chính yếu của việc trừng phạt được xã hội thực hiện là ‘để sửa lại những gì lệch lạc gây ra bởi việc vi phạm’ (GLGHCG, 2266). Công quyền cần phải sửa lại việc vi phạm đến các quyền lợi của cá nhân và xã hội, bằng việc áp đặt trên thành phần vi phạm một hình phạt xứng đáng về tội ác gây ra, như điều kiện cho kẻ vi phạm sửa sai việc hành sử tự do của mình. Nhờ đó, thành phần thẩm quyền cũng làm trọn được mục đích bênh vực trật tự chung và bảo đảm được tình trạng an toàn của dân chúng, đồng thời cũng hiến cho kẻ vi phạm một thứ phấn khích và hỗ trợ giúp họ đổi thay hành vị cử chỉ của họ mà được phục hồi (cùng nguồn vừa dẫn).

 

“Vẫn biết là để đạt được những mục đích ấy, thì bản chất và mức độ của hình phạt cần phải được cẩn thận thẩm lượng và quyết định, và không được đi đến chỗ cực đoan trong việc hành quyết phạm nhân, trừ trường hợp tuyệt đối cần thiết: nói cách khác, đó là khi không còn thể dùng cách nào khác để bênh vực xã hội được nữa. Tuy nhiên, ngày nay, với thành quả của những tiến triển liên tục nơi tổ chức về đường lối trừng phạt, những trường hợp như thế rất ư là hiếm có, nếu không muốn nói là không có.

 

“Dầu sao thì nguyên tắc được nêu lên trong Cuốn Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo mới vẫn đúng: ‘Nếu phương tiện không đổ máu là những gì đủ để bênh vực sự sống con người chống lại thành phần tấn công và bảo vệ được trật tự xã hội cùng tình trạng an toàn của dân chúng, thì công quyền phải hạn chế mình vào những phương tiện ấy, vì họ đáp ứng tốt đẹp với với những điều kiện cụ thể của công ích và hợp với phẩm vị của con người hơn” (số 2267).

 

Ngoài việc chống lại án tử hay bênh vực sự sống của cả thành phần tội nhân đáng xử tử trước pháp luật loài người như được đề cập đến trong Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống của mình trên đây, Đức Gioan Phaolô II còn lợi dụng những khi có thể để lập lại chủ trương của ngài nữa được ngài nêu lên trong Thông Điệp này. Chẳng hạn với các vị Giám Mục Hoa Kỳ thuộc các giáo tỉnh Boston và Hartford ngày 24/10/1998, ở đoạn 4 trong bài huấn từ của ngài gửi các vị dịp các vị viếng thăm ngũ niên Tòa Thánh. Hay với vị lãnh sự Cộng Hòa Phi Luật Tân là bà Lionida L. Vera ngày Thứ Hai 19/4/2004. Chưa hết, vào cuối buổi triều kiến chung Thứ Tư hằng tuần ngày 13/9/2000, ngài đã đích thân lên tiếng xin ân xá án tử cho phạm nhân Derek Rocco Barnabei ở Virginia Hoa Kỳ, với những lời lẽ như sau:

 

“Trong tinh thần xót thương là đặc tính của Năm Thánh này, một lần nữa tôi xin góp tiếng nói của mình vào tiếng nói của tất cả những ai đang xin tha mạng cho người trẻ Derek Rocco Barnabei. Tôi cũng hy vọng rằng, hơn thế nữa, chúng ta sẽ tiến tới chỗ bỏ đi đường lối tử hình, vì ngày nay Quốc Gia đã có những phương thức khác để chế ngự tội ác một cách hiệu nhiệm mà không cần phải vĩnh viễn tước mất cơ hội tự cứu lấy bản thân mình của kẻ vi phạm”.

 

Theo chiều hướng cổ võ văn hóa sự sống và chống án tử này của vị lãnh đạo tối cao Công giáo ấy, Tòa Thánh Rôma đã dứt khoát bày tỏ chủ trương tranh đấu chống án tử trên thế giới thứ tự thời gian như sau.

 

Vào ngày 2/11/1999, ĐTGM Renato R. Martino (đã được phong hồng y từ ngày 21/10/2003 với vai trò Chủ Tịch Hội Đồng Công Lý và Hòa Bình), Quan Sát Viên Thường Trực của Tòa Thánh ở Liên Hiệp  Quốc, trong Khóa Họp thứ 54 của Tổng Hội Đồng LHQ về Vấn Đề 11A là “Việc Hủy Bỏ Án Tử Hình”, căn cứ vào GLGHCG khoản 2267 và Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống của ĐTC GPII khoản 56 trên đây, như sau:

 

“Hơn hai thập niên, cộng đồng quốc tế đã theo đuổi vấn đề hạn chế hay hủy bỏ án tử hình… Người ta quá rõ là Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đích thân can thiệp vào nhiều trường hợp để xin thương tha chết cho nhiều phần tử. Ngài đã yêu cầu bãi bỏ đường lối tử hình, ít là vào Năm Thánh tới đây. Hôm 27/1 năm nay, tại Saint Luois, ngài đã nói:

 

“‘Một dấu hiệu hy vọng đó là việc càng ngày càng nhìn nhận rằng phẩm vị của sự sống con người không bao giờ được lấy đi, cho dù áp dụng cho trường hợp của con người đã gây ra một sự dữ cả thể. Xã hội tân tiến có cách bảo vệ mình mà không cần phải vĩnh viễn khước từ thành phần gây ra tội ác cơ hội hoán cải. Tôi xin lập lại lời kêu gọi tôi mới thực hiện vào dịp Lễ Giáng Sinh về vấn đề cùng nhau chấm dứt án tử hình là những gì tác ác và không cần thiết’...

 

“Bất cứ ai có mạng sống bị triệt tiêu trong phòng hơi ngạt, bằng việc treo cổ hay bằng việc chích thuốc cho chết hoặc bằng một đội binh bắn vào họ, đều là một người trong chúng ta, một con người, một người anh chị em, cho dù các hành động của họ có tán ác và phi nhân đến mấy đi nữa.

 

“Hoạt động tội ác đòi phải được trừng phạt một cách hiệu nghiệm. Thế nhưng, không có chứng cớ nào cho thấy một cách dứt khoát quyết liệt cho niềm tin tưởng rằng án tử hình là những gì làm giảm bớt cơ hội phạm các tội ác nặng nề cả. Việc khai thác cảm giác sợ hãi hay bất an của dân chúng không phải là những gì có thể thay thế cho chứng cớ ấy được. Tội ác sẽ được chế ngự một cách đầy ý nghĩa bằng những chính sách tổng quan về vấn đề giáo dục luân lý, về hoạt động hiệu năng của cảnh sát, cũng như bằng cách giải quyết những căn nguyên sâu xa gây ra tội ác. Hình phạt cần phải bảo đảm và cân xứng với tội ác, thế nhưng nó cũng cần phải qui hướng về việc phục hồi tội nhân trở thành một phần tử xây dựng xã hội bao nhiêu có thể.

 

“Vào lúc rạng đông của một tân thiên kỷ này thật là phúc đức nếu nhân loại càng trở nên nhân bản hơn và ít tàn ác hơn. Ở vào cuối một thế kỷ đã từng chứng kiến thấy những cuộc thảm sát không thể tượng tượng nổi phạm đến phẩm vị của con người và các quyền lợi bất khả vi phạm của họ, thì việc nghiêm chỉnh cứu xét đến vấn đề hủy bỏ án tử hình sẽ là một việc đáng kể cho nhân loại vậy”.

 

Ngày 11/2/2000, Đức ông Jean Luois Tauran của Tòa Thánh đã trình bày về “Việc bênh vực sự sống liên quan tới các chính sách và qui tắc quốc tế”, trong đó, ngài đã đề cập tới Hội Nghị Dân Số ở Cairô 1994 và Hội Nghị Nữ Giới ở Bắc Kinh 1995 đối với vấn đề sự sống, một vấn đề bao gồm nhiều khía cạnh như phá thai, tạo sinh sao bản (cloning), triệt sinh an tử (euthanasia hay mercy killing) và án tử hình (death penalty hay capital punishment). Sau đây là phần mở đầu và tiếp theo là phần riêng về vấn đề án tử hình liên quan đến diễn tiến trên thế giới về vấn đề này:

 

“Việc kiểm điểm lại vấn đề tiến bộ trong cuộc tranh luận ở lãnh vực quốc tế trên 5 năm qua là những gì cho thấy rõ ràng Bức Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống Evangelium Vitae hợp thời biết bao. Bức thông điệp này là thẩm quyền về chủ trương của Giáo Hội đối với một loạt những đe dọa hiểm nghèo cho sự sống con người, nhất là vào lúc khởi đầu và vào lúc kết thúc nó, những thứ đe dọa giờ đây mặc lấy một hình thức mới khi chúng tìm cách để được nhìn nhận là những thứ quyền lợi. Thật thế, trong những năm sau khi ban hành Bức Thông Điệp này, những lúc cốt yếu nhất của sự sống con người, cũng như việc truyền đạt sự sống, đã từng được trình bày một cách chưa từng thấy, chẳng những ở việc nghiên cứu khoa học, mà còn ở cả việc hình thành các qui chế và việc thiết lập các phương tiện pháp lý quốc tế.

 

“Như đã rõ, những chủ trương liên quan tới án tử hình theo truyền thống đã không đồng nhất, ở chỗ, trong khi có một số Quốc gia có lý coi việc hủy bỏ án tử là những gì cần thiết để thiết lập nguyên tắc cho ý hướng pháp lý tân tiến, còn những quốc gia khác lại coi nó như là một biện pháp chế ngự hữu hiệu… Ở Hội Đồng Âu Châu, văn kiện Protocol No. 6 to the European Convention on Human Rights, Concerning the Death Penalty, ngày 28/4/1984, đã tuyên bố ở khoản đầu tiên là “án tử hình bị hủy bỏ. Không ai có thể bị kết án tử hình này hay bị xứ quyết tử hình”… Ở Âu Châu, khuynh hướng này đã phát triển mạnh: đó là vào Tháng 10/1994, Hội Đồng Quốc Hội của Hội Đồng Âu Châu đã chấp thuận Khuyến Dụ kêu gọi việc hoàn toàn hủy bỏ án tử hình ở tất cả mọi quốc gia phần tử, khi đa số bác bỏ một điều tu chính giành quyền cho các Quốc gia hành sử những trường hợp bội phản và tình báo. Một khuynh hướng tương tự cũng xuất phát trong Khối Hiệp Nhất Âu Châu: đó là vào Tháng 3/1992, Quốc Hội Âu Châu đã chấp thuận quyết nghị kêu gọi hủy bỏ án tử hình ở hết mọi quốc gia trên thế giới.

 

“Vào tháng 6/1995, tức sau khi Bức Thông Điệp này được ban hành, thì Quốc Hội Âu Châu đã xin Hiệp Chủng Quốc hãy hủy bỏ việc áp dụng án tử hình. Vào tháng 5/1999, Quốc Hội ở Strasbourg lại yêu cầu vấn đề này cần phải được bao gồm trong nghị sự của Tổng Hội Đồng LHQ tới.

 

“Phản ứng ở cấp LHQ đã tỏ ra đáng chú ý. Vào tháng 5/1996, chưa đầy 1 năm sau khi bức Thông Điệp này ban hành, Khóa Họp Thứ Năm của Ủy Ban LHQ về Vấn Đề Ngăn Ngừa Tội Ác và Công Lý Tội Phạm đã bàn đến vấn đề ấy, và Bản Tường Trình của Vị Tổng Thư Ký LHQ đã giành hẳn một phần để bàn đến chủ trương của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong Thông Điệp Phúc Âm Sự Sống. Trong Nhóm Làm Việc về vấn đề (thứ ba) này, nước Áo, cùng với Đức và Ý, đã trình bày một quyết nghị bị các quốc gia Hồi giáo chống lại, những quốc gia coi nó là vấn đề của thần luật, cũng như từ các quốc gia khác như Tunisia và Nhật Bản. Vấn đề cuối cùng được dung hòa và được chấp thuận như một quyết nghị ‘ghi nhận tiến trình liên tục hướng tới việc loại bỏ trên toàn thế giới án tử hình’. Tuy nhiên, bản dự thảo của việc đình chỉ án tử hình, được trình bày cho Tổng Hội Đồng vào tháng 11/1999, đã bị hoãn lại trước sự chống đối mãnh liệt của nhiều quốc gia.

 

“Cần phải nói tới là các Tòa Án Quốc Tế xử nước Rwanda và nước Yugoslavia trước kia đã không thực hiện những điều khoản tử hình nào cả. Đặc biệt là trường hợp ở Rwanda: nơi xứ sở Phi Châu này, thành phần bị tố cáo phải chịu án tử hình nhưng không phải chịu nữa nếu họ bị Tòa Án Quốc Tế cho là có tội. Hội Nghị Ngoại Giao ở Rôma, một hội nghị đã thiết lập Tòa Án Tội Phạm Quốc Tế, đã không ra án tử trong danh sách các thứ hình phạt của mình”.

 

Ngày 21/6/2001, Tòa Thánh đã đọc Bản Tuyên Ngôn của mình cho Hội Nghị Thế Giới đầu tiên về Án Tử Hình ở Strasbourg Pháp quốc như sau:

 

“Tòa Thánh đã liên lỉ tìm cách hủy bỏ án tử hình và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đích thân kêu gọi cho bất kỳ người nào vào nhiều trường hợp để những án như thể được giảm thành một hình phạt nhẹ hơn là thứ hình phạt cống hiến cho tội nhân thời gian và cơ hội để hoán cải, cống hiến hy vọng cho thành phần vô tội và cống hiến việc an toàn cho phúc hạnh của chính xã hội dân sự cũng như của những ai không có quyền chọn lựa lại dính dáng chặt chẽ tới số phận của những kẻ bị lãnh án tử.

 

“Vị Giáo Hoàng này hết sức tha thiết hy vọng và nguyện cầu để việc đình chỉ trên toàn thế giới này có thể trở thành một trong những thiện ích về tinh thần lẫn luân lý cho Đại Năm Thánh được ngài công bố là Năm 2000, nhờ đó rạng đông của Đệ Tam Thiên Kỷ sẽ được muôn đời tưởng nhớ đến như là thời điểm then chốt trong lịch sử, khi cộng đồng chư quốc cuối cùng nhận ra rằng giờ đây họ có được một phương tiện để tự vệ mà không cần phải sử dụng những thứ hình phạt ‘tàn ác và không cần thiết’ nữa. Niềm hy vọng này vẫn mãnh liệt song chưa trọn, tuy nhiên cũng đang có dấu hiệu phấn khởi trong việc càng ngày người ta càng nhận thức hơn là ‘đã đến lúc cần phải hủy bỏ án tử hình’ rồi.

 

“Chắc chắn là càng cần hơn nữa phẩm vị bất khả tách biệt của sự sống con người là những gì phải được tôn trọng một cách phổ quát và được nhìn nhận giá trị khôn sánh của nó. Tòa Thánh đã dấn thân theo đuổi việc hủy bỏ án tử hình là một phần trọn vẹn của vấn đề bênh vực sự sống con người ở mọi giai đoạn phát triển của nó, nhờ đó để triệt hạ bất cứ chủ trương văn hóa sự chết nào.

 

“Nếu án tử là dấu hiệu của nỗi tuyệt vọng, thì xã hội dân sự được mời gọi để tỏ ra tin tưởng vào một thứ công lý cứu lấy niềm hy vọng khỏi bị hủy diệt bởi những thứ sự dữ đang săn bắt thế giới chúng ta. Việc hủy hoại toàn cầu án tử hình sẽ là một việc can đảm tái khẳng định niềm tin rằng nhân loại có thể thành công trong vấn đề đương đầu với tội ác cũng như tái khẳng định rằng chúng ta không thể nào thất vọng trước những thứ quyền lực, nhờ đó tái sinh niềm hy vọng mới nơi chính loài người của chúng ta”.

 

Vào ngày 13/4/2003, Lễ Lá, Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh của Tòa Thánh là Angelo Sodano đã đại diện Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, theo ý của ngài, để gửi đến Tổng Thống Cuba Fidel Castro một bức thư với ý tưởng chính như sau:

 

“Đức Thánh Cha rất đau lòng khi biết rằng nhiều công dân Cuba mới đây đã bị những bản án nặng nề, bao gồm cả án tử hình giành cho một số trong họ.

 

“Trước những vấn đề này, Đức Thánh Cha đã trao cho tôi việc xin Ngài hãy thực hiện một cử chỉ xót thương đầy ý nghĩa đối với thành phần bị kết án, chắc chắn việc ân xá này sẽ là những gì góp phần vào bầu khí thoải mái hơn và phúc thiện hơn cho nhân dân Cuba”

 Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL (trích tác phẩm "Đức Gioan Phaolô II: Sống là Chúa Kitô - Chết là Vinh Thắng")

 

TOP

 

 

Nỗ Lực Vận Động Chống Lại Án Tử Hình


Vào Ngày Thứ Ba 30/11/2004, 300 thành phố trên thế giới cùng với thành phố Rôma hợp tiếng phản đối chống lại án tử hình, bằng các loạt biến cố công khai khắp thế giới. Thật vậy, Cộng Đồng Sant’Egidio giáo dân đã phát động chiến dịch liên kết toàn cầu “Các Thành Phố Tranh Đấu Cho Sự Sống – Các Thành Phố Chống Án Tử Hình”.


Cộng đồng này đã xin được khoảng 5 triệu hội viên ở 150 quốc gia, làm bừng lên một cuộc đi tiên phong về liên tôn trong việc chống lại án tử hình. Vào năm 2002, cộng đồng này đã mở màn lần đầu tiên Ngày Quốc Tế Các Thành Phố Chống Án Tử Hình, đó là ngày 30/11/2002. Ngày này sở dĩ được chọn là để nhắc nhở việc hủy bỏ lần đầu tiên án tử hình tại Grand Duchy ở Tuscany ngày 30/11/1786.


Trong số những thành phố ủng hộ cuộc vận động chống án tử hình là Amsterdam, New York, Buenos Aires, Berlin, Hiroshima và Paris. Hí Trường ở Rôma sẽ là khởi điểm của một số trình diễn được cộng đồng này phát động.

 

 

TOP

 

 

ĐTC GPII với cuộc họp các vị quản đốc lao tù về những quyền lợi của thành phần tù phạm

Hôm Thứ Sáu 26/11/2004, ĐTC GPII đã tiếp các vị quản đốc lao tù thuộc 45 tiểu bang có liên hệ với Hội Đồng Âu Châu.

Ngài đã nhận định là họ “đang suy tư về cách làm sao cho các thứ luật lệ lao tù Âu Châu đáp ứng tốt đẹp hơn nữa đối với các nhu cầu của các tù nhân… Nơi mọi quốc gia dân sự cần phải có cùng một quan tâm đến việc bảo trì các quyền lợi bất khả vi phạm của hết mọi người”. Bởi thế Ngài nói với họ rằng “quí vị cần phải sửa lại các thứ lề luật và qui tắc có chiều hướng làm ngăn trở những quyền lợi này, nhất là khi nó liên quan đến quyền về sự sống và quyền về sức khỏe, quyền về văn hóa, về làm việc, về việc hành sử tự do tư tưởng và tuyên xưng niềm tin của mình”.

“Việc tôn trọng phẩm vị con người là một giá trị của nền văn hóa Âu Châu bắt nguồn từ Kitô Giáo; nó là một giá trị nhân bản đại đồng, và do đó, hướng đến chỗ được chấp nhận nhiều nhất. Hết mọi quốc gia cần phải thận trọng thực hiện việc bảo đảm các quyền lợi căn bản của con người nơi tất cả mọi lao tù”.

Đức Thánh Cha nói rằng “các biện pháp chỉ có tính cách áp đảo hay trừng phạt, là những gì người ta thường sử dụng ngày nay, là những gì không đủ để đạt được mục đích thực sự phục hồi thành phần tù phạm…. Cần phải loại trừ đi những việc đối xử về thể lý và luân lý tác hại cho phẩm giá con người, và hãy dấn thân thực hiện vai trò chuyên nghiệp hơn của thành phần hoạt động trong các cơ cấu trừng phạt”.

Sau khi thúc giục họ hãy tìm kiếm những hình phạt thay thế cho các lao tù, “với những chương trình huấn luyện về nhân bản, nghề nghiệp và tâm linh”, Ngài nói đến hoạt động của các vị tuyên úy, thành phần thực hiện nhiệm vụ “là một công việc tinh tế và bất khả thay thế ở nhiều khía cạnh”. Ngoài ra, Ngài còn nói: “làm sao chúng ta lại bỏ qua không lưu ý tới những tổ chức và các hiệp hội tình nguyện dấn thân cho sự phúc hạnh của thành phần tù nhân cũng như cho việc giúp thành phần này tái hội nhập vào xã hội?”

ĐTC GPII nhấn mạnh là “Không được để cho việc tôn trọng phẩm vị con người tù nhân gây tác hại cho mối quan tâm xã hội. Đó là lý do cần phải bênh vực thành phần công dân, thậm chí bằng cả những hình thức trừng phạt có tính cách gây nhụt chí để làm gương. Thế nhưng việc áp dụng theo phận sự công bằng trong việc bênh vực các người công dân và phạm vị công cộng không được tương phản với việc lưu tâm cần phải có đối với các quyền lợi của thành phần tù nhân cũng như đối với việc phục hồi họ; trái lại, đây là vấn đề của hai khía cạnh cần phải được dung nhập. Đó là vấn đề ngăn ngừa và triệt hạ, vấn đề giam cầm và phục hồi, là những hành động hỗ tương”.


 

TOP

 

 

Trừng Phạt Thành Phần Khủng Bố và Cuộc Vận Động Loại Trừ Án Tử

ĐHY Theodore McCarrick, TGM Washington, làm đầu Tiểu Ban Chính Sách Tại Nội của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, đã gửi thư kêu gọi các nghị viên Hạ Viện và Thượng Viện đang phác họa một khoản luật hậu biến cố 911 đừng áp dụng án tử hình với thành phần khủng bố. Sau đây là mấy ý tưởng chính yếu tiêu biểu của ngài:

“Những hành động đề hèn trong ngày 11/9 cùng với những giá thê thảm phải trả của con người vẫn còn là những gì ám ảnh quốc gia chúng ta. Không thể nào có vấn đề làm suy giảm cái khủng khiếp ghê rợn của nạn khủng bố hay trách nhiệm của những kẻ sử dụng bạo lực một cách ngang tàng phạm đến thành phần vô tội.

“Tuy nhiên, theo giáo huấn của Giáo Hội chúng tôi, chúng tôi phản đối việc áp dụng án tử hình ngay cả cho thành phần khủng bố. Giáo huấn Công Giáo về án tử hình minh định: Nếu phương tiện không đổ máu đã đủ để bênh vực mạng sống con người chống lại thành phần tấn công, cũng như đủ để bảo vệ đời sống quần chúng và sự an toàn của con người, thì công quyền cần phải sử dụng các phương tiện đó thôi, vì chúng đáp ứng hơn với những điều kiện cụ thể của công ích cũng như tương hợp hơn với phẩm giá của con người.

“Sau nữa, chúng tôi hết sức cảm thấy rằng những kẻ khủng bố tự sát không sợ bị án tử hình. Đúng vậy, nhiều kẻ khủng bố tin rằng nếu họ chết vì hành động khủng bố họ sẽ trở thành những vị tử đạo. Vấn đề hành quyết những tay khủng bố ít ra cũng biến họ thành các bậc anh hùng trước mắt của thành phần có cùng một chủ trương khủng bố tương tự như thế.

“Là những mục tử, chúng tôi tin rằng việc sử dụng án tử hình ở bất cứ trường hợp nào cũng đều làm giảm giá trị chúng ta là con người. Như chúng tôi đã đề cập đến trong văn kiện ‘Đối Đầu Với Một Thứ Văn Hóa Bạo Lực’ là ‘Chúng Ta không thể giảng dạy rằng sát hại là việc làm sai trái bằng cách thực hiện việc sát hại’”.

Trong khi đó, ở Âu Châu, có hai phạm nhân mang án tử nhưng được trắng án vô tội đã kêu gọi loại bỏ án tử và gọi án tử hình là những gì “tàn bạo vô nhân đạo”. Thật thế, hai phạm nhân này là Nick Yarris và Ray Kron, những người đã ở trong tù tất cả là 30 năm, đang thực hiện một cuộc du hành vòng quanh Âu Châu mang ý nghĩa “Từ Vòng Tay Tử Thần Đến Tự Do: Chứng Nhân Cho Việc Vô Tội”.

Tại các trung tâm ở Rôma của Cộng Đồng Sant’Egidio, hai người Mỹ này đã kể lại về trường hợp của họ cũng như về niềm tin của họ nơi Thiên Chúa, và kêu gọi Âu Châu giúp vào việc chấm dứt án tử hình. Hai chứng nhân này được cộng đồng này mời, những người đã trình bày cho báo chí Ngày Thế Giới Các Thành Phố Chống Án Tử Hình tới đây, 30/11/2004 ở 200 thành phố trên khắp thế giới.

Một viên chức của cộng đồng này là Mario Marizziti cho biết việc chống lại án tử hình này do tổ chức của ông phát động “đã kiếm được 5 triệu ủng hộ viên, kể cả nhiều vị lãnh đạo tôn giáo. Việc hủy bỏ án tử hình có thể là một quà tặng cho gia đình của các nạn nhân nữa, vì họ có thể thôi hận thù và muốn trả đũa. Một thế giới không có án tử vẫn có thể hiện hữu”.

Lời kêu gọi của cộng đồng Sant’Egidio xẩy ra vào ngày hành quyết người tội phạm mang tên Dominique Green ở Texas.

TOP