“PHÚC ÂM GIUĐA”

 

Hướng về Lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa Chúa Nhật II Phục Sinh 23/4/2006

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

Theo dự tính, vào ngày 19/5/2006, hãng Sony Pictures ở Mỹ sẽ tung ra cuốn phim rất nguy hại tới đức tin Kitô giáo, một cuốn phim được trình chiếu theo cốt truyện của cuốn tiểu thuyết được viết bởi tác giả Dan Brown 41 tuổi, người Hiệp Vương Quốc. Đó là cuốn tiểu thuyết The Da Vinci Code, (có thể dịch là “Cái Mật Mã của Họa Sĩ Da Vinci”). Đây là cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất từ trước đến này, với trên 40 triệu cuốn, nếu không muốn nói là 48 triệu cuốn.

 

Theo các chuyên gia phân tích hiện tượng cuốn tiểu thuyết này, tác giả của nó là Dan Brown, căn cứ vào mật mã nơi bức tranh của người họa sĩ mang tên Leonardo Da Vinci, bức tranh có 13 chén, cho rằng Mai Đệ Liên chính là cái chén thứ 13 chứa đựng máu Chúa Giêsu, tức có con với Người, là vợ của Người v.v. Không biết trong cuốn phim này có cảnh ăn nằm giữa … với Mai Đệ Liên hay chăng? Có thể, trong tương lai, khó mà tránh được việc nền văn hóa đầy trần tục hôi tanh mùi sự chết này sẽ đi đến chỗ cho trình chiếu một cuốn phim khác, trong đó, Chúa Giêsu và tông đồ Gioan được Người yêu đóng vai hai người đồng tính luyến ái ăn ở với nhau.

 

Trước hết, về cuốn The Da Vinci Code – Cái Mật Mã của Họa Sĩ Da Vinci, tại sao gần 50 triệu độc giả, hầu hết là Kitô hữu Tây Phương, lại có thể tin được vào một cuốn tiểu thuyết hơn là bộ Thánh Kinh Tân Ước Kitô Giáo nói chung và Phúc Âm nói riêng chứ. Tác giả Dan Brown là ai mà họ hào hứng tin tưởng đến thế, rồi họa sĩ Leonardi Da Vinci là ai và bức họa của ông là cái thứ gì mà trên 40 triệu độc giả ấy lại có thể dễ dàng chấp nhận theo những gì được tác giả Dan Brown suy diễn thành một cuốn tiểu thuyết như thế? Vậy thì thành phần chứng nhân tiên khởi là các vị tông đồ nói chung và các Thánh Ký Phúc Âm nói riêng không đáng tin bằng nhân vật họa sĩ và tiểu thuyết gia này hay sao?  

 

Thế rồi, theo một số người cảm nhận thì theo chiều hướng phá đạo này, chiều hướng phản đức tin Kitô Giáo ấy, hôm Thứ Năm 6/4/2006, ngay trong thời điểm cuốn tiểu thuyết The Da Vinci Code đang ‘hot’, đang ‘nóng bỏng’, đến nỗi sắp sửa thành phim, người ta lại tung ra một cuốn sách ‘bật ngửa’ nữa, đó là cuốn “Phúc Aâm Giuđa”. Vậy cuốn sách này có thật là một cuốn sách cổ xưa hay chăng? Nội dung của nó như thế nào? Nội dung của nó có hợp với đức tin Kitô Giáo hay chăng? Đâu là những vấn đề rắc rối gây ra bởi nội dung của cuốn sách này?

 

 

“Phúc Âm Giuđa”: Có thực sự là một cuốn sách cổ xưa hay chăng?

 

Cuốn “Phúc Âm Giuđa” này được một nông gia đào thấy trong một ‘cái hộp giống nấm mộ’ vào năm 1978 ở một cái động gần El Minya, Ai Cập. Cái hộp được đào quật thấy này đựng một bộ tài liệu về đạo, trong đó có cuốn “Phúc Aâm Giuđa”.

 

Người nông gia vớ được cái hộp ấy đã bán nó cho một người mua đồ cổ ở Cairô chứ không thông báo cho các viên chức chuyên về đồ cổ của Ai Cập. Thế rồi vào năm 1983, người mua đồ cổ từ người nông dân ấy, không hề biết gì về nội dung của hộp đồ cổ này, muốn bán lại cho Emmel và một học giả khác tại một phòng khách sạn ở Geneva, Thụy Sĩ, khi cho họ thấy hộp đồ cổ này. Trong vòng nửa tiếng để xem xét món đồ cổ ấy, Emmel ngờ ngợ là những giấy tờ ấy viết về Giuđa, căn cứ vào những chi tiết liên quan tới người môn đệ ở Coptic. Thế nhưng, giá bán hộp đồ cổ này quá oun, lên tới 3 triệu Mỹ kim.

 

Trải qua 16 năm sau đó, bộ tài liệu cổ này được cất giữ ở một hộp ngân hàng bảo toàn ở Hicksville Nữu Ước, mỗi ngày một tàn tệ hơn, cho tới năm 2000 được chuyên viên mua đồ cổ ở Zurich là Frieda Nussberger-Tchocos mua. Vào năm 2001, bộ tài liệu cổ này ở trong tay Maecenas Foundation for Ancient Art, Thụy Sĩ. Vào năm 2004, Tổ chức này đã mời National Geographic Society giúp vào việc phục hồi bộ tài liệu cổ đã bị hư hao ấy, đồng thời cũng đồng ý với chính phủ Ai Cập là sẽ hoàn nó lại cho chính phủ này sau khi hoàn tất việc phục hồi nó, để được cất giữ ở Coptic Museum ở Cairo.

 

Hội này đã qui tụ được một nhóm chuyên viên thực hiện việc phục hồi này, với số tiền tài trợ là 1 triệu Mỹ kim từ Waitt Foundation for Historical Studies ở Hoa Kỳ. Hơn 1000 mảnh vụn đã được sắp xếp lại với nhau, giúp cho cuốn “Phúc Âm Giuđa” trở thành rõ nét được tới 80%. Căn cứ vào những yếu tố khảo cổ như chất than phóng xạ, mực viết, quang phổ hình ảnh, cách hành văn và kiểu chữ viết thì bộ tài liệu này đúng là ở vào khoảng năm 300.

 

Cuốn “Phúc Âm Giuđa”, dài 26 trang, được viết cả mặt trước lẫn mặt sau, là một trong tập tài liệu cổ dài 66 trang ở trong hộp được đào quật tài liệu, trong đó, ngoài “Phúc Âm Giuđa” còn có một bản văn tựa đề Giacôbê, một bức thư của Phêrô và một văn kiện được các học giả tạm gọi là Book of Allogenes. Cuốn “Phúc Âm Giuđa” được viết bằng tiếng Coptic, và có thể là bản thảo của nguyên bản bằng tiếng Hy Lạp trước đó cả một thế kỷ.

 

Đây là một trong những văn kiện được khám phá thấy trong vòng 65 năm năm qua ở Ai Cập, trong số những khám phá thuộc thời gian này, người ta còn thấy được cả những văn liệu như Phúc Âm Tôma, Phúc Âm Mai Đệ Liên và Phúc Âm Philiphê là những gì được cho rằng được viết bởi thành phần Gnostics thuộc thế kỷ thứ hai sau Chúa Kitô Giáng Sinh.

 

 

“Phúc Âm Giuđa”: Nội dung của nó như thế nào?

 

Theo tin tức phổ biến và nhóm chuyên viên khảo sổ tài liệu cổ có “Phúc Âm Giuđa” này cho biết thì cuốn phúc âm này có những câu tiêu biểu và quan trọng như sau:

 

Trước hết là câu mở đầu: “Trình thuật bí mật về việc mạc khải được Chúa Giêsu tỏ ra trong một cuộc nói chuyện với Giuđa Íchca trong một tuần lễ, ba ngày trước khi Người mừng lễ Vượt Qua”.

 

Sau đó là câu gây tranh cãi sôi nổi hơn hết về số phận đời đời của Giuđa: “Con sẽ trổi vượt hơn tất cả những người trong họ. Vì con sẽ hy sinh con người bao phủ Thày”.

 

Câu sau đây cho thấy ưu thế của tông đồ Giuđa đối với Chúa Giêsu theo chiều hướng cả hai câu trên: “Con hãy tách ra khỏi những người ấy để Thày nói cho con hay những mầu nhiệm về nước trời… Này, con đã được cho biết hết mọi sự. Hãy ngước mắt lên mà nhìn vào đám mây và ánh sáng trong đám mây cùng với những tinh tú vây quanh ánh sáng. Ngôi sao dẫn đường là ngôi sao về con đó”.

 

Cuốn “Phúc Âm Giuđa” được chấm dứt ở chỗ Giuđa nộp Thày mình cho các vị thượng tế, và không hề nói gì tới cuộc tử nạn và phục sinh hết. Thậm chí không thấy cả tên của người viết cuốn được gọi là ‘Phúc Âm’ này nữa. 

 

Riêng câu thứ hai trên đây được các học giả giải thích đó là mệnh lệnh của Chúa Giêsu hay ý muốn của Chúa Giêsu xui giục Giuđa hãy trao nộp Người, để Người có thể thoát khỏi thân xác của Người. Và chính vì Giuđa thật sự đã làm theo ý của Thày, đã lập công nên Giuđa trổi vượt hơn tất cả các tông đồ khác của Chúa Giêsu.

 

 

“Phúc Âm Giuđa”: Có hợp với đức tin Kitô Giáo hay chăng?

 

Cuốn “Phúc Âm Giuđa” có thể là bản sao từ nguyên bản được viết bằng tiếng Hy Lạp, một cuốn “Phúc Aâm Giuđa” theo Hy ngữ đã bị Thánh Giáo Phụ Irênêô, Giám Mục ở Lyon, bác bỏ vì không hợp với đức tin Kitô Giáo, trong văn kiện được thánh nhân viết vào khoảng năm 180 là văn kiện “Adversus Haereses – Chống Lại Các Bè Rối”, trong đó có câu: “Họ tạo ra một thứ loại lịch sử hư cấu là những gì họ mô phỏng để viết thành Phúc Âm Giuđa” (câu này ở đây cũng rất đích đáng với cuốn tiểu thuyết The Da Vinci Code nữa).

 

Thật thế, cuốn “Phúc Âm Giuđa” này hoàn toàn không hợp với đức tin Kitô Giáo, chính là vì nó chất chứa những tư tưởng của thành phần được gọi là Gnostics, thành phần xuất hiện vào thế kỷ thứ hai, thời kỳ của cuốn “Phúc Âm Giuđa” (theo nguyên bản Hy Ngữ) được viết ra. Ngoài cuốn Phúc Âm Giuđa Íchca, theo cuốn Patrology, (Christian Classic, Inc., 1986, volume I, trang 128), thành phần lạc giáo này còn viết những tác phẩm khác như Phúc Âm Anrê, Phúc Âm Thaddêô, Phúc Âm Evà, Phúc Âm theo Basilides, Phúc Âm Cerinthus, Phúc Âm Valentinus, Phúc Âm Apelles.

 

Qua những tác phẩm này, thành phần Gnostic lạc giáo ấy cho thấy những chủ trương hoàn toàn phản nghịch với Kitô Giáo, điển hình là những chủ trương sau đây:

 

Ơn cứu độ lệ thuộc vào mật thức được Chúa Giêsu ban, đặc biệt là cho Giuđa; các minh thức bí mật và riêng tư là những gì thiết yếu cho việc cứu chuộc hơn là niềm tin tưởng vào việc phục sinh của Chúa Kitô; có một mật thức về đường lối con người có thể thoát được ngục tù của thân xác để trở về với lãnh giới thiêng liêng trước đó của họ; trọng hồn khinh xác; nguồn gốc của sự dữ trong vũ trụ gây ra bởi chính Thiên Chúa, Đấng tạo nên thế giới một cách lệch lạc và bất toàn.

 

Căn cứ vào những chủ trương trên đây của thành phần Gnostic thì “Phúc Âm Giuđa”, qua những câu chính yếu được trích dẫn trên đây rất ăn khớp với nhau. Thật vậy, nếu nguyên bản của “Phúc Âm Giuđa” được viết theo nguyên ngữ Hy Lạp, mà Hy Lạp theo triết lý trọng hồn khinh xác, thì triết lý trọng hồn khinh xác này được hiển nhiên thấy ở “Phúc Âm Giuđa” qua câu “Con sẽ trổi vượt hơn tất cả những người trong họ. Vì con sẽ hy sinh con người bao phủ Thày”.

 

Đó là lý do không lạ gì “Phúc Âm Giuđa” đã không hề, nói đúng hơn không dám đả động một chút gì tới mầu nhiệm Nhập Thể và Phục Sinh của Chúa Kitô (như 4 Phúc Âm trong sổ bộ Tân Ước Kitô Giáo) là những biến cố lịch sử cho thấy Vị Thiên Chúa của Kitô Giáo là một Thiên Chúa, chẳng những, nơi mầu nhiệm Nhập Thể, thánh hóa thân xác của con người, dùng nó như phương tiện tỏ mình ra và cứu độ trần gian, mà còn, nơi mầu nhiệm Phục Sinh, biến đổi nó, để tỏ ra Ngài toàn năng làm chủ cả sự dữ (tội lỗi và sự chết) do con người xác thịt gây ra bởi nguyên tội nữa.

 

Ngoài ra, qua câu “Con sẽ trổi vượt hơn tất cả những người trong họ. Vì con sẽ hy sinh con người bao phủ Thày”, chúng ta còn thấy hiện lên một Thiên Chúa của sự dữ và gây ra sự dữ theo đúng chủ trương của thành phần Gnostic, vì Ngài đã xui giục Giuđa gây ra sự dữ, xui hắn phản nộp mình. Chưa hết, cũng qua câu ấy, chúng ta còn thấy ‘Chúa Giêsu’ của cuốn “Phúc Âm Giuđa” này không phải là Đấng Thiên Sai đích thực, vì Đấng Sáng Lập Kitô Giáo này hoàn toàn làm gì và ra sao cũng theo ý muốn của Đấng sai mình là Chúa Cha, chứ không phải theo ý mình (x Jn 5:30; Mt 26:39), và Người tự ý bỏ sự sống của mình đi chứ không ai có thể làm được điều ấy cả (x Jn 10:17-18). Nếu Người xui Giuđa phản nộp mình thì tỏ ra Người không phải là Lời Nhập Thể, tỏ ra Người không muốn nhập thể mà bị ép nhập thể nên phải tìm cách làm sao để có thể thoát được nhân tính nói chung và thân xác loài người nói riêng. Như vậy là Người chỉ sống cho mình chứ đâu phải “vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi Người đã từ trời xuống thế” nữa, và nhân tính cùng thân xác mà Người hết sức tìm cách thoát thân đó đâu còn là phương tiện cứu độ nữa. Rồi nếu phải xui Giuđa phản nộp mình mới có thể thực hiện được dự án và công cuộc cứu độ của mình thì Ngài không phải là Thiên Chúa toàn năng, có thể biến dữ (gây ra bởi tự do của con người) thành lành (theo ý định mầu nhiệm của Ngài cho phần rỗi con người), ở chỗ, Ngài vẫn có thể hoàn trọn lời hứa của mình với dân tộc Do Thái liên lỉ bội hứa của Ngài.

 

 

“Phúc Âm Giuđa”: Đâu là những vấn đề rắc rối gây ra bởi nội dung của cuốn sách này?

 

Sự kiện cuốn Phúc Âm Giuđa được tung ra còn liên quan cả đến những vấn đề đang được các ‘thần học gia’ thời đại đặt ra, đó là vấn đề Giáo Hội thành lập sổ bộ Thánh Kinh, nhất là Tân Ước, ở chỗ, tại sao Giáo Hội chọn cuốn này mà không chọn cuốn kia; và vấn đề phần rỗi của tông đồ Giuđa Íchca, nếu Giuđa làm theo lệnh Chúa, và nếu không có Giuđa thì không Chúa Giêsu không thực hiện được công cuộc cứu chuộc của Người.

 

Trước hết, về sổ bộ Thánh Kinh Kitô Giáo. Theo lịch sử của mình, trong những thế kỷ được gọi là thời các Thánh Giáo Phụ (cho tới thế kỷ thứ VIII), Giáo Hội do Chúa Kitô thành lập đã phải trải qua biết bao nhiêu là khó khăn, chẳng những bị bách hại đẫm máu, mà còn bị tấn công bởi đủ mọi thứ lạc thuyết. Bảy Công Đồng Chung đầu tiên trong thời ký Giáo Phụ này, chưa kể Công Đồng Giêrusalem ngay thời Các Tông Đồ được Sách Tông Vụ thuật lại ở đoạn 15, đã là giai đoạn cũng cố đức tin hay xác tín đức tin trước các lạc thuyết liên quan đến Chúa Kitô. Đó là lý do, tuy có nhiều cuốn sách được gọi là ‘Phúc Âm’ nhưng Giáo Hội, được Thần Chân Lý dẫn vào tất cả sự thật (x Jn 16:13) chỉ chọn 4 cuốn duy nhất như được sử dụng tới ngày nay.

 

Những cuốn ‘phúc âm’ không được thẩm quyền Giáo Hội tuyên nhận trong sổ bộ Tân Ước của mình có thể liệt kê là: Phúc Âm theo Người Do Thái, Phúc Âm của Người Ai Cập, Phúc Âm Ebionite, Phúc Âm theo Phêrô, Phúc Âm Nicôđêmô, Phúc Âm Tôma, Phúc Âm Ả Rập Về Thời Thiếu Nhi của Giêsu, Phúc Âm Philiphê, Phúc Âm Mathias, Phúc Âm Theo Barnabê, Phúc Âm Batôlômêô v.v. Ngoài ra, còn có các cuốn Tông Vụ khác ngoài cuốn duy nhất trong sổ bộ Tân Ước hiện nay, chẳng hạn như các cuốn sáu đây: Tông Vụ Phaolô, Tông Vụ Phêrô, Tông Vụ Phêrô và Phaolô, Tông Vụ Gioan, Tông Vụ Anrê, Tông Vụ Tôma, Tông Vụ Thađêô v.v. Chưa hết, còn có các cuốn Khải Huyền khác ngoài cuốn Khải Huyền của Thánh Gioan, chẳng hạn như các cuốn sau đây: Khải Huyền Phêrô, Khải Huyền Phaolô, Khải Huyền Stêphanô, Khải Huyền Tôma, Khải Huyền Gioan (2 cuốn khác với cuốn trong sổ bộ Tân Ước), Khải Huyền Đức Trinh Nữ v.v.

 

Sổ bộ Thánh Kinh chính thức hiện nay được hình thành dứt khoát từ Công Đồng Chung Triđentinô (12/1545-1563), với những sắc lệnh được ban hành bởi Giáo Hoàng Piô IV ngày 26/1/1564, trong đó có sắc lệnh về sổ bộ Thánh Kinh là De Cononicis Scripturis được phê chuẩn ngày 8/4/1546. Trước đó có các công đồng địa phương ở Bắc Phi, như công đồng ở Hippo năm 393, công đồng III Carthage năm 397 và công đồng Cathage lần 2 năm 419, cũng đã công nhận sổ bộ Thánh Kinh. Công Đồng Chung Florence trong Sắc Lệnh Cho Jacobites ngày 4/2/1441 cũng liệt kê sổ bộ Thánh Kinh. Sổ bộ Thánh Kinh Cựu Ước lẫn Tân Ước của 3 công đồng miền và 1 công đồng chung trên đây đều trùng với sổ bộ cuối cùng của Giáo Hội Công Giáo được Công Đồng Chung Triđentinô chính thức chuẩn nhận tới nay.

 

Việc Giáo Hội chuẩn nhận sổ bộ Thánh Kinh này làm cho người ta, điển hình là Zwingli (1484-1531), một lãnh đạo gia cải cách ở Thụy Sĩ, có cảm tưởng là Giáo Hội có quyền trên Mạc Khải hay Mạc Khải bị lệ thuộc vào Giáo Hội. Trái lại, Thánh Âu Quốc Tinh, một đại giáo phụ của Giáo Hội, đã tuyên bố: “Tôi sẽ không tin tưởng cuốn Sách Phúc Aâm không làm cho thẩm quyền của Giáo Hội Công Giáo đưa tôi tới với cuốn sách đó” (Contra epistolam Manichaei, 5.6; PL 42.176).

 

Trong việc chuẩn nhận sổ bộ Thánh Kinh, Giáo Hội chỉ thực hiện một việc duy nhất, đó là nhận thức và tuyên nhận tác động linh ứng của Thiên Chúa qua các tác giả viết lên những cuốn sách bày tỏ một cách nhất quán những gì liên quan đến Ngài, đến dự án cùng công cuộc cứu độ của Ngài nơi lịch sử nhân loại, tức là, nói chung, Giáo Hội nhận thức và công nhận những cuốn sách chứa đựng một cách trung thực không sai lầm các chân lý được Thiên Chúa mạc khải vì phần rỗi nhân loại và được ghi chép lại theo ơn linh ứng của Thánh Thần (Công Đồng Chung Vaticanô II, Hiến Chế Mạc Khải, đoạn 9,11).

 

Như vậy, trong việc tuyên nhận sổ bộ Thánh Kinh là Giáo Hội phục vụ Mạc Khải Thần Linh, Kho Tàng được ủy thác cho Giáo Hội là nơi giữ chìa khóa nước trời (x Mt 16:19) và có quyền tháo buộc (x Mt 18:18), vì Giáo Hội được Chúa Kitô ở cùng cho đến tận thế (x Mt 28:20).

 

Sau nữa, phần rỗi của tông đồ Giuđa Íchca. Nếu loài người chúng ta không ai biết được ngày tận thế ra sao thì cũng chẳng ai biết được số phận đời đời của bất cứ người nào, kể cả tông đồ Giuđa. Chính Đức Gioan Phaolô II, trong cuốn Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng của mình năm 1994 đã nói về vấn đề này (ấn bản Anh ngữ, trang 186) như sau: “Ngay cả khi Chúa Giêsu nói về Giuđa, kẻ phản bội, ‘thà con người ấy đừng sinh ra thì hơn’ (Mt 26:24), thì những lời của Người cũng không ám chỉ rõ ràng đến việc đời đời trầm luân”. Tuy nhiên, ở đây Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II không bàn luận gì về câu Chúa Giêsu nói rõ hơn nữa về thân phận của tông đồ Giuđa này trong lời nguyện kết Bữa Tiệc Ly: “Con đã cẩn thận gìn giữ họ để không một ai trong họ bị hư đi, không một ai ngoại trừ kẻ bị hư đi để lời Thánh Kinh được nên trọn” (Jn 17:12).

 

Không biết có phải vì liên quan tới cuốn “Phúc Âm Giuđa” này hay không, mà vị Giáo Hoàng đương kim Biển Đức XVI của chúng ta, trong bài giảng cho Lễ Chiều Thứ Năm Tuần Thánh ngày 13/4/2006 tại Đền Thờ Gioan Lareranô, đã nói rất rõ và khá dài (2/5 so với toàn bài) về người tông đồ mang tiếng phản bội Thày ấy, những lời lẽ chưa từng thấy nơi các vị giáo hoàng tiền nhiệm của ngài trước đó.  

 

“‘Người đã yêu thương những kẻ thuộc về mình thì Người đã yêu thương họ tới cùng’ (Jn 13:1). Thiên Chúa yêu thương tạo vật của Ngài là con người. Ngài cũng yêu thương con người khi họ sa ngã và không bỏ rơi mặc thây họ cho rồi đời. Ngài yêu thương họ tới cùng. Bằng tình yêu của mình Ngài đã đi cho tới cùng, cho tới cực độ: Ngài đã hạ giáng không còn vinh hiển thần linh của Ngài nữa. Ngài đã bỏ đi vinh hiển thần linh của Ngài và mặc lấy thân phận tôi đòi. Ngài đã xuống tận chỗ thấp hèn nhất của tình trạng sa đọa của chúng ta. Ngài đã quì xuống trước chúng ta và cống hiến chúng ta một việc làm của người tôi tớ. Ngài rửa chân bẩn thỉu của chúng ta để chúng ta có thể được thông phần với Ngài, để chúng ta được xứng đáng ngồi vào bàn với Ngài, một việc tự mình chúng ta không bao giờ có thể làm và dám làm…

 

“Chúa Kitô nói: ‘Các con thanh sạch nhưng không phải tất cả mọi người trong các con đâu’ (Jn 13:10). Trong câu này Ngài đã tỏ cho chúng ta thấy tặng ân thanh tẩy cao cả Ngài cống hiến cho chúng ta, vì Ngài muốn ngồi vào bàn chung với chúng ta, trở nên lương thực cho chúng ta. ‘Thế nhưng không phải là tất cả đâu’; đây là mầu nhiệm tối tăm của vấn đề khước từ, một mầu nhiệm đã xẩy ra cho Giuđa mà chúng ta cần phải suy nghĩ thực sự trong ngày Thứ Năm Tuần Thánh này, ngày Chúa Giêsu ban mình cho chúng ta. Tình yêu của Chúa Kitô vô giới hạn thế mà con người lại đặt giới hạn cho tình yêu này.

“‘Các con thanh sạch những không phải là tất cả các con đâu’. Cái gì làm cho con người ra ô uế bẩn thỉu? Đó là thái độ khước từ tình yêu, không muốn được yêu thương, không yêu thương. Đó là thái độ cao ngạo cho rằng không cần thanh tẩy, khép mình trước sự thiện hảo cứu độ của Thiên Chúa.

 

“Thái độ cao ngạo không muốn thú nhận và nhìn nhận rằng chúng ta cần được thanh tẩy. Nơi Giuđa, chúng ta thấy bản chất của thái độ khước từ một cách rõ ràng hơn nữa. Hắn nghĩ về Chúa Giêsu theo những gì là quyền lực và thành đạt. Đối với hắn, chỉ có thực tại về quyền lực và thành đạt mà thôi, còn tình yêu chẳng có nghĩa gì cả. Và hắn là một con người thèm muốn: Tiền bạc là những gì còn quan trọng hơn cả mối hiệp thông với Chúa Giêsu, quan trọng hơn cả Thiên Chúa và tình yêu của Ngài. Bởi đó, hắn cũng trở thành một tên dối trá, hắn cả gan ăn thua đủ với sự thật; hắn sống trong gian dối và nhắm mắt lại trước sự thật là Thiên Chúa. Bởi thế hắn bị cứng lòng, không thể ăn năn hối cải, không thể bắt đầu tin tưởng trở về như người con hoang đàng mà bỏ đi cuộc đời băng hoại.

 

“‘Các con thanh sạch nhưng không phải là tất cả đâu’. Chúa Kitô muốn cảnh giác chúng ta ngày nay trước cái tự mãn đến độ đặt giới hạn cho tình yêu vô hạn của Ngài. Ngài mời gọi chúng ta hãy bắt chước sự khiêm tốn của Người, hãy tin tưởng vào sự khiêm tốn này, hãy để mình bị ‘nhiễm lây’ nó. Ngài mời gọi chúng ta hãy trở về nhà, bất kể chúng ta cảm thấy sai lạc đến đâu đi nữa và hãy để cho sự thiện hảo thanh tẩy của Ngài thăng hóa chúng ta và làm cho chúng ta được hiệp thông với Ngài, với chính Thiên Chúa”.

 

Phải chăng những gì vị Giáo Hoàng Biển Đức XVI của chúng ta nói về thái độ của Giuđa trên đây phản ảnh những gì Chúa Giêsu đã tỏ cho nữ tu Josepha biết về số phận đời đời của người tông đồ của câu Phúc Âm Gioan 17:12, những lời được chị viết lại trong cuốn “The Way of Divine Love” (trang 263, 283) như sau:

 

“Sau vụ phản bội trong Vườn Cây Dầu, Giuđa lang thang bất định, một con người trốn lánh, một con mồi bị lương tâm gặm nhắm, oán trách về những phạm thánh xấu xa nhất. Rồi khi Giuđa nghe thấy rằng Cha bị lên án tử, hắn hoàn toàn tuyệt vọng và tự treo cổ…”

 

“Ai có thể lường được Trái Tim Cha đớn đau mãnh liệt và sâu xa là chừng nào, khi thấy linh hồn này được tình yêu dạy dỗ lâu dài như thế…, con người nhận lãnh giáo huấn của Cha, một con người thường được nghe môi miệng Cha nói về lòng thứ tha đối với những tội ác xấu xa nhất, cuối cùng lại gieo mình vào lửa hỏa ngục?

 

“A! Giuđa ơi, tại sao con lại không gieo mình xuống dưới chân Thày, để Thày có thể tha thứ cho con? Nếu con sợ đến gần Thày, vì nhóm người man rợ đang bủa vây chung quanh Thày, thì ít là con hãy nhìn vào Thày… Đôi mắt của Thày sẽ bắt gặp đôi mắt của con, ngay cả cho đến lúc này đây, đôi mắt của Thày vẫn âu yếm chú ý đến con”.

 

 

Viết xong tại Giáo Phận San Bernadino Thứ Sáu 21/4/2006 trong Tuần Bát Nhật Phục Sinh