Tiểu Ban Liên Hiệp Quốc đề nghị cấm tất cả mọi thứ tạo sinh sao bản con người
Hôm Thứ Sáu 18/2/2004, với 71 phiếu thuận và 35 phiếu chống và 43 phiếu trống, tiểu ban Liên Hiệp Quốc đã chấp thuận cấm không buộc (the non-compulsory ban) vấn đề tạo sinh sao bản con người, kể cả việc sao bản “trị liệu” liên quan đến các phôi bào con người để làm thí nghiệm khoa học.
Giờ đây thành quả của cuộc bỏ phiếu này sẽ được trình lên Tổng Hội Đồng LHQ và sẽ có tính cách của một lời khuyên dụ mà thôi.
ĐTGM Celestino Migliore, quan sát viên thường trực của Tòa Thánh ở Liên Hiệp Quốc cho Đài Phát Thanh Vatican biết rằng Giáo Hội tuyên bố mình ủng hộ việc “cấm hoàn toàn”. Theo ngài, Giáo Hội, “cảm thấy phấn khởi trước những hứa hẹn của y học, một ngành y học đã thấy trước được cơ hội sử dụng thành đạt những loại thân bào trưởng thành, không thể chấp nhận việc sử dụng và hủy hoại phôi bào con người”.
Ngài nói tiếp, mặc dù không bắt buộc, tầm quan trọng của việc cấm đoán này đã được nhấn mạnh “ở chỗ nó kêu gọi các quốc gia hãy cấm tất cả mọi hình thức tạo sinh sao bản ngược lại với phẩm giá con người cuũg như với việc bảo vệ sự sống”.
Vị TGM quan sát viên thường trực của Tòa Thánh này còn cho biết thêm vào “cuối cuộc tranh luận dằn vặt này, có 3 điều tu chính được nêu lên, hai trong 3 điều ấy muốn tìm cách loại trừ khỏi văn kiện này tất cả những gì liên quan tới việc bảo vệ sự sống con người trong các kỹ thuật tạo sinh sao bản.
“Chính việc đa số trong hội đồng mạnh mẽ bác bỏ hai điều tu chính này đã cho thấy một dấu hiệu bất khả sai lầm. Tòa Thánh cảm thấy hoan hỉ khi thấy được việc đồng ý chung chấp thuận văn kiện có những điều liên quan đến việc bảo vệ sự sống con người và phẩm giá của sự sống con người.
“Tuy nhiên, dấu hiệu mở màn đáng khích lệ bởi việc bỏ phiếu này là những gì làm chúng ta an tâm vững dạ. Chúng ta hy vọng rằng nó sẽ là điểm xuất phát cho việc không ngừng cổ võ sự tiến bộ của khoa y học, một khoa y học luôn mạnh mẽ thể hiện việc tôn trọng sự sống con người”.
Đại diện Tòa Thánh cảnh giác LHQ sử dụng từ ngữ mập mờ trong dự thảo về vấn đề tạo sinh sao bản
ĐGM Elio Sgreccia, phó chủ tịch Học Viện Tòa Thánh về Sự Sống Con Người đã bày tỏ nhận định về lời phát biểu của Ý quốc đã được Liên Hiệp Quốc chấp thuận hôm Thứ Sáu 19/11/2004, lời phát biểu cấm việc tạo sinh sao bản “sự sống con người bằng tiến trình tạo sinh cũng như bằng tất cả mọi cuộc nghiên cứu để chiếm hữu một thành quả như vậy”.
Lời phát biểu này như là một lời để mời gọi các quốc gia hãy chấp chấp nhận những luật lệ hạn chế về vấn đề ấy. Nó cũng kêu gọi việc thiết lập một nhóm chuyên viên hoạt động về những gì sẽ được LHQ chính thức tuyên bố về vấn đề tạo sinh sao bản tới đây. Nhóm chuyên viên này sẽ gặp nhau vào Tháng 2/2005 để làm điều này, và sẽ viết một dự thảo trình lên cho LHQ để được chấp thuận.
Sở dĩ xẩy ra sự kiện này là vì vào Tháng 10/2004, cuộc tranh luận về vấn đề này ở Tổng Hội Đồng LHQ hai ngày đã bị thất bại.
Theo nhận định của vị phó chủ tịch đại diện Tòa Thánh này qua một cuộc phỏng vấn với Đài Phát Thanh Vatican, thì việc sử dụng từ ngữ “sự sống con người” (human life) thay vì từ ngữ “hữu thể con người” (human beings) khi đề cập đến các phôi bào được tạo sinh sao bản, cho thấy quyết định này chứng tỏ “cái yếu kém của chủ trương ban đầu, vì nó đã trở thành một câu phát biểu đơn giản không có hiệu lực ép buộc”.
“Về ngôn từ thì những gì đã được phát biểu đã trở thành mập mờ vì từ ngữ ‘sự sống con người’, một từ ngữ thay cho ‘hữu thể con người’ là một từ ngữ không rõ ràng, thậm chí tôi có thể nói, là một từ ngữ vô dụng, bởi một tế bào cũng có thể là ‘sự sống con người’ vậy. Lời diễn tả được Ý quốc phát biểu này, thực tế mà nói, là những gì chẳng chính xác cũng chẳng rõ ràng. Rất khó khăn trong việc chính thức chấp thuận vấn đề tạo sinh sao bản, thế nhưng người ta cũng sẽ thấy một quyết định mạnh mẽ trong việc cứu xét vấn đề những tiến trình sản xuất như là những tiến trình không liên hệ gì tới phẩm vị con người cũng như tới phôi bào con người như là một đối tượng thí nghiệm”.
Liên Hiệp Quốc đã tránh né việc quyết định tạm thời vấn đề có cấm chỉ hết mọi thứ tạo sinh sao bản hay chăng, bằng việc chọn lựa một câu phát biểu về nguyên tắc sẽ giúp hướng dẫn cuộc tranh luận vào tháng 2/2005.
Tòa Thánh Vatican chống đối quyết định Thử Giống ở Hiệp Vương Quốc
Hôm Thứ Ba 2/11/2004, tại Hiệp Vương Quốc (United Kingdoms of the Great Britian), cơ quan Thẩm Quyền Về Thụ Tinh Và Phôi Bào Học Con Người ở Hiệp Vương Quốc đã cho phép một nhóm ở Đại Học College Luân Đôn được lọc lựa các phôi bào được thụ thai trong ống nghiệm và hủy hoại các phôi bào mang di giống có thể gây ra loại ung thư.
Có 4 cặp vợ chồng, những cặp đã trải qua việc cấy thai nhân tạo, có thể lợi dụng phương pháp được phép này. Để lọc lựa các phôi bào, cần phải thực hiện một cuộc phân tích trong vòng 3 ngày sau khi chúng được đậu thai trong ống nghiệm. Mục đích là để chọn giống những phôi bào nào được thấy rằng không bị truc trặc gì về vấn đề di giống. Những phôi bào còn lại sẽ bị hủy đi.
Đức Giám Mục Elio Sgreccia, phó chủ tịch Học Viện Tòa Thánh Về Sự Sống đã lên tiếng hôm Thứ Ba 2/11/2004 trên Đài Phát Thanh Vatican như sau:
“Hiển nhiên việc tiền tạo nên các phôi bào trong ống nghiệm để sau đó sử dụng những phôi bào tiền tạo ấy vào việc chẩn định trước vấn đề cấy thai hầu lọc lựa các phôi bào lành mạnh và loại trừ những phôi bào không lành mạnh, trước bất cứ một lương tâm nào, đều là việc triệt hủy một con người sống động và vô tội. Quyết định cho thực hiện việc này là một quyết định hoàn toàn và trọn vẹn có tính cách tiêu cực.
“Cũng thường xẩy ra những thứ được gọi là chẩn định sai lầm, mà hậu quả là có thể loại trừ đi một phôi bào lành mạnh, và một phôi bào bệnh hoạn lại được cấy thai khi cho nó là lành mạnh.
“Không phải việc lọc lựa có thể được thi hành một cách chắc chắn. Cho dù có thể làm đưoơc như vậy chăng nữa thì bao giờ nó cũng là một phán đoán chọn lựa, tiêu cực, hướng chiều về việc sát hại, một việc rất trọng phạm và phi lý.
“Anh quốc là nơi đầu tiên thi hành việc đậu thai trong ống nghiệm. Họ đã thiết lập một tiểu ban với vị chủ tịch là Bà Warnock. Tiểu Ban Warnock này đã phổ biến một bản tường trình dựa trên căn bản khoản luật được chính quyền phác họa và quyền hạn được chính quyền ấn định.
“Như thế, các phép tắc đã được qui định về một số hành động liên quan tới phôi bào con người, tới các tiến trình sản sinh, khi những hành động này nắm trong tay quyền hành quyết. Điều này luôn luôn nằm ở trong cái triết lý của Tiểu Ban Warnock cũng như của tờ tường trình Warnock là những gì không hoàn toàn coi trọng phôi bào con người như là một con người trọn vẹn có phẩm giá.
“Nó là một thứ lý lẽ duy lợi mở đường cho những thứ đáng bị coi là tội ác phạm đến phẩm giá và sự sống con người”.
Các chuyên viên về ngành này cảnh giác là quyết định của cơ quan Thẩm Quyền Về Thụ Tinh Và Phôi Bào Học Con Người ở Hiệp Vương Quốc được thực hiện mà chưa được tranh luận đầy đủ.
Bà Josephine Quintavalle thuộc tổ chức thiện ích quần chúng Nhận Định Về Các vấn Đề Đạo Lý Sản Sinh cho biết: “cơ quan Thẩm Quyền Về Thụ Tinh Và Phôi Bào Học Con Người ở Hiệp Vương Quốc lại thực hiện một quyết định liên quan đến luân thường đạo lý nữa mà không tham vấn với quần chúng. Chúng ta phải nhìn vào những ngành y khoa chữa trị chứ không phải những ngành y khoa sát hại. Trong Tháng 7 mới nói về những mục đích trị liệu. Giờ đây chúng ta đã tới chỗ lựa lọc vấn đề di giống rồi”.
Tiểu Ban UNESCO Tranh Cãi Về Vấn Đề Tạo Sinh Sao Bản Con Người Để Trị Liệu
Các phái đoàn đại biểu của một số quốc gia bày tỏ mối quan tâm của mình về dự án của UNESCO trong việc soạn thảo một bản Tuyên Ngôn Về Các Tiểu Chuẩn Đạo Lý Sinh Học, trong đó, vấn đề tạo sinh sao bản con người có thể được chấp nhận cho thực hiện. Tiểu Ban Đạo Lý Sinh Học Quốc Tế chịu trách nhiệm về việc soạn thảo bản tuyên ngôn này đã tổ chức khóa họp thứ 11 để kiểm lại bản thảo của văn kiện.
Khóa họp lần này được các đại diện thuộc một số tôn giáo quan trọng nhất tham dự, thành phần bày tỏ chủ trương của mình liên quan đến bản tuyên ngôn ấy. Giáo Hội Công Giáo được đại diện bởi cha Gonzalo Miranda, dòng Đạo Binh Chúa Kitô, (LC: Legionaries of Christ) khoa trưởng Phân Khoa Đạo Lý Sinh Học của Pontifical Athenaeum Regina Apostolorum ở Rôma.
Vấn: Đâu là lý do các đại diện tôn giáo được mời gọi tham dự khóa họp này?
Đáp: Mặc dù bản văn kiện này đang ở trong giai đoạn viết đã khả quan, nhưng các phần tử của Tiểu Ban Đạo Lý Sinh Học Quốc Tế nghĩ rằng cần phải lắng nghe ý kiến của các tôn giáo về vấn đề ấy. Ở những tháng trước, những cuộc lắng nghe đã được thực hiện đối với thành phần đại diện các cơ quan quốc tế chính, cũng như các chuyên viên về khoa đạo lý sinh học khắp thế giới. Hiển nhiên người ta cũng nhận thấy rằng các tôn giáo cũng cần phải có tiếng nói, và chủ trương của họ cũng góp phần hoạt động trong tinh thần thực sự đa diện là những gì được chính vị tổng giám đốc của UNESCO là Koichiro Matsuura nhắc nhở tiểu ban qua bài diễn văn của mình hôm Tháng Tư.
Mặc dù mỗi một vị đại diện tôn giáo được 10 phút để bày tỏ chủ trương của mình, sau đó là nhiều câu hỏi và trả lời, tôi nghĩ rằng mọi người có mặt đều cảm thấy tích cực. Vào cuối ngày sau đó, khi các phần khác nhau của bản thảo văn kiện tuyên ngôn được đem ra phân tích chung, có người nói với tôi rằng ông ta chưa hề thấy UNESCO chú trọng tới vai trò thích đáng của tôn giáo đến như thế.
Thật vậy, có quá ít tham dự viên đề cập tới những cuộc lắng nghe của ngày hôm trước. Chẳng hạn, một người trong họ nói rằng đa số con người thuộc về đạo giáo, bởi thế, quan điểm của các tôn giáo không thể bị loại trừ về vấn đề đạo đức sinh học, nếu thực sự muốn soạn thảo một bản tuyên ngôn có một tính chất đại đồng.
Vấn: Cha đã trình bày những điểm nào trong bài tường trình của mình?
Đáp: Vì có quá ít giờ trong tay, tôi đã quyết định nhấn mạnh đến một khía cạnh tôi nghĩ rằng quan trọng trong tình thế hiện nay, đó là vấn đề trách nhiệm không được kỳ thị một ai cũng như không được vị phạm đến quyền lợi của bất cứ người nào. Việc soạn thảo bản văn kiện ấy bao gồm một cách vững vàng nguyên tắc tôn trọng phẩm giá con người cũng như việc bênh vực nhân quyền, thế nhưng, tiếc thay, chúng ta đều quá rõ là nhiều người nói như thế lại ngấm ngầm biện minh cho những việc thực hành như phá thai, như việc sử dụng phôi bào con người để thí nghiệm, và như việc tạo sinh sao bản để sản xuất ra các phôi bào được lấy làm các thân bào.
Bởi thế, tôi nhấn mạnh rằng tất cả mọi người nhân loại chúng ta đều hoan hưởng cùng một phẩm giá nội tại, bởi nguyên sự kiện thuộc về gia đình nhân loại, và Kitô hữu chúng ta biết rằng tất cả chúng ta đều là con cái của cùng một Thiên Chúa. Tôi nói rằng nguyên tắc bình đẳng phổ quát của con người bao gồm tất cả mọi người bất biệt phân. Tôi đã trích câu nổi tiếng của Thánh Phaolô: “Không còn Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà, vì tất cả an hem chỉ là một trong Chúa Giêsu Kitô”, rồi tôi còn thêm rằng: “không còn đã sinh hay chưa sinh, tất cả chúng ta chỉ là một trong Chúa Kitô”. Tôi cũng nhấn mạnh đến vấn đề tôn trọng vì đó là loài người từ tình trạng phôi bào, một thứ tôn trọng không lệ thuộc vào chính quan điểm tôn giáo. Trái lại, nó thể hiện nguyên tắc về phẩm giá chung và sự bình đẳng chung của tất cả loài người là chính nền tảng cho việc sống chung giữa con người và các quốc gia.
Vấn: Cha có nhận định gì về việc soạn thảo bản văn kiện này hay chăng?
Đáp: Có chứ. Tôi nói rằng một bản văn kiện của UNESCO (tức là của một cơ quan thuộc Liên Hiệp Quốc) không được phác họa, chuẩn nhận hay ủng hộ bất cứ một việc làm nào phản nghịch với Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền 1948, nhất là quyền sống được ấn định ở Khoản số 3. Và tôi cũng nhắc nhở họ là Khoản số 2 nói rằng các quyền lợi và quyền tự do được đề cập tới trong Bản Tuyên Ngôn ấy tương xứng “với hết mọi cá nhân con người… không phân biệt lý do chủng tộc… hay các điều kiện khác”. Những điều kiện khác đã chỉ có nghĩa là vô điều kiện.
Tôi đã kêu gọi hãy chú trọng tới mối nguy hiểm là bản văn có thể chấp thuận một cách gián tiếp hay mặc nhiên một số thực hành chống lại những quyền lợi căn bản ấy, ở chỗ lên án một số phương thức của những việc làm nào đó mà không đề cập tới những phương thức khác. Chẳng hạn, điều này có thể xẩy ra nơi trường hợp ở cái được gọi là “tạo sinh sao bản sản xuất” thì bị lên án, còn việc “tạo sinh sao bản trị liệu” lại không hề được nhắc tới. Nó có thể được hiểu là vấn đề xảo quyệt trong việc chấp thuận vấn đề “tạo sinh sao bản trị liệu”. Một việc làm như thế, tôi cho biết, là một thứ bất thành kính về trí thức.
Dù sao đi nữa, cần phải thành thực mà nói, về hình thức thứ hai này, người ta không đạt đến một quan điểm chung nài, do đó, bản văn không tuyên bố gì về vấn đề ấy cả.
Vấn: Tương lai và tính chất của Bản Tuyên Ngôn đươc UNESCO đang soạn thảo đây sẽ ra sao?
Đáp: Vấn đề đó là bản tuyên ngôn này sửa soạn phổ biến vào Tháng 9-10/2005. Đối với tôi, sự thật đó là bản tuyên ngôn này khó có thể tự mình công bố về những vấn đề chuyên biệt của khoa đoạo lý sinh học.
Trước hết, là vì những vấn đề này thì nhiều mà lại hết sức phức tạp (khi chào người có trách nhiệm trong nhóm phụ trách soạn thảo này, tôi đã nhắc nhở ông ta rằng có một cuốn Bách Khoa về Đạo Lý Sinh Học, có đến cả mấy bộ, thế mà vẫn chưa đầy đủ. Ông cười đồng ý gật đầu).
Ngoài ra, trong khóa họp vấn đề của những quan điểm hiện hữu khác nhau về nhiều thứ trục trặc đã nhiều lần xuất phát, đôi khi có những chủ trương bất khả dung hợp với nhau. Chính vì lý do này mà vấn đề được đồng ý là có lẽ thích hợp nhất nếu bản tuyên ngôn này chỉ xác định những nguyên tắc chung về khoa đạo lý sinh học cùng với một số những chủ trương căn bản, và nên kê khai ra nhiều vấn đề đặc biệt, và nói rằng Tiểu Ban Đạo Lý Sinh Học Quốc Tế sẽ phổ biến thêm những nghiên cứu cụ thể về những thứ được liệt kê ấy, theo tinh thần và chiều hướng của Bản Tuyên Ngôn Chung. Tôi nghĩ rằng đó là giải pháp hay nhất.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ Zenit ngày 3/9/2004
Thân Bào Sao Bản Phôi Bào không phải là “cách chữa trị tất cả mọi thứ bệnh nạn”
Giáo sư di truyền học Angelo Luigi Vescovi, vị đồng giám đốc của Viện Nghiên Cứu Thân Bào thuộc Bệnh Viên Thánh Raphael ở Milan, đã nói cùng Cuộc Họp Thân Hữu Giữa Các Dân Tộc ở Rimini, Ý trong tuần lễ cuối tháng 8/2004 như thế và còn cho biết: “những tế bào tổng năng được lấy từ các phôi bào thực sự là cách chữa trị tất cả mọi thứ bệnh nạn là những gì không có nền tảng về khoa học”.
Theo vị giáo sư này thì “những thân bào ở nơi bộ phận của con người được phát triển nơi bào thai cho tới khi con người qua đời. Chúng ở nơi bộ phận con người để hoạt động với một vai trò bảo trì lớn lao và ngoại thường”, một vai trò có phận sự “lúc nào trong ngày sống cũng có thể thay thế những tế bào chết đi, thậm chí bằng những biến chuyển bình thường nhất”.
Nhà khoa học này nói rằng các thân bào luôn có cho tất cả mọi thứ mô sợi, sẵn sàng để chữa lành bất cứ một thương tích nào nếu cần. Cứ mỗi 15 ngày, tất cả thứ tiểu thể đỏ nơi cơ thể con người đều được thay thế.
Vị giáo sư khoa học gia này nhấn mạnh rằng “những thân bào thực sự là những thân bào của người lớn”, những thân bào “nói theo các từ ngữ chuyên môn là những thân bào thuộc về thân thể hay những thân bào đa năng”. Trái lại, những thân bào từ phôi bào được gọi là những thân bào tổng năng có mục đích để “tác tạo, chứ không phải để sửa chữa”.
Ông cảnh giác rằng “trái với những gì truyền thông nói, các thân bào hiếm đạt được những thành quả mong đợi. Thậm chí chúng còn có thể xẩy ra rất nguy hiểm, tạo nên những điều kiện hình thành chứng ung thư hay các cục bướu”.
Vị giáo sư khao học gia di truyền học tự xưng mình là một “người vô thần bất khả tri thực tế” và là “tín đồ đạo Lão”, đã nói rằng: “phôi bào là một con người… điều này không thể phủ nhận. Nỗ lực làm cho sự sống con người bắt đầu ở một thời gian trễ hơn là việc làm độc đoán và không được luận chứng khoa học chấp thuận”.
Đối với nhà di truyền học người Ý này, đường lối để lấy được những thân bào từ phôi bào này là “từ những cuộc tự ý phá thai. Tôi nói ‘tự ý’” là vì, thật vậy, có cả 44 cuộc phá thai xẩy ra hằng tuần chỉ ở tỉnh Milan này thôi cũng đủ để trị liệu cho cả chục ngàn bệnh nhân rồi vậy”.
Nhân Dân Hoa Kỳ vẫn thích việc tài trợ cho vấn đề nghiên cứu không hủy hoại các phôi bào
Mặc dù có những nơi đã được tài trợ cho vấn đề nghiên cứu việc tạo sinh sao bản phôi bào con người để thực hiện những việc trị liệu một số bệnh trầm trọng của con người, nhưng theo cuộc thăm dò mới nhất ở Hoa Kỳ thì người Mỹ vẫn tỏ ra muốn đừng xẩy ra việc hủy hoại các phôi bào. Cuộc thăm dò này cũng cho thấy họ chống lại việc sao bản con người dù với mục đích tạo sinh hay nghiên cứu.
Cuộc thăm dò này được thực hiện bởi Văn Phòng Phò Sự Sống của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ. Những câu hỏi về những vần đề này là một phần của việc tìm hiểu toàn quốc của cơ quan Nghiên Cứu Những Vấn Đề Truyền Đạt Quốc Tế. Cuộc thăm dò diễn ra với hơn 1 ngàn người lớn, bằng điện thoại, vào giữa tháng 8/2004.
Theo bản thăm dò thì dân chúng Mỹ gần ngang ngửa trong vấn đề tài trợ cho việc nghiên cứu thân bào liên quan đến việc hủy diệt phôi bào con người, với kết quả là 43% thuận và 47% chống.
Tuy nhiên, đối với vấn đề chọn lựa giữa vấn đề tài trợ việc nghiên cứu thân bào, cả từ tế bào phát triển lẫn phôi bào, và vấn đề tài trợ việc nghiên cứu thân bào từ các tế bào phát triển xem có cần đến việc hủy hoại các phôi bào hay chăng thì đa số người Hoa Kỳ rõ ràng tỏ ra thích vấn đề tài trợ việc nghiên cứu thân bào từ tế bào trưởng thành, với tỷ lệ 61% thuận và 23% chống.
Thành phần chống vấn đề tài trợ cho việc nghiên cứu thân bào từ phôi bào mạnh nhất là nữ giơiùi, từ những người Mỹ có lợi tức thấp, từ những vị lão thành và từ những người thường xuyên tham dự Thánh Lễ.
Cuộc thăm dò này còn cho thấy người Hoa Kỳ hầu như chống lại việc sử dụng việc tạo sinh sao bản con người để thực hiện các phôi bào cho vấn đề nghiên cứu y khoa, với tỷ lệ 80% chống và 13% thuận. Họ cũng chống lại việc tạo sinh sao bản con người để giúp cho các cặp vợ chồng hiếm muộn có con cái, với tỷ lệ 82% chống và 11% thuận.
Vị phó giám đốc văn phòng Hoạt Động Phò Sự Sống của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ là ông Richard Doerflinger cho biết:
“Việc tạo sinh sao bản phôi bào là bước kế tiếp hợp tình hợp lý trong chương trình nghiên cứu thân bào từ phôi bào. Những cuộc thăm dò về vấn đề nghiên cứu thân bào từ phôi bào không đề cập đến việc nghiên cứu này cần hủy diệt đi các phôi bào con người. Tuy nhiên, sự kiện ấy mới là những gì thiết yếu để hiểu được vấn đề về luân lý. Một số cuộc thăm dò còn đề cập quá nhiều đến lợi ích về y khoa có thể đạt được của những thứ thân bào được tạo sinh sao bản từ phôi bào, trong khi không đề cập đến những lợi ích được ghi nhận rõ ràng về việc nghiên cứu thay thế không gây rắc rối về vấn đề luân lý. Không một phương tiện thăm thử ý kiến quần chúng nào được đánh lạc hướng quần chúng về những khía cạnh quan trọng này của vấn đề ấy”.
Không phải những gì có thể về kỹ thuật đều khả chấp về luân lý
ĐTC gửi sứ điệp cho Cuộc Họp lần 25 của Tổ Chức Tình Thân Hữu Nơi Các Dân Tộc
Cuộc Họp lần thứ 25 của Tổ Chức Tình Thân Hữu Nơi Các Dân Tộc, được khai mạc hôm Chúa Nhật 22/8/2004 và kết thúc vào Thứ Bảy 28/8, ở Rimini, Ý quốc. Cuộc họp như thế này được tổ chức năm ngoái đã thu hút được 700 ngàn người tham dự. Phong trào Hiệp Thông và Giải Phóng của Tòa Thánh đứng ra tổ chức cuộc họp này năm 2004. Sau đây là nguyên văn sứ điệp của Ngài.
Huynh Khả Kính
Đức Ông Mariano de Nicolo,
Giám Mục giáo phận Rimini
1. Tôi hân hoan gửi những lời chúc tốt đẹp của Tôi đến huynh, những người phát động, cùng tất cả những ai tham dự vào Cuộc Họp Tình Thân Hữu Giữa Các Dân Tộc này.
Biến cố truyền thống này, một biến cố làm sinh động và phong phú nội dung cho mùa hè của người Ý, đạt đến lần thứ 25 trong năm nay. Nó là mục tiêu quan trọng được gồm tóm trong chiều hướng cử hành việc thành lập 50 năm của tổ chức “Hiệp Thông và Giải Phóng”, một Phong Trào thuộc giáo hội phát xuất từ lòng nhiệt thành linh mục của Đức Ông Luigi Giussani, hai biến cố quan trọng làm sáng tỏ lẫn nhau.
Đề tài được chọn cho Cuộc Họp này kích thích việc suy nghĩ về những vấn đề nhức nhối đang làm con người hôm nay đây cảm thấy hết sức day dứt. Thật vậy, chúng được sáng tỏ nhiều bởi nhận thức được rằng “việc tiến bộ của chúng ta không phải ở tại nghĩ rằng mình đã đạt tới mà là ở việc liên tục hướng về đích điểm”.
2. Thật thế, chúng ta nhận thấy rõ ràng là “sự tiến bộ về kỹ thuật ngày nay làm cho con người cảm thấy mình quyền lực” (“Gaudium et Spes”, 20).
Thế nên, cái mạnh mẽ đặc biệt ở đây đó là khuynh hướng cho rằng việc làm của con người tự nó có thể biện minh cho những mục tiêu của nó. Thành quả đạt được ở một số lãnh vực về khoa học và kỹ thuật xuất phát từ nhiều thứ lý lẽ và tự vệ được coi là ưu tiên. Bởi vậy con người đã đi đến chỗ cho rằng những gì có thể làm được về kỹ thuật thì tự chúng cũng là những gì tốt lành về luân thường đạo lý.
Theo ý nghĩ này thì chính vì sự tiến bộ nơi kiến thức khoa học và phương tiện kỹ thuật sẵn có trong tầm tay con người là cái đẩy xa hơn những giới hạn giữa những gì có thể “làm” và những gì chưa có thể làm, mà sự tiến bộ ấy cũng sẽ tiến đến chỗ bị đẩy đến chỗ vô định cái giới hạn giữa những gì là chính đáng và những gì là bất chính. Theo quan điểm như thế thì sự tiến bộ sẽ trở thành một giá trị tuyệt đối, cho dù tự nó có là nguồn mạch của hết mọi thứ giá trị đi nữa. Chân lý và công lý không còn là những gì chủ yếu, tiêu chuẩn về công lý mà con người cần phải theo trong việc tác hành chi phối cả chính sự tiến bộ lại trở thành một sản phẩm của việc họ hoạt động nghiên cứu cũng như việc họ lèo lái thực tại.
Không ai lại không thấy rằng những hậu quả thảm thê và tàn hại của thứ khuynh hướng duy thực dụng này, một thứ duy thực dụng coi chân lý và công lý như là một cái gì đó được hình thành bởi hoạt động của chính con người. Chỉ cần nhắc đến một trường hợp điển hình đó là việc con người nỗ lực chiếm lấy các nguồn mạch sự sống làm của riêng mình bằng những thứ thí nghiệm tạo sinh sao bản con người. Ở đây cho thấy rõ ràng cái giả tưởng liên quan đến đầu đề của Cuộc Họp này: đó là vấn đề vi phạm đang được con người cố gắng chiếm hữu những gì là chân thật và chân chính, bằng cách giảm chúng xuống thành những thứ giá trị mà họ có thể tự do sử dụng, tức là, bằng việc không nhìn nhận bất cứ một loại giới hạn nào, trừ những giới hạn gắn liền với và liên tục tiến triển theo khả năng hoạt động về kỹ thuật.
3. Đường lối Chúa Kitô dạy thì lại khác hẳn, đó là đường lối tôn trọng con người, một con người mà thoạt tiên hết mọi phương pháp nghiên cứu phải lưu ý để thấy được sự thật nơi con người để rồi phục vụ họ, chứ không phải léo lái họ theo một thứ dự định có những lúc được cho rằng cao ngạo như thể ngon lành hơn cả dự án của chính Đấng Hóa Công.
Đối với Kitô giáo thì mầu nhiệm hiện hữu là những gì sâu xa đến nỗi việc nghiên cứu của con người không thể nào thấu suốt nổi. Thế nhưng, con người, cho mình là thần Prometheus, tự đặt mình làm chủ sự thiện và sự dữ, biến sự tiến bộ thành một lý tưởng trên hết của mình để rồi bị nó nghiền nát. Thế kỷ vừa qua, với những ý hệ đáng thương chi phối lịch sử thê thảm của thế kỷ này và những cuộc chiến tranh ghi đậm dấu vết nơi thế kỷ ấy, trước mắt tất cả mọi người đều cho thấy những gì làm nên hậu quả của một thứ giả tưởng ấy.
Đề tài của Cuộc Họp ở Rimini đây kêu gọi con người hãy khâm phục nhìn lên Đấng Hóa Công về vẻ đẹp và cái hợp lý của những gì Ngài đã xếp định và bảo hữu. Chỉ có tấm lòng khiêm nhượng ấy trước cái cao cả và huyền nhiệm của thiên nhiên tạo vật mới có thể cứu con người khỏi những hậu quả tàn hại gây ra bởi cái cao ngạo của họ mà thôi.
Tôi thành thực ước mong sao cho Cuộc Họp này sẽ góp phần vào việc nuôi dưỡng thái độ khiêm nhượng này trước những kho tàng được Đấng Hóa Công bày tỏ đầy giẫy trong vũ trụ phản ảnh đức khôn ngoan của Ngài, hầu những ai tin tưởng có thể rút tỉa được từ việc chiêm ngưỡng của mình những lý do sáng tỏ và an ủi mới hơn bao giờ hết trong việc hằng ngày đụng độ với những vấn đề phát hiện từ cuộc sống.
Với mục đích ấy, Tôi hứa sẽ nhớ cầu nguyện cho mọi người và gửi phép lành đặc biệt đến cho mọi người.
Tại Castel Gandolfo, 6/8/2004
Gioan Phaolô II
Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch theo tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 23/8/2004
Nhóm Các Y Sĩ Công Giáo Tấn Công Quyết Định Tạo Sinh Sao Bản ở Hiệp Vương Quốc
Vào ngày 12/8/2004, tổ chức Liên Hiệp Quốc Tế Các Hiệp Hội Bác Sĩ Công Giáo (FIAMC: the International Federation of Associations of Catholic Doctors) đã phổ biến một bản công báo công khai chỉ trích việc chính quyền ngày hôm trước đó đã cho phép phòng thí nghiệm Newcastle được thực hiện những cuộc thí nghiệm các thân bào từ phôi bào con người (CMEH: human embryonic stem cells) nhắm mục đích để sử dụng vào việc trị liệu.
Việc cho phép này được giới hạn theo thời gian và cần phải được cứu xét lại. Phép ấy được ban với điều kiện triệt chỉ nhắm đến mục đích “trị liệu” mà thôi và điều kiện là thời gian phôi bào phát triển cùng lắm tới ngày thứ 14. Sau đây là những nhận định chính yếu tiêu biểu của vị chủ tịch FIAMC là bác sĩ Gian Luigi Gigli được bày tỏ trong bản công báo này như sau:
“Bao giờ cũng thế, việc biện minh ‘về đạo lý’ cho những nghiên cứu tạo sinh sao bản đó là khả năng chữa trị của CMEH cho những thứ bệnh quan trọng như bệnh Lẩy Bẩy (parkinson), Lạc Trí (alzheimer) và tiểu đường (diabetes).
“Bao giờ cũng thế, những mục đích nhân đạo là một tấm màn mong manh che đậy việc lèo lái ý nghĩ của quần chúng trong vấn đề giấu đút những thứ lợi lộc khổng lồ về tài chính và về kinh tế ẩn nấp ở đằng sau CMEH.
“Một lần nữa, khả năng tăng phát bất khả kiểm soát đáng kể về những thứ tế bào này không đực đề cập tới, một khả năng cho thấy cái nguy cơ lớn đó là những thứ tế bào này sẽ bị hư hỏng đi nếu chúng được sử dụng vào việc sửa chữa hay thay thế cho các cơ phận hoặc cho các mô thịt. Ngoài ra, cũng chưa tìm thấy phương tiện mãnh lực nào để sửa soạn cho việc kiềm hãm trước khi đi đến chỗ sử dụng CMEH.
“Việc nghiên cứu bằng các thân bào tăng trưởng không được nhìn nhận, cho dù sự thật cho thấy rằng chúng là những thân bào duy nhất đã cống hiến cho con người những thành quả quan trọng theo quan điểm bệnh lý học.
“Thật vậy, chỉ trong mấy tuần vừa qua, tờ tập san khoa học Nature đã phổ biến một nghiên cứu được thực hiện ở California, cho thấy rằng các tế bào từ óc của một con chuột được biên thành những tế bào của các mạch máu; trong khi đó các nhà nghiên cứu người Đức phổ biến trong tờ The Lancet rằng các thân bào phát xuất từ tủy xương đã cải tiến được hoạt động của tim mạch sau khi bị động tim”.
“Trong cùng một tờ nguyệt san này, các khoa học gia Anh quốc đã phổ biến là các tế bào da đã được biến đổi thành các tế bào óc, một việc đang nuôi dưỡng niềm hy vọng sẽ tìm được cách chữa trị bệnh Lẩy Bẩy mà không cần phải lo đến vấn đề đạo lý.
“Ngược đời thay, tờ The Lancet, một trong những nguyệt san có tiếng nhất về y khoa trên thế giới, đã bắt đầu vận động cho việc nghiên cứu các thân bào từ phôi bào con người, khi cuộc tranh luận ở Liên Hiệp Quốc đang tiến đến chỗ cấm đoán việc tạo sinh sao bản, và các cử tri Hoa Kỳ đang bỏ phiếu về vấn đề này.
“Số báo gần đây nhất của tờ nguyệt san này đã giành hầu như hoàn toàn về các đề tài liên quan đến các thân bào theo phương diện y học, khoa học và pháp lý, với bài chủ biên thúc giục các khoa học gia hãy đẩy mạnh việc vận động cho vấn đề ấy.
“Mỉa mai thay, nhận định của báo chí về tờ nguyệt san này lại chỉ nhấn mạnh đến tiến bộ nơi lãnh vực các thân bào tăng trưởng. Tuy nhiên, bài chủ biên cũng nói rằng những áp dụng về bệnh lý học của các thân bào từ phôi bào con người sắp sửa đi đến chỗ thất bại.
“FIAMC xin được tái xác nhận rằng về đạo lý không thể chấp nhận được việc cố ý hy sinh sự sống của bất cứ con người nào, kể cả trong trạng thái phôi bào, cho dù nó được thực hiện để cải tiến những điều kiện về sức khỏe của các con người khác.
“FIAMC kêu gọi tất cả mọi bác sĩ và các nhà nghiên cứu Công Giáo hãy trở thành một cuộc vận động tích cực, vào cả cơ hội có những biến cố tuyển cử, trong việc đạt tới chỗ hoàn toàn cấm chỉ tất cả mọi việc tạo sinh sao bản các phôi bào con người, cho dù vì lý do trị liệu”.
Cuộc tranh luận về vấn đề thân bào chữa bệnh sau cái chết của Tổng Thống Reagan
Những tay phò việc tạo sinh sao bản thân bào từ phôi bào lợi dụng cái chết của Cựu Tổng Thống Reagan để đòi chấm dứt những hạn chế tài trợ của liên bang cho công việc đang trong vòng tranh luận này. Chúng ta nhớ là ngay sau ngày Tổng Thống Bush triều kiến Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Thứ Sáu 4/6/2004, Vị đã gửi lời thăm hai vợ chồng cựu Tổng Thống Reagan, thì ông cựu tổng thống này đã qua đời vào Thứ Bảy 5/6/2004 và được chôn táng tại California vào Thứ Sáu 11/6/2004 sau tuần lễ toàn quốc khóc thương ông với những nghi thức và cử hành rất đặc biệt đầy cảm mến luyến thương giành cho ông.
Theo tường trình của Tờ Washington Post hôm 8/6/2004 thì có 58 phần tử thuộc Thượng Viện Hoa Kỳ đã gửi một bức thư cho Tổng Thống George Bush yêu cầu ông bãi bỏ những giới hạn bị áp đặt gần 3 năm qua.
Vào ngày 9/8/2001, Tổng Thống Bush đã ra lệnh cho Các Viện Sức Khỏe Quốc Gia (NIH: National Institutes of Health) không được tài trợ cho việc nghiên cứu các loại thân bào được sao bản từ phôi bào bị hủy diệt sau ngày này.
Tháng vừa rồi, cũng theo tờ Washington Post, có 206 phần tử thuộc Hạ Viện đã gửi bản yêu cầu tương tự đến Tổng Thống Bush. Bà phu nhân Nancy Reagan cũng lên tiếng ủng hộ việc nghiên cứu thân bào sao bản từ phôi bào như vậy.
Lợi dụng dịp này, dịp qua đời của cựu tổng thống Reagan và các bản yêu cầu của Thượng Viện lẫn Hạ Viện báo chí nhào vô làm áp lực.
Tờ New York Times hôm 8/6/2004 đã hy vọng rằng việc bà Nancy Reagan lập lại nỗ lực yêu cầu bãi bỏ tất cả mọi giới hạn về vấn đề nghiên cứu thân bào “có lẽ là một đường lối hứa hẹn nhất đối với việc chữa trị chứng Alzheimer và các thứ bệnh yếu liệt tàn hại khác”.
Tờ Philadelphia Inquirer ra ngày 9/4 cho rằng những hạn chế của Tổng Thống Bush là “một thứ hoang phí tế bào của con người là những gì có thể được sử dụng để cứu lấy mạng sống con người”.
Tờ USA Today tuyên bố rằng “Việc cho phép những chuyên viên nghiên cứu không buộc giữ những hạn chế không cần làm ngăn cản sự tiến bộ sẽ là đường lối hay nhất để tưởng nhớ và tôn vinh Tổng Thống Ronald Reagan”.
Tờ Boston Globe số ra ngày 9/6 cũng cho biết “những thân bào… thực sự là niềm hy vọng lớn lao của các khoa học gia nghĩ rằng những thân bào ấy có thể được chế thành những loại tế bào sửa chữa được các bộ phận hay trị được các chứng bệnh như Alzheimer”.
Tờ San Francisco Chronicle số ra ngày 7/6 cho rằng niềm tin Kitô giáo đã là động lực khiến Tổng Thống Bush quyết định giới hạn việc tài trợ của chính phủ cho vấn đdề này: “Việc ngăn cản vấn đề nghiên cứu thân bào từ phôi bào đã vượt quá giới hạn nguy hiểm, bằng cách cho phép cộng đồng tôn giáo phủ quyết việc nghiên cứu khoa học”.
Vào ngày 10/6, tờ Washington Post đã tạt gáo nước lạnh vào lò than cho rằng thân bào từ phôi bào có thể chữa bệnh Alzheimer, khi tờ này cho phổ biến lời của nhà nghiên cứu thân bào là Michael Shelanski, đồng giám đốc của Viện Taub Nghiên Cứu Bệnh Alzheimer và Bộ Óc Già Lão ở Trung Tâm Y Khoa Đại Học Columbia Nữu Ước: “Tôi nghĩ rằng cơ hội thực hiện việc sửa chữa những bộ óc bị chứng Alzheimer bằng việc sử dụng các thân bào thì rất nhỏ bé”.
Số New York Times ra ngày 11/6 cũng lên tiếng bênh vực thanh danh của cố Tổng Thống Reagan, qua nhận định của ông William Clark, cố vấn an ninh quốc gia và là thư ký nội bộ dưới thời vị tổng thống này, như sau: “Hồ sơ về Tổng Thống Ronald Reagan cho thấy rằng không có một vấn đề nào quan trọng hơn phẩm giá và tính chất thánh hảo của tất cả sự sống con người”. Ông này còn tiết lộ cho biết chính tổng thống Reagan hồi đó cũng đã cấm việc liên ban tài trợ cho vấn đề nghiên cứu này.
Người con trai của cố Tổng Thống Reagan là Michael Reagan, cũng nhấn mạnh rằng cha của ông đã mạnh mẽ chống lại việc nghiên cứu thân bào được sao bản từ phôi bào. Người con của vị cố tổng thống này đã viết trong tờ tuần san Human Events rằng:
“Tôi hơi cảm thấy chán ngán trước việc truyền thông cứ tường trình là ‘gia đình’ Reagan ủng hộ việc nghiên cứu thân bào. Sự thật đó là hai phần tử của gia đình này đã từng là đối phương lâu đời của tiến trình chế tạo con người ấy, đó là cha của tôi Ronald Reagan khi còn sống và tôi. Truyền thông cần phải nhớ rằng chúng tôi cũng là ‘gia đình’ Reagan và cha tôi, cũng như tôi, đều chống lại việc tạo nên các phôi bào con người cho nguyên mục đích sử dụng thân bào của chúng vào những việc chữa trị khả dị về y khoa. Ngoài ra, khi sử dụng lập luận khoa học rừng rú được phát động rộng rãi và hoàn toàn thiếu thế giá cho rằng việc nghiên cứu thân bào có thể đưa tới việc chữa chứng bệnh Alzheimer, truyền thông và những tay phò việc nghiên cứu thân bào nghĩ rằng nếu việc nghiên cứu này được thực hiện từ lâu thì cha tôi có thể đã tránh được cơn thử thách chịu đựng ông phải chịu. Đó là một thứ khoa học rừng rú bại hoại nhất”.
Trong khi đó, cuộc họp báo Thứ Năm 24/6/2004 được thực hiện bởi Thượng Nghị Sĩ Sam Brownback ở Kansas, đã nêu lên trường hợp những người phụ nữ bị thương tích nặng ở xương sống đã được chữa khỏi nhờ những thân bào già. Đó là cô Laura Dominguez, 16 tuổi, bị liệt bại phần hạ thân thể sau khi bị đụng xe và bà Susan Fajt cũng vì bị bất toại bởi đụng xe, giờ đây cả hai đều có thể dụng nạng bước đi, nhờ được chữa trị bởi thân bào già (adult stem cells).
Ở đây chúng ta nên phân biệt thân bào được sao bản từ phôi bào con người, một thứ thân bào được sao bản trước cái chết của phôi bào. Mà đã là phôi bào thì đã là người, do đó hủy diệt phôi bào là sát hại sự sống con người. Còn thân bào già là các tế bào được lấy từ những tế bào không phải từ phôi bào mà là những tế bào đã có sẵn nơi thân thể con người. Theo nghiên cứu, và như trường hợp hai phụ nữ trên đây cho thấy, không cần cứ phải lấy thân bào được sao bản từ phôi bào mới chữa được một số các chứng bệnh cần thiết, mà là loại thân bào già cũng làm được điều này.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ tài liệu được Zenit phổ biến ngày 19 và 25/6/2004)Hội Đồng Giám Mục Bulgaria hoan hô việc Quốc Hội nước này cấm vấn đề triệt sinh an tử và vấn đề tạo sinh sao bản phi tính dục
Sofia Bulgaria ngày 2/6/2004, sau một tuần lễ nẩy lửa tranh luận, quốc hội Bulgaria đã bỏ phiếu chống lại việc hợp thức hóa vấn đề triệt sinh an tử. Trong số 107 phần tử quốc hội, có 93 vị bỏ phiếu thuận.
Cũng thế, cuộc tranh luận về vấn đề tạo sinh sao bản phi tính dục, một cuộc tranh luận đã kết thúc hôm 8/6/2004, cũng đã được kết thúc với quyết định cấm tạo sinh sao bản nhắm mục đích sản sinh, bao gồm cả việc hiến bào và hiến mô.
“Quốc Hội đã tiến một bước quan trọng, và tôi phải nói rằng nhiều vị đại biểu đã cùng nhau bênh vực sự sống từ khi thụ thai cho tới giây phút cuối cùng”. Vị giám mục ở Sofia theo lễ nghi Byzantine đã cho cơ quan SIR của hội đồng giám mục Ý biết như thế.
Giáo Hội Chính Thống Bulgaria đã bày tỏ chủ trương tương tự như thế. Nước này có 8 triệu dân, trong đó có 83.5% là Chính Thống Giáo, 13% là Hồi Giáo, 1.7% là Công Giáo và .8% là Do Thái.
Việc Tạo Sinh Sao Bản Có Thể Dẫn Đến Tình Trạng Tân Nô Lệ
Sau khi Thượng Viện Mexicô chấp thuận cho việc nghiên cứu thân bào được sao bản từ phôi bào con người, một nhóm bác sĩ đã cảnh giác tình trạng tân nô lệ có thể xẩy ra.
Thật vậy, Hiệp Hội Các Bác Sĩ Công Giáo thuộc TGP Mexicô trong một văn kiện được phổ biến đã nhận định rằng: “Một mặt thì có một số nhà lập pháp biện minh cho cái chết của những phôi bào với chủ trương là cái chết ấy giúp vào việc chữa trị các bệnh tật, tức là họ nghiêm nhiên chối bỏ không công nhận các phôi bào được thụ thai đó là con người. Mặt khác thì các khoa học gia cũng như các chuyên gia đã cắt nghĩa cho các nhà lập luật rằng không cần phải sát hại mới lấy được những tế bào này”.
Các vị bác sĩ phân biệt giữa các thân bào phôi thai với những gì xẩy ra khi các thân bào được xuất phát từ một phôi bào mà cuối cùng sát hại nó khi ngăn chặn việc phát triển đang diễn tiến của nó.
“Trước cuộc tranh luận mới mẻ này, Giáo Hội lên tiếng chống lại một hình thức mới của nạn sát chủng, một hình thức sát chủng mà sự sống của một số người Mễ Tây Cơ chỉ là một thứ thuốc men cho những người khác.
“Căn cứ vào qui định về sinh thể học, luật học và nhân chủng học liên quan đến phôi bào con người cũng như vào những nguyên tắc đạo đức sinh học và khoa học căn bản thì việc sát hại một hữu thể vô tội cho dù có mang lại thiện ích cho xã hội Mễ Tây Cơ cũng là việc bất hợp pháp”.
Gần đây Thượng Viện đã loại bỏ một câu ở Khoản 7 luật của các Tổ Chức Về Sức Khoẻ cấm sử dụng thân bào con người được lấy từ những phôi bào sống. Việc thay đổi bản văn này hiện nay đã mở đường cho những cơ hội thí nghiệm phôi bào với chủ trương là những áp dụng về trị liệu của thân bào có thể giúp trị liệu một số bệnh khác nhau. Tuy nhiên, “tất cả những điều này vẫn còn trong vòng hứa hẹn” mà thôi, theo như bản văn này của các vị bác sĩ nhận định.
“Không thể phủ nhận là ý hướng của việc tạo sinh cải giống ngấm ngầm mở đường cho việc khai thác phôi bào con người”.
Bản văn kiện này còn vạch ra rằng “việc đầu tư những khoản ngân quĩ lớn vào một cuộc nghiên cứu như vậy là việc lấy những khoản ngân quĩ này khỏi các việc giải quyết cho các thảm trạng của quốc gia như tình trạng khan hiếm các thứ thuốc men căn bản, tình trạng không thể thăng hóa chương trình phục vụ về sức khỏe, và tình trạng dinh dưỡng tệ hại cả hàng ngàn ngàn người Mễ Tây Cơ”.
Các vị y sĩ ký tên vào bản văn kiện này kết luận rằng thật là vô lý “trong việc tiếp tục tìm kiếm sự ủng hộ của quần chúng cho những dự án này bằng cách hứa hẹn sẽ có thể chữa trị mau chóng nhiều thứ bệnh kinh niên, mặc dù không có một cơ sở vững chắc nào về việc áp dụng thực sự về bệnh lý trong nhiều năm tới đây”.
“Cố tình sát hiến mạng sống của bất cứ con người nào đều là việc bất khả chấp”
Bản Công Bố về việc các khoa học gia Đại Hàn tạo sinh sao bản con người
Rôma ngày 26/2/2004, Tổ Chức Liên Hiệp Thế Giới Các Hiệp Hội Y Khoa Công Giáo (FIAMC: The World Federation of Catholic Medical Associations), sau khi nghe thấy tin các khoa học gia Đại Hàn thực hiện được một cuộc tạo sinh sao bản các phôi bào con người, đã phổ biến Bản Công Bố sau đây:
Tin báo mới đây của tờ “Khoa Học” về sự kiện một nhóm khoa học gia Đại Hàn thực hiện thành đạt trong việc làm cho 30 phôi bào con người phát triển cho tới giai đoạn lỗ bào blastocyst (biệt chú riêng của người dịch: giai đoạn nhất ở tuần lễ đầu sau khi đậu thai phôi bào được gọi là cục bào morula và giai đoạn tiếp vào tuần lễ thứ hai được gọi là lỗ bào blastula hay blastocyst), đã gây nên những vấn đề quan trọng cho toàn thể cộng đồng khoa học và y học.
Theo các tờ nhật báo thì nhóm khoa học gia Đại Hàn này đã kiếm được 242 noãn sào để bằng việc sao bản làm nên 30 lỗ bào, tức các phôi bào mới chỉ có 100 tế bào. Từ những lỗ bào này họ đã lấy được một số các thân bào khả sinh.
Đây là thành đạt quan trọng đầu tiên trong việc sao bản phôi bào con người để kiếm thân bào mà cho tới nay nhiều khoa học gia đã cố gắng song không mang lại những kết quả đáng kể.
Ngược lại với câu truyện huyền thoại vô bằng của phái Raelian (biệt chú của người dịch: nhóm này vào cuối năm 2002 và đầu năm 2003 công bố là họ đã tạo sinh sao bản được một số em bé, rồi sau đó thú nhận là chỉ tung tin này để kéo chú ý của thế giới tới giáo phái của họ mà thôi) cũng như các loan báo trên báo chí của các vị bác sĩ tìm cách nổi danh một cách ngon lành mà không có những nền tảng khoa học vững chắc, chẳng hạn như trường hợp của bác sĩ người Ý là Antinori, việc thông báo này đã bắt nguồn từ một nhóm khoa học gia Đại Hàn lành mạnh và khả tín. Công trình của họ, được tài trợ bởi các cơ quan của chính phủ, sẽ được phổ biến trên một thứ tờ nhật trình khoa học đang cẩn thận thẩm định tính chất của những thành quả được tường trình này.
Thế nhưng vấn đề không phải chỉ có thế. Các khoa học gia Đại Hàn nói rằng việc chiếm đạt của họ là để góp phần vào việc chữa trị các thứ bệnh tật quan trọng, chẳng hạn như những chứng bệnh run rẩy lẩy bẩy Parkinson, những chứng chóng lãng quên những gì vừa xẩy ra Alzheimer và những chứng bệnh tiểu đường. Ngoài ra, họ còn gán ghép giá trị theo bản chất luân lý vào việc làm của họ nữa.
Theo quan niệm của chúng tôi, đó chính là lý do tại sao những thành quả của họ lại càng là những vấn đề hết sức hệ trọng và đặc biệt cần phải chú ý. Những thành quả này cần phải có một tổ chức cấp thời nơi các khoa học gia sinh chất và các bác sĩ y khoa mạnh mẽ chống lại trào lưu văn hóa.
Thật vậy, thật là một việc làm vô luân khi đầu tư những số tiền khổng lồ (kể cả các thứ ngân quĩ chung) không vào việc sử dụng chúng để giải quyết những thảm trạng khắp thế giới tân tiến ngày nay, như thảm trạng hội chứng liệt kháng AIDS, chứng sốt rét hay tình trạng dinh dưỡng tệ hại.
Thật là vô luân trong việc tiếp tục tìm kiếm sự hỗ trợ của quần chúng cho những dự án này, bằng những thứ hứa hẹn thực hiện việc chữa trị sắp đạt được đối với những thứ bệnh kinh niên, mặc dù không nắm chắc được gì về tính cách thực tiễn của nó trong những năm tháng tới đây, cũng như đã cố tình lơ đi việc nghiên cứu dự bị nơi loài thú.
Thật là vô luân khi trình bày những thành quả sau này như là một thứ quà tặng cho nhân loại, mặc dù vấn đề đã rõ là việc trị liệu sẽ rất là mắc mỏ và nó sẽ được thực hiện bởi các tổ chức đòi phải có những thứ bù đắp khổng lồ về tài chính.
Quan trọng hơn nữa, những dự án này là những dự án vô luân, vì các nhà nghiên cứu cần phải sát hại những phôi bào con người được sao bản để lấy ra những thân bào.
Không chấp nhận được việc cố tình sát hiến sự sống của bất cứ con người nào, cho dù được thực hiện để giải quyết các vấn đề sức khỏe của những con người khác.
Một thứ yêu thương không nhìn nhận giá trị nội tại của con người, cho dù họ là những phôi bào nhỏ bé và bất lực, là một thứ yêu thương phi nhân bản.
Chúng tôi xác tín rằng, thái độ này cho thấy những quan niệm duy lợi mà thôi chứ không phải là một thứ nhân đạo, một thứ quan niệm duy lợi muốn lèo lái tư tưởng quần chúng và ủng hộ những lãnh vực lợi lộc về kinh tế, như việc nghiên cứu về các thứ thân bào được sao bản từ phôi bào. Quan niệm duy lợi này đồng thời cũng che chở cho những nghiên cứu, như những nghiên cứu kín đáo được thực hiện đối với các thân bào già, mặc dù những nghiên cứu này đã gặt hái được những thành quả quan trọng về lãnh vực khoa học, thậm chí về cả phương diện y khoa.
Thế nhưng, một lần nữa, không phải tất cả chỉ có thế. Thật là nguy hiểm khi cổ võ việc sử dụng những thân bào được sao bản từ phôi bào mà không mang chi đến khả năng mãnh liệt của chúng đối với một thứ tăng trưởng bất khả kiểm soát, một thứ tăng trưởng sẽ biến thành một nguy cơ lớn tác hại đến sự sống, khi thứ tăng trưởng này được sử dụng vào việc sữa chữa hay thay thế mô thịt hoặc cơ phận.
Ngược lại với trường hợp ở các xứ sở khác, chẳng hạn trường hợp ở Hiệp Chủng Quốc, Đại Hàn đã thông qua một đạo luật về đạo lý sinh học tháng 12/2003 cho phép sao bản con người để sử dụng về y khoa, và đã tài trợ theo chiều hướng đạo luật ấy cho việc nghiên cứu đang có vấn đề này.
Chúng tôi xin các cơ quan công quyền, các đại học đường và các phương tiện truyền thông hãy cung cấp tín liệu thực tế về tình trạng thực sự liên quan đến những cơ hội trị liệu sẵn có bằng các thân bào già và các thân bào sao bản từ phôi bào.
Chúng tôi kêu gọi hoàn toàn cấm chỉ việc sao bản các phôi bào con người. Thay vào đó, cần phải khuyến khích việc nghiên cứu loại thân bào già.
Nếu việc này không được thực hiện, vấn đề có thể sẽ xẩy ra là việc thiếu tôn trọng tương tự đối với những thành phần mềm yếu nhất loài người ngày nay, một việc thiếu tôn trọng hôm nay đây đã sản xuất ra được những lỗ bào để nghiên cứu, thì mai đây cũng sẽ không ngần ngại sao bản những phôi bào con người để sản xuất ra hằng loạt con trẻ.
Lúc này đây là thời điểm chặn đứng: bởi vì khó lòng mà kiểm soát được việc sử dụng các phôi bào con người một khi việc sản xuất những phôi bào này được phép thực hiện!
Giáo sư Gian Luigi Gigli, M.D., Chủ tịch
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu được Zenit phổ biến ngày 26/2/2004
Giáo Hội trước Tin Giật Gân về Thành Quả ở Nam Hàn thực hiện Phương Pháp Sao Bản Phôi Thai Bào để triệt sinh lấy tế bào thân trị liệu
Vào những ngày cuối cùng của năm 2002 và đầu năm 2003, thế giới thoạt tiên đã sửng sốt bàng hoàng trước lời công bố về con người đầu tiên được sinh ra theo phương pháp khoa học sao bản phi tính dục cloning. Bà giám đốc Brigitte Boisselier của hãng tạo sinh phi tính dục Clonaid và vị “giám mục” của giáo phái Raelian đã nói trong một cuộc họp báo ở Orlando, Florida rằng con người đầu tiên này là bé sơ sinh “Evà” đã được sinh ra vào ngày 26/12/2002 tại phòng mổ.
Thế rồi, trong khi cả thế giới đang bàng hoàng ngờ vực thì bà giám đốc Brigitte Boisselier của hãng tạo sinh phi tính dục Clonaid thuộc giáo phái Raelian lại tuyên bố một hài nhi nữa sẽ được xuất hiện cùng lắm vào Chúa Nhật 5/1/2003 tại một nơi ở Âu Châu không được cho biết tên. Ngoài ra, còn 3 cặp vợ chồng nữa sẽ có con theo kiểu này vào đầu tháng Hai 2003.
Hãng Clonaid của giáo phái Raelian cho biết có một danh sách 2 ngàn người muốn trả cho họ 200 ngàn Mỹ Kim để chính họ hay người thân của họ được tạo sinh kiểu vô tính dục, và họ đã công bố họ làm được điều này vào ngày 27/12/2002 vừa qua, với một bé gái cho người mẹ Hoa Kỳ 31 tuổi. Bà giám đốc của hãng Clonaid nói rằng tất cả các cha mẹ đều ký hợp đồng với hãng của bà là họ sẽ trình việc thử nghiệm chất di truyền DNA để chứng thực những lời công bố của hãng bà: “Quí vị cần phải hiểu rằng họ rất lo sợ về những gì đang xẩy ra hiện nay. Tôi nghĩ rằng chẳng mấy chốc họ sẽ làm việc này, nhưng chúng ta không thể nào biết được”.Thế rồi, kết quả là, cuối cùng Claude Vorilgon, vị sáng lập giáo phái Raelian đã tỏ ra vui mừng về việc nhóm của ông đã tung tin kéo được sự chú ý của quần chúng gần đây và đã thú nhận là những công bố về việc tạo sinh sao bản phi tính dục này có thể là sai. Hôm Chúa Nhật 19/1/2003, tại Montreal Canada, vị này đã nói với 300 môn đồ của mình rằng: “Dù đúng hay sai thì giáo phái Raelian cũng đã được cả thế giới biết đến rồi”. Về bà giám đốc hãng Clonaid của giáo phái này, thì vị sáng lập này đã nói: “Nếu Brigitte Boisselier đã thực hiện việc tung tin này thì bà đã làm một điều tuyệt vời, đáng được giải thưởng Nobel. Nếu điều tung tin ấy không đúng thì nó cũng là một thứ diễu cợt về khoa học rất là hay ho, dầu sao nó cũng giúp cho chúng ta chuyên chở được sứ điệp của chúng ta muốn nói đến với toàn thể thế giới. Tôi xin đời đời cám ơn Brigitte về việc này, mà một khi tôi nói là đời đời thì tôi cố ý nói thật sự như vậy”.
Dù sao biến cố tung tịt vịt đánh lừa cả thế giới này cũng làm cho một số thẩm quyền đạo đời, nhất là Giáo Hội Công Giáo lên tiếng phản chống vấn đề tạo sinh sao bản vô luân phi nhân bản này. Hơn một năm sau, vấn đề tạo sinh sao bản lại bùng lên một lần nữa khi thế giới nghe thấy phát xuất từ Nam Hàn lời tuyên bố hôm Thứ Năm 12/2/2004 về việc họ thành công trong việc tạo sinh sao bản những phôi thai bào con người và lấy được những tế bào thân từ một trong những phôi thai bào này.
Giáo sư Hwang Yoon-Young thuộc Đại Học Hanyang tuyên bố: “Nhóm nghiên cứu của chúng tôi đã lấy được một cách thành công những tế bào thân từ một phôi thai bào con người được sao bản qua tiến trình phát triển trong một ống nghiệm”.
Nhóm nghiên cứu dưới sự lãnh đạo của Bác Sĩ Hwang Woo Suk ở Đại Học Quốc Gia Seoul đã tường trình cho các khoa học gia Nam Hàn biết những thành quả của mình và những thành quả này cũng được phổ biến trên tờ Khoa Học Hoa Kỳ. Theo tờ Khoa Học này cho biết thì các khoa học gia Đại Hàn đã tạo nên một phôi thai bào kiểu sao bản với những noãn sào của các phụ nữ Đại Hàn. Các khoa học gia này cũng minh định một điều là kỹ thuật này không phải là để tạo nên những thai nhi mà là để tìm hiểu rõ hơn về những nguyên nhân và việc trị liệu của nhiều thứ bệnh tật, như tiểu đường, ung thư, những loại thương tổn xương sống và chứng lẩy bẩy Parkinson.
Theo Viện Sức Khỏe Quốc Gia của Hoa Kỳ thì các tế bào thân có thể được các khoa học gia làm phát triển thành nhiều tế bào khác của con người. Những tế bào thân này, vẫn biết có thể thấy được nơi người lớn nhưng những thứ thấy được nơi những phôi thai bào mới thành hình dễ thí nghiệm hơn để tạo ra các tế bào chuyên biệt trong việc chữa trị bệnh tật của con người.
Thành phần chống đối cho rằng việc sử dụng phôi thai bào, cho dù phôi thai bào này mới chỉ được mấy phút cũng là việc hủy hoại đi một sự sống con người. Giáo sư Hwang nhận định là “kết quả của việc chúng tôi nghiên cứu chứng tỏ vấn đề tạo sinh sao bản con người là điều khả dĩ theo khoa học, và dường như chúng tôi làm tái phát cuộc tranh luận về việc tạo sinh sao bản con người”. Tuy nhiên, riêng về phương diện khoa học, các khoa học gia cũng cảnh giác là cần phải nhiều năm nghiên cứu nữa trước khi khoa te bào thân trở thành những thứ trị liệu thực sự.
Tổng Thống Bush đã chống lại việc sử dụng phôi thai bào con người để nghiên cứu y khoa. Hai năm trước đây, chính phủ liên bang đã triệt để giới hạn việc sử dụng công quĩ vào những việc như thế. Năm ngoái Hạ Viện Hoa Kỳ đã thông qua đạo luật cấm tạo sinh sao bản con người, nhưng Thượng Viện không chấp thuận liên quan đến vấn đề tạo sinh sao bản có mục đích nghiên cứu trị liệu khác với tạo sinh sao bản hoàn toàn thành một con người. Cả Liên Hiệp Quốc vào cuối năm vừa rồi cũng trì hoãn trong vòng hai năm việc quyết định về việc cấm tạo sinh sao bản.
Trước tin mới nhất về việc tạo sinh sao bản con người dù với mục đích trị liệu này, Giáo Hội Công Giáo vẫn cương quyết với lập trường chống đối của mình, một lập trường đã được bày tỏ vào ngày 27/10/2003 tại Liên Hiệp Quốc, một lập trường chống lại tất cả mọi hình thức tạo sinh sao bản triệt sinh. Hôm Thứ Sáu 13/2/2004, Đức Giám Mục Elio Sgrecis, phó chủ tịch Học Viện Tòa Thánh Về Sự Sống, đồng thời cũng là Giám Đốc Trung Tâm Đạo Lý Sinh Học ở Đại Học Thánh Tâm Rôma đã trả lời cuộc phỏng vấn với Hãng Thông Tấn Reuters điện thoại rằng:
“Qúi vị không thể sát hại sự sống con người với hy vọng tìm kiếm những thứ thuốc men để cứu các sự sống khác. Việc này sẽ là việc tái diễn những gì Đảng Nazis đã làm trong các trại tập trung. Các khoa học gia nói rằng: ‘đầu tiên thì chúng tôi tạo sinh sao bản các người. Rồi tôi sẽ giết các người’. Đây không phải là một thứ chiến thắng mà là việc giầy đạp sự sống con người gấp đôi. Điều này (việc nghiên cứu ở Nam Hàn) không phải là nhưnõng gì con người thắng cuộc mà là một tội ác gấp đôi. Không có chứng cớ nào cho thấy những tế bào thân được lấy từ phôi thai bào thì có công hiệu hơn trong việc chữa trị bệnh tật hơn là những tế bào thân được lấy từ người lớn. Một số khoa học gia đang làm cho dân chúng ôm toàn là những thứ hy vọng hão huyền trong khi họ thực hiện những tội ác bởi việc tạo nên một phôi thai bào để triệt hạ nó, một thứ trò chơi về kỹ thuật nhưng phi nhân”.
Đức Giám Mục này cũng nói trên Đài Phát Thanh Vatican rằng:
“Theo quan điểm đạo lý thì việc tạo sinh sao bản cho là ‘trị liệu’ này là việc bất hợp pháp lưỡng diện. Trước hết, tạo sinh sao bản là một phương pháp phản tự nhiên, và sau nữa, nó loại trừ một phôi thai bào được tạo sinh sao bản. Bởi thế việc tạo sinh phi tính dục một con người, tức việc sao bản con người theo ý muốn của chúng ta là điều quái dị; nó cành quái dị hơn nữa khi loại trừ một phôi thai bào để dùng nó làm phương pháp trị liệu. Đây là một bước tiến về trị liệu theo khoa học chưa được chứng thực. Không có chứng cớ nào cho thấy tất cả những thứ này đều là những gì thiện ích. Ngược lại, chứng cớ cho thấy những tế bào thân được lấy từ người lớn hay từ cái nhau trong bụng người mẹ đều có giá trị và đủ để chữa trị những chứng bệnh này. Việc cứ tiếp tục đi theo đường lối được gọi là tạo sinh sao bản trị liệu này, với những mục đích ‘tuyệt vời’, cho thấy ý nghĩ về một cuộc chiến tranh chính trị. Tức là cho thấy một ước mong muốn đạt đến quyền tự do làm gì thì làm theo ý con người đối với phôi thai bào theo quan điểm kỹ nghệ. Ước muốn kiểm soát toàn thể việc cấu tạo cá thể con người tự bản chất là những gì vô luân”.
Vì các khoa học gia khi thực hiện việc sao bản phi tính dục này đều nấp dưới bình phong trị liệu các chứng bệnh bất trị cho con người hơn là tạo sinh con người thật mà chủ trương của Giáo Hội cũng như của những ai chống lại phương pháp này đều bị tố cáo là thành phần phản văn minh hay phản minh tri “obscurantism”. Đó là lý do vị giám mục trên đã minh định thế này:
“Đó thực sự là một điều tố cáo sai lầm, vì, như tôi đã nói, còn có một ít phương cách để chữa trị những chứng bệnh này, thế nhưng những phương cách ấy không phát xuất từ những tế bào của các phôi thai bào. Cho tới nay các kỹ thuật đạt được những kết quả tốt đẹp đều như thế bằng việc sử dụng những tế bào thân chín mùi. Có những thứ lợi lộc của những kẻ, khi nới rộng loại thành công này, tìm cách tạo nên những thứ mong đợi nơi dân chúng để thức tỉnh niềm hy vọng vào một thứ thiện ích biết vậy. Khi làm như thế mà không nắm vững vấn đề là làm một việc lừa đảo”.
Tại Hoa Kỳ, ĐHY William Keeler, vị lãnh đạo Tiểu Ban Hoạt Động Phò Sự Sống của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ cũng lên tiếng bày tỏ mối quan tâm của mình khi ngài như sau:
"Việc sử dụng phương pháp này hay bất cứ phương tiện nào khác để tạo nên sự sống con người vô tội với mục đích duy nhất là hủy hoại chúng đi là một vi phạm trầm trọng đến đạo lý của việc nghiên cứu. Nếu các khoa học gia không tự động từ bỏ việc lạm dụng ấy về khoa học thì nỗ lực của quốc gia và quốc tế trong vấn đề cấm đoán việc tạo sinh sao bản con người là việc làm khẩn trương hơn bao giờ hết. Việc tạo sinh sao bản con người biến việc sản sinh thành một tiến trình chế tạo, coi sự sống con người như là môt thứ sản vật được tạo nên cho những mục đích ấn định. Cả mấy chục phôi thai bào con người được tạo nên và bị hủy hoại đi để sản xuất ra một loạt tế bào thân duy nhất cho việc nghiên cứu thêm. Vấn đề lại càng rắc rối hơn nữa là việc sử dụng những loại thuốc đậu thai khả dĩ tác hại nơi 16 phụ nữ để sản xuất ra 242 noãn sào cho việc thí nghiệm này. Những người phụ nữ ấy được dùng như là những hãng sản xuất trứng trong khi con cái phôi thai bào của họ được coi chẳng hơn gì những vật để làm thí nghiệm”.
Hội Đồng Âu Châu các Bộ Trưởng bất đồng về những giới hạn nghiên cứu việc sao bản tế bào thân
Hôm Thứ Tư 3/12/2003, tại Brussels, Bỉ quốc, ủy ban các giám mục đã lấy làm buồn tiếc vì Hội Đồng thuộc Khối Hiệp Nhất Âu Châu bất đồng ý về việc tài trợ cho việc nghiên cứu tế bào thân phôi thai bào.Vấn đề này bởi thế sẽ được hoãn lại cho tới khi Ái Nhĩ Lan đóng vai trò chủ tịch luân phiên Khối Hiệp Nhất Âu Châu này vào ngày 1/1/2004 tới đây. Nghe được nguồn tin này, Đức Ông Noel Treanor, tổng thư ký của Ủy Ban cộng đồng các hội đồng giám mục Âu Châu đã lên tiếng như sau:
“Chúng tôi lấy làm tiếc vì Hội Đồng Các Vị Bộ Trưởng hôm nay đã không đi tới chỗ đồng ý về những giới hạn đạo lý trong vấn đề Khối Hiệp Nhất Âu Châu tài trợ cho việc nghiên cứu tế bào thân.
“Chúng tôi hết sức lo ngại là vấn đề này có thể đưa đến chỗ Ủy Ban Âu Châu quyết định về việc tài trợ này liên quan đến sự bất ổn về pháp lý và đạo lý.
“Những lo ngại về đạo lý liên quan đến việc nghiên cứu này là ở chỗ hủy hoại những phôi thai bào con người là những lo ngại được bắt nguồn từ những xác tín về tôn giáo và trần thế, cũng như từ tiền lệ của lịch sử và khoa học.
“Cần phải nhấn mạnh là vấn đề Hội Đồng Chư Bộ Trưởng phải đối diện hôm nay đây không phải là một cuộc nghiên cứu có cần phải được ban phép một cách hợp lý nơi Khối Hiệp Nhất Âu Châu hay chăng. Đây là và phải là vấn đề quyết định của các quốc gia phần tử.
“Vấn đề là ở chỗ việc nghiên cứu này có cần phải được ngân quĩ của Cộng Đồng Âu Châu tài trợ hay chăng, nếu có thì cũng từ các phần đóng góp của tất cả mọi quốc gia phần tử.
“Quyết định này không phải là một quyết định trung dung về đạo lý. Để chấp thuận là ngân quĩ của Khối Hiệp Nhất Âu Châu có thể được sử dụng cho việc nghiên cứu tế bào thân phôi thai bào, và nhất là cho việc kiếm được các tế bào thân, tức là cho rằng những kỹ thuật đưôc sử dụng kiếm những tế bào thân này là hợp pháp, tức là được hủy hoại các phôi thai bào con người.
“Bất cứ đứng ở chỗ nào trong cuộc tranh luận này, chúng ta cũng không thể nào tránh được tầm quan trọng sâu xa nơi kiến thức về con người và xã hội”.
Các Giám Mục Âu Châu phản đối quốc hội Âu Châu ủng hộ việc nghiên cứu sao bản hủy sinh
Tại Strasbourg Pháp Quốc ngày Thứ Tư 19/11/2003, Đức Ông Noel Treanor, tổng thư ký của ủy ban Cộng Đồng Các Hội Đồng Giám Mục Âu Châu, sau cuộc bỏ phiếu của quốc hội Âu Châu về việc ủng hộ vấn đề sao bản trị liệu hủy sinh đã lên tiếng chống đối qua một bản văn như sau: “Chúng tôi hết sức quan tâm về việc Quốc Hội Âu Châu cho phép Khối Hiệp Nhất Âu Châu tài trợ cho việc nghiên cứu liên quan đến việc hủy sinh các phôi thai bào. Việc nghiên cứu này làm phát sinh nhiều vấn đề trầm trọng về luân lý. Bởi thế mà có một số quốc gia hội viên thuộc Khối Hiệp Nhất Âu Châu không cho phép thực hiện việc này theo quyền hạn lập pháp của mình và chống lại vấn đề phân chi ngân quĩ chung của Khối Hiệp Nhất Âu Châu để sử dụng cho việc này”.
Bản dự thảo đã được chấp thuận với số phiếu 291-235 cho phép sao bản các tế bào thân từ các phôi thai bào rồi sau đó hủy sinh các phôi thai bào ấy đi theo Dự Trình Thứ Sáu Thuộc Phạm Vi Nghiên Cứu Của Khối Hiệp Nhất Âu Châu. Đức ông TTK trên nhận định là “điều này sẽ tạo cơ hội rắc rối trong việc gián tiếp khuyến khích việc tạo nên những phôi thai bào con người để lấy những tế bào thân phôi thai cho việc nghiên cứu được tài trợ bởi Khối Hiệp Nhất Âu Châu”. Đức ông nhấn mạnh quan điểm Kitô giáo trong vấn đề này như sau:
“Theo quan điểm của chúng tôi thì sự sống của con người được bắt đầu từ khi mới hoài thai nên nó không thể bị vi phạm cho dù có tạo nên những thiện lợi mong chờ gì đi nữa. Do đó chúng vẫn chống lại đường lối hủy sinh bất cứ một phôi thai bào nào để tạo lấy những tế bào thân phôi thai. Chúng tôi xin Hội Đồng Các Vị Bộ Trưởng đừng chấp thuận việc sử dụng các ngân qũi của Khối Hiệp Nhất Âu Châu trong vấn đề liên quan đến việc hủy sinh các phôi thai bào con người. Cần phải nhận định rằng ý kiến của Quốc Hội này, được chấp thuận theo phương thức tham vấn, là điều không buộc hội đồng phải thi hành. Chúng tôi cũng xin lập lại việc chúng tôi ủng hộ vấn đề nghiên cứu khoa học nói chung, nhất là vấn đề nghiên cứu sử dụng các tế bào thân già giặn”.
Hội Đồng Các Vị Bộ Trưởng của Khối Hiệp Nhất Âu Châu sẽ đi đến quyết định cuối cùng theo điều hướng đạo lý vào cuộc họp 27/11/2003 ở Brussels Bỉ Quốc.
Tòa Thánh Vatican tại LHQ về “Qui Ước Quốc Tế Chống Lại Việc Tạo Sinh Sao Bản Con Người”
Ngày 21/10, về “Qui Ước Quốc Tế Chống Lại Việc Tạo Sinh Sao Bản Con Người”, liên quan đến vấn đề 172 trong nghị trình của Tổng Nghị Lần Thứ 58 của LHQ ở Nữu Ước, ĐTGM Celestino Migliore đã đại diện Tòa Thánh cũng đã đọc bài diễn văn được văn phòng báo chí của tòa thánh phổ biến ngày 27/10/2003 như sau:
Đại biểu tôi đã trình bày các quan điểm của mình bằng giấy tờ được Nhóm Hoạt Động phổ biến vào khóa họp đầu tiên bàn luận về vấn đề này mấy tuần trước đây. Trong phiên họp đó, đại biểu tôi đã tái xác nhận niềm xác tín là chỉ có một qui ước toàn diện về vấn đề tạo sinh sao bản con người mới có thể đề cập tới tất cả mọi vấn đề liên hệ cũng như mới đáp ứng được những thách đố của thế kỷ 21 về đề tài này.
Những tình trạng gây ra cho phẩm giá con người những nguy hại trầm trọng chỉ có thể nói lên một cách hiệu nghiệm bởi các hiệp ước quốc tế toàn diện chứ không phải từng phần. Trong khi qui ước từng phần có thể nêu lên một vài vấn đề tạm thời liên quan tới việc tạo sinh sao bản con người, thì nó lại có thể gây ra những vấn đề trầm trọng hơn sau đó, thậm chí còn khó giải quyết hơn nữa. Giải pháp vững chắc nhất bởi thế cần phải là một phương tiện pháp lý bao gồm tất cả mọi sự. Ngoài ra, một qui ước gồm tóm tất cả mọi sự có thể cống hiến một phương tiện pháp lý tác lực có thể hướng dẫn và giúp cho các quốc gia thiết lập luật lệ quốc gia về vấn đề tạo sinh sao bản con người.
…….
Thưa Ngài Chủ Tọa, khoa học có thể là phức tạp, thế nhưng, đối với chúng ta thì vấn đề này là vấn đề giản dị và không có gì là khúc mắc cả. Vấn đề tạo sinh sao bản con người bao gồm việc tạo nên những bào thai con người là truyện về khởi sự có sự sống con người, một sự sống không phải là vấn đề của địa phương, cũng không phải là vấn đề của quốc gia, không phải là vấn đề của một miền. Trước hết nó là vấn đề quốc tế, vì bào thai là một con người, bất kể địa dư của nó.Nếu việc tạo sinh sao bản con người trái ngược với luật tự nhiên, một nguyên tắc mà tất cả mọi phái đoàn đại biểu tỏ ra đồng ý, thì việc sao bản của cùng một bào thai dù với mục đích nghiên cứu cũng thế. Một bào thai được sao bản, một bào thai không nhắm đến mục đích gieo vào tử cung mà là được tạo nên chỉ vì mục đích rút lấy những tế bào thân cùng với những chất khác, là để hủy hoại đi theo dự tính từ trước.
Một số người lập luận rằng, thưa Ngài Chủ Tọa, trong khi chúng ta cần phải hành động mau chóng để cấm việc tạo sinh sao bản con người, chúng ta cần phải có nhiều giờ hơn để tìm hiểu tất cả mọi khía cạnh của việc sao bản nghiên cứu, một phương pháp có chủ ý huỉy hoại sự sống con người. Có bao nhiêu mạng sống con người chúng ta muốn sử dụng cho tiến trình này? Vì tiến trình ấy không cần thiết và có thể đòi phải có hơn một bào thai cho mỗi một bệnh nhân cần được chữa trị, mà hằng trăm triệu bào thai con người được sao bản cần phải có để chữa trị thậm chí chỉ một thứ bệnh duy nhất, như bệnh tiểu đường, ở một quốc gia tân tiến.
Để kết thúc, đại biểu tôi muốn nhắc hội đồng tôn vị đây là một trong những sứ vụ nống cốt của Liên Hiệp Quốc là bênh vực quyền lợi con người. Nếu Liên Hiệp Quốc cấm việc sao bản tạo sinh mà không cấm việc sao bản nghiên cứu, thì điều này làm cho cơ cấu đây lần đầu tiên dính dáng vào việc cho phép một điều ngoại thường, đó là cho phép tạo nên những con người với mục đích rõ ràng là để hủy diệt chúng đi.
Nếu các thứ quyền lợi của con người mang một ý nghĩa nào đó, ở bất cứ thời nào, tại bất cứ nơi nào trên thế giới, thì chắc chắn không ai có quyền làm một điều như thế. Các thứ quyền lợi của con người được phát xuất từ việc nhìn nhận rằng con người có một phẩm vị bẩm sinh vì họ là con người. Các bào thai đều là con người, cho dù chúng được sao bản mà có. Nếu chúng ta có được những quyền lợi phát xuất từ việc nhìn nhận phẩm giá này thì chúng ta cũng phải tỏ ra cấm tạo sinh sao bản dưới mọi hình thức.
…………..Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tài liệu của Tòa Thánh được Zenit phổ biến ngày 27/10/2003
Liên Hiệp Quốc không hoàn toàn loại bỏ tất cả mọi hình thức tạo sinh sao bảnHôm Thứ Năm 6/11/2003, tiểu ban pháp lý của Tổng Nghị LHQ đã bỏ phiếu (80 nước bỏ phiếu chấp thuận và 15 nước không bỏ phiếu) chấp nhận chiều hướng của nước Iran thay mặt cho 57 quốc gia Hồi giáo trong việc hoãn lại hai năm chỉ thị cấm toàn phần hay từng phần vấn đề tạo sinh sao bản cloning. Hoa Kỳ và Costa Rica đã vận động bỏ phiếu cho giải pháp thiết lập một nhóm phụ trách việc thảo định một hiệp ước cấm tất cả mọi hình thức tạo sinh sao bản con người. ĐTGM Migliore, quan sát viên thường trực của Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc đã nói với Đài Phát Thanh Vatican về nguyên nhân của việc bỏ phiếu trì hoãn thi hành luật cấm này là vì những lợi lộc về kinh tế. ĐTGM cho biết nhận định của mình như sau:
“Có hai chủ trương rõ ràng được nêu lên: một liên quan đến giải pháp được Costa Rica soạn thảo; và một liên quan đến giải pháp được Bỉ soạn thảo. Nước Costa Rica đề nghị sử dụng các tế bào thân già giặn vào những trị liệu các thứ bệnh bất trị, hoàn toàn cấm việc tạo sinh sao bản bào thai con người, tức là cấm cả việc sao bản tạo sinh hay trị liệu. Chủ trương của Bỉ Quốc, một chủ trương trở thành giải pháp của phe Pháp Đức, đề nghị … cấm việc sao bản tạo sinh nhưng bỏ ngỏ …. Một số cửa ng cho vấn đề sao bản trị liệu”.
Theo ĐTGM quan sát viên này thì việc trì hoãn này “có nghĩa là chấp nhận trong vòng hai năm chúng ta tiếp tục sống trong cái trống không của pháp luật quốc tế bằng việc để cho các thứ thí nghiệm khả dĩ được tiếp tục thực hiện. Bằng đường lối này, cơ hội để bày tỏ về vấn đề thiết yếu ấy… bị ngăn chặn lại về mặt thực tế. Chắc chắn… vấn đề kinh tế và thương mại… đã đóng một vai trò quan trọng ở hậu trường”.
Quốc Hội Đức kêu gọi cấm tất cả mọi thứ tạo sinh sao bản cloning
Ngày Thứ Sáu 21/2/2003, Quốc Hội Đức đại đa số, đến độ hầu như đồng thanh, đã bỏ phiếu để chính quyền ủng hộ việc Liên Hiệp Quốc hoàn toàn cấm việc tạo sinh sao bản cloning. Hầu như tất cả mọi đảng phái chính trị lớn của Đức, như Dân Chủ Kitô Giáo, Đảng Xanh v.v. đều bỏ phiếu ủng hộ điều này, một điều trái nghịch với chủ trương của Thủ Tướng Gerhard Schruder là người dẫn đầu việc yêu cầu Liên Hiệp Quốc cho phép việc thí nghiệm tạo sinh sao bản con người.
Tiểu ban thứ sáu của Hội Đồng Chung của Liên Hiệp Quốc bàn luận việc tạo sinh sao bản con người từ năm 2001, lúc hai chính quyền Pháp và Đức nêu lên vấn đề này. Bản dự thảo của Pháp-Đức này yêu cầu cấm bán phần việc tạo sinh sao bản thôi, việc tạo sinh cho phép những con người được sao bản bị hủy diệt đi trong việc nghiên cứu y khoa. Vẫn chưa rõ tại sao Đức đã thay đổi chủ trương của mình khi nói đến vấn đề tạo sinh sao bản này ở Tổng Hành Dinh Liên Hiệp Quốc tháng 9/2002 vừa rồi.Con Cừu đầu tiên được tạo sinh sao bản cloning được 6 tuổi thì chết
Viện Roslin, qua Bác Sĩ Harry Griffin, vừa công bố điều này: “Chiên có thể sống tới 11 hay 12 tuổi và bệnh phổi là bệnh thông thường xẩy ra nơi loài chiên, nhất là những con được nuôi trong nhà”. Vị viện trưởng này còn nói sẽ cho biết kết quả về việc hậu tử giảo nghiệm con cừu sao bản này. Con cừu mang tên Dolly này được đặt theo tên của danh ca country-western Dolly Parton, và xuất hiện trước truyền thông quốc tế vào đầu năm 1996 như con vật thuộc loài có vú đầu tiên được khoa học sao bản từ tế bào già (chứ không phải tế bào thân từ thứ phôi thai bào được tạo sinh sao bản) qua cuộc thí nghiệm của giáo sư Ian Wilmut cùng với nhóm của ông thuộc Viện Roslin ở Edingurgh.
Vào tháng 1/2002, con cừu này được thấy là có triệu chứng phong thấp, một triệu chứng thông thường nơi loài thú già đời. Việc nghiên cứu về vấn đề này đặt giả thuyết là có thể chứng phong thấp này gây ra bởi tiến trình tạo sinh sao bản, nhưng cũng có thể là do vấn đề già trước tuổi. Một nhóm chuyên viên thuộc hãng Trị Liệu PPL ở Edingurgh đã khám nghiệm các thứ tế bào được gọi là telomeres của con cừu này thì thấy rằng những cấu trúc của chúng hơi ngắn hơn bình thường có thể là nguyên nhân gây nên việc chết sớm của nó.
Bác sĩ Patrick Dixon đã cho Hãng Thống Tấn Press Association của Hiệp Vương Quốc biết rằng: “Vấn đề thực sự đó là cái gì đã làm cho con cừu này chết, và vấn đề có liên quan đến tuổi tác hay chăng. Con cừu này chưa đủ tuổi theo tiêu chuẩn loài cừu để bị hạ chết (vì mắc bệnh). Cái quan tâm lớn nhất của nhiều khoa học gia đó là vấn đề tạo sinh sao bản con người, cho dù những thứ tạo sinh sao bản con người này không có những dị thường trong bụng mẹ đi nữa, cũng sẽ cần đến việc thay cạnh sườn ở tuổi dậy thì và có thể sẽ có quái lạ về tuổi tác ở tuổi 20.
Đó là lý do tại sao sức khỏe của con Dolly này là vấn đề rất quan trọng và tại sao các khoa học gia trên thế giới đang chờ kết quả của cuộc hậu tử nghiệm nó. Chính giáo sư Wilmut năm ngoái đã nói là triệu chứng phong thấp của con cừu này cho thấy kỹ thuật tạo sinh sao bản của ông “chưa hiệu nghiệm” và cần phải thử nghiệm hơn nữa. Thi thể của con cừu này có thể sẽ được trưng ở Bảo Tàng Viện Quốc Gia Tô Cách Lan. Ở Hiệp Vương Quốc, luật cho phép được tạo sinh sao bản cloning phôi thai bào con người để trị liệu mà thôi, chứ không được tạo sinh sao bản thành con người.
Vấn đề tạo sinh ngoại nhiên phi tính dục cloning bị chống đối gay gắt tại Đức
Theo tin của Màn Điện Toán Zenit ngày Chúa Nhật 19/1/2003 ghi nhận ở Bá Linh Đức thì các nhân vật chính trị, y khoa và giáo quyền đang lần lượt lên tiếng chống lại vấn đề tạo sinh ngoại nhiên phi tính dục cloning, cho dù chính quyền đã thông báo về cuộc hội nghị quốc tế để bàn đến việc cấm thực hiện phương pháp này. Cuộc hội nghị này sẽ được tổ chức ở Bá Linh vào Tháng Năm tới đây. Thủ Tướng Gerhard Schroder thuộc Đảng Xã Hội Dân Chủ chống lại việc tạo sinh phi tính dục sản sinh nhưng lại ủng hộ vấn đề này nếu nó được thực hiện với mục đích trị liệu.
Hiện nay việc chống lại với bất cứ hình thức tạo sinh phi tính dục cloning nào đang tiến đến chỗ thành lập một mối thắt kết chưa hề thấy nơi các phe Kitô hữu và the Greens. Phe the Greens là liên minh với Đảng Xã Hội Dân Chủ trong chính quyền. Tuần vừa qua Hiệp Hội Y Khoa Đức đã tự loan báo về vấn đề này bằng một câu phát biểu như sau: “Chúng tôi ủng hộ những nỗ lực của chính quyền liên bang tiến đến chỗ cấm tạo sinh phi tính dục cloning trên quốc tế”. Bác sĩ chủ tịch hiệp hội này là Jorg-Dietgrich Hoppe đã nói: “Chúng tôi ủng hộ việc hoàn toàn cấm chỉ việc tạo sinh phi tính dục cloning, kể cả việc được gọi là để trị liệu đi nữa”. Đức Giám Mục Gebhard Furst giáo phận Rottenburg-Stuttgart, một thành viên của Hội Đồng Đạo Lý Toàn Quốc, đã lên tiếng như sau: “Cần phải cấm chỉ việc tạo sinh phi tính dục, cả để sản sinh lẫn trị liệu… Việc tạo sinh phi tính dục để trị liệu không có liên hệ gì tới vấn đề trị liệu cả mà chỉ được sử dụng để nghiên cứu mà thôi”.
Văn Phòng Phò Sự Sống của Các Đức Giám Mục Hoa Kỳ ủng hộ dự luật cấm tất cả mọi cuộc tạo sinh phi tính dục cloning
Bà giáo sư luân lý sinh học ở Đại Học Wiscolnsin là Alta Charo đã cho CNN biết về hậu quả gây ra bởi những lời công bố của hãng Clonaid liên quan đến hai bé gái do họ cho vào đời bằng phương pháp tạo sinh phi tính dục, rằng những lời công bố tạo sinh kiểu phi tính dục này có thể sẽ dẫn đến chỗ giới hạn việc nghiên cứu vấn đề trị liệu kiểu tạo sinh phi tính dục. Thật vậy, vào ngày 8/1/2003 Thứ Tư tuần vừa rồi, một dự luật đã được đưa ra bởi hai vị Dân Biểu là Dave Weldon, thuộc đảng Cộng Hòa ở Florida, và Bart Stupak, thuộc đảng Dân Chủ ở Michigan.
Bà Cathleen Cleaver, phát ngôn viên của Văn Phòng Phò Sự Sống của các vị giám mục đã phát biểu như sau: “Trừ phi Quốc Hội mau tỏ thái độ, bằng không những nhóm tạo sinh phi tính dục cloning ẩu tả như nhóm giáo phái Raelian có thể theo đuổi những mục tiêu quái dị ở xứ sở chúng ta. Cũng có thể chống cả việc tạo sinh phi tính dục cloning cho vấn đề nghiên cứu nữa. Những nhà nghiên cứu vô trách nhiệm ở Massachusetts, California và các nơi khác có ý tạo sinh kiểu phi tính dục hàng loạt con người để sử dụng làm nguồn chất liệu cho việc nghiên cứu”.
Dự án của giáo phái Raelian bị đa số lên án, một phần là vì 95% nỗ lực của họ trong việc làm này không thành công, tức là những trẻ em được tạo sinh kiểu ấy bị chết trước khi sinh hay bị biến dạng rùng rợn. Một số dự thảo từ địa điểm tạo sinh cloning nghiên cứu bao gồm cả việc để cho vật tạo sinh phát triển nhiều tuần lễ trước khi bị giết chết.
Cái mỉa mai ở đây là việc tạo sinh cloning để nghiên cứu cần đến một mức độ tử vong 100% khi còn trong trứng nước. Để làm cho việc tạo sinh con người theo phương pháp phi tính dục thì người phụ nữ phải cung cấp một đống trứng bởi một tiến trình lấy ra gây đau đớn và nguy hiểm cho sức khỏe. Việc biến người phụ nữ thành những hãng cung cấp trứng cho việc nghiên cứu là một chủ trương hoàn toàn đáng ghê tởm”.
Thế Giới Sôi Nổi Trước Lời Tuyên Bố về Con Người đầu tiên được tạo sinh sao bản cloning
Tòa Thánh với Việc Công Bố Về Bé Sơ Sinh Bởi Phương Pháp Tạo Sinh Vô Tính Dục Cloning
Vị giám đốc văn phòng báo chí của Tòa Thánh là tiến sĩ Joaquín Navarro-Valls hôm Thứ Bảy 28/12/2002 đã nói rằng: “việc loan báo không có bằng cớ này đã gây ra tình trạng ngờ vực và khiến phần lớn cộng đồng khoa học quốc tế phải lên tiếng phản đối về phương diện luân lý. Bà giám đốc Brigitte Boisselier của hãng tạo sinh phi tính dục Clonaid và vị “giám mục” của giáo phái Raelian đã nói trong một cuộc họp báo ở Orlando, Florida rằng bé sơ sinh “Evà” này được sinh ra vào ngày 26/12/2002 tại phòng mổ.
Tổ chức Clonaid bắt nguồn ở Las Vegas Navada này được thành lập vào năm 1997 bởi một tay đua xe người Pháp đã đổi tên của mình thành Rael và bắt đầu giáo phái Raelian, một giáo phái tin rằng sự sống trên mặt đất này được tạo nên bởi các khoa học gia ngoài trái đất này. Theo lời loan báo của họ, một lời loan báo không được cộng đồng khoa học gia tin tưởng, thì bé gái sơ sinh này được tạo sinh phi tính dục từ một người mẹ 31 tuổi có chồng nhưng không thể có con. Nhóm giáo phái này còn cho biết sẽ có 4 bé sơ sinh kiểu này sẽ vào đời trong vòng 30 ngày nữa.
Bà giám đốc Boisselier cho biết “chúng tôi sẽ chờ cuộc sinh sản thứ năm trước khi tuyên bố là chúng tôi đã thành đạt về khoa học”. Nhóm này cho biết Evà được sinh ra ở một nơi kín “ngoài Hoa Kỳ”. Việc kiểm chứng biến cố tạo sinh phi tính dục này được tổ chức Clonaid ủy thác cho một nhóm khoa học gia tên tuổi còn giữ kín. Nhóm khoa học gia này, như bà Boisselier cho biết, được điều hợp bởi Michael Guillen, nguyên tín viên về khoa học cho chương trình “Good Morning America” của Đài Truyền Hình ABC. Ông Guillen nói “trong vòng 8 hay 9 ngày là cùng, chúng tôi sẽ biết kết quả”, và cho biết thêm là chất di truyền DNA của bé Evà sẽ được đối chiếu với chất DNA của mẹ em để chứng thực việc tạo sinh vô tính dục này.
Đức Giám Mục Elio Sgreccia, phó chủ tịch Học Viện Tòa Thánh Về Sự Sống, phát biểu trên Đài Phát Thanh Vatican là: “Tuy nhiên, cho dù có xẩy ra thực sự như thế, tôi cũng coi nó là một vấn đề hệ trọng, vì việc tạo sinh phi tính dục, được gọi là phương pháp trị liệu vô tính dục, là tiêu biểu cho những gì hoàn toàn đoạn tuyệt đối với nhân loại”. ĐGM Sgreccia đã diễn tả việc loan báo này như là một “tội ác phạm đến nhân loại, vì nó áp đặt lên một thứ nô lệ, một biến đổi cá nhân con người thànhđối tượng của một thứ trò chơi và của một cuộc sản xuất quái dị”. ĐGM này nhấn mạnh là việc bênh vực nhân loại phải được bắt đầu nơi luật lệ, “một luật lệ có hiệu lực và có quyền sửa trị những vi phạm”. ĐGM còn thêm: “Cần phải có một giới hạn không được ai vượt qua. Nó không phải là một thứ giới hạn của một tính chất liên quan đến văn hóa về ý hệ. Nó là một thứ giới hạn về nhân tính. Tôi nghĩ rằng những cơ cấu lập pháp, cả ở cấp độ quốc gia lẫn quốc tế, từ Khối Hiệp Nhất Âu Châu đến Tổ Chức Liên Hiệp Quốc, cần phải có một quan niệm và vị thế rõ ràng và tác hiệu”.
Ông Domenico Di Virgilio, chủ tịch Hiệp Hội Bác Sĩ Công Giáo Ý, cảnh giác về phương pháp tạo sinh vô tính dục, một phương pháp cho đến nay đã cho thấy những vấn đề trầm trọng nơi các loài có vú. Ông giải thích là trước khi con cừu Dolly được tạo sinh vô tính dục đã có 272 cuộc thử nghiệm “cho thấy gặp phải trục trặc về kỹ thuật”. Ngoài ra, vị này còn cho biết, loài vật, ở vào thời gian 3 năm, tỏ ra có những dấu hiệu ở vào thời gian 14 năm. Điều này “cho thấy rằng có một cái gì đó chúng ta không biết làm cách nào có thể kiểm chế hay điều khiển một cách cụ thể hay đúng đắn”.
Ở Hoa Kỳ, Ban Quản Trị Thực Phẩm Và Y Dược, một tổ chức đã chấp thuận tất cả mọi thí nghiệm có mục đích y khoa, đã bắt đầu thực hiện việc điều tra sau lời loan báo của bà Boisselier. Các quốc gia như Hiệp Vương Quốc Great Britian, Đức, Do Thái và Nhật Bản đã ra những khoản luật cấm chỉ việc sao bản hữu thể con người.
Một cuộc hạ sinh phi tính dục thứ hai sẽ được thực hiện vào Chúa Nhật 5/1/2003 ở Âu Châu và những lẩn quẩn về đứa bé Evà
Trong khi cả thế giới đang hồ nghi về lời loan báo có một bé sơ sinh tên Evà mới được ra đời tuần trước vào ngày Thứ Năm 27/12/2003 vừa qua, thì bà giám đốc Brigitte Boisselier của hãng tạo sinh phi tính dục Clonaid thuộc giáo phái Raelian lại tuyên bố một hài nhi nữa sẽ được xuất hiện cùng lắm vào Chúa Nhật 5/1/2003 tại một nơi ở Âu Châu không được cho biết tên. Ngoài ra, còn 3 cặp vợ chồng nữa sẽ có con theo kiểu này vào đầu tháng Hai 2003. Còn bé Evà sinh ở một nơi ngoài Hoa Kỳ sẽ được mang đến Mỹ vào Ngày Thứ Hai 6/1/2003, nhưng vẫn chưa nắm chắc vấn đề có xẩy ra hay chăng.
Bà Clonaid này cũng cho biết sẽ lấy chất DNA của hai mẹ con này vào Thứ Ba 7/1/2003 tới đây để làm cho những ai hồ nghi được yên tâm và sẽ cho biết kết quả vào tuần sau đó. Bà Boisselier nói: “Những thử nghiệm này chưa được thực hiện. Chúng tôi phải dừng lại những thử nghiệm này”, vì cha mẹ của đứa nhỏ cảm thấy bị căng thẳng sau khi nghe thấy một vị luật sư ở Florida tuần này yêu cầu tòa án tiểu bang chỉ định một pháp nhân bảo quản đứa bé. “Hiện nay cha mẹ này nói với tôi rằng họ cần 48 tiếng đồng hồ để quyết định có cần làm những thử nghiệm này hay chăng. Họ đã về nhà và chỉ muốn yên vui một lúc với đứa nhỏ mà thôi. Có lẽ đứa nhỏ thứ hai sẽ dễ dàng hơn vì xẩy ra ở Âu Châu và ở một xứ sở mà em trai hay gái này được ra đời ít phản ứng hơn. Ðiều này sẽ xẩy ra trong tuần này”.
Trong khi đó, vị lãnh đạo phong trào Raelian hôm Thứ Ba 31/12/2002 cho biết ông đã bảo vị bác sĩ phụ trách việc làm này không thực hiện bất cứ thử nghiệm DNA nào về đứa bé. Ông nói ông quyết định như vậy là vì “một vị quan tòa ở Florida đã ký giấy ra lệnh bé Evà phải được đưa ra khỏi gia đình, khỏi người mẹ”. Tuy nhiên, không có chuyện như vậy xẩy ra ở Florida. Chỉ có chuyện là một vụ kiện do luật sư Bernard Siegel thực hiện và ngày ra tòa được ấn định vào 22/1/2003 ở Broward County Circuit Court, vì vị luật sư này muốn tòa chỉ định một pháp nhân bảo quản cho đứa bé được tuyên bố do bởi phương pháp tạo sinh phi tính dục cloning này. Nếu người mẹ không ra hầu tòa thì tòa án có thể truyền lấy đứa nhỏ đi. Tuy nhiên, tòa án cũng có thể không đưa ra quyết định nào nếu không có thẩm quyền về vụ này.
Luật sư Siegel nói những lời lẽ của giáo phái Rael dường như cho thấy rằng “họ không có câu trả lời trước luật pháp là những gì cho tôi thây rằng đó là một tổ chức bày tạo. Tôi muốn tất cả những gì về đứa nhỏ này phải được công bố”. Vị lãnh đạo phong trào Raelian này cho CNN biết là ông đã nói với bà Boisselier rằng “nếu xẩy ra chuyện đứa nhỏ bị đưa ra khỏi gia đình thì thà mất đi uy tín của bà thì hơn. Tôi nghĩ rằng bà ta đồng ý với tôi như vậy”. Nhóm này đã không trả lời tức khắc cho những cú điện thoại của CNN hôm Thứ Năm 2/1/2003 vừa rồi. Tay làm đầu nhóm đã trả lời câu hỏi dân chúng có cơ hội để sớm trông thấy đứa bé này hay chăng là “tôi không nghĩ như vậy”. Ðược hỏi là nhóm của ông ta có phải đang chỉ muốn lôi kéo chú ý của dân chúng hay chăng thì ông đã trả lời qua hệ thống vệ tinh Canada rằng ông bị trục trặc kỹ thuật về bộ phận thụ thính của ông: “Tiếc quá, âm thanh quá xấu đi. Tôi không thể nghe thấy gì cả”.
Các Chuyên Gia tạo sinh phi tính dục nhận định về những lời công bố của tổ chức Clonaid
Bà giám đốc hãng Clonaid là Brigitte Boisselier, một giám mục giáo phái Raelian kiêm hóa học gia người Pháp, cho hãng thông tấn Reuter hôm Thứ Bảy 4/1/2003, biết một đứa bé gái thứ hai của một cặp vợ chồng người Hòa Lan đã được ra đời hôm Thứ Sáu, 3/1/2002: “Tôi vừa mới nói chuyện với họ cách đây mấy tiếng và họ cảm thấy rất sung sướng, rất sung sướng. Mọi sự xẩy ra tốt đẹp, các vị bác sĩ coi sóc đứa bé nói rằng mọi sự tốt đẹp”.
Tuy nhiên, các phê bình gia cho rằng hãng Clonaid không chuyên môn về phương pháp tạo sinh phi tính dục, đồng thời cũng không có bằng cớ gì về những lời hãng này công bố, cho dù là hình ảnh của những em gái vừa ra đời. Vị lãnh đạo của tổ chức Anh Cát Lợi đã từng tạo sinh vô tính dục một u Dolly cho rằng những lời công bố ấy có thể là những lời tạo tĩnh lừa bịp. Ông Harry Griffin thuộc Viện Roslin, đã cho hãng thông tấn Reuters biết rằng “Hãng Clonaid đã công bố cho mình thực hiện được hai cuộc tạo sinh vô tính nhưng không có một chứng cớ nào về việc hiện hữu của hai em này, không có chứng cớ về những thử nghiệm chất di truyền DNA, do đó không có lý do nào tin nổi việc này ngoài việc họ muốn kéo chú ý của quần chúng thế thôi”.
Bà luân lý sinh học ở Đại Học Wiscolnsin là Alta Charo cho CNN biết giáo phái Raelian, nhóm cho rằng mình có 55 ngàn tín đồ ở Hoa Kỳ, đang đánh lừa thế giới: “Không có chứng cớ cũng chẳng có vấn đề trẻ được tạo sinh phi tính dục. Khoa học lành mạnh đâu có thực hiện kiểu như vậy. Đó là một kiểu làm xiệc của truyền thông vậy”. Tờ Thời Điểm Nữu Ước ra ngày Chúa Nhật 5/1/2003 đã tiết lộ rằng vị chủ bút về khoa học của Chương Trình Tin Tức ABC đã cố gắng bán bài viết hoàn toàn về việc tạo sinh vô tính này cho những hãng truyền thông chính nhưng không ai thèm.
Riêng Rael, nguyên là một ký giả người Pháp mang tên Claude Vorilhon, đã thành lập giáo phái Raelian, một giáo phái tin tưởng là có những kẻ lạ xuống Trái Đất cách đây 25 ngàn năm và bắt đầu giòng dõi loài người bằng đường lối tạo sinh phi tính dục. Nhà sáng lập tự xưng mình là tiên tri này cho rằng đường lối tạo sinh vô tính dục là chìa khóa dẫn tới sự sống trường sinh bất tử.
Hãng Clonaid của giáo phái Raelian cho biết có một danh sách 2 ngàn người muốn trả cho họ 200 ngàn Mỹ Kim để chính họ hay người thân của họ được tạo sinh kiểu vô tính dục, và họ đã công bố họ làm được điều này vào ngày 27/12/2002 vừa qua, với một bé gái cho người mẹ Hoa Kỳ 31 tuổi. Bà giám đốc của hãng Clonaid nói rằng tất cả các cha mẹ đều ký hợp đồng với hãng của bà là họ sẽ trình việc thử nghiệm chất di truyền DNA để chứng thực những lời công bố của hãng bà: “Quí vị cần phải hiểu rằng họ rất lo sợ về những gì đang xẩy ra hiện nay. Tôi nghĩ rằng chẳng mấy chốc họ sẽ làm việc này, nhưng chúng ta không thể nào biết được”.
Bà Charo trên đây nói rằng cuộc thử nghiệm ấy sẽ không gây nguy hiểm cho đứa nhỏ: “Đây có thể là vấn đề tìm cách thoát khỏi khối quần chúng mà họ đã đâm đầu vào. Người ta không dại gì chủ trương một điều không chắc rồi bảo rằng sau này sẽ có chứng cớ, sau đó cứ từ chối dân chúng cơ hội để chứng tỏ lời công bố của mình. Đó không phải là khoa học. Đó càng không phải là tính cách thông tin lành mạnh hay là những mối liên hệ công cộng”.
Phần bà Boisselier giám đốc hãng Clonaid tỏ ra không quan trọng hóa vấn đề uy tín của mình khi phát biểu như sau: “Có nhiều khoa học gia bảo tôi rằng tôi khùng khi tin vào thuyết Raelian về nguồn gốc sự sống. Uy tín của tôi đã bị hủy hoại cả 5 năm nay rồi. Bởi vậy nếu nó có bị hủy hoại trong vòng 5 hay 6 tháng nữa đối với tôi cũng có sao đâu”.
Bà Charo nói rằng những lời công bố tạo sinh kiểu phi tính dục này có thể sẽ dẫn đến chỗ giới hạn việc nghiên cứu vấn đề trị liệu kiểu tạo sinh phi tính dục: “Chúng ta thấy các phần tử Quốc Hội đã phải viết những bài xã luận ở tờ USA Today hay phát biểu qua báo chí. Họ có dự định đẩy mạnh việc lập luật vượt ra ngoài cả những gì chúng ta cần, liên quan tới việc sản sinh vô tính dục, cũng như tiến đến chỗ bãi bỏ việc nghiên cứu cùng một kỹ thuật mà không đem lại kết quả gì”.
Vị sáng lập giáo phái Raelian thú nhận rằng việc công bố về vấn đề tạo sinh sao bản có thể là sai
Claude Vorilgon, vị sáng lập giáo phái Raelian đã tỏ ra vui mừng về việc nhóm của ông đã tung tin kéo được sự chú ý của quần chúng gần đây và đã thú nhận là những công bố về việc tạo sinh sao bản phi tính dục này có thể là sai.
Hôm Chúa Nhật 19/1/2003, tại Montreal Canada, vị này đã nói với 300 môn đồ của mình rằng: “Dù đúng hay sai thì giáo phái Raelian cũng đã được cả thế giới biết đến rồi”. Về bà giám đốc hãng Clonaid của giáo phái này, thì vị sáng lập này đã nói: “Nếu Brigitte Boisselier đã thực hiện việc tung tin này thì bà đã làm một điều tuyệt vời, đáng được giải thưởng Nobel. Nếu điều tung tin ấy không đúng thì nó cũng là một thứ diễu cợt về khoa học rất là hay ho, dầu sao nó cũng giúp cho chúng ta chuyên chở được sứ điệp của chúng ta muốn nói đến với toàn thể thế giới. Tôi xin đời đời cám ơn Brigitte về việc này, mà một khi tôi nói là đời đời thì tôi cố ý nói thật sự như vậy”.
Tòa Thánh Ngỏ Lời tại Liên Hiệp Quốc về Việc Loại Trừ Tất Cả Mọi Thứ Tạo Sinh Con Người Theo Kiểu Phi Tính Dục
Trước Ủy Ban Chuyên Ðề của Liên Hiệp Quốc về Hội Nghị Quốc Tế Chống Lại Việc Sản Sinh Con Người Theo Kiểu Phi Tính Dục, ĐTGM Renato Martino, vị lãnh sự kiêm quan sát viên thường trực của Tòa Thánh tại Liên Hiệp Quốc, đã ngỏ lời tại Liên Hiệp Quốc hôm Thứ Hai 23/9/2002 như sau:
Cám ơn Ngài Chủ Tịch,
Chủ trương của Tòa Thánh chúng tôi đã quá rõ ràng. Tòa Thánh ủng hộ và thúc giục việc hủy bỏ toàn diện và toàn cầu việc tạo sinh phôi thai bào con người theo kiểu phi tính dục cho cả vấn đề sản sinh lẫn khoa học. Việc tạo sinh phôi thai bào con người theo kiểu phi tính dục, cho dù được thực hiện nhân danh một thứ nhân loại tốt hơn, vẫn là một việc làm nhục đến phẩm giá của con người. Việc tạo sinh phôi bào con người theo kiểu phi tính dục là việc phản lại tính dục con người và biến sự sống con người thành một thứ đồ vật.
Như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gần đây có nói: “Sự sống của con người không thể bị coi như là một đồ vật chúng ta muốn làm gì thì làm, nhưng là một thực tại trần gian linh thánh nhất bất khả vi phạm. Không thể nào có hòa bình nếu không biết bảo vệ sự thiện căn bản nhất. Chúng ta phải thêm vào (bản liệt kê các thứ bất chính trên thế giới) những thực hành vô trách nhiệm về kỹ thuật di truyền, như kỹ thuật tạo sinh phi tính dục và kỹ thuật sử dụng phôi thai bào con người để nghiên cứu, những việc được biện minh một cách phi lý khi nại vào quyền tự do, vào tiến bộ văn hóa, vào bước tiến của loài người. Khi thành phần hèn kém nhất và những phần tử dễ bị tổn thương nhất trong xã hội bị lạm dụng bởi những hành động gian ác như thế, thì chính quan niệm về gia đình nhân loại, được căn cứ vào giá trị về con người, vào sự tin tưởng, tôn trọng và nâng đỡ nhau, đang bị hư hoại một cách khủng khiếp. Một thứ văn minh được xây dựng trên yêu thương và hòa bình cần phải chống lại những thứ thí nghiệm bất xứng với con người ấy” (World Day of Peace Message, 1 January 2001, No. 19).
Theo trạng thái về sinh học và nhân loại học của phôi thai bào con người, cũng như theo qui tắc luân lý và dân sự tối yếu thì thật là bất hợp pháp khi sát hại một con người vô tội cho dù có mang lại một thiện ích nào đó cho xã hội đi nữa.
Tòa Thánh coi việc phân biệt giữa vấn đề tạo sinh “sản xuất” theo kiểu phi tính dục và cái được gọi là “trị liệu” (hay “thí nghiệm”) theo kiểu phi tính dục là bất khả chấp. Việc phân biệt này ẩn dưới chiếc mặt nạ thực tại của việc tạo nên một hữu thể con người với mục đích để hủy diệt con người nam hay nữ này đi, nhờ đó sản xuất ra hàng loạt tế bào thân phôi thai hay nhờ đó giúp cho các cuộc thí nghiệm khác. Cần phải ngăn cấm việc tạo sinh phôi thai bào con người theo kiểu phi tính dục trong tất cả mọi trường hợp, bất kể với mục đích gì.
Tòa Thánh ủng hộ việc nghiên cứu những tế bào thân được bắt nguồn sau khi sinh, vì phương pháp này, như đã được chứng tỏ bởi hầu hết các cuộc nghiên cứu khoa học gần đây, là một đường lối lành mạnh, hứa hẹn và hợp với luân thường đạo lý trong việc đạt được việc thay mô thịt và việc trị liệu tế bào là những gì có thể mang lại lợi ích cho nhân loại. Như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: “Ở bất cứ trường hợp nào, bao giờ cũng cần phải tránh các phương pháp (khoa học) không biết tôn trọng phẩm giá và giá trị của con người. Tôi đang đặc biệt nghĩ đến những nỗ lực tạo sinh con người theo kiểu vô tính dục để lấy các bộ phận dùng vào việc thay cơ phận: những kỹ thuật này, nếu dính dáng đến việc lạm dụng và hủy hoại các phôi thai bào, đều là những gì vô luân bất khả chấp, cho dù mục đích của nó tự bản chất là tốt. Chính khoa học còn cho thấy những hình thức khác nơi việc ra tay trị liệu không dính dáng gì tới việc tạo sinh phi tính dục hay tới việc sử dụng các tế bào phôi thai bào, nhưng sử dụng những tế bào thân được lấy từ người lớn. Đó là chiều hướng đòi việc nghiên cứu phải theo, nếu nó muốn tôn trọng phẩm giá của mỗi một con người cũng như của hết mọi con người, cho dù họ còn đang ở trong tình trạng phôi thai bào” (Address of Pope John Paul II to the 18th International Congress of the Transplantation Society, 29 August, 2000, No. 8).
Việc tạo sinh phôi thai bào con người theo kiểu phi tính dục, được thực hiện cho việc nghiên cứu y khoa sinh học hay cho việc sản xuất ra những tế bào thân, là những việc góp tấn công phẩm giá và tính cách nguyên vẹn của hữu thể con người. Việc tạo sinh một phôi thai bào con người theo kiểu phi tính dục, với mục đích hủy hoại nó đi, sẽ trở thành một guồng máy cố tình hủy hoại sự sống con người đang hình thành một cách có phương pháp, nhân danh một “sự thiện” vô danh của việc trị liệu khả dĩ hay của việc khám phá khoa học. Chủ trương này đáng ghê tởm đối với hầu hết con người ta, bao gồm cả những ai biện hộ một cách thích đáng cho việc tiến bộ về khoa học và y học. Vì việc tạo sinh phôi thai bào con người theo kiểu phi tính dục làm phát sinh ra một sự sống con người mới, không phải cho một tương lai nở hoa nhân bản, mà là cho một tương lai đâm đầu vào làm tôi đòi và chắc chắn sẽ bị hủy diệt, nó là một tiến trình không thể biện minh bởi lập luận là nó có thể giúp cho những hữu thể con người khác. Việc tạo sinh phôi thai bào vi phạm đến những tiêu chuẩn trọng yếu của luật về các quyền lợi con người.
Từ năm 1988, càng ngày càng thấy xẩy ra hai tình trạng chia lìa cả thể trên hoàn cầu: tình trạng chia lìa thứ nhất là hiện tượng bần cùng và kỳ thị xã hội thê thảm hơn bao giờ hết, và tình trạng chia lìa thứ hai, gần đây hơn và ít bị lên án hơn, liên quan đến thai nhi, được sử dụng như một thứ đồ để thí nghiệm cũng như cho vấn đề thực hiện kỹ thuật (như những kỹ thuật sản sinh nhân tạo, kỹ thuật sử dụng ‘các phôi thai bào dư thừa’ (superfluous embryos), được gọi là kỹ thuật tạo sinh trị liệu theo kiểu phi tính dục v.v). Ở đây chúng ta thấy hiện lên cái nguy cơ của một hình mới về chủ nghĩa nòi giống, vì việc phát triển những thứ kỹ thuật này có thể tiến đến chỗ tạo nên ‘một loại hữu thể con người phụ cấp’, chính yếu nhắm đến thiện ích của một số những con người khác. Điều này sẽ là một hình thức nô lệ mới mẻ và ghê gớm. Tiếc thay người ta lại không thể phủ nhận là khuynh hướng tạo sinh cải giống này (eugenics) vẫn còn ngấm ngầm, nhất là khi nó được các lợi lộc thương mại khai thác. Các chính quyền và cộng đồng khoa học cần phải hết sức lưu tâm chú ý tới lãnh vực này” (Holy See's Contribution Against Racism, Racial Discrimination, Xenophobia and Related Intolerance-Durban, South Africa, 31 August to 7 September 2001, No. 21).
Từ ngày thành lập Tổ Chức Liên Hiệp Quốc, không ai còn hồ nghi gì về hoạt động của tổ chức này đặt trọng tâm vào tình trạng phúc hạnh và bảo vệ toàn thể con người. Việc bảo toàn những thế hệ hiện tại và sau này của nhân loại, cùng với tình trạng thăng tiến các thứ quyền lợi của con người là vấn đề trọng yếu cho hoạt động của tổ chức Liên Hiệp Quốc. Bản Tuyên Ngôn Chung Nhân Quyền lập đi lập lại tính cách thánh hảo của tất cả mọi sự sống con người, cũng như đến nhu cầu bắt buộc phải bảo vệ sự sống khỏi bị thiệt hại.
Về khía cạnh này, Khoản Thứ 3 của Bản Tuyên Ngôn chủ trương rằng hết mọi người đều có quyền sống. Nhờ sự sống mới phát sinh hy vọng cho tương lai, một niềm hy vọng được Bản Tuyên Ngôn Chung này bảo vệ bằng việc nhìn nhận rằng tất cả mọi con người đều bình đẳng về phẩm giá và quyền lợi. Có quyền sống con người mới sống tự do và an ninh. Để bảo đảm tình trạng ấy, Bản Tuyên Ngôn Chung đã xác nhận là mỗi một con người là một thực thể có một tương lai mang đầy hy vọng được quyền quyết định lấy cho mình, những gì cần phải được bảo toàn. Để tiến đến mục tiêu này thì những thứ làm hạ cấp bất cứ một con người nào xuống tình trạng nô lệ, cũng như những việc chối bỏ các quyền lợi căn bản để họ có thể sống và tự quyết đều đáng trách và bất khả chấp.
Bất kể với mục đích nào đi nữa thì việc tạo sinh phôi thai bào con người theo kiểu phi tính dục cũng xung khắc với các qui tắc pháp lý quốc tế trong việc bảo vệ phẩm giá con người. Luật quốc tế bảo vệ quyền sống cho tất cả mọi người, chứ không phải chỉ cho một số người nào đó. Việc dễ dàng tạo nên các hữu thể con người để bị hủy hoại, việc chủ ý tiêu hủy những hữu thể con người được tạo sinh theo kiểu vô tính dục này một khi đạt được mục tiêu nghiên cứu, việc đẩy hữu thể con người đến chỗ hiện hữu trong một tình trạng làm tôi hay nô lệ ngoài ý muốn, và việc tự ý thực hiện những cuộc thí nghiệm hữu thể con người theo y khoa và sinh học, đều là những hành động sai trái và bất khả chấp về luân lý.
Việc tạo sinh phôi thai bào con người theo kiểu phi tính dục cũng gây ra một đe dọa trầm trọng cho cả qui tắc của luật lệ nữa, bằng việc để cho những ai phụ trách việc tạo sinh theo kiểu phi tính dục này chọn lựa và truyền bá một số những đặc tính của con người theo phái tính, chủng loại v.v., cùng với việc họ loại trừ đi những đặc tính khác. Điều này dính dáng đến việc thực hiện tạo sinh cải giống dẫn đến chỗ tạo nên một thứ “siêu chủng” (super race), cũng như đến chỗ không thể tránh được tình trạng kỳ thị đối với những ai sinh vào đời theo tiến trình tự nhiên.
Việc tạo sinh phôi thai bào con người theo kiểu phi tính dục cũng chối bỏ những ai được hiện hữu cho những mục tiêu nghiên cứu, các thứ quyền lợi quốc tế liên quan đến đường lối khiếu nại theo luật pháp và được luật pháp bảo vệ một cách bình đẳng. Ngoài ra, cũng cần phải nhớ rằng, việc thực hành về phương diện quốc gia cũng như việc tiến đến những thỏa ước từng miền đã nhìn nhận rằng việc tạo sinh phôi thai bào con người theo kiểu phi tính dục được thực hiện cho bất kỳ mục đích nào cũng đều trái với qui tắc của lề luật.
Thưa Ngài Chủ Tịch, chúng ta cần phải nhớ rằng hết mọi tiến trình liên quan đến việc tạo sinh phôi thai bào con người theo kiểu phi tính dục tự nó là một tiến trình sản xuất làm phát sinh ra một hữu thể con người ở vào ngay thời điểm phát triển của họ, tức là làm phát sinh ra một tế bào con người phôi thai vậy.
Xin cám ơn Ngài Chủ Tịch.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ tài liệu của Holy See Mission được Màn Điện Toán Zenit phổ biến ngày 24/9/2002)
Bài Diễn Văn của Tổng Thống Bush về việc ban hành đạo luật cấm chỉ việc tạo sinh con người theo kỹ thuật phi tính dục.Tổng Thống Bush, vào ngày 10/4/2002, qua một bài diễn văn với một nhóm người ở Tòa Bạch Ốc, đã yêu cầu Thượng Viện cấm chỉ tất cả mọi thứ tạo sinh con người theo phương pháp phi tính dục cloning.
…
Tất cả chúng ta ở đây hôm nay đều tin tưởng vào cái hứa hẹn của ngành y khoa tân tiến. Chúng ta hy vọng sẽ đến nơi khoa học có thể dẫn chúng ta tới. Và chúng tôi cũng ở đây hôm nay vì chúng ta tin vào những nguyên tắc của y khoa theo luân thường đạo lý.Khi chúng ta tìm cách cải tiến sự sống con người, chúng ta bao giờ cũng phải bảo trì phẩm giá con người. Bởi thế, chúng ta phải ngăn ngừa việc tạo sinh con người theo phương pháp phi tính dục cloning bằng việc chặn đứng nó trước khi nó bắt đầu…
Chúng ta đang sống ở một thời điểm của tiến bộ kinh khủng về y khoa. Hơn một năm trước đây chút xíu, các khoa học gia đã bắt đầu hé mở được cái mật mã về di chất con người, một trong những tiến bộ quan trọng nhất trong lịch sử khoa học. Các khoa học gia cũng đang chế tạo ra một thứ dụng cụ định bệnh mới để mỗi một người trong chúng ta có thể biết mình bị bệnh tật nguy hiểm mà phòng ngừa chúng.
Một ngày không lâu nữa, những trị liệu chính xác sẽ được thực hiện thích hợp cho việc cải tiến di chất riêng của chúng ta. Chúng ta đang ở trước ngưỡng cửa lịch sử chống phá những chứng liệt kháng AIDS, Alzheimer, ung thư và tiểu đường, tim mạch và Parkinson. Đó là những gì tốt đẹp không thể tưởng tượng nổi.
Thời đại của chúng ta trong giòng lịch sử được coi là một thời đại của y khoa về di chất, một thời đại chế ngự được những chứng bệnh ghê rợn nhất.
Thời đại của chúng ta cũng phải tỏ ra cho thấy việc chú ý, hạn chế và trách nhiệm chúng ta cần phải có đối với những khả năng mới này của khoa học.Những phát minh nơi kỹ thuật của ngành sinh học y khoa không bao giờ được thực hiện bất chấp lương tri con người. Khi chúng ta tìm cách làm những gì có thể, chúng ta luôn phải biết những gì là đúng đắn, và chúng ta không được quên rằng cho dù chúng ta có theo đuổi những mục đích cao quí nhất chúng cũng không biện minh cho bất cứ phương tiện nào chúng ta sử dụng.
Khoa học đặt ra trước mắt chúng ta những quyết định mang lại hậu quả to tát. Chúng ta có thể theo đuổi việc nghiên cứu y khoa bằng một cảm quan rõ ràng liên quan đến mục đích luân lý, hay chúng ta tiến bước trong một thế giới chúng ta sống chỉ để hối hận, vì trong tay không có địa bàn luân thường đạo lý. Khoa học giờ đây đang đẩy mạnh vấn đề tạo sinh con người theo phương pháp phi tính dục cloning. Chúng ta giải đáp vấn đề tạo sinh con người theo phương pháp phi tính dục cloning ra sao để đi theo con đường này hay con đường kia đây.
Việc tạo sinh con người theo phương pháp phi tính dục cloning là việc sản xuất trong phòng thí nghiệm những cá nhân con người về di chất hoàn toàn đồng nhất với một hữu thể con người khác. Việc tạo sinh con người theo phương pháp phi tính dục cloning này đạt được bằng việc cho di chất của một người hiến bào vào trứng của một người phụ nữ không còn nhân trung. Kết quả xẩy ra là một phôi thai bào mới hay được tạo sinh phi tính dục trở thành một bản sao y hệt của người hiến bào. Việc tạo sinh con người theo phương pháp phi tính dục cloning đã tiến từ chỗ khoa học giả tưởng đến khoa học.
Một hãng kỹ thuật sinh học đã bắt đầu thực hiện việc tạo sinh con người theo phương pháp phi tính dục cloning với mục đích để nghiên cứu. Các khoa học gia Trung Hoa đã tạo ra được những tế bào thân từ các phôi thai bào được tạo sinh kiểu phi tính dục, bằng việc kết hợp chất di truyền DNA của con người với trứng của loài thỏ. Những hãng khác đã loan báo về các dự án sản xuất ra những đứa bé theo kiểu tạo sinh phi tính dục cloning này, cho dù có xẩy ra sự kiện là việc tạo sinh phi tính dục trong phòng thí nghiệm về loài vật đã tạo nên những cuộc tự động phá thai cùng với những cái dị thường kinh hoàng khiếp đảm.
Việc tạo sinh con người theo phương pháp phi tính dục cloning thật sự làm cho tôi cũng như cho hầu hết người Hoa Kỳ cảm thấy rùng mình. Sự sống là một tạo vật chứ không phải là một đồ vật. Con cái của chúng ta là tặng ân cần phải được yêu quí và bảo vệ, chứ không phải là những sản vật được phác họa và sản xuất. Cho phép thực hiện việc tạo sinh con người theo phương pháp phi tính dục cloning sẽ là một bước quan trọng tiến đến một xã hội mà hữu thể của con người trở thành những phần cơ thể dư thừa, và trẻ con được kiến tạo cho những chuyên biệt tùy ý; đó là những gì không thể nào chấp nhận được.
Trong cuộc tranh luận hiện này về việc tạo sinh con người theo phương pháp phi tính dục cloning có hai từ ngữ được sử dụng đến, đó là từ ngữ tạo sinh phi tính dục sản sinh (reproductive cloning) và từ ngữ tạo sinh phi tính dục nghiên cứu (research cloning). Tạo sinh phi tính dục sản sinh là ở chỗ tạo sinh phi tính dục một phôi thai bào và cấy nó vào một người phụ nữ với mục đích để sinh ra một đứa bé. May mắn thay, gần như mọi người Hoa Kỳ đều đồng ý rằng việc làm này cần phải được cấm chỉ. Tạo sinh phi tính dục nghiên cứu, trái lại, ở tại việc tạo sinh phi tính dục một phôi thai bào con người để rồi hủy diệt nó đi hầu tạo nên những tế bào thân.
Tôi tin rằng tất cả mọi thứ tạo sinh con người theo phương pháp phi tính dục cloning đều là những gì sai quấy, và cần phải cấm đoán cả hai hình thức này, vì những lý do sau đây. Lý do thứ nhất đó là những gì thực hiện vượt ra ngoài mức cấm chỉ hoàn toàn không được tạo sinh con người theo phương pháp phi tính dục cloning đều là vô luân. Việc tạo sinh phi tính dục để nghiên cứu phản nghịch với nguyên tắc trọng yếu nhất của nền đạo lý y khoa, đó là không được phép khai thác hay dập tắt bất cứ một sự sống con người nào cho thiện ích của kẻ khác.
Tuy nhiên, luật nào cho phép việc tạo sinh phi tính dục để nghiên cứu, mà lại cấm không cho phép sản sinh một con trẻ được tạo sinh theo kỹ thuật phi tính dục, cũng cần phải tiến đến chỗ hủy hoại sự sống mới chớm nở của con người. Thứ hai, tất cả những gì vượt ra ngoài mức cấm chỉ hoàn toàn không được tạo sinh con người theo phương pháp phi tính dục thực sự sẽ không thể nào kiểm soát nổi. Những phôi thai bào con người được tạo sinh theo kỹ thuật phi tính dục cloning để nghiên cứu sẽ đầy giẫy nơi các phòng thí nghiệm cũng như các nơi trồng cấy phôi thai bào. Một khi sẵn có những phôi thai bào được tạo sinh theo kỹ thuật phi tính dục sẽ đi đến chỗ cấy thai. Cho dù có những qui định chặt chẽ nhất và đưa ra qui chế ngặt nghèo đi nữa cũng không tránh khỏi hay khám phá thấy cuộc sinh sản của những thơ nhi được tạo sinh theo kỹ thuật phi tính dục cloning. Thứ ba, những thiện ích của việc tạo sinh phi tính dục để nghiên cứu là một việc rất phiêu lưu. Các người biện hộ cho việc tạo sinh phi tính dục để nghiên cứu lập luận là những tế bào thân lấy ra từ các phôi thai bào được tạo sinh theo kỹ thuật phi tính dục cloning sẽ được chủng vào một cá nhân đồng nhất về di truyền mà không gây nguy hại đến việc loại trừ mô thịt. Thế nhưng, chứng cớ lại cho thấy, căn cứ vào những nghiên cứu nơi loài vật, những tế bào được lấy từ những phôi thai bào được tạo sinh theo kỹ thuật phi tính dục cloning thật sự bị loại trừ.
Ngay cả dù cho việc tạo sinh phi tính dục để nghiên cứu có tác hiệu về y khoa chăng nữa, thì mọi người muốn hưởng lợi ích cần phải thực hiện việc tạo sinh theo kiểu phi tính dục cloning một phôi thai bào cho mình, cung cấp cho người bày vẽ những cơ sợi. Điều này sẽ tạo nên một thị trường hỗn loạn buôn bán trứng và người hiến trứng, cùng với việc khai thác thân thể của phụ nữ là những gì chúng ta không thể và không được để xẩy ra.
Tôi cương quyết chống lại việc tạo sinh con người theo kỹ thuật phi tính dục cloning. Nhưng đồng thời chúng ta sẽ theo đuổi những đường lối hứa hẹn và hợp đạo nghĩa khác trong việc làm giảm bớt thương đau nhờ kỹ thuật sinh học…
… Tôi nhất định ủng hộ một khoản luật toàn diện táát cả mọi thứ tạo sinh con người theo kỹ thuật tạo sinh phi tính dục. Tôi sẽ phê chuẩn dự luật này, hết lòng phê chuẩn dự luật ấy, một dự luật được Thượng Nghị Sĩ Brownback và Mary Landrieu bảo trợ…
Dự luật được cẩn thận soạn thảo này sẽ cấm tất cả mọi thứ tạo sinh con người theo kỹ thuật phi tính dục cloning ở Hiệp Chủng Quốc, bao gồm cả việc tạo sinh phi tính dục các phôi thai bào để nghiên cứu…
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ tài liệu của Tòa Bạch Ốc được Zenit phổ biến ngày 10/4/2002)
Quan Điểm của Tòa Thánh về Vấn Đề Tạo Sinh Con Người theo Kỹ Thuật Phi Tính Dục Cloning
Theo nguồn tin Zenit phát đi từ New York ngày 3/3/2002, Tòa Thánh Vatican đã phổ biến văn kiện về việc tạo sinh con người theo kỹ thuật phi tính dục cloning cho thấy Tòa Thánh chủ trương như thế nào về vấn đề này. Tòa Thành hoàn toàn ủng hộ việc cấm chỉ toàn diện và toàn cầu việc tạo sinh con người theo kỹ thuật phi tính dục cloning này.
Nội Dung
1. Chủ trương của Tòa Thánh
2. Bối cảnh sinh học của việc tạo sinh phi tính dục
3. Những mục đích khả dĩ của việc tạo sinh con người theo kỹ thuật phi tính dục cloning: 1) Việc tạo sinh phi tính dục những phôi thai bào con người như một cách thức để làm nên các thơ nhi; 2) Việc tạo sinh phôi thai bào con người bằng kỹ thuật phi tính dục như cách để sản xuất ra những tế bào thân; 3) Việc tạo sinh phôi thai bào con người bằng kỹ thuật phi tính dục như dụng cụ để nghiên cứu những tiến trình về di truyền và phát triển phôi thai bào
4. Việc tạo sinh con người theo kỹ thuật phi tính dục cloning bất kể với mục tiêu gì cũng nghịch lại với phẩm giá và tính cách nguyên vẹn của hữu thể con người và quyền sống của họ
5. Việc tạo sinh con người theo kỹ thuật phi tính dục cloning cho dù với mục đích gì đi nữa cũng đi ngược lại với những qui định căn bản của luật quốc tế
6. Kết luận
(Nếu cần, xin xem toàn bài bằng Tiếng Anh dưới đây. Chỉ xin trích dịch một số đoạn chính. Vì những phần khác có những ý tưởng lập lại hay trùng hợp với bài trên đây của Tòa Thánh)2. Bối cảnh sinh học của việc tạo sinh phi tính dục
Trong tương quan về ý niệm và kinh nghiệm, chữ “cloning” có những ý nghĩa khác nhau, những ý nghĩa theo những phương thức kỹ thuật khác nhau cũng như những mục đích khác nhau. Cloning tự nó liên quan đến việc sản xuất ra một thực thể sinh học đồng hóa về di truyền, hay rất giống, với thực thể nó được bắt nguồn. Từ ngữ này thường để ám chỉ:
a. Việc sản xuất ra một chất chua nhân trung (như chất DNA, RNA), một chất đạm, hay một loạt tế bào từ một sao bản duy nhất hay từ một ít sao bản của mỗi một thực thể này. Đối với riêng trường hợp sự sống thì không có vấn đề đạo lý hay pháp lý liên quan đến những tiến trình này cả.
b. Việc sản sinh, theo đường lối nhân tạo phi tính dục, của một hay hơn một vật thể sinh học thuộc về những loại sản sinh theo tính dục (như thực vật, thú vật và nhân vật). Đối với trường hợp thú vật và nhân vật, điều này có thể thực hiện hoặc bằng việc tách biệt hay phân chia một phôi thai bào (“embryo splitting”) ở vào giai đoạn mới phát triển của phôi thai bào này, hay bằng việc chuyển một nhân trung có những cặp nhiễm sắc thể giống nhau của một tế bào từ một phôi thai bào, từ một bào thai hay từ một người lớn sang một sơ bào không có nhân trung của nữ giới. Nếu thành công, sau khi sinh động, sơ bào mất nhân trung được tái cấu trúc này sẽ phát triển thành một phôi thai bào có khả năng phát triển thêm cho tới hết cỡ. Bất kể định mệnh của nó ra sao, một phôi thai bào được tạo sinh theo kỹ thuật phi tính dục là một cá thể được tạo sinh theo kỹ thuật phi tính dục của một thứ giống ấn định ở vào giai đoạn khởi đầu sự sống của nó vậy.
3. Những mục đích khả dĩ của việc tạo sinh con người theo kỹ thuật phi tính dục cloning
Việc tạo sinh con người bằng kỹ thuật phi tính dục là một kỹ thuật khoa học làm phát sinh ra một hữu thể con người. Kết quả sơ khởi nhưng bất khả tránh của việc tạo sinh phi tính dục vừa phân chia phôi thai bào vừa thuyên chuyển nhân trung là việc sản xuất ra một hữu thể con người ở giai đoạn phát triển phôi thai bào. Như thế, việc tạo sinh con người bằng kỹ thuật phi tính dục cloning và việc tạo sinh phi tính dục phôi thai bào con người xẩy ra cùng một lúc, nên chúng được coi là đồng nhất với nhau. Hiện nay việc cố gắng tạo sinh con người bằng kỹ thuật phi tính dục có ba mục đích:
3.1) Việc tạo sinh phi tính dục những phôi thai bào con người như một cách thức để làm nên các thơ nhi;
Khi một phôi thai bào con người được tạo sinh bằng kỹ thuật phi tính dục được cấy vào tử cung của một phụ nữ được lấy trứng hay của một bà mẹ đại diện, thì sẽ xẩy ra việc sinh ra một thơ nhi sau thời gian cưu mang, như đã xẩy ra nơi việc tạo sinh loài có vú bằng kỹ thuật phi tính dục. Việc sử dụng việc tạo sinh con người bằng kỹ thuật phi tính dục cloning này được gọi một cách không thích đáng là “việc tạo sinh phi tính dục sản sinh”, vì mục đích tối hậu của nó là sản sinh ra một hữu thể con người lớn.
3.2) Việc tạo sinh phôi thai bào con người bằng kỹ thuật phi tính dục như cách để sản xuất ra những tế bào thân;
Mục tiêu thứ hai của việc tạo sinh con người bằng kỹ thuật phi tính dục là để tạo nên những tế bào thân của phôi thai bào để chế ra cơ sợi và thay thể hoặc sử dụng trong vấn đề trị liệu tế bào. Một khi phôi thai bào con người được tạo sinh bằng kỹ thuật phi tính dục rồi, thì việc nó phát triển thêm bị chặn lại trước khi nó được đem cấy (thường ở vào giai đoạn phôi thai bào sơ khởi), bằng cách hủy đi việc phát triển thêm của phôi thai bào này. Tên gọi được đặt cho loại tạo sinh con người bằng kỹ thuật phi tính dục này, như được gọi là “việc tạo sinh phi tính dục trị liệu”, là một tên gọi lừa dối, ở chỗ nó làm lẫn lộn mục đích của việc làm với chính bản chất của tiến trình tùy thuộc này. Thật vậy, để sản xuất những tế bào thân của phôi thai bào thì người ta có ý tạo nên một phôi thai bào con người sống động để hủy hoại đi.
3.3) Việc tạo sinh phôi thai bào con người bằng kỹ thuật phi tính dục như dụng cụ để nghiên cứu những tiến trình về di truyền và phát triển phôi thai bào
Việc chuyển một nhân trung từ một tế bào cơ sợi của con người sang một sơ bào không còn nhân trung của con người, và việc nghiên cứu vấn đề phát triển của phôi thai bào sau đó, được thực hiện với mục đích để hiểu biết những sinh hoạt về di truyền và về tế bào phôi thai của việc tế bào phát triển, năng lực, phân loại, tái sinh và già đi. Thứ phác họa để thí nghiệm sinh học về tế bào này được gọi là “việc tái cấu trúc nhân trung”. Cho dù mang một danh xưng vô tội như thế, nó cũng dính dáng đến việc tạo sinh bằng kỹ thuật phi tính dục một phôi thai bào con người với duy một mục đích để làm thí nghiệm mà thôi.
4.- Việc tạo sinh con người theo kỹ thuật phi tính dục cloning bất kể với mục tiêu gì cũng nghịch lại với phẩm giá và tính cách nguyên vẹn của hữu thể con người và quyền sống của họCho dù việc tạo sinh phi tính dục nhắm đến mục đích tạo nên một thơ nhi con người là thực thể sẽ phát triển thành nhân chứ không xẩy ra việc hủy hoại phôi thai bào con người, thì hoạt động này vẫn là một việc phạm đến phẩm giá của con người. Là một hình thức sản sinh ngoại nhiên phi tính dục, việc làm này tiêu biểu cho một sự lạm dụng trầm trọng về mối liên hệ và hỗ tương sâu xa thuộc cốt lõi của việc con người sinh sản bao gồm cả tác động thể xác lẫn tác động tỏ tình của họ. Việc tạo sinh phi tính dục này biến tính dục của con người thành một thứ đồ vật và biến thân thể của phụ nữ thành thứ hàng hóa. Ngoài ra, phụ nữ còn bị mất mát cả phẩm giá sâu xa của họ khi trở thành một thứ cung cấp trứng và bụng dạ. Phẩm giá của con người được tạo sinh ngoại nhiên bằng kỹ thuật phi tính dục này cũng bị đe dọa vì những người khác và các thứ quyền lực về kỹ thuật thi hành quyền thống trị thật sự trên cả cuộc sống của con người này hay trên căn tính đặc thù của họ. Việc sản sinh phi tính dục đe dọa tính cách cá biệt về xác thể và áp đặt cái thay thế về di truyền của một con người đã hiện hữu trên con người bị tạo sinh bằng kỹ thuật phi tính dục. Về phần mình, con người được tạo sinh bằng kỹ thuật phi tính dục bị điều khiển bởi tính chất nội ngoại của kẻ khác, từ đó gây nên một cuộc tấn công dữ dội trên tính cách nguyên tuyền toàn vẹn thuộc bản thân của người được tạo sinh theo kiểu phi tính dục.
Việc tạo sinh phi tính dục được thực hiện cho mục đích nghiên cứu sinh học y khoa (như việc tái cấu trúc nhân trung “nucleus reprogramming”), hay cho việc sản xuất ra những thế bào thân (như việc tạo sinh phi tính dục trị liệu “therapeutic cloning”), đều góp phần vào việc tấn công phẩm giá và tính cách nguyên vẹn của con người như vừa được đề cập đến liên quan đến việc tạo sinh phi tính dục sản sinh. Việc tạo sinh phi tính dục một phôi thai bào con người với chủ ý hủy hoại nó đi, sẽ kiến tạo nên tình trạng cố ý hủy diệt một cách có phương pháp sự sống vừa nhú lên của con người, nhân danh một “sự thiện” vô danh của việc trị liệu khả dĩ hay của việc khám phá khoa học... Việc thí nghiệm trên chủ thể con người là một tội ác theo luật lệ quốc tế. Chủ trương này về luân lý và đạo lý ghê tởm ngay cả với những người thường ủng hộ việc nghiên cứu khoa học. Hiện nay có những phương pháp khác trong việc nghiên cứu tế bào theo khoa học đạt được cũng những mục tiêu khả dĩ mà không cần tạo sinh phi tính dục một phôi thai bào con người là những gì khó có thể tránh được việc hủy hoại. Tạo nên sự sống với ý định hủy hoại nó đi là việc vi phạm đến các qui tắc căn bản của những qui định về luân lý, đạo lý và pháp lý là những gì được phác họa ra để bảo vệ tính cách cá biệt và nguyên vẹn của mỗi một con người.
(Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Where the Holy See Stands on Human Cloning
Supports a Worldwide and Comprehensive Ban
NEW YORK, MARCH 3, 2002
(Zenit.org).- The Holy See´s mission at the United Nations released this
text last week on human cloning.
* * *
THE VIEWS OF THE HOLY SEE ON HUMAN CLONING
Contents
1. The Holy See´s Position
2. The biological background of cloning
3. The possible purposes of human cloning
3.1 Cloning on human embryos as a way of making babies
3.2 Cloning human embryos as a means of producing stem cells
3.3 Cloning human embryos as a tool for studying genetic and epigenetic
processes
4. Human cloning-regardless of its objective-is contrary to the dignity and
integrity of human beings and their right to life
5. Human cloning done for any purpose contravenes basic precepts of
international law
6. Conclusion
1. The Holy See´s Position
The Holy See firmly supports a world-wide and comprehensive ban on human
cloning, no matter what techniques are used and what aims are pursued. Its
position is based on (1) biological analysis of the cloning process and (2)
anthropological, social, ethical and legal reflection on the negative
implications that human cloning has on the life, the dignity, and the rights of
the human being.
Based on the biological and anthropological status of the human embryo and on
the fundamental moral and civil rule that it is illicit to kill an innocent even
to bring about a good for society, the Holy See regards the conceptual
distinction between "reproductive" and "therapeutic" (or "experimental") human
cloning as devoid of any ethical and legal ground.
The proposed ban on cloning is not intended to prohibit the use of cloning
techniques to obtain a number of biological entities (molecules, cells, and
tissues) other than human embryos, to generate plants, or to produce non-human
embryos and non-chimaeric (human-animal) embryos.
2. The Biological Background of Cloning
Within conceptual and experimental contexts, the term "cloning" has taken on
different meanings that in turn presume different technical procedures as well
as different aims. Cloning in itself refers to the production of a biological
entity which is genetically identical or very similar to the one from which it
originated. The term is used to indicate:
a. The production of a nucleic acid (DNA, RNA), a protein, or a cell line
starting from a single or a few copies of each of these entities. As individual
life is concerned, there are no peculiar ethical and legal questions on these
processes.
b. The generation, in an asexual artificial way, of one or more biological
individuals belonging to sexually-reproducing species (plants, animals, and
humans). As animals and humans are concerned, this can be done either by
disaggregating or subdividing an embryo ("embryo splitting") in its early stages
of development or through the transfer of a diploid nucleus of a cell from an
embryo, a fetus or an adult individual to a denucleated oocyte. In the latter
case, if successful, after activation the reconstructed oocyte will develop into
an embryo that is capable of further development to term. Regardless of its
destiny, a cloned embryo is a cloned individual of a given species at the
beginning of its life.
3. The Possible Purposes of Human Cloning
Human cloning is the scientific technique by which a human being is generated.
The early but unavoidable result of both embryo splitting and nuclear transfer
cloning is the reproduction of a human being at its embryonic stage of
development. Thus, human cloning and human embryo cloning coincide, and they are
identical with one another. Currently, there are three purposes for which human
cloning can be attempted.
3.1 Cloning human embryos as a way of making babies
When a cloned human embryo is implanted in the uterus of the woman to which the
generating egg belongs or of a surrogate mother, the delivery of a newborn baby
is expected following pregnancy, as has been demonstrated by mammalian cloning.
This use of human cloning has been improperly called "reproductive cloning"
since its ultimate goal is to reproduce an adult human being.
3.2 Cloning human embryos as a mean of producing stem cells
A second objective of human cloning is to generate embryonic stem cells for
tissue engineering and transplantation or use in cell therapy. Once the human
embryo is cloned, its further development is arrested before implantation
(usually at the blastocyst stage) thereby destroying the further development of
the embryo. The proposed name of this sort of human cloning, i.e. "therapeutic
cloning", is misleading in that it confounds the purpose of the action with the
very nature of the process at stake. Indeed, to produce embryonic stem cells a
living human embryo has been deliberately created and destroyed.
3.2 Cloning human embryos as a tool for studying genetic and epigenetic
processes
The transfer of a nucleus from a human tissue cell to an enucleated human oocyte
and the study of the embryonic development that follows may be performed with an
aim to understand the genetic and epigenetic mechanisms of cell growth, potency,
differentiation, regeneration and senescence. This kind of experimental design
in cell biology has been called "nucleus reprogramming". Despite the innocent
name, it involves cloning a human embryo for the sole purpose of
experimentation.
4. Human Cloning -- Regardless of Its Objectives -- Is Contrary to the Dignity
of Human Beings and Their Right to Life.
Even if cloning is pursued with the aim of making a human baby that will mature
into adulthood so that there is no destruction of the human embryo, this
activity is still an affront to the dignity of the human person. As a form of
unnatural asexual reproduction, it represents a radical manipulation of the
constitutive relationship and complementarity that are at the origin of human
procreation as a biological act and an exercise of human love. Cloning
objectifies human sexuality and commodifies the bodies of women. Moreover, women
are deprived of their innate dignity by becoming suppliers of eggs and wombs.
The dignity of the person cloned is similarly threatened because other persons
and technological powers exercise undisputed dominion over the duration of this
person´s life or his or her unique identity. Reproductive cloning threatens
biological individuality and imposes the genetic makeup of an already-existing
person on the cloned person. In turn, the cloned person is commandeered by
another´s external and internal profile thereby constituting a violent attack on
the clone´s personal integrity.
Cloning accomplished for biomedical research ("nucleus reprogramming") or
producing stem cells ("therapeutic cloning") contributes to assaults against the
dignity and integrity of the human person just addressed in the context of
reproductive cloning. Cloning a human embryo, while intentionally planning its
demise, would institutionalize the deliberate, systemic destruction of nascent
human life in the name of unknown "good" of potential therapy or scientific
discovery. This prospect is repugnant to most people including those who rightly
advocate for advancement in science and medicine. Indeed, nucleus transfer
cloning is by no means the only or superior way to tissue transplantation and
cell therapy. The use of multipotent autologous stem cells of post-natal origin
together with transdifferentiation approaches to tissue regeneration is a very
promising alternative to prevent immune rejection in patients who have received
transplants. In addition, the use of "wild-type" and transgenic animals is
another way to disclose cell biology´s genetic and epigenetic mechanisms.
Medical experimentation on human subjects, as pointed out below, is a crime
under international law. This prospect is morally and ethically repugnant even
to those who generally favor scientific research. There currently exist
alternative methods of scientific cell research that accomplish the same
potential objectives without the need to clone a human embryo that will
inevitably be faced with destruction. To create life with the planned intention
of destroying it violates the basic norms of moral, ethical, and legal
considerations designed to protect the individuality and integrity of each human
being.
Since the founding of the United Nations, the centrality of the welfare and
protection of all human beings to the work of this organization is beyond
question. The safekeeping of present and succeeding generations of human beings
and the advancement of fundamental human rights is critical to the work of the
UN. The Universal Declaration of Human Rights reiterates the sanctity of all
human life and the compelling need to protect it from harm. In this regard,
Article 3 of the Declaration asserts that everyone has the right to life. With
life comes hope in the future -- a hope that the Universal Declaration protects
by acknowledging that all human beings are equal in dignity and rights. With the
right to life comes liberty and security of the person. To ensure this, the
Universal Declaration confirms that each human being is an entity who is
guaranteed a future filled with the hope of self-determination. To further this
end, conditions that degrade any human being with servile status and deny the
fundamental rights to life and self-determination are reprehensible.
To better understand these points, it would be prudent to take stock of our
human nature at this stage. Each of us, regardless of nationality, gender, race,
ethnicity, or religion, share the same origin and are destined to develop as
members of communities beginning with the family, the natural and fundamental
unit of society. We strive to further our goals for self, family, and country,
but we also, as fellow human beings, are called to further the common good for
the present and future generations across the globe. We do this to protect all
who share and participate in the human condition. However, if some human beings
are destined to serve interests that do not take account of these fundamental
principles of human nature that are at the center of the UN´s concern, they are
reduced to a servile status that denies them the fundamental claim to life and
self-determination guaranteed to all. To clone a human being -- regardless of
the goal1 -- is to deny this person´s basic ontological claim that unites him or
her to the rest of the human family. This human being has no hope in a
self-determining future because his or her individuality will be destroyed to
further some research purpose or to enhance the narcissism of a person who has
already existed. In either case, the cloned human being is reduced to
enslavement that contravenes the fundamental nature of human existence -- to be
free and to live as a unique individual capable of contributing to the
development of the self and society.
5. Human Cloning Contravenes Basic Precepts of International Law.
Various international instruments acknowledge that the dignity of the human
person is at the center of international law. Regardless of the objective for
which it was done, human cloning conflicts with the international legal norms
that protect human dignity. First of all, international law guarantees the right
to life to all, not just some, human beings. Facilitating the formation of human
beings who are destined for destruction, the intentional destruction of cloned
human beings once the particular research goal is reached, consigning any human
being to an existence of either involuntary servitude or slavery, and being
submitted to involuntary medical and biological experimentation on human beings
are morally wrong and inadmissible. Human cloning also poses great threats to
the rule of law by enabling those responsible for cloning to select and
propagate certain human characteristics based on gender, race, etc. and
eliminate others. This would be akin to the practice of eugenics leading to the
institution of a "super race" and the inevitable discrimination against those
born through the natural process. Human cloning also denies those subjects who
come into being for research purposes international rights to due process and
equal protection of the law. In addition, it must be remembered that state
practice and the development of regional treaties have acknowledged that human
cloning conducted for any end is contrary to the rule of law.
6. Conclusion
Every process involving human cloning is in itself a reproductive process in
that it generates a human being at the very beginning of his or her development,
i.e., a human embryo. The Holy See regards the distinction between
"reproductive" and "therapeutic" (or "experimental") cloning as unacceptable by
principle since it is devoid of any ethical and legal ground. This false
distinction masks the reality of the creation of a human being for the purpose
of destroying him or her to produce embryonic stem cell lines or to conduct
other experimentation. Therefore, human cloning should be prohibited in all
cases regardless of the aims that are pursued. The Holy See supports research on
stem cells of post-natal origin since this approach is a sound, promising, and
ethical way to achieve tissue transplantation and cell therapy.
1 Whilst these objectives have previously been discussed, it is worth
reiterating them here. One goal of human cloning focuses on the creation of an
embryo that will not be allowed to come to term. It will be used for medical
research and other objectives that have been labeled as "therapeutic." Another
purpose associated with human cloning is "reproductive," i.e., the creation of a
human embryo that will come to term and replicate the person from whom his or
her genetic material came.
[text distributed by Holy See mission]