Trào Lưu Duy Nhân Bản
Như đã đề cập đến ở ngay trong chương 11 cuốn Hận Thù Quyết Thắng bàn về "Hai Mãnh Thú" này (trang 188-189), "trào lưu luân lý nhân tạo" là một triệu chứng hiển nhiên nhất, cũng là một hiện tượng sôi nổi nhất trong thế giới tân tiến hiện nay, nói lên một thảm trạng có thể nói là duy nhân bản. Thật ra, nhân bản tự bản chất vốn tốt lành, như chính phẩm giá của con người, yếu tố nền tảng làm nên những gì gọi là nhân bản (nhân tính và nhân vị), hay làm nên những gì liên quan đến nhân bản (nhân quyền và nhân cách).
Bởi thế, nếu bỏ nhân bản đi, không đặt con người làm trọng tâm của và là cùng đích cho mọi hoạt động trần thế của mình, xã hội loài người, một là sẽ trở về thời bán khai sống theo luật rừng, mạnh được yếu thua, không hơn gì loài thú, hai là sẽ duy vật, như chủ trương của cộng sản thuyết, dùng con người như một sở vật vô sản, chẳng khác gì một bộ phận trong guồng máy chế độ để quay cuồng sản xuất một cách vô hồn và vô vọng...
Tuy nhiên, nhân bản đáng giá và đáng tôn trọng không phải là chỉ vì mối liên hệ xã hội giữa loài người với nhau mà thôi. Nếu nhân bản chỉ dựa trên cảm thức và cảm nghiệm là: tôi cần phải tôn trọng anh vì nếu không anh sẽ không tôn trọng tôi, thì thứ nhân bản này vẫn còn quá tiêu cực và thiếu sót, không có tính cách đại đồng và siêu việt đúng như nguồn gốc có tính cách thần linh của nó. Và vì thế mà, cuối cùng, thứ duy nhân bản này cũng sẽ lại đưa con người trở về với luật "mắt đền mắt, răng đền răng", mà kết cục là "khôn sống mống chết", không hơn luật rừng là bao nhiêu, hay ai mạnh thì sống, như chủ trương đấu tranh giai cấp theo chủ thuyết cộng sản vô thần.
Bởi thế, duy nhân bản là chủ thuyết hay khuynh hướng tôn sùng con người thái quá, đến nỗi, coi con người là chủ tể duy nhất, ngoài ra không còn thượng đế, không còn thần linh, không còn Thiên Chúa nào khác. Từ đó và bởi đó, tất cả những gì con người nghĩ là đúng, muốn là tốt. Điển hình nhất là trào lưu luân lý nhân tạo ngày nay, một trào lưu luân lý chủ quan, bất chấp những nguyên tắc luân lý phổ quát, một trào lưu sống theo lương tâm của mình, tự "biết lành biết dữ" (KN. 3:5), ở chỗ cái gì mình cho là tội mới có tội.
Như thế, có thể nói, nếu "phản Kitô" là tinh thần của thần dữ, thành phần chống đối, không chấp nhận Thiên Chúa như Ngài là và từ đó muốn nên bằng hay hơn Thiên Chúa, thì "duy nhân bản" là tinh thần trần tục của con người là loài cũng muốn chẳng những nên giống như mà còn thay Thiên Chúa nữa. Tuy nhiên, theo thời gian, chủ nghĩa duy nhân bản có sau tinh thần "phản Kitô", vả lại, theo nguồn gốc, lại do chính tên "phản Kitô" đầu đảng trá hình trong "con cựu xà" mà có. Thế nên, theo tính cách của mình, chủ thuyết duy nhân bản chính là "hình ảnh của con mãnh thú thứ nhất" (KH 13:15). Và, theo tiến trình, chủ nghĩa duy nhân bản phát triển là nhờ "con mãnh thú thứ hai ban sự sống cho" (KH 13:15). Để rồi, nhờ môi trường hết sức béo bở ngày nay, như đã đề cập đến ở trang 189, là ý thức nhân quyền cao độ và quyền năng kỳ diệu nơi khoa học và kỹ thuật của con người, chủ nghĩa duy nhân bản hầu như đã đạt đến tầm vóc viên trọn quá cỡ, thậm chí quá ư là kệch cỡm, của mình.
Thế nhưng, theo bản chất, duy nhân bản là tự thần linh hoá bản thân, mà ai cũng cho mình và muốn mình là Chúa, là đầu của nhau và muốn làm đầu nhau. Bởi vậy, không lạ gì xã hội loài người đã mọc lên vô số đầu mục, như "con khổng long" hay "con mãnh thú từ biển tiến lên" cả hai đều "có 7 đầu" (KH 12:3' 13:1). Mà bởi vì "không ai có thể làm tôi hai chủ" (Mt.6:24), nên kể từ đầu thế kỷ 20 cho đến nay là thời điểm lịch sử loài người đang ở vào giữa thập niên 1990 trước khi kết thúc kỷ nguyên thứ hai, thế giới đã, đang và còn trở thành một bãi chiến trường, để các đầu mục giành nhau ngôi báu, bằng cách tàn sát lẫn nhau. Và cuộc chiến duy nhân bản này sẽ kéo dài cho đến khi, theo quan điểm trần gian và đà hướng chính trị, sẽ có và phải có một trật tự thế giới mới (New World Order), được lãnh đạo bởi một đầu óc độc tài chuyên chế nhất và bằng một bàn tay sắt máu nhất.
Sau đây là một bản hiến chương tiêu biểu nhất về chủ thuyết duy nhân bản (humanism) trong "Humanist Manifesto I", chủ trương 15 tuyên ngôn đã được một triết gia người Hoa Kỳ là John Dewey (1859-1952) và các đồng chí của ông ta ký kết vào năm 1933.
1. "Những nhà nhân bản về tôn giáo coi vũ trụ này như tự mình hiện hữu chứ không phải là được dựng nên.2. "Chủ thuyết nhân bản tin rằng con người là thành phần của thiên nhiên và xuất thân như thành quả của một tiến trình liên tục.
3. "Theo quan niệm cấu trúc về sự sống, những nhà nhân bản thấy rằng cần phải phủ nhận quan niệm truyền thống chủ trương có hai phần là tâm trí và thể xác.
4. "Chủ thuyết nhân bản nhận thức rằng văn hóa và văn minh hữu thần của con người... là một sản phẩm tiệm tiến gây ra do cuộc tiếp xúc của con người với hoàn cảnh thiên nhiên cũng như với gia sản xã hội của mình...
5. "Chủ thuyết nhân bản cho rằng bản chất của vũ trụ được khoa học tân tiến phác họa làm cho những bảo toàn về siêu nhiên hay vũ trụ nơi các giá trị nhân bản không thể nào chấp nhận được... đường lối để ấn định sự hiện hữu và giá trị của bất cứ hay tất cả mọi thực tại là nhờ ở việc thăm dò sáng suốt ... tôn giáo phải hình thành các hy vọng cũng như những dự án của mình trong ánh sáng của tinh thần và phương pháp khoa học.
6. "Chúng tôi xác tín rằng chủ trương hữu thần, chủ trương thần linh đã hết thời rồi.
7. "Tôn giáo bao gồm những hành động, những mục đích và những kinh nghiệm có một ý nghĩa nhân bản... Việc phân biệt giữa linh thánh với trần tục không còn nữa.
8. "Chủ thuyết nhân bản về tôn giáo coi việc nhận thức trọn vẹn về nhân vị con người là cùng đích (mục tiêu) của đời sống con người, rồi tìm cách phát triển và hoàn trọn nó ở trên đời hiện tại này. Đây là... nhiệt tính xã hội (của chúng ta).
9. "Thay cho những thái độ cổ hủ liên quan đến việc phụng thờ và cầu nguyện, nhà nhân bản tìm thấy những xúc động đạo đức của mình được diễn đạt nơi cảm thức cao vời về cuộc sống cá nhân cũng như trong nỗ lực hợp tác để cổ vhành cho nền an sinh xã hội.
10. "Thế nên, cho đến nay, sẽ không còn những cảm xúc và thái độ đạo đức đặc thù nào liên hệ đến niềm tin vào siêu nhiên.
11. "Con người sẽ học biết cách đối đầu với những khủng hoảng của cuộc sống bằng kiến thức của mình... Những thái độ nhân bản và hợp với lý lẽ sẽ được bồi dưỡng bằng việc giáo dục... chủ thuyết nhân bản sẽ chọn con đường lành mạnh về tâm thần cũng như về xã hội, và sẽ ngăn chặn những niềm hy vọng có tính cách cảm tình, không thật và mộng tưởng.
12. "... Những nhà nhân bản về tôn giáo nhắm đến việc bồi dưỡng tính cách sáng tạo nơi con người
13. "Chủ thuyết nhân bản về tôn giáo chủ trương rằng tất cả mọi hiệp hội hay cơ cấu hiện hữu là để thực hiện việc làm cho đời sống của con người được viên trọn.. Tất nhiên, những tổ chức về tôn giáo (như Giáo Hội Kitô Giáo), những thể thức về lễ nghi của họ, những phương pháp của giáo hội và những hoạt động cộng đồng phải được tái tạo cấp thời theo như kinh nghiệm cho phép...
14. "Những nhà nhân bản mạnh mẽ xác tín rằng cái xã hội tham hưởng và thiên lợi hiện tại vẫn tỏ ra chưa trọn đủ, cần phải thiết lập một cuộc thay đổi tận gốc nơi việc kiểm soát, nơi các phương pháp cũng như nơi các động lực. Cần phải thiết định một trật tự kinh tế hỗ tương được xã hội hoá.
15. "Chúng tôi nỗ lực để thiết định những điều kiện cho tất cả mọi người có được một cuộc sống thoải mái..." (NWO trang 43-44)
Ngày 19-11-1995, Tổ chức "Wir sind Kirche" (Chúng Ta là Giáo Hội) ở Đức cho biết là họ đã nhận được hai tấn giấy tờ, mang chữ ký của 1 triệu 8 trăm ngàn người, trong đó có gần 1 triệu rưỡi là Công Giáo Rôma ở Đức, kêu gọi thực hiện một giáo hội dân chủ mới mẻ hơn, theo 5 điểm chính yếu sau đây:
1. Một giáo hội anh chị em' (như kiểu Hội Nghị Nữ Tu trang 201-203)
2. Quyền bình đẳng cho giới phụ nữ' (như cho phụ nữ làm linh mục)
3. Độc thân tùy ý' (như cho linh mục được phép lập gia đình)
4. Một thẩm giá tích cực hơn về tình dục' (như đồng tính/nữ luyến ái)
5. Một sứ điệp vui tươi hơn là dọa nạt. (Quyền Giáo Huấn để làm cảnh)
Bản văn có tính cách thuần túy dân chủ hợp thời này và mang tinh thần "bỏ đạo tập thể" (1Thes.2:3) cuối thời như thế còn được thêm 500 ngàn chữ ký ở Áo quốc. Ngoài ra, nó cũng đã được hai nhà thần học vừa nổi tiếng vừa cấp tiến là Hans Kung và Bernard Haring nhiệt liệt ủng hộ.Ngày 24-11-1995, tức 5 ngày sau khi bản tin trên đây được phổ biến, ĐTC Gioan-Phaolô II đã chia sẻ nhận định và ý định của mình với hội đồng Thánh Bộ Đức Tin như sau:
"Ngày nay chúng ta phải ghi nhận là có một sự hiểu lầm lan rộng về ý nghĩa và vai trò nơi Quyền Giáo Hội Giáo Huấn.
"Đây là căn gốc của những bình phẩm và chống đối trước những công bố của Quyên Giáo Huấn của Giáo Hội, như qúi huynh đã đặc biệt vạch ra liên quan đến các phản ứng đối với không ít những vấn đề thần học và giáo hội cho đến những văn kiện mới nhất của Quyền Giáo Hoàng Giáo Huấn: Thông điệp 'Veritatis Splendor' về những nguyên tắc của tín điều luân lý và sự sống' thông điệp 'Evangelium Vitae' về giá trị bất khả phạm của sự sống con người' Tông thư 'Ordinatio Sacerdotalis" về việc không thể phong chức linh mục cho nữ giới' và Văn Thư của Thánh Bộ phụ trách Tín Điều Đức Tin về việc hiệp lễ đối với tín hữu ly dị rồi tái hôn... (số 4)
"Trong các Thông Điệp 'Veritatis Splendor' và 'Evangelium Vitae' cũng như trong Tông Thư 'Ordinatio Sacerdotalis', Ta muốn nêu lên, một lần nữa, tính cách liên tục của tín điều nơi niềm tin của Giáo Hội, bằng việc xác nhận những chân lý hiển nhiên đối với Thánh Kinh, với Tông Truyền và với giáo huấn đồng nhất của các Vị Chủ Chăn. Bởi vậy, những tuyên ngôn này, bằng quyền bính được truyền ban cho Vị Thừa Kế thánh Phêrô để làm cho anh em mình vững vàng' (Lk.22:32), nói lên tính cách chắc chắn chung hiện diện trong đời sống cũng như giáo huấn của Giáo Hội.
"Do đó, thật là khẩn thiét trong việc phải làm sao để phục hồi được quan niệm chuyên chính về quyền bính, không những ở lãnh vực khi được thẩm quyền long trọng công bố, mà còn, sâu xa hơn nữa, ở cả lãnh vực nó được dùng để bảo đảm, an toàn và hướng dẫn cộng đoàn Kitô giáo được liên tục trung thành với Thánh Truyền, nhờ đó, các tín hữu có thể gắn bó với giáo huấn của các Tông Đồ và với nguồn mạch của chính thực tại Kitô giáo này". (số 6) (ITV 1/1996, tr.13)
Từ ngày 8-12-1964, Đức Thánh Cha Piô IX đã lên án, trong Bản Liệt Kê 80 Điều Sai Lầm, những chủ trương duy nhân bản sặc mùi vô thần này, chẳng hạn ngài đã lên án các điều sau đây:4. "Tất cả những sự thật về tôn giáo phát xuất từ khả năng tự nhiên của lý trí con người' bởi thế, lý trí là luật chính yếu nhờ đó con người có thể chiếm được và phải chiếm được kiến thức về tất cả những chân lý trong đủ mọi phương diện..
5. "Mạc khải thần linh bất toàn, bởi đó, phải trải qua một tiến triển liên tục vô hạn định, xứng hợp với bước tiến của lý trí con người.
6. "Đức tin vào Đức Kitô phản lại với lý trí con người' và mạc khải thần linh chẳng những chẳng có lợi gì mà còn làm hại cả đến tầm mức toàn vẹn của con người nữa.
40. "Tín điều của Giáo Hội Công Giáo phản lại với phúc lợi của xã hội loài người.
42. "Trong trường hợp có những tương phản luật lệ giữa hai thẩm quyền, thì luật dân sự vẫn hơn.
56. "Những luật lệ về luân lý không cần đến tính cách chế tài thần linh, và các luật lệ nhân tạo cũng không cần phải am hợp với luật tự nhiên hay không cần phải nhận được hiệu lực từ Thien Chúa.
80. "Giáo hoàng Rôma có thể và phải tự dung hợp với đà tiến triển, với khuynh hướng giải phóng cũng như với nền văn minh tân tiến.. (RCH trang 992-996)
Chưa hết, ngày 3-7-1907, Thánh Giáo Hoàng Piô X, trong sắc lệnh "Lamentabili Sane", còn lên án 65 chủ trương của Tân Tiến Thuyết, ', chẳng hạn như những sai lầm tiêu biẻu sau đây:
4. "Ngay cả được định tín đi nữa, Quyền Giáo Huấn của Giáo Hội cũng không thể nào xác định được ý nghĩa chuyên chính của các Sách Thánh.
11. "Linh ứng thần linh không áp dụng cho tất cả mọi Sách Thánh, để làm cho các phần của mình, từng phần cũng như mọi phần, tránh khỏi sai lầm.
20. "Mạc khải chẳng có là gì khác ngoài ý thức con người có được về mạc khải của mình đối với Thiên Chúa.
21. "Mạc khải làm nên đối tượng của Đức Tin Công Giáo chưa hoàn tất nơi các Tông Đồ.
22. "Tín điều mà Giáo Hội nắm giữ như được mạc khải không phải là những sự thật từ trời rơi xuống. Chúng là sự cắt nghĩa về những dữ kiện tôn giáo mà tâm trí loài người có được nhờ nỗ lực.
26. "Tín điều Đức Tin được nắm giữ chỉ theo ý nghĩa cụ thể mà thôi' tức là theo những tiêu chuẩn cảm nhận của việc làm, chứ không theo những tiêu chuẩn tin tưởng.
55. "Simon Phêrô cũng chưa hề đặt vấn đề là Đức Kitô đã trao quyền thủ lãnh cho mình trong Giáo Hội.
56. "Giáo Hội Rôma trở thành thủ lãnh của mọi giáo hội không phải là do ấn lệnh của Sự Quan Phòng Thần Linh, mà chỉ là nhờ những điều kiện chính trị.
57. "Giáo Hội đã tỏ ra thù địch với đà tiến triển của các khoa học tự nhiên cũng như thần học.
58. "Chân lý không còn bất biến hơn chính con người nữa, vì nó xoay vần với, trong và qua con người. (PDG trang 71-77)
Hiện tượng duy nhân bản chuyên biệt và nổi bật nhất hiện nay, ngoài trào lưu luân lý nhân tạo, phải kể đến "phong trào nữ giới quá khích" (feminism), cả lãnh vực đời cũng như đạo. Về đời, có luật pháp "pro-choice", cho phép người phụ nữ có quyền phá thai, và về đạo, có áp lực "inclusive language", sửa lại ngôn ngữ có vẻ mang tính cách kỳ thị phái tính trong Thánh Kinh. Tuy nhiên, gần đây cho thấy mức độ quá khích của phong trào nữ giới đã được tỏ ra qua hai biến cố: thuộc lãnh vực trần thế, có Hội Nghị Phụ Nữ Liên Hiệp Quốc (lần thứ 4) ở Bắc Kinh Trung Cộng nhóm họp từ 4 đến 15-9-1995, và thuộc lãnh vực đạo giáo, có Hội Nghị Phụ Nữ về Truyền Chức (Women's Ordination Conference) nhóm họp vào cuối tuần lễ 10-12/11/1995 ở Washington D.C.
Trước hết là biến cố Hội Nghị Phụ Nữ Liên Hiệp Quốc ở Bắc Kinh. Một trong những điểm được tranh luận và tranh đáu quyết liệt nhất, bởi những nhân vật đại diện trí thức tiêu biểu của các quốc gia ở vào thời điểm loài người văn minh tuyệt vời ngày nay, có thể nói là phải kể đến ý niệm về nam tính và nữ tính của con người đã được phần đông không muốn gọi là phái tính (sex) xứng danh con người là loài "nhân linh ư vạn vật" nữa, mà là giống đực và giống cái ("gender") chẳng khác gì như loài vật. Tổng quan về "Quan Điểm Giống Tính" (Gender Perspective) của thành phần chủ trương nam tính và nữ tính theo giống đực và giống cái, đã được nguyệt san CWR, trong số báo tháng 5-1995 và số báo tháng 11-1995, tóm kết như sau:
1. Chủ trương phá thai là một nhân quyền, phổ biến rộng rãi pháp quyền phá thai: "freedom of reproductive choice" (nguyên văn của tài liệu do INSTRAW phổ biến trong Hội Nghị), giáo dục phái tính và những quyền được phép liên hệ dục tính cho vị thành niên cũng như những ai chưa lập gia đình. (INSTRAW là chữ viết tắt của International Research and Training Institute for the Advancement of Woman, một cơ quan của Liên Hiệp Quốc được thành lập nhằm phục vụ việc thăng tiến cho những phúc lợi của giới phụ nữ)
2. Chủ trương quyền được đồng tính luyến ái (homosexual) và đồng nữ luyến ái (lesbian).
3. Chủ trương xác định giống tính như một cấu trúc xã hội và chống lại quan niệm 'sinh lý định mệnh' (biology is destiny).
4. Tin tưởng rằng tình trạng nghèo nàn của phụ nữ là do bởi phụ nữ thiếu tự lập về kinh tế.
5. Cổ vhành những nghề nghiệp không theo truyền thống và công việc ngoài gia đình, và lên án những nghề nghiệp truyền thống và những khuôn mẫu.
6. Chống lại việc bạo hành phụ nữ, vì tin rằng việc bạo hành như vậy là do quyền lực của phái nam và gia đình.
7. Đề xướng đẳng số giống tính (gender quotas) 50-50 trong tất cả mọi cơ quan chính quyền, dù được bầu cử cũng như được bổ nhiệm: "political equality between women and men" (nguyên văn của tài liệu do INSTRAW phổ biến dịp Hội Nghị), trong tất cả mọi ngành nghề kinh tế, làm việc nhà cũng như coi con cái.
8. Muốn thay đổi định nghĩa về gia đình, hay chữ 'gia đình' (family) phải được thay thế bằng chữ 'gia cư' (household).
9. Tin tưởng rằng tôn giáo 'thủ cựu' (fundamentalist) phải chịu trách nhiệm về tình trạng nữ giới bị bạo hành và về việc chối bỏ những quyền bình đẳng của nữ giới.
Sau biến cố Hội Nghị Liên Hiệp Quốc về Phụ Nữ thuộc lãnh vực trần thế, tiếp đến là Hội Nghị Phụ Nữ về Truyền Chức trong lãnh vực đạo giáo, một biến cố đã được nhen nhúm và sửa soạn từ năm 1993. Nguyệt san Catholic World Report, số tháng 1/1996, đã phổ biến một bài báo dưới tựa đề "Strange Sisters: Feminists are ready to abandon the hiearchy, the priesthood, the sacraments - but not their positions at Catholic institutions" (Những Nữ Tu Kỳ Lạ: Các Giới Nữ không ngần ngại bãi bỏ hàng giáo phẩm, chức linh mục và các bí tích, nhưng vẫn giữ lấy chỗ đứng của mình ở tại các học viện Công Giáo) đã tiết lộ như thế. Căn cứ vào những tường trình của bài báo, diễn tiến và nội dung của biến cố có tính cách bùng nổ vô tiền khoáng hậu này có thể được phân tách và đúc kết như sau.:
Chủ đề của Hội Nghị là "A Discipleship of Equals" (Một Mối Liên Hệ Môn Đồ Bình Đẳng), nhan đề của một cuốn sách đã gợi hứng cho Hội Nghị này. Bởi thế, những nhân vật điều hành chương trình Hội Nghị mặc áo linh mục và cả bộ giám mục. Và cũng bởi thế, một đám đông cả gần 1000 nữ tu, toàn là các giáo chức hay các thần học gia, trong ánh sáng mờ ảo của một hội trường, đã có những mục cùng nhau cử hành các nghi thức tương tự như thánh lễ và giờ kinh.Trong phần làm phép bánh, họ đồng thanh đọc lên sau đây:
Chúc tụng ngài, Thần Linh Tồn Dưỡng, vì từ Hành Tinh của Trái Đất ngài mang lại nhiều hạt lúa miến. Chúng tôi nhận lấy, chúc tụng, bẻ ra và dùng bánh này, khi chúng tôi nhận thức được vẻ đẹp và quyền năng của sự khác biệt để thực hiện mối liên hệ môn đồ bình đẳng.
Cũng thế, qua phần làm phép chén, họ cũng đồng thanh đọc:
Chúng tôi nhận lãnh, chúc tụng và uống hoa trái này của cây nho, trong liên đới với tất cả những ai được Thần kêu gọi nhập cuộc cho một sứ vụ tư tế cải cách, đó là một mối liên hệ môn đồ bình đẳng. (Thế rồi, trên chén rượu của từng người, họ hát một bản nhạc trong đó có lời này:) "Chớ gì máu của tôi là một mầm mống cho việc giải phóng".
Sang phần Giờ Kinh Phụng Vụ, họ hát xướng như sau:
Chúc tụng Sophia. Chúc tụng danh thánh của bà. Chúc tụng tất cả mọi phụ nữ: được trẻ trung, phong phú và khôn ngoan. Chúc tụng những chị em của Sophia là những người làm tồn tại cho một mối liên hệ môn đồ bình đẳng. Chúc tụng tất cả mọi đứa con kể lại các truyện về những vị tiền mẫu của mình..." (phụ chú: theo thuyết chủ đạo thức, Sophia là một Đại Mẫu, Nữ Chúa Trời Cao đã xuống thế giới vật chất và hạ sinh ra 7 quyền lực)
Qua những trình diễn trên đây, mục tiêu của Hội Nghị là có ý lật đổ chế độ "phẩm trật" (Kyriarchy là chữ cố ý được dùng thay cho chữ Patriarchy, chữ ám chỉ phẩm trật), vì Hội Nghị chủ trương: "Ordination means subordination" (Chịu Chức tức là lụy thuộc). Do đó, họ tỏ ra không thèm "phẩm trật" nữa. Trong một tờ phát hành của Hội Nghị, "Tân Nữ Giới, Tân Giáo Hội", Janet Kalven viết:"Những nhà thần học của chúng ta vạch ra rằng chức linh mục là một quan niệm phẩm trật thừa kế, được Giáo Hội thiết lập theo ảnh hưởng của Do Thái cũng như theo những khuôn mẫu của người Rôma, mà hiện nay nó được gắn liền với những thể thức được giáo sĩ hoá có tính cách trịch thượng kỳ thị phụ nữ. Nó thật sự phản lại với những sứ vụ của nữ giới mà phụ nữ đang tạo lập nên... Chúng ta đang đi một bước rất tốt đẹp: một đàng nhấn mạnh rằng việc loại trừ không cho phụ nữ chịu chức là bất công. Đàng khác, đẩy mạnh một loại sứ vụ rất khác biệt trong một giáo hội cộng đồng chuyên nghiệp".
Sau đây là hai lời phát biểu của hai nhân vật chính trong nhóm họ, lời thứ nhất của Elisabeth Schussler Fiorenza, tác giả cuốn "Một Mối Liên Hệ Môn Đồ Bình Đẳng" (A Discipleship of Equals), và lời thứ hai của Donna Steichen, tác giả cuốn "Cơn Hận Nộ Thách Trời: Dung Nhan Kín Nhiệm của Phong Trào Nữ Giới Công Giáo" (Ungodly Rage: the Hidden Face of Catholic Feminism).1. "Cái mơ mộng còn cần phải được nhận thức là gì? Phải chăng, đó là phụ nữ trong Giáo Hội Công Giáo Rôma sau cùng rồi cũng có thể được gọi là 'Reverend', được mặc bộ giáo sĩ, được khoác những phẩm phục giáo sĩ hay là nhận được những đặc ân giáo sĩ, nhận được một ấn dấu không thể xoá bỏ của sự khác biệt chính yếu, của việc tiến lên một cấp trật cao hơn, chẳng những trong Giáo Hội mà còn trên cả thiên đàng nữa? Phải chăng đó là một mộng mơ cần phải chiếm lấy mẩu bánh giáo sĩ, cho dù có vì thế mà chúng ta bị mắc nghẹn hay chăng?"
2. "Người ta khó mà tin được, song thực sự là giới lãnh đạo của phong trào nữ tu giới đã lâu lắm rồi không hề chú trọng đến chức linh mục, một khi chúng ta hiểu được từ ngữ đó. Họ sẽ không tuyên hứa vâng phục một vị giám mục và họ chắc chắn cũng không thi hành đức vâng phục nếu họ có hứa."
Với tinh thần của Hội Nghị Nữ (Tu) Giới Công Giáo trên đây, một người bình thường tự nhiên cũng sẽ cảm thấy rằng, phong trào nữ giới quá khích Công Giáo tỏ ra không thèm phẩm trật là vì biết rằng không đòi được nữa. Bởi vì, trước tháng 5-1994, thời điểm Đức Gioan-Phaolô II dứt khoát khẳng định trong tông thư "Ordinatio Sacerdotalis": "Ta tuyên bố là Giáo Hội không có quyền gì cả trong việc truyền chức linh mục cho nữ giới", thì họ còn ham chức vị linh mục, như ấn bản "New Women, New Church" được phổ biến trong dịp Hội Nghị đã tiết lộ: "Vào một cuộc họp (sửa soạn cho Hội Nghị từ tháng 11-1993) có chừng 40 người, trong đó có một giám mục và một linh mục, chúng tôi đã ôm ấp tư tưởng là tìm kiếm một hay hai vị giám mục hưu trí Công Giáo để truyền chức các các phụ nữ vào lúc cao điểm nhất của hội nghị". Tuy nhiên, sau thời điểm bức tông thư oan nghiệt xuất hiện, họ rhành ràng là đã tỏ ra một thái độ "không thèm" hay "cóc cần" chức linh mục nữa, được phản ảnh qua Hội Nghị Nữ Giới về Truyền Chức vào cuối năm 1995.
Nếu thế, không phải hay sao, ý định muốn lãnh chức linh mục của thành phần nữ giới Công Giáo quá khích chỉ là vì địa vị hơn là thuần túy vì "sứ vụ" (theo ý nghĩa của chữ "ministry") và để "phục vụ", một ý định như thế hoàn toàn ngược hẳn lại với tinh thần của Chúa Kitô là Đấng cũng "không tự vinh phong cho mình chức vị thượng tế, mà là nhận lãnh bởi Đấng đã phán: Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con" (DT 5:5), cũng là Đấng "đã đến không phải để được phục vụ mà là để phục vụ, để hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho nhiều người" (Mt.20:28).
Qua hai biến cố điển hình hết sức cập nhật hoá trên đây của phong trào nữ giới quá khích, nhất là của nữ (tu) giới Công Giáo, duy nhân bản quả thật, (như đầu phụ bản thứ 4 này đã nhận định ở trang 193), là một biểu hiệu cho tinh thần của phản Kitô và là phản ảnh của tinh thần phản Kitô rhành ràng. Có thể nói, bộ mặt thật của duy nhân bản không gì khác hơn là tinh thần "Pro-Self", tức là tinh thần "tôn sùng thần tôi" của mình, được thể hiện qua thái độ và hành động "Pro-Choice". Đúng thế, theo lý, nếu con người đã tự nhận mình là có quyền tự chọn và tự quyết (như tự do luyến ái), tự chọn cả những việc không thích hợp với thân phận của mình, như chức linh mục nơi nữ tu giới, hay cả những điều không được phép, như phá thai nơi nữ trần giới, thì tự nhiên họ cũng có quyền được tự quyết định hủy bỏ, kể cả những gì "loài người không được phép phân rẽ" (Mt.19:6), như ly dị, phá thai v.v.
Những hiện tượng duy nhân bản quá cỡ ngày nay, như đến thời điểm không thể nào không bùng nổ của nó, vữa có tính cách toàn cầu, như Hội Nghị Phụ Nữ Liên Hiệp Quốc ở Bắc Kinh hồi tháng 9-1995, lại vừa có tính cách trắng trợn, như Hội Nghị Phụ Nữ về Truyền Chức của Nữ Tu Công Giáo vào tháng 11-1995 trên đây. Phải chăng đó là những dấu hiệu báo động "mùa gặt trái đất đã chín mùi" (KH.14:18), cần phải nhổ đi cỏ lùng mà kẻ thù đã được phép gieo vào thế gian (x.Mt.13:29,38,39) để chẳng những không lấn át được mà lại còn làm lợi cho thành phần hạt giống tốt, những hạt giống được "chọn" (Gn.15:16) để "Pro-Christ", để "theo Con Chiên mọi nơi Con Chiên đi" (KH.14:4).Ðaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, trích cuốn Hận Thù Quyết Thắng