Bài Giáo Lý số 37
 


CHỚ LẤY CỦA NGƯỜI VÀ THAM CỦA NGƯỜI
 

Luật Chúa: Điều Bảy và Mười
 

(các số 2401-2463; 2534-2557)
 

CẢM NGHIỆM NHÂN SINH


Của cải không phải là chính thân xác dính liền với hữu thể con người hay là chính sự sống của con người, nên người ta mới nói “của cải là vật tùy thân”. Thế nhưng, dù đóng vai trò tùy thân, nếu không có nó, chẳng hạn như không có những nhu cầu tối thiểu để sống là của ăn, áo mặc, nhà ở, thân xác của con người cũng không ổn và sự sống của họ có thể sẽ bị hiểm nguy. Bởi thế, thực tế cho thấy, từ thân phận tùy thân, thân phận tôi tớ, của cải đã trở thành bạn tâm giao của con người, “đồng tiền dính liền khúc ruột”, thậm chí trở thành chủ nhân ông của họ nữa, đến nỗi, có những lúc họ dám liều cả mạng sống hay nhân phẩm của họ vì nó và cho nó, khi họ “coi của hơn người”. Chính vì tinh thần và tình trạng “coi của hơn người” này đã xẩy ra công khai một cách trầm trọng như một trào lưu trong xã hội vào thời cách mạng kinh tế cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 ở Âu Châu, thối nát đến nỗi đã sinh ra giòi bọ Cộng Sản vào hạ bán thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, một chủ nghĩa và chế độ chủ trương đấu tranh giai cấp và chống lại tư bản. Phần Giáo Hội, qua chủ thuyết xã hội Kitô Giáo của mình từ thế kỷ 19 (xem GL số 2421), Giáo Hội đã chống lại cả Cộng Sản vô sản lẫn Tư Bản duy lợi (xem GL số 2425). Theo Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo (xem GL số 2402-2405): của cải tạo vật được Ngài dựng nên cho tất cả mọi người chứ không cho riêng một cá nhân nào; con người chỉ là quản lý của những gì Ngài dựng nên thôi chứ không phải là chủ nhân ông có tuyệt đối quyền định đoạt tùy ý nghĩ, ý thích của mình; con người cần phải góp công cộng tác với Ngài để làm cho những gì Ngài dựng nên sinh lợi ích cho chính bản thân cũng như cho chung xã hội loài người; bởi thế những gì con người có được là để ban phát và chia sẻ hơn là hưởng thụ một mình, như chính thân xác, sự sống và khả năng của họ là để cho người khác hơn là cho chính họ. Nếu ai phạm đến một trong những nguyên tắc trên đây là phạm đến điều răn thứ bảy và điều răn thứ mười liên quan đến việc chiếm hữu và sử dụng của cải một cách trái phép vậy, như việc trộm cắp, gian lận, phá hoại (điều răn thứ 7) và như lòng tham lam và ghen tị (điều răn 10).



KIẾN THỨC ĐỨC TIN


1. VIỆC TRỘM CẮP, GIAN LẬN VÀ PHÁ HOẠI

Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã dạy về việc trộm cắp, gian lận và phá hoại phạm đến điều răn thứ bảy như sau:

• “Điều răn thứ bảy cấm lấy hay giữ những sản vật của người khác một cách bất chính và làm hại đến họ một cách nào đó liên quan đến sản vật của họ. Điều răn này buộc phải giữ đức công bằng và bác ái trong việc coi sóc các sản vật trần thế cùng những hoa trái bởi lao công của con người. Vì công ích, điều răn này buộc phải tôn trọng mục đích chung của các sản vật và phải tôn trọng quyền tư sản. Đời sống người Kitô hữu phải nỗ lực để qui hướng những sản vật trần gian về Thiên Chúa cũng như về tình bác ái huynh đệ”. (số 2401)

• “Điều răn thứ bảy cấm trộm cắp, tức là cấm chiếm đoạt tài sản của người khác trái với ý muốn chính đáng của chủ nhân. Sẽ không có vấn đề trộm cắp nếu dự đoán được là chủ của sẽ bằng lòng cho hay việc họ từ chối là điều nghịch lý, không hợp với mục đích chung của các sản vật. Đó là trường hợp hết sức khẩn thiết khi chỉ còn một cách duy nhất để thỏa đáng những nhu cầu cấp thời chính yếu (như đồ ăn, nơi ở, quần áo v.v.), bằng việc chiếm quyền sử dụng tài sản của người khác (x Hiến Chế Gaudium et Spes, 69.1)”. (số 2408)

• “Bất cứ hình thức nào tìm cách chiếm lấy và cầm giữ tài sản của người khác một cách bất chính, cho dù không trái với các khoản luật dân sự, cũng đều phạm đến điều răn thứ bảy, như việc cố ý giữ không trả những sản vật vay mượn hay những đồ vật vớ được; buôn bán gian lận; trả lương bất xứng với công làm; lợi dụng người ta không biết hay đang gặp khó khăn bắt họ phải mua với giá cao (x Deut 25:13-16; 24:14-15; Jas 5:4; Am 8:4-6). Những điều sau đây cũng không hợp với luân lý, như đầu cơ tích trữ để tăng giá cả sản vật với mục đích trục lợi làm cho người khác bị thiệt; hối lộ để chi phối những người có trách nhiệm phải quyết định theo luật pháp; chiếm hữu và sử dụng các sản vật dùng chung của công sở để xài riêng; làm việc cẩu thả; lậu thuế; giả mạo các chi phiếu và hóa đơn; tiêu xài quá lố và hoang phí. Cố ý làm hư hại tài sản chung riêng đều là việc nghịch luân lý, cần phải bồi thường”. (số 2409)

• “Phải giữ các lời hứa và thực hiện đúng đắn các thứ hợp đồng đã ký kết một cách công bằng theo luân lýù… Tất cả mọi thứ hợp đồng (về mua bán, vay mượn hay thuê khoán) đều phải được thỏa thuận với nhau và phải được thi hành theo thiện chí” (số 2410). “Các hợp đồng theo sự công bằng giao hoán, liên quan đến những giao kèo giữa người ta với nhau cũng như giữa các tổ chức với nhau, phải hợp với sự tôn trọng đứng dắn các quyền lợi của họ. Sự công bằng giao hoán là điều buộc phải thi hành triệt để; nó đòi phải bảo toàn các quyền tư hữu, trang trải các thứ nợ nần, và chu toàn các phận sự đã tự nguyện ký kết với nhau. Không thể có một hình thức công bằng nào mà lại thiếu sự sông bằng giao hoán này. Cần phải phân biệt sự công bằng giao hoán với sự công bằng pháp lý là những gì liên quan đến việc người công dân phải có đối với cộng đồng theo lẽ công bằng, cũng như với sự công bằng phân phối liên quan đến những gì cộng đồng phải có đối với người công dân tương xứng với việc họ đóng góp và với nhu cầu cần thiết của họ” (số 2411). “Sự công bằng giao hoán đòi buộc phải bồi thường những gì bất công đã phạm, bằng cách hoàn trả những sản vật đã lấy cho chủ nhân của chúng” (số 2412).

• “Đồng lương chính đáng là hoa trái xứng hợp của việc làm. Không trả lương hay giữ tiền lương lại có thể là một việc làm bất công nặng (x Lev 19:13; Duet 24:14-15; Jas 5:4). Để ấn định việc trả lương cho công bằng cần phải để ý đến những nhu cầu và việc đóng góp của từng người… Xét theo luân lý thì sự thỏa thuận giữa đôi bên vẫn chưa đủ để ấn định mức lương”. (số 2434)

• “Các trò chơi đỏ đen may rủi (như chơi bài bạc chẳng hạn v.v.), hay đánh cá đánh cuộc, tự chúng, không phải là những gì ngược lại với sự công bằng. Chúng chỉ không hợp với luân lý khi làm cho người ta bị thiếu hụt những gì cần thiết cho nhu cầu của mình cũng như của những người khác. Đam mê cờ bạc làm cho con người trở thành nô lệ. Gian lận trong việc đánh cá đánh cuộc hay cờ bạc là một lỗi nặng, trừ khi sự thiệt hại gây ra nhẹ đến nỗi kẻ chịu thiệt không cho là đáng kể”. (số 2413)

• “Điều răn thứ bảy cấm các hành động hay những giao dịch, vì bất cứ lý do nào, bởi vị kỷ hay ý hệ, thương mại hay chuyên chế, đưa đến việc nộ lệ hóa con người, đến việc buôn, bán và đổi chác con người như một món hàng hóa, bất chấp phẩm giá bản thân của họ. Đó là một tội phạm đến phẩm giá con người cũng như đến các quyền lợi căn bản của họ, khi cưỡng bách họ phải trở thành một giá trị lợi dụng để sản xuất hay trục lợi”. (số 2414)

• “Điều răn thứ bảy buộc phải tôn trọng tính cách toàn vẹn của thiên nhiên vạn vật nữa. Thú vật, cũng như thực vật và những vật vô hồn, tự chúng được dựng nên cho ích chung của nhân loại trong quá khứ, hiện tại và tương lai (x Gen 1:28–31). Việc sử dụng các nguồn khoáng vật, thực vật và động vật của vũ trụ không thể tách khỏi việc tôn trọng các lề luật luân lý. Con người không có quyền tuyệt đối trong việc làm chủ các vật vô hồn và sinh vật do Tạo Hóa cho phép; quyền này chỉ có giới hạn, vì nó liên quan đến tính chất sự sống của tha nhân, bao gồm cả những thế hệ mai hậu; nó đòi phải có lòng tôn trọng tính cách toàn vẹn của thiên nhiên tạo vật (x Thông Điệp Bách Niên, 37-38)” (số 2415). “Hành hạ hay giết hại thú vật không có lý do chính đáng là hành động không hợp với phẩm giá con người. Tiêu xài số tiền quá đáng vào thú vật, số tiền phải dành ưu tiên trong việc làm giảm bớt cảnh cùng khốn của loài người, cũng không hợp với phẩm giá con người. Người ta có thể yêu thích thú vật; song không được dành cho chúng cảm tình chỉ xứng hợp với con người” (số 2418).


2. LÒNG THAM LAM VÀ GHEN TỊ


Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã dạy về lòng tham lam và ghen tị phạm đến điều răn thứ mười như sau:

• “Điều răn thứ mười cấm không được thèm muốn và ước ao đủ thứ sản vật trần gian một cách vô độ. Điều răn thứ mười này cấm không được có lòng tham lam phát xuất từ đam mê ham muốn được giầu sang và quyền quí bởi đó mà ra. Điều răn này cũng cấm không được ước ao làm điều bất công, ở chỗ làm thiệt hại tha nhân liên quan đến sản vật trần gian của họ”. (số 2536)

• “Điều răn thứ mười đòi hỏi con người không được có lòng ghen tị với nhau… Lòng ghen tị có thể gây ra những tội độc ác nhất (x Gen 4:3-7; 1Kgs 21:1-29). ‘Bởi ma quỉ ghen tị mà sự chết đã xâm nhập thế gian’ (Wis 2:24)”. (số 2538)

• “Ghen tị là một mối tội đầu. Nó ám chỉ đến nỗi buồn phiền vì thấy nhau có của cải sản vật cũng như ám chỉ đến lòng ước ao vô độ trong việc muốn chiếm hữu những của cải ấy cho mình, dù chiếm hữu một cách bất chính đi nữa. Ghen tị là một tội trọng khi nó muốn gây thiệt hại nặng nề cho tha nhân”. (số 2539) “


TÓM LẠI:

Về những gì phạm đến điều răn thứ bảy, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã đề cập đến các tội như trộm cắp (số 2408), gian lận (số 2409-2413, 2434) và phá hoại (số 2414, 2418), còn về những gì phạm đến điều răn thứ mười, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã nói đến lòng tham lam (số 2536) và ghen tị (số 2538-2539).


THÂM TÍN SỐNG ĐẠO


1. “Học thuyết xã hội của Giáo Hội nêu lên những nguyên tắc để suy nghĩ; đưa ra những tiêu chuẩn để phán đoán; phác họa những hướng dẫn để tác hành: Bất cứ thể chế nào chỉ lấy kinh tế làm tiêu chuẩn để ấn định các mối liên hệ trong xã hội đêàu đi ngược lại với bản tính của con người, cũng như với hành động của họ (x. Thông Điệp Bách Niên, 24)”. (số 2423)

2. “Lý thuyết nào lấy lợi lộc làm tiêu chuẩn duy nhất và là cùng đích tối hậu cho sinh hoạt kinh tế là trái với luân lý... “ (số 2424)

3. “Giáo Hội bác bỏ các ý thức hệ chuyên chế và vô thần có liên quan dính dáng đến ‘cộng sản chủ nghĩa’ hay ‘xã hội chủ nghĩa’ trong thời đại tân tiến này. Đồng thời Giáo Hội cũng không chấp nhận, ‘chủ nghĩa tư bản’ thực tiễn, cá nhân chủ nghĩa và tính cách thượng tôn của luật thị trường lấn át lao công của con người (x Thông Điệp Bách Niên, 10; 13; 44). Điều hành kinh tế hoàn toàn theo kế hoạch tập quyền là điều làm hư hoại đến nền tảng của các mối liên hệ về xã hội; điều hành kinh tế hoàn toàn theo luật thị trường làm mất đi công bình xã hội, vì ‘có nhiều nhu cầu của con người thị trường không thể nào thỏa đáng được’ (Thông Điệp Bách Niên, 34). Phải đưa ra các qui chế về thị trường cũng như các sáng kiến về kinh tế hợp lý, căn cứ vào bậc thang giá trị chính đáng và nhắm đến công ích”. (số 2425)

4. “Việc phát triển hoạt động kinh tế và tình trạng tăng tiến trong việc sản xuất là những gì nhằm đáp ứng các nhu cầu của con người. Đời sống kinh tế không chỉ nhắm đến việc gia tăng sản xuất đồ vật cũng như việc tăng thêm lợi lộc và quyền lực; sinh hoạt này trước hết là để phục vụ con người, phục vụ trọn vẹn con người cũng như phục vụ toàn thể cộng đồng con người. Sinh hoạt kinh tế, được điều hành theo những phương pháp riêng của mình, phải được thực hiện trong các giới hạn của lãnh vực luân lý, hợp với đức công bằng xã hội, nhờ đó đáp ứng dự án của Thiên Chúa về con người (x Hiến Chế Gaudium et Spes, 64)”. (số 2426)

5. “Việc làm của con người trực tiếp phát xuất từ con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và được Ngài kêu gọi để tiếp nối công cuộc sáng tạo, bằng việc họ làm chủ trái đất cùng nhau và cho nhau (x Gen 1:28; Hiến Chế Gaudium et Spes 34; Thông Điệp Bách Niên 31). Bởi thế, việc làm là một phận sự: ‘Ai không muốn làm việc thì đừng ăn’ (2Thess 3:10; x 1Thess 4:11). Làm việc là tôn vinh các tặng ân của Tạo Hóa cũng như các tài năng được Ngài ban cho. Việc làm cũng có tính cách cứu chuộc nữa. Bằng việc chịu đựng cảnh khó nhọc của việc làm (x Gen 3:14-19) hợp với Chúa Giêsu, viên thợ mộc ở Nazarét và là Đấng tử giá trên đồi Canvê, một cách nào đó, con người tỏ ra hợp tác với Con Thiên Chúa trong công cuộc cứu chuộc của Người. Họ chứng tỏ mình là môn đệ của Chúa Kitô bằng việc vác thập giá hằng ngày nơi việc làm họ được kêu gọi để hoàn thành (x Thông Điệp Lao Công Con Người, 27). Việc làm có thể là một phương tiện thánh hóa và là đường lối làm sinh động các thực tại trần thế bằng Thần Linh của Chúa Kitô”. (số 2427)

6. “Tất cả mọi tín hữu của Chúa Kitô phải ‘điều khiển các cảm tình của mình một cách chính đáng, kẻo chúng gặp trở ngại trong việc theo đuổi đức ái trọn hảo, khi sử dụng các thứ trần gian cũng như khi để lòng dính bén giầu sang ngược lại với tinh thần nghèo khó của phúc âm’ (Hiến Chế Lumen Gentium, 42.3)”. (số 2545)

7. “... Phó mình vào việc quan phòng của Cha trên trời giải thoát chúng ta khỏi phải lo âu cho ngày mai (x Mt 6:25-34). Tin tưởng vào Thiên Chúa là việc người nghèo khó sửa soạn được hưởng phúc thật. Họ sẽ được thấy Thiên Chúa”. (số 2547)

 


Trắc Nghiệm

Xin đọc bài Giáo Lý lược tóm tổng ôn dưới đây, rồi dùng các chữ ở cuối trang để điền vào những chỗ gạch trống các câu Sách Giáo Lý vừa học hỏi cho đúng nguyên văn ý nghĩa của nó. Trong vòng 10 phút.

Qua bài Giáo Lý 37 về Luật Chúa Chớ Lấy Của Người và Tham Của Người, Giáo Hội Công Giáo đã cho con cái của mình thấy những điểm chính sau đây: Qua chủ thuyết xã hội Kitô Giáo của mình từ thế kỷ 19 (xem GL số 2421), Giáo Hội đã chống lại cả Cộng Sản vô sản lẫn Tư Bản duy lợi (xem GL số 2425). Theo Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo (xem GL số 2402-2405): của cải tạo vật được Ngài dựng nên cho tất cả mọi người chứ không cho riêng một cá nhân nào; con người chỉ là quản lý của những gì Ngài dựng nên thôi chứ không phải là chủ nhân ông có tuyệt đối quyền định đoạt tùy ý nghĩ, ý thích của mình; con người cần phải góp công cộng tác với Ngài để làm cho những gì Ngài dựng nên sinh lợi ích cho chính bản thân cũng như cho chung xã hội loài người; bởi thế những gì con người có được là để ban phát và chia sẻ hơn là hưởng thụ một mình, như chính thân xác, sự sống và khả năng của họ là để cho người khác hơn là cho chính họ. Nếu ai phạm đến một trong những nguyên tắc trên đây là phạm đến điều răn thứ bảy và điều răn thứ mười liên quan đến việc chiếm hữu và sử dụng của cải một cách trái phép vậy, như việc trộm cắp gian lận (điều răn thứ 7) và như lòng tham lam ghen tị (điều răn 10). Về những gì phạm đến điều răn thứ bảy, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã đề cập đến các tội như trộm cắp (số 2408), gian lận (số 2409-2413, 2434) và phá hoại (số 2414, 2418), còn về những gì phạm đến điều răn thứ mười, Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo đã nói đến lòng tham lam (số 2536) và ghen tị (số 2538-2539).

1. “Điều răn thứ bảy cấm trộm cắp, tức là cấm chiếm đoạt tài sản của người khác trái với ý muốn ____________của chủ nhân. Sẽ không có vấn đề _____________nếu dự đoán được là chủ của sẽ bằng lòng cho hay việc họ từ chối là điều nghịch lý, không hợp với mục đích chung của các sản vật. Đó là trường hợp hết sức ____________khi chỉ còn một cách duy nhất để thỏa đáng những nhu cầu cấp thời chính yếu (như đồ ăn, nơi ở, quần áo v.v.), bằng việc chiếm quyền sử dụng ________của người khác”. (số 2408)

2. “Bất cứ hình thức nào tìm cách chiếm lấy và _________tài sản của người khác một cách__________, cho dù không trái với các khoản luật dân sự, cũng đều phạm đến điều răn thứ bảy, như việc cố ý giữ không trả những sản vật ___________hay những đồ vật vớ được; buôn bán gian lận; trả lương bất xứng với công làm; lợi dụng người ta không biết hay đang gặp khó khăn bắt họ phải mua với__________. Những điều sau đây cũng không hợp với luân lý, như _____tích trữ để tăng giá cả sản vật với mục đích trục lợi làm cho người khác bị thiệt; _______để chi phối những người có trách nhiệm phải quyết định theo luật pháp; chiếm hữu và sử dụng các sản vật ___________của công sở để xài riêng; làm việc cẩu thả; lậu thuế; _______các chi phiếu và hóa đơn; tiêu xài quá lố và hoang phí. Cố ý làm hư hại tài sản chung riêng đều là việc nghịch luân lý, cần phải bồi thường”. (số 2409)

3. “Đồng lương chính đáng là hoa trái xứng hợp của việc làm. Không trả lương hay giữ tiền lương lại có thể là một việc làm bất công nặng (x Lev 19:13; Duet 24:14-15; Jas 5:4). Để ấn định việc trả lương cho công bằng cần phải để ý đến những nhu cầu và việc đóng góp của từng người… Xét theo luân lý thì sự ___________giữa đôi bên vẫn chưa ____để ấn định mức lương”. (số 2434)

4. “Các trò chơi đỏ đen may rủi (như chơi bài bạc chẳng hạn v.v.), hay đánh cá đánh cuộc, __________, không phải là những gì ngược lại với sự___________. Chúng chỉ không hợp với luân lý khi làm cho người ta bị ___________những gì cần thiết cho nhu cầu của mình cũng như của những người khác. Đam mê cờ bạc làm cho con người trở thành nô lệ. Gian lận trong việc đánh cá đánh cuộc hay cờ bạc là một___________, trừ khi sự thiệt hại gây ra nhẹ đến nỗi kẻ chịu thiệt không cho là đáng kể”. (số 2413)

5. “Hành hạ hay giết hại thú vật không có lý do ___________là hành động không hợp với phẩm giá con người. Tiêu xài số tiền quá đáng vào thú vật, số tiền phải dành ưu tiên trong việc làm giảm bớt cảnh cùng khốn của loài người, cũng không hợp với phẩm giá con người. Người ta có thể yêu thích thú vật; song không được dành cho chúng _________chỉ xứng hợp với con người” (số 2418).

6. “Điều răn thứ mười cấm không được thèm muốn và ước ao đủ thứ sản vật trần gian một cách vô độ. Điều răn thứ mười này cấm không được có lòng tham lam phát xuất từ _________ham muốn được giầu sang và ___________bởi đó mà ra. Điều răn này cũng cấm không được ước ao làm điều bất công, ở chỗ làm thiệt hại tha nhân liên quan đến sản vật trần gian của họ”. (số 2536)

7. “Điều răn thứ mười đòi hỏi con người không được có lòng ___________với nhau… Lòng ghen tị có thể gây ra những tội ___________nhất. ‘Bởi ma quỉ ghen tị mà sự chết đã xâm nhập thế gian’”. (số 2538)

8. “Ghen tị là một mối tội đầu. Nó ám chỉ đến nỗi _______________vì thấy nhau có của cải sản vật cũng như ám chỉ đến lòng ước ao __________trong việc muốn chiếm hữu những của cải ấy cho mình, dù chiếm hữu một cách bất chính đi nữa. Ghen tị là một ___________khi nó muốn gây thiệt hại nặng nề cho tha nhân”. (số 2539) “

(tội trọng, chính đáng, trộm cắp, vô độ, buồn phiền, khẩn thiết, tài sản, độc ác, ghen tị, cầm giữ, bất chính, quyền quí, đam mê, vay mượn, giá cao, cảm tình, chính đáng, đầu cơ, hối lộ, lỗi nặng, thiếu hụt, dùng chung, giả mạo, công bằng, tự chúng, thỏa thuận, đủ)