SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

 

"Đấng nhân danh Chúa mà đến" - "Khi nào Tôi được treo lên..."

 

 

 

Chúa Nhật Lễ Lá Năm B - Đầu Tuần Thương Khó

 

 

 

 

PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

 

Kiệu Lá:

 

Bài Phúc Âm: Mt 21, 1-11

"Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi các ngài đến gần Giêrusalem, vào địa hạt Bếtphaghê, giáp núi Cây Dầu, Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, sẽ gặp ngay một con lừa mẹ cột ở đó với con lừa con. Các con hãy mở dây, dẫn về đây cho Thầy; và nếu có ai bảo các con điều gì, thì hãy nói: Chúa cần đến chúng, và Ngài sẽ gởi trả lại ngay". Mọi việc này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri đã phán:

"Các ngươi hãy bảo thiếu nữ Sion rằng: Kìa vua ngươi nhân ái đến cùng ngươi, ngồi trên lừa mẹ và lừa con, là con của con vật chở đồ".

Các môn đệ ra đi và làm theo lời Chúa Giêsu dạy bảo. Hai môn đệ dẫn lừa mẹ và lừa con về, trải áo lên mình chúng và đặt Chúa ngồi lên trên. Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: "Hoan hô con vua Ðavit! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!"

Khi Ngài vào thành Giêrusalem, thì cả thành phố náo động và nói rằng: "Người đó là ai vậy?" Dân chúng trả lời rằng: "Người ấy là Tiên tri Giêsu, xuất thân từ Nadarét, xứ Galilêa".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Thánh Lễ:

 

Bài Ðọc I: Is 50, 4-7

"Tôi đã không giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười, nhưng tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn".

(Bài ca thứ ba về Người Tôi Tớ Chúa)

Trích sách Tiên tri Isaia.

Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 21, 8-9. 17-18a. 19-20. 23-24

Ðáp: Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con? (c. 2a)

Xướng: 1) Bao người thấy con đều mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: "Hắn tin cậy Chúa, xin Ngài cứu hắn, xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương". - Ðáp.

2) Ðứng quanh con là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay con chúng đều chọc thủng, con có thể đếm được mọi đốt xương con. - Ðáp.

3) Phần chúng thì nhìn xem con và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn tấm áo dài, thì chúng rút thăm... Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi Ðấng phù trợ con, xin kíp ra tay nâng đỡ. - Ðáp.

4) Con sẽ tường thuật danh Chúa cho các anh em, giữa nơi công hội, con sẽ ngợi khen Người. "Chư quân là người tôn sợ Chúa, xin hãy ca khen Chúa, toàn thể miêu duệ nhà Giacóp, hãy chúc tụng Người, hãy tôn sợ Người, hết thảy dòng giống Israel!" - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Pl 2, 6-11

"Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.

Ðó là lời Chúa.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Pl 2, 8-9

Chúa Kitô vì chúng ta, đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.

 

Bài Thương Khó: Mc 14, 1 - 15. 47 (bài dài)

"Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".

C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu

 

C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Marcô.

Hai ngày trước Lễ Vượt Qua và Tuần Lễ ăn bánh không men, các thượng tế và luật sĩ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu. Họ bảo nhau rằng:

S. "Ðừng làm trong ngày lễ, kẻo sinh náo động trong dân".

C. Khi Chúa đang dùng cơm ở Bêtania trong nhà ông Simon tật phong, thì có một người phụ nữ mang đến một bình ngọc đựng dầu thơm rất quý giá. Ðập vỡ bình, bà đổ dầu thơm trên đầu Người. Có mấy người khó chịu nghĩ thầm rằng: Làm gì mà phí dầu thơm như vậy? Dầu này có thể bán được hơn ba trăm đồng bạc để bố thí cho kẻ nghèo khó. Và họ nặng lời với bà đó. Nhưng Chúa Giêsu bảo:

J. "Hãy để mặc bà, sao các ông lại làm cực lòng bà? Bà vừa làm cho Ta một việc rất tốt. Vì bao giờ các ông cũng có những kẻ nghèo ở bên mình, và các ông có thể làm phúc cho họ lúc nào tuỳ ý, nhưng Ta, các ông không có Ta ở luôn với đâu. Làm được gì thì bà đã làm, bà đã xức dầu thơm có ý tẩm liệm xác Ta trước. Ta bảo thật các ông: Trong khắp thế giới, Phúc âm này rao giảng đến đâu thì người ta cũng sẽ thuật lại việc bà mới làm để nhớ bà".

C. Khi ấy, Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai, đến tìm các thượng tế để tình nguyện nộp Người cho họ. Nghe vậy, họ mừng rỡ và họ liền hứa cho nó tiền. Và nó tìm dịp tiện nộp Người.

Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn bánh không men là ngày giết chiên mừng Lễ Vượt Qua, các môn đệ thưa Người:

S. "Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua tại đâu?"

C. Người liền sai hai môn đệ đi và dặn rằng:

J. "Các con hãy vào thành, và nếu gặp một người mang vò nước thì hãy đi theo người đó. Hễ người ấy vào nhà nào thì các con hãy nói với chủ nhà rằng: Thầy sai chúng tôi hỏi: Căn phòng Ta sẽ ăn Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu? Và chủ nhà sẽ chỉ cho các con một căn phòng rộng rãi dọn sẵn sàng và các con hãy sửa soạn cho chúng ta ở đó".

C. Hai môn đệ ra đi vào thành và thấy mọi sự như Người đã bảo, và hai ông dọn Lễ Vượt Qua.

Chiều đến, Người cùng Mười Hai môn đệ tới. Và khi mọi người đang ngồi ăn, thì Chúa Giêsu nói:

J. "Ta bảo thật các con, một trong các con đang ăn cùng Ta, sẽ nộp Ta".

C. Các ông đều buồn rầu và lần lượt từng người thưa Ngài:

S. "Thưa Thầy, có phải con không?"

C. Người đáp:

J. "Là một trong mười hai, kẻ cùng chấm một đĩa với Thầy. Con Người phải ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà nó đừng sinh ra thì hơn".

C. Ðang khi họ ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông mà phán:

J. "Các con hãy cầm lấy, này là Mình Ta".

C. Rồi Người cầm lấy chén, tạ ơn, trao cho các ông và mọi người đều uống. Và Người bảo các ông:

J. "Này là Máu Ta, Máu tân ước sẽ đổ ra cho nhiều người. Ta bảo thật các con: Ta sẽ chẳng còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày Ta sẽ uống rượu mới trong nước Thiên Chúa".

C. Sau khi hát Thánh Vịnh, Thầy trò đi lên núi Cây Dầu. Chúa Giêsu bảo các ông:

J. "Ðêm nay, tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy, vì có lời chép rằng: ta sẽ đánh chủ chăn và đoàn chiên sẽ tan tác. Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con".

C. Phêrô thưa Người:

S. "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, nhưng con thì không".

C. Chúa Giêsu bảo ông:

J. "Thầy bảo thật con: Hôm nay, nội đêm nay, trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Thầy ba lần".

C. Nhưng Phêrô càng lên giọng cương quyết hơn mà rằng:

S. "Không, dầu phải chết với Thầy, con cũng sẽ không chối Thầy".

C. Và tất cả đều nói như vậy.

Ði đến một vườn kia tên là Ghếtsêmani, Người bảo các môn đệ:

J. "Các con hãy ngồi lại đây trong khi Thầy đi cầu nguyện".

C. Rồi Người đem Phêrô, Giacôbê và Gioan theo Người và Người bắt đầu kinh sợ và buồn sầu. Người liền bảo các ông:

J. "Linh hồn Thầy buồn đến chết được, các con hãy ở lại đây và tỉnh thức".

C. Tiến xa hơn một chút, Người phục xuống đất và cầu xin nếu có thể được thì xin cho qua khỏi giờ này. Và Người nguyện rằng:

J. "Abba, Lạy Cha, Cha có thể làm được mọi sự, xin cất chén này khỏi con! Nhưng không theo ý con muốn, một theo ý Cha".

C. Người trở lại và thấy các ông đang ngủ, nên nói với Phêrô:

J. "Simon, con ngủ ư? Con không có sức thức được một giờ sao? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì lanh lẹ, còn xác thịt thì yếu đuối".

C. Rồi Người đi khỏi đó và cầu nguyện cùng lời như trước. Khi trở lại lần nữa và thấy các ông còn ngủ (vì mắt các ông nặng trĩu) và các ông không còn biết thưa Người làm sao. Lần thứ ba, Người trở lại và bảo:

J. "Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi. Thế là xong! Giờ đã đến: Này Con Người sắp bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Thôi! hãy chỗi dậy, chúng ta đi, kẻ nộp Thầy đã tới nơi".

C. Người còn đang nói, thì Giuđa Iscariô, một trong nhóm Mười Hai đến, cùng đi với một toán đông mang gươm giáo và gậy gộc do các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão sai đến. Trước đó, tên phản bội đã ra hiệu cho chúng rằng:

S. "Hễ tôi hôn mặt ai, thì đó chính là Ngài, các ông cứ bắt lấy và điệu đi cho cẩn thận".

C. Vừa đến, nó liền tới gần Người mà nói:

S. "Chào Thầy".

C. Và nó hôn Người. Và chúng tra tay bắt Người. Nhưng một người trong những kẻ đứng xung quanh rút gươm chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu nói với chúng rằng:

J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp! Hằng ngày, Ta ở giữa các ngươi, giảng dạy trong đền thờ mà sao các ngươi không bắt Ta. Nhưng thế là để ứng nghiệm lời Kinh Thánh".

C. Bấy giờ môn đệ bỏ Người và trốn đi hết. Có một thanh niên theo Người, mình chỉ quấn một tấm khăn, họ túm lấy anh ta, nhưng anh ta bỏ tấm khăn lại và chạy trốn mình trần.

Chúng điệu Chúa Giêsu đến thầy thượng tế, các tư tế, luật sĩ và kỳ lão hội lại đông đủ. Còn Phêrô theo Người xa xa đến tận trong dinh thượng tế và ngồi sưởi lửa với đám đầy tớ. Vậy các thầy thượng tế và toàn thể công nghị tìm một chứng cáo Chúa Giêsu để giết Người, song họ không tìm ra. Có nhiều kẻ đã cáo gian Người, nhưng các chứng đó không hợp nhau. Tuy nhiên có nhiều kẻ đứng lên làm chứng gian cho Người rằng:

S. "Chúng tôi đã nghe nó nói: Ta sẽ phá huỷ đền thờ này do tay loài người làm ra, và trong ba ngày, Ta sẽ xây lại một đền thờ khác không bởi tay loài người làm ra".

C. Nhưng chứng cớ của họ cũng không hợp nhau. Khi ấy, thầy thượng tế đứng lên giữa công nghị hỏi Chúa Giêsu rằng:

S. "Sao ông không trả lời gì về những điều các người này tố cáo ông".

C. Nhưng Người vẫn thinh lặng và không đáp lại gì. Thầy thượng tế lại hỏi:

S. "Ông có phải là Ðấng Kitô Con Thiên Chúa đáng chúc tụng chăng?"

C. Chúa Giêsu đáp:

J. "Phải, chính Ta! Rồi các ông sẽ thấy Con Người ngồi bên hữu Ðấng toàn năng và ngự đến trên đám mây".

C. Thầy thượng tế liền xé áo mình ra và nói:

S. "Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng nữa? Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?"

C. Ai nấy đều lên án Người đáng chết. Rồi có kẻ bắt đầu nhổ vào Người, che mặt Người và đánh đấm Người mà rằng:

S. "Hãy đoán xem!"

C. Và bọn thủ hạ vả mặt Người.

Phêrô đang ở ngoài sân tiền đường, thì có một đầy tớ gái của thầy thượng tế đến, thấy Phêrô đang sưởi, thì nhìn ông và nói:

S. "Ông cũng theo Giêsu, người Nadarét".

C. Nhưng ông chối phắt mà rằng:

S. "Tôi không biết, tôi không hiểu cô muốn nói gì".

C. Rồi ông đi ra ngoài phía trước tiền đường, và gà liền gáy. Lần nữa người đầy tớ thấy ông, liền nói với những người xung quanh rằng:

S. "Ông này thuộc bọn đó".

C. Nhưng ông lại chối. Một lúc sau, những người ở đó lại nói với Phêrô rằng:

S. "Ðúng ông thuộc bọn đó, vì cả ông cũng là người Galilêa".

C. Ông liền nguyền rủa nặng lời và thề rằng:

S. "Tôi không biết người mà các ông nói đó".

C. Tức thì gà gáy lần thứ hai. Và Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã bảo ông: "Trước khi gà gáy hai lần, con đã chối Ta ba lần". Và ông liền than khóc.

Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người:

S. "Ông có phải là vua dân Do-thái không?"

C. Chúa Giêsu đáp:

J. "Ông nói đúng!"

C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng:

S. "Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!"

C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi:

S. "Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?"

C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng:

S. "Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?"

C. Nhưng chúng lại kêu lên:

S. "Ðóng đinh nó đi!"

C. Philatô đáp lại:

S. "Người này đã làm gì nên tội?"

C. Song chúng càng la to hơn:

S. "Ðóng đinh nó đi!"

C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng:

S. "Tâu Vua dân Do-thái".

C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào.

Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói:

S. "Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!"

C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau:

S. "Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!"

C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:

J. "Eloi, Eloi, lema sabachtani!"

C. Nghĩa là:

J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!"

C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng:

S. "Kìa, nó gọi Elia!"

C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng:

S. "Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?"

C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở.

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng:

S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa!"

C. Cũng có những phụ nữ đứng nhìn từ đàng xa, trong số đó có bà Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê hậu và của Giuse, và bà Salômê, là những kẻ đã theo giúp Người khi Người còn ở xứ Galilêa. Và nhiều người khác cũng đã lên Giêrusalem với Người.

Trời đã xế chiều và hôm đó lại là ngày chuẩn bị, áp ngày Sabbat. Ông Giuse quê ở Arimathia, một hội viên vị vọng trong công nghị, cũng là người trông đợi nước Thiên Chúa, ông mạnh dạn đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Philatô ngạc nhiên nghe nói Người đã chết, ông gọi viên sĩ quan đến và hỏi xem Người đã chế thật chưa. Khi được viên sĩ quan phúc trình, quan trao xác Người cho Giuse. Giuse đã mua một khăn trắng, hạ xác Chúa Giêsu xuống khỏi thập giá, liệm vào khăn và đặt trong mộ đã đục sẵn trong đá, và lăn một tảng đá lấp cửa mộ. Lúc đó bà Maria Mađalêna và Maria mẹ ông Giuse nhìn xem nơi Người được an táng.

 

Hoặc đọc bài vắn này: Mc 15, 1-39

C. Vừa tảng sáng, các thượng tế hội nghị với các kỳ lão, luật sĩ và toàn thể công nghị. Họ đã trói Chúa Giêsu và giải nạp Người cho Philatô. Philatô hỏi Người:

S. "Ông có phải là vua dân Do-thái không?"

C. Chúa Giêsu đáp:

J. "Ông nói đúng!"

C. Và các thầy thượng tế cáo Người nhiều điều. Philatô lại hỏi Người rằng:

S. "Ông không trả lời gì ư? Hãy coi họ tố cáo Ông biết bao nhiêu điều!"

C. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời gì thêm, khiến Philatô ngạc nhiên. Vào mỗi dịp lễ, quan có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Bấy giờ trong khám có tên Baraba bị giam cùng với những kẻ phiến loạn, vì chúng đã giết người trong cuộc khởi loạn. Dân chúng tiến lên Philatô xin ân xá theo như quan quen làm. Vậy Philatô hỏi:

S. "Các ngươi có muốn ta phóng thích cho các ngươi Vua dân Do-thái không?"

C. (Vì quan đã biết rõ do lòng ghen tương mà các thượng tế nộp Người). Nhưng dân xin quan phóng thích Baraba cho họ. Philatô bảo dân chúng rằng:

S. "Các ngươi muốn Ta làm gì cho vua dân Do-thái?"

C. Nhưng chúng lại kêu lên:

S. "Ðóng đinh nó đi!"

C. Philatô đáp lại:

S. "Người này đã làm gì nên tội?"

C. Song chúng càng la to hơn:

S. "Ðóng đinh nó đi!"

C. Sau cùng Philatô muốn vừa lòng dân, liền tha Baraba và trao Chúa Giêsu cho chúng đánh đòn và đóng đinh vào thập giá. Quân lính điệu Người vào sân tiền đường và tập họp cơ đội lại. Chúng mặc áo choàng đỏ cho Người, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người. Ðoạn chào Người rằng:

S. "Tâu Vua dân Do-thái".

C. Rồi chúng lấy cây sậy đánh đầu Người, khạc nhổ vào Người và quỳ gối triều bái Người. Khi đã nhạo cười Người, chúng lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục lại cho Người và chúng điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Chúng gặp một người qua đường, tên là Simon, quê ở Xyrênê, là thân phụ của Alexanđrô và Rôphô vừa ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác đỡ thập giá cho Người. Chúng điệu Người đến nơi kia gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Chúng cho Người uống rượu pha mộc dược, nhưng Người không uống. Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi chúng chia nhau áo Người bằng cách bắt thăm xem ai được phần nào.

Vào lúc giờ thứ ba, chúng đã đóng đinh Người vào thập giá. Và có bản án ghi rằng: Vua dân Do Thái! Và cùng với Người, chúng đóng đinh hai tên trộm cướp vào thập giá, một đứa bên hữu, một đứa bên tả Người. Như vậy là ứng nghiệm lời Thánh Kinh rằng: Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác. Những người qua đường sỉ nhục Người, lắc đầu và nói:

S. "Kià! Kẻ phá đền thờ Thiên Chúa và xây lại trong ba ngày: hãy tự cứu mình xuống khỏi thập giá đi!"

C. Các thượng tế với các luật sĩ cũng nhạo báng Người và nói với nhau:

S. "Nó đã cứu được những kẻ khác mà không tự cứu mình! Bây giờ Ðấng Kitô Vua Israel, hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta thấy mà tin nào!"

C. Cả những kẻ cùng chịu đóng đinh với Người cũng lăng nhục Người. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, tối tăm bao trùm toàn thể lãnh thổ. Và đến giờ thứ chín, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng:

J. "Eloi, Eloi, lema sabachtani!"

C. Nghĩa là:

J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con, Tại sao Chúa bỏ con!"

C. Có mấy người đứng đó nghe thấy liền nói rằng:

S. "Kìa, nó gọi Elia!"

C. Bấy giờ có kẻ chạy đi nhúng miếng bông biển đầy dấm và cuốn vào cây sậy và đưa lên cho Người uống mà rằng:

S. "Hãy đợi xem Elia có đến đem nó xuống không?"

C. Nhưng Chúa Giêsu kêu một tiếng lớn và trút hơi thở.

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

Màn trong đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới. Viên sĩ quan đứng trước mặt Người thấy Người kêu lên và trút hơi thở như thế, liền nói rằng:

S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa!"

 

 

 

 

CHÚA NHẬT - PHẦN NGHI THỨC RƯỚC LÁ TRƯỚC LỄ

 

 

Ngày thứ 40 của Mùa Chay, thời điểm vừa kết thúc 40 ngày Mùa Chay vừa bắt đầu Tuần Thánh, là Chúa Nhật mà chúng ta gọi là Chúa Nhật Lễ Lá cũng là Chúa Nhật Thương Khó. 


Bởi vì, phụng vụ của ngày Chúa Nhật giao điểm kết thúc Mùa Chay và bắt đầu Tuần Thánh này bao gồm 2 biến cố hoàn toàn có tính cách khác nhau, đúng hơn hoàn toàn phản nghịch nhau: về chính bản thân Chúa Kitô thì Người đã đạt đến tột cùng vinh quang nhưng đồng thời cũng xuống tới tận cùng khổ nhục trước mặt trần gian, còn về phía chung dân chúng và môn đệ của Người thì vui thật là vui nhưng đồng thời cũng buồn thật là buồn, buồn đến hoảng sợ và hoảng loạn.


Trước hết, về khía cạnh vinh quang và vui mừng cho Chúa Nhật giao điểm này, được Giáo Hội cử hành trước Thánh Lễ, ở ngoài nhà thờ, với nghi thức làm phép lá và rước lá. Bài Phúc Âm cho nghi thức rước lá này, cả 3 chu kỳ A-B-C, đều thật sự cho thấy Chúa Kitô đã đạt đến tột cùng vinh quang của Người trước mặt trần gian khi Người tiến vào Thành Thánh Giêrusalem là giáo đô của Do Thái giáo. Đến độ, viên Tổng Trấn của đế quốc Roma là Philatô ở Giêrusalem bấy giờ, khi trực diện với Người, cũng tưởng nhầm - "Ông có phải là vua dân Do Thái không?" (Gioan 18:33); thậm chí, cho dù Chúa Giêsu đã đính chính về ý nghĩa làm vua của Người về lãnh vực thuần thiêng liêng hơn là thuần chính trị trần thế (xem Gioan 18:34), viên toàn quyền của đế quốc Roma ở Giêrusalem này vẫn cứ đề trên đầu thập tự giá của Người là "Giêsu Nazarét, Vua dân Do Thái" (xem Gioan 19:19), bất chấp lời yêu cầu của giáo quyền Do Thái xin ông hãy đề lại rằng: "Người này tự xưng mình là Vua dân Do Thái" (xem Gioan 19:22).


Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho cả 3 chu kỳ A và B thuật lại rằng: "Các môn đệ ra đi và làm theo lời Chúa Giêsu dạy bảo. Hai môn đệ dẫn lừa mẹ và lừa con về, trải áo lên mình chúng và đặt Chúa ngồi lên trên. Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: 'Hoan hô con vua Ðavit! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!' Khi Ngài vào thành Giêrusalem, thì cả thành phố náo động và nói rằng: 'Người đó là ai vậy?' Dân chúng trả lời rằng: 'Người ấy là Tiên tri Giêsu, xuất thân từ Nadarét, xứ Galilêa'".

 

 

 

 

Qua bài Phúc Âm này, chúng ta chẳng những thấy được tất cả lòng trọng kính, bái phục và tôn sùng của chung dân chúng cũng như môn đệ đoàn của Người, qua các việc họ "trải áo lên mình chúng và đặt Chúa ngồi lên trên. Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi" và "kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: 'Hoan hô con vua Ðavit! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời'", những việc làm phải nói là chưa từng có cho bất cứ một ai (tiêu biểu và nổi tiếng nhất như tổ phụ Abraham, cứu tinh Moisen, tiên tri Elia, thánh vương Đavít, tiền hô Gioan v.v.) trong giòng lịch sử của dân Do Thái, mà còn thấy được cả cái bóng đen chập chờn bắt đầu xuất hiện, một chi tiết chỉ được một mình Phúc Âm Thánh Luca thuật lại ở cuối bài Phúc Âm cho phụng vụ phần rước lá Năm C như sau: 

 

 

"Một vài người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: 'Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài đi'. Chúa Giêsu nói: 'Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm thinh, thì những

 

viên đá sẽ la lên'".

 

Hiện tượng tương phản này cũng đã được Thánh ký Gioan ghi nhận như thế này: "Những kẻ ở với Người chứng kiến thấy việc Người gọi Lazarô ra khỏi mồ và làm cho ông ấy sống lại từ cõi chết. Dân chúng họ đi đón Người, bởi họ nghe biết Người đã làm dấu lạ ấy. Những người biệt phái mới bảo nhau rằng: 'Các ông thấy không, các ông chẳng đi đến đâu rồi đó! Kìa, cả thế gian đã chạy theo hắn ta mất rồi!" (Gioan 12:17:19).

 

Trước thái độ có vẻ ghen tương đầy thành kiến và ác cảm ấy của những người biệt phái, Chúa Giêsu đã nhắc khéo họ rằng: "nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên". Nghĩa là

Người muốn nhắn nhủ họ rằng chỉ có ai tin tưởng vào Người mới có thể tỏ ra long trọng nghênh đón Người như thế mà thôi. Qua câu này Người cũng muốn nhắc nhở họ lời Người đã

cảnh báo họ về lòng tin của họ trước kia, (trong bài Phúc Âm Thánh Gioan Thứ Ba Tuần V vừa rồi): "Tôi nói cho quí vị biết quí vị sẽ chết trong tội lỗi của các vị; quí vị sẽ chết trong tội

lỗi của quí vị trừ phi quí vị tin vào Tôi" (Gioan 8:24).

Mà thật, đúng như những gì Người đã cảnh báo. Chính vì họ không tin mà họ đã thực sự chết trong tội lỗi của họ, khi họ càng trở nên mù quáng và điên cuồng lên án Người, vào chính lúc Người tỏ mình ra cho họ biết như họ nhân danh Thiên Chúa mà hỏi Người, và làm áp lực thẩm quyền đế quốc Roma để đóng đinh Người cho bằng được, dù vị tổng trấn Philatô này thấy Người vô tội và tìm cách tha Người. Chưa hết, trong cuộc khổ nạn và tử giá của Người, các môn đệ thân tín của Người cũng vì Người mà vấp phạm nữa. Không phải vì các vị không tin Người mà chính vì các vị tin rằng "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16).

 

Thật vậy, chính vì các vị tin rằng Vị Sư Phụ "đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14) của các vị chính là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" như thế mà các vị, qua lời can gián tiêu biểu của tông đồ Phêrô (xem Mathêu 16:22-23), đã cho thấy các vị không thể nào chấp nhận được sự kiện Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa vô cùng thiện hảo và toàn năng bị khổ nạn và tử giá như là một tên tử tội. Bởi thế, khi thấy Thày mình bị bắt và bị lên án tử các vị đã thật sự không thể nào không bị chao đảo đức tin!

 

 

Bài Phúc Âm trong Thánh Lễ hôm nay, dù theo chu kỳ A-B-C cũng đều thuật lại biến cố cứu độ vô cùng quan trọng này, một biến cố theo thời điểm xẩy ra vào Thứ Sáu trong tuần, nhưng lại là một biến cố cần phải long trọng cử hành vào Chúa Nhật cho mọi người môn đệ của Người được tham dự vào mầu nhiệm này. Đó là lý do Chúa Nhật Lễ Lá cũng là Chúa Nhật Thương Khó mở màn Tuần Thánh vậy.

Thánh Thi (Giờ Kinh Phụng Vụ Ban Ngày trong suốt Tuần Thánh - theo bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Phụng Vụ Giờ Kinh)

 

 

Toàn dân Chúa, nào reo vui hớn hở

Miệng hát mừng ơn cứu độ Chúa ban:

Ðức Giêsu, Ðấng chuộc tội trần gian

Ðã đánh bại tên tử thần độc dữ.

 

Ðường dậy sóng người đi như thác đổ

Ngành lá xanh phất phới tựa rừng cờ,

Cả một trời vang dội tiếng tung hô:

Vạn vạn tuế, mừng Con vua Ðavít!

 

Ta hết thảy cùng chạy ra nghênh tiếp

Vị Quân Vương cao cả đã tới đây,

Hát lên đi, lời vinh chúc giãi bày

Vung cành liễu, nhịp theo câu vạn tuế.

 

Xin Người khấng vì tình thương trời bể

Bước đường đời, giữ ta khỏi trượt chân,

Ðể bao lâu còn sinh sống cõi trần,

Ta hằng giữ lòng tri ân cảm mến.

 

Cung trầm bổng dệt bài ca cầu nguyện

Xin khấu đầu thượng tiến Chúa Ba Ngôi

Ðã đổ hồng ân cứu chuộc loài người,

Muôn muôn thuở xin dâng lời vinh chúc.

 

 

CHÚA NHẬT - THƯƠNG KHÓ TRONG LỄ

 

Giáo Hội cử hành biến cố khổ nạn và tử giá của Chúa Kitô trong Thánh Lễ Chúa Nhật này với phần phụng vụ lời Chúa, trước hết về thái độ của Người (như Tiên Tri Isaia cho biết trong Bài Đọc 1 cho thấy), sau nữa về thân phận của Người (như Thánh Phaolô cảm nhận trong Bài Đọc 2), và sau hết về công cuộc cứu chuộc của Người (như Thánh ký Marco trình thuật trong Bài Phúc Âm).

 

 

Trước hết về thái độ của Chúa Kitô, Người đã được Tiên Tri Isaia tiên báo hoàn toàn hiền lành như con chiên bị mang đi sát tế: "Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn". Tất cả đã được ứng nghiệm nơi Người như chúng ta sẽ thấy rõ hơn trong Bài Phúc Âm của một trong bộ Phúc Âm Nhất Lãm tùy theo chu kỳ phụng niên A-B-C hôm nay, chẳng hạn Phúc Âm theo Thánh Marco của Năm B, để chứng tỏ Người thật sự đã Đấng Thiên Sai đến không phải để làm theo ý mình mà là ý Cha là Đấng đã sai Người.

 

 

 

 

 

Thái độ hiền lành như chiên bị mang đi sát tế của Chúa Kitô còn được Thánh Vịnh 21 diễn tả trong Bài Đáp Ca hôm nay, nhất là 3 câu đầu, tất cả cũng đã ứng nghiệm trong Bài Phúc Âm hôm nay:

 

 

1) Bao người thấy con đều mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: "Hắn tin cậy Chúa, xin Ngài cứu hắn, xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương".

 

2) Ðứng quanh con là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay con chúng đều chọc thủng, con có thể đếm được mọi đốt xương con.

 

3) Phần chúng thì nhìn xem con và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn tấm áo dài, thì chúng rút thăm... Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi Ðấng phù trợ con, xin kíp ra tay nâng đỡ.

 

 

 

 

Sau nữa về thân phận của Người, Người đã được Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, vị đã được mang lên tầng trời thứ ba để nghe thấy những lời khôn tả chưa từng nghe thấy ai nói (xem 2Corinto 12:2-4), và là vị chiêm ngưỡng thấy một "Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá".

 

 

 

 

 

 

 

Và chính vì thân phận vô cùng cao cả như Thiên Chúa và bằng Thiên Chúa của mình như thế mà Người mới có tư cách và quyền năng cứu độ nhân loại, ở chỗ tất cả những gì Người làm, nhất là những gì Người chịu, mới có một giá trị vô cùng, chẳng những cứu được một thế giới nhân loại tội lỗi này mà còn cả ngàn muôn ức triệu thế giới tội lỗi khác. Nếu để ý đến thân phận vô cùng cao cả của Chúa Kitô là Thiên Chúa, chúng ta mới thông cảm được cái vấp phạm của các tông đồ, mới thấy được Thiên Chúa toàn thiện toàn ái đã yêu thương con người tạo vật vô cùng thấp hèn bất xứng của Ngài là chừng nào, và mới thấy tội lỗi của nhân loại kinh hoàng khủng khiếp đến đâu!

 

 

Sau hết về công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô, một công cuộc cứu chuộc lên đến tột đỉnh vào Tam Nhật Thánh, một tam nhật, theo Thánh ký Marco thuật lại, bao gồm các biến cố chính yếu được bộ Phúc Âm Nhất Lãm cùng thuật lại thứ tự như sau: 1- Âm mưu bán Thày của tông đồ Giuđa Íchca (có thể vào đầu Tuần Thánh); 2- Chúa Giêsu ăn mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở Bữa Tiệc Ly thiết lập Thánh Thể (Chiều Tối Thứ Năm Tuần Thánh); 3- Chúa Giêsu cầu nguyện trong Vườn Cây Dầu (Đêm Thứ Năm Tuần Thánh); 4- Chúa Giêsu bị bắt giải đến Hội Đồng Đầu Mục Do Thái (Rạng Sáng Thứ Sáu Tuần Thánh); 5- Chúa Giêsu được xét xử trước Tổng Trấn Philatô (Sáng Thứ Sáu Tuần Thánh); 6- Chúa Giêsu vác thập giá và bị đóng đanh vào thập giá (Trưa và Chiều Thứ Sáu Tuần Thánh).

 

 

Tuy nhiên, nếu Phúc Âm Thánh Luca có những chi tiết không hề có trong Phúc Âm Thánh Mathêu và Marco, như đã được phân tích và dẫn giải ở Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật Thương Khó của Phụng Niên Năm C - Lễ Lá Tuần Thánh: "Đấng Nhân Danh Chúa mà đến" - "Vua Dân Do Thái",

thì Phúc Âm Thánh ký Marco cũng vậy, dù ngắn hơn Phúc Âm Thánh Mathêu và Thánh Luca, cũng có một số chi tiết nổi bật, đặc biệt về người nữ môn đệ Maria Mai Đệ Liên, một chi tiết ngưỡng vọng về Phục Sinh trong bài Phúc Âm Chúa Nhật Năm B mở đầu Tuần Thương Khó của Chúa Kitô. Những chi tiết đó ở ngay đầu bài Phúc Âm của Thánh ký Marco như sau:

 

 

"Hai ngày trước Lễ Vượt Qua và Tuần Lễ ăn bánh không men, các thượng tế và luật sĩ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu. Họ bảo nhau rằng: 'Ðừng làm trong ngày lễ, kẻo sinh náo động trong dân'. Khi Chúa đang dùng cơm ở Bêtania trong nhà ông Simon tật phong, thì có một người phụ nữ mang đến một bình ngọc đựng dầu thơm rất quý giá. Ðập vỡ bình, bà đổ dầu thơm trên đầu Người. Có mấy người khó chịu nghĩ thầm rằng: Làm gì mà phí dầu thơm như vậy? Dầu này có thể bán được hơn ba trăm đồng bạc để bố thí cho kẻ nghèo khó. Và họ nặng lời với bà đó. Nhưng Chúa Giêsu bảo: 'Hãy để mặc bà, sao các ông lại làm cực lòng bà? Bà vừa làm cho Ta một việc rất tốt. Vì bao giờ các ông cũng có những kẻ nghèo ở bên mình, và các ông có thể làm phúc cho họ lúc nào tuỳ ý, nhưng Ta, các ông không có Ta ở luôn với đâu. Làm được gì thì bà đã làm, bà đã xức dầu thơm có ý tẩm liệm xác Ta trước. Ta bảo thật các ông: Trong khắp thế giới, Phúc âm này rao giảng đến đâu thì người ta cũng sẽ thuật lại việc bà mới làm để nhớ bà'".

 

 

Nếu mỗi phụng niên chúng ta có một bài Phúc Âm khác nhau về Chúa Nhật Thương Khó này, và năm nào chúng ta cũng khai triển về những điểm nổi bật của Bài Phúc Âm của năm đó, cùng với Bài Phúc Âm Thương Khó của Thánh ký Gioan vào Thứ Sáu Tuần Thánh bao gồm rất nhiều những khác biệt với bộ Phúc Âm Nhất Lãm của Thánh Mathêu, Marco và Luca, thì thiết tưởng mỗi năm chúng ta chỉ cần khai triển đặc điểm nổi nhất của từng bài Phúc Âm cho Chúa Nhật mở đầu Tuần Thánh cũng là Tuần Thương Khó này cũng đủ, để chẳng những đỡ lập đi lập lại những gì trùng hợp không cần thiết, mà còn bổ túc thêm cho trọn vẹn toàn bộ Phúc Âm về cuộc khổ giá và tử nạn của Chúa Kitô.

 

 

Đúng thế, bài Phúc Âm theo Thánh ký Marco cho chu kỳ phụng niên Năm B là Phúc Âm duy nhất trong 4 Phúc Âm tường thuật lại việc xức dầu của người nữ môn đệ Maria Mai Đệ Liên, nhân vật nữ mà trong đoạn Phúc Âm này của mình, được Giáo Hội chọn đọc cho chu kỳ phụng vụ Năm B, Thánh ký Marco chỉ nói trống là "một người phụ nữ mang đến một bình ngọc đựng dầu thơm rất quý giá", và thời điểm xẩy ra sự kiện này là "hai ngày trước Lễ Vượt Qua và Tuần Lễ ăn bánh không men", khi mà vào lúc ấy, Thánh Marco cho biết tiếp: "Các thượng tế và luật sĩ tìm mưu bắt giết Chúa Giêsu. Họ bảo nhau rằng: 'Ðừng làm trong ngày lễ, kẻo sinh náo động trong dân'". 

 

 

Tuy nhiên, trong đoạn trình thuật về sự kiện này, Phúc Âm theo Thánh ký Marco, một cuốn Phúc Âm ngắn nhất được hầu hết học giả Thánh kinh cho là đầu tiên trong 4 Phúc Âm, bao gồm hai lần xức dầu thơm cho Chúa Giêsu: lần đầu được Thánh ký Luca thuật lại và lần cuối được Thánh ký Gioan thuật lại. Thánh ký Luca thuật lại cũng không nói tên của nữ nhân vật xức dầu thơm cho Chúa Giêsu và cho biết là ở vị chủ nhà tên là Simon, hai chi tiết giống như Thánh ký Marco thuật lại.

 

 

Còn Thánh ký Gioan thuật lại lần xức dầu thơm cho Chúa Giêsu lần thứ hai, vào thời điểm "6 ngày trước Lễ Vượt Qua", thời điểm mà Thánh ký Marco cho là "hai ngày", nhưng không phải ở nhà gia chủ tên Simon  ở "Bêthania, ngôi làng của Lazarô là người đã được Chúa Giêsu cho sống lại từ trong kẻ chết" (câu 12:1), và trong bữa thiết đãi này, Thánh ký Gioan còn cho biết rõ hơn một số chi tiết liên quan đến thành phần hiện diện bấy giờ: "Matta phục vụ. Lazarô là một trong những người đồng bàn với Người. Maria mang một cân dầu thơm hảo hạng... để xức chân cho Chúa Giêsu. Rồi lấy tóc mình mà lau khô, và ngôi nhà ngát hương thơm phức" (câu 12:3).

 

 

Related image

 

 

Trong Phúc Âm của Thánh ký Gioan cũng bao gồm cả chi tiết tông đồ Giuđa Íchca tiếc rẻ về loại dầu thơm hảo hạng được Maria sử dụng để xức thơm chân Chúa Giêsu (câu 12:4-6), một chi tiết cũng được Thánh ký Marco thuật lại nhưng không nói rõ ai: "Có mấy người khó chịu nghĩ thầm rằng: Làm gì mà phí dầu thơm như vậy? Dầu này có thể bán được hơn ba trăm đồng bạc để bố thí cho kẻ nghèo khó. Và họ nặng lời với bà đó". Cho dù cả hai Thánh ký Gioan và Marco đều thuật lại về việc Chúa Giêsu lên tiếng bênh vực người nữ vô danh ở Phúc Âm Thánh Marco và mang tên Maria ở Phúc Âm Thánh Gioan, một nữ nhân vật mà trong trình thuật về Chúa Kitô Phục Sinh, cả hai Thánh ký đều xác nhận là "Mai Đệ Liên" (Marco 16:9; Gioan 20:18), nhưng câu bênh vực của Chúa Giêsu theo Thánh ký Marco dài hơn của Thánh ký Gioan và hướng về mầu nhiệm Vượt Qua: "Làm được gì thì bà đã làm, bà đã xức dầu thơm có ý tẩm liệm xác Ta trước. Ta bảo thật các ông: Trong khắp thế giới, Phúc âm này rao giảng đến đâu thì người ta cũng sẽ thuật lại việc bà mới làm để nhớ bà'".

 

 

Image result for john 19:38-42

 

 

Thật vậy, tuy trong câu Chúa Giêsu bênh vực cho nữ môn đệ Maria Mai Đệ Liên của Người ở Phúc Âm theo Thánh ký Gioan cũng nhắc đến chi tiết liên quan đến cái chết của Người, ở chỗ "cứ để chị giữ nó cho đến ngày mai táng Tôi" (câu 12:7), nhưng không hề nói đến chi tiết Phục Sinh, trong khi Phúc Âm của Thánh ký Marco lại đề cập đến 1 chi tiết ám chỉ Phục Sinh: "Trong khắp thế giới, Phúc âm này rao giảng đến đâu thì người ta cũng sẽ thuật lại việc bà mới làm để nhớ bà". "Phúc Âm này" ở đây là gì, nếu không phải là chính bản thân của Chúa Giêsu Kitô, Đấng mà không sống lại thì cũng chẳng bao giờ có "Tin Mừng / Phúc Âm", một "Phúc Âm / Tin Mừng" chỉ sau khi sống lại từ trong kẻ chết, Chúa Kitô mới chính thức truyền cho các tông đồ "đi khắp thế gian rao giảng tin mừng cho mọi tạo vật" (Marco 16:16).

 

 

Như thế, chính lời Chúa Giêsu nói về việc của "một người phụ nữ mang đến một bình ngọc đựng dầu thơm rất quý giá" là Maria Mai Đệ Liên ngay ở đầu Tuần Thánh cũng là Tuần Thương Khó ở khúc mở màn của Phúc Âm Thánh Marcô cho Chúa Nhật Lễ Lá kiêm Thương Khó là một lời tiên báo về cuộc Vượt Qua của Người, từ sự chết: "bà đã xức dầu thơm có ý tẩm liệm xác Ta trước" đến sự sống: "Trong khắp thế giới, Phúc âm này rao giảng đến đâu thì người ta cũng sẽ thuật lại việc bà mới làm để nhớ bà". Chính nữ đương sự xức thơm cho chân Đấng Vượt Qua không biết ý nghĩa sâu xa của việc mình làm, nhưng việc làm với tất cả tấm lòng yêu mến của con người, đối với Chúa và với tha nhân, với "những kẻ nghèo ở bên mình", trước nhan Thiên Chúa, tự chúng vẫn chất chứa một ý nghĩa siêu việt và một giá trị thần linh. 

 

 

Một việc làm chỉ vì lòng yêu mến thuần khiết và thiết tha thì nó chẳng khác gì như mùi của một thứ dầu hảo hạng, không gì có thể cản nổi mùi hương ngào ngạt của nó, đến độ làm cho cả nhà, đúng như Thánh ký Gioan ghi nhận: "Cả nhà đầy những mùi dầu thơm", một diễn tả theo nghĩa đen này đã được chính Chúa Giêsu quảng diễn trong Phúc Âm Thánh ký Marcô theo nghĩa siêu nhiên, đó là tác dụng của mùi dầu thơm thiêng liêng có sức lan tỏa khắp thế giới, ngôi nhà chung của nhân loại: "Trong khắp thế giới, Phúc âm này rao giảng đến đâu thì người ta cũng sẽ thuật lại việc bà mới làm để nhớ bà".