SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

 

"Đấng nhân danh Chúa mà đến" - "Khi nào Tôi được treo lên..."

 

 

 

Chúa Nhật Lễ Lá Năm A - Đầu Tuần Thương Khó

 

 

 

 

PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

 

Kiệu Lá:

 

Bài Phúc Âm: Mt 21, 1-11

"Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi các ngài đến gần Giêrusalem, vào địa hạt Bếtphaghê, giáp núi Cây Dầu, Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: "Các con hãy đến làng trước mặt kia, sẽ gặp ngay một con lừa mẹ cột ở đó với con lừa con. Các con hãy mở dây, dẫn về đây cho Thầy; và nếu có ai bảo các con điều gì, thì hãy nói: Chúa cần đến chúng, và Ngài sẽ gởi trả lại ngay". Mọi việc này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri đã phán:

"Các ngươi hãy bảo thiếu nữ Sion rằng: Kìa vua ngươi nhân ái đến cùng ngươi, ngồi trên lừa mẹ và lừa con, là con của con vật chở đồ".

Các môn đệ ra đi và làm theo lời Chúa Giêsu dạy bảo. Hai môn đệ dẫn lừa mẹ và lừa con về, trải áo lên mình chúng và đặt Chúa ngồi lên trên. Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: "Hoan hô con vua Ðavit! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!"

Khi Ngài vào thành Giêrusalem, thì cả thành phố náo động và nói rằng: "Người đó là ai vậy?" Dân chúng trả lời rằng: "Người ấy là Tiên tri Giêsu, xuất thân từ Nadarét, xứ Galilêa".

Ðó là lời Chúa.

 

 

 

Thánh Lễ:

 

Bài Ðọc I: Is 50, 4-7

"Tôi đã không giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười, nhưng tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn".

(Bài ca thứ ba về Người Tôi Tớ Chúa)

Trích sách Tiên tri Isaia.

Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 21, 8-9. 17-18a. 19-20. 23-24

Ðáp: Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con? (c. 2a)

Xướng: 1) Bao người thấy con đều mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: "Hắn tin cậy Chúa, xin Ngài cứu hắn, xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương". - Ðáp.

2) Ðứng quanh con là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay con chúng đều chọc thủng, con có thể đếm được mọi đốt xương con. - Ðáp.

3) Phần chúng thì nhìn xem con và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn tấm áo dài, thì chúng rút thăm... Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi Ðấng phù trợ con, xin kíp ra tay nâng đỡ. - Ðáp.

4) Con sẽ tường thuật danh Chúa cho các anh em, giữa nơi công hội, con sẽ ngợi khen Người. "Chư quân là người tôn sợ Chúa, xin hãy ca khen Chúa, toàn thể miêu duệ nhà Giacóp, hãy chúc tụng Người, hãy tôn sợ Người, hết thảy dòng giống Israel!" - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Pl 2, 6-11

"Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.

Ðó là lời Chúa.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Pl 2, 8-9

Chúa Kitô vì chúng ta, đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.

 

Bài Thương Khó: Mt 26, 14 - 27, 66 (bài dài)

"Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".

C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu

 

C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai, tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và nói với họ:

S. "Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?"

C. Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người. Ngày thứ nhất tuần lễ ăn bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng:

J. "Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?"

C. Chúa Giêsu đáp:

J. "Các con hãy vào thành, đến với một người kia nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông".

C. Các môn đệ làm như Chúa Giêsu truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ.

Và khi các ông đang ăn, Người nói:

J. "Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy".

C. Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người:

S. "Thưa Thầy, có phải con không?"

C. Người trả lời rằng:

J. "Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy. Thực ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ sẽ nộp Con Người! Thà người đó đừng sinh ra thì hơn!"

C. Giuđa, kẻ phản bội, cũng thưa Người rằng:

S. "Thưa Thầy, có phải con chăng?"

C. Chúa đáp:

J. "Ðúng như con nói".

C. Vậy khi mọi người còn đang ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán:

J. "Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là Mình Ta".

C. Ðoạn Người cầm lấy chén, tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ mà phán:

J. "Tất cả các con hãy uống chén này, vì này là Máu Ta, Máu Tân Ước, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Thầy bảo các con: Từ nay, Thầy sẽ không còn uống chất nho này nữa cho đến ngày Thầy sẽ uống rượu mới cùng các con trong nước Cha Thầy".

C. Sau khi hát thánh vịnh, Thầy trò liền lên núi Ôliu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo các ông:

J. "Tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy trong chính đêm nay, vì có lời chép rằng: "Ta sẽ đánh chủ chăn, và các chiên trong đoàn sẽ tan tác". Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con".

C. Phêrô liền thưa:

S. "Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, riêng con, con sẽ không bao giờ vấp phạm".

C. Chúa Giêsu đáp:

J. "Thầy bảo thật con, chính đêm nay, trước khi gà gáy, con sẽ chối Thầy ba lần".

C. Phêrô lại thưa:

S. "Dù có phải chết cùng Thầy, con sẽ không chối Thầy".

C. Và tất cả các môn đệ cùng nói như vậy.

Rồi Chúa Giêsu cùng đi với các ông đến một chỗ gọi là Ghếtsêmani, và Người bảo các môn đệ:

J. "Các con hãy ngồi đây để Thầy đến đàng kia cầu nguyện".

C. Ðoạn Chúa đưa Phêrô và hai người con ông Giêbêđê cùng đi, Người bắt đầu cảm thấy buồn bực và sầu não. Lúc ấy, Người bảo các ông:

J. "Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được; các con hãy ở lại đây và thức với Thầy".

C. Tiến xa hơn một chút, Người sấp mặt xuống, cầu nguyện và nói:

J. "Lạy Cha, nếu được, xin cho Con khỏi chén này! Nhưng đừng như ý Con muốn, một theo ý Cha muốn".

C. Người trở lại cùng các môn đệ và thấy các ông đang ngủ, liền nói với Phêrô:

J. "Chẳng lẽ các con không thức cùng Thầy được lấy một giờ ư? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi lâm cơn cám dỗ: vì tinh thần thì lanh lẹ, nhưng xác thịt thì yếu đuối".

C. Rồi Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai mà rằng:

J. "Lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha".

C. Ðoạn Người trở lại và thấy các ông còn ngủ, vì mắt các ông nặng trĩu. Người để mặc các ông và đi cầu nguyện lần thứ ba, vẫn lại những lời như trước. Sau đó Người trở lại với các môn đệ và bảo:

J. "Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi! Này sắp đến giờ Con Người sẽ bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Các con hãy chỗi dậy. Chúng ta hãy đi: này kẻ nộp Thầy đã tới gần".

C. Người còn đang nói, thì đây, Giuđa, một trong nhóm mười hai, và cùng với y có lũ đông mang gươm giáo gậy gộc, do các thượng tế và kỳ lão trong dân sai đến. Vậy tên nội công đã dặn họ ám hiệu này:

S. "Hễ tôi hôn người nào, thì đó chính là Người, các ông hãy bắt lấy".

C. Tức khắc Giuđa tới gần Chúa Giêsu và nói:

S. "Chào Thầy".

C. Và nó hôn Người. Nhưng Chúa Giêsu bảo:

J. "Hỡi bạn, bạn đến đây làm chi?"

C. Lúc đó chúng xông tới, tra tay bắt Chúa Giêsu. Ngay sau đó, một trong những người vẫn theo Chúa Giêsu, giơ tay rút gươm và chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu liền bảo:

J. "Con hãy xỏ ngay gươm vào bao: vì tất cả những kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Nào con tưởng rằng Thầy không thể xin Cha Thầy và Ngài sẽ tức khắc gởi đến hơn mười hai cơ binh thiên thần sao? Mà như thế thì làm sao ứng nghiệm lời Kinh Thánh bảo: Sự thế phải như vậy?"

C. Lúc đó Chúa Giêsu nói cùng đám đông rằng:

J. "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ, giữa các ngươi, mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng tất cả sự đó xảy ra là để ứng nghiệm lời các tiên tri đã chép".

C. Bấy giờ các môn đệ bỏ Người và chạy trốn hết.

Những kẻ đã bắt Chúa Giêsu điệu Người đến thầy thượng tế Caipha. Nơi đây các luật sĩ và kỳ lão đã hội họp. Phêrô theo Người xa xa cho tới dinh thầy thượng tế. Rồi ông vào trong dinh ngồi cùng bọn đầy tớ, xem việc xảy ra thế nào. Vậy các thượng tế và tất cả công nghị tìm chứng gian cáo Chúa Giêsu để lên án xử tử Người. Và họ đã không tìm được, mặc dù đã có một số đông chứng nhân ra mắt. Sau cùng, hai người làm chứng gian đến khai rằng:

S. "Người này đã nói: Ta có thể phá đền thờ Thiên Chúa và xây cất lại trong ba ngày".

C. Bấy giờ thầy thượng tế đứng lên nói:

S. "Ông không trả lời gì về các điều những người này đã cáo ông ư?"

C. Nhưng Chúa Giêsu làm thinh, nên thầy thượng tế bảo Người:

S. "Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, ta truyền cho ông hãy nói cho chúng ta biết: Ông có phải là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa không?"

C. Chúa Giêsu trả lời:

J. "Ông đã nói đúng. Nhưng Ta nói thật với các ông: rồi đây các ông sẽ xem thấy Con Người ngự bên hữu Ðấng Toàn Năng, và sẽ đến trên đám mây".

C. Bấy giờ thầy thượng tế xé áo mình ra và nói:

S. "Nó đã nói lộng ngôn! Chúng ta còn cần gì đến nhân chứng nữa? Ðây các ngài vừa nghe lời lộng ngôn. Các ngài nghĩ sao?"

C. Họ đáp lại:

S. "Nó đáng chết!"

C. Bấy giờ chúng nhổ vào mặt Người, đấm đánh Người, lại có kẻ tát vả Người mà nói rằng:

S. "Hỡi Kitô, hãy bói xem, ai đánh ông đó?"

C. Còn Phêrô ngồi ở ngoài sân. Một đầy tớ gái lại gần và nói:

S. "Ông nữa, ông cũng đã theo Giêsu người xứ Galilêa".

C. Nhưng ông chối trước mặt mọi người mà rằng:

S. "Tôi không hiểu chị muốn nói gì?"

C. Khi ông lui ra đến cổng, một đầy tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở đó:

S. "Ông này cũng theo Giêsu người Nadarét".

C. Ông thề mà chối rằng:

S. "Tôi không biết người ấy".

C. Một lúc sau, mấy người đứng đó lại gần mà nói với Phêrô rằng:

S. "Ðúng rồi, ngươi cũng thuộc bọn ấy. Vì chính giọng nói của ngươi tiết lộ tông tích ngươi".

C. Bấy giờ ông rủa mà thề rằng: ông không hề biết người ấy. Tức thì gà gáy. Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói: "Trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần", và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết.

Trời vừa sáng, các thượng tế và kỳ lão trong dân hội họp bày mưu giết Chúa Giêsu. Họ trói Người và điệu đi nộp cho tổng trấn Phongxiô Philatô. Bấy giờ Giuđa, kẻ nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận, đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ lão mà nói rằng:

S. "Tôi đã phạm tội vì nộp máu người công chính".

C. Nhưng họ trả lời:

S. "Can chi đến chúng tôi! Mặc kệ anh!"

C. Anh ta ném những đồng bạc đó vào trong đền thờ và ra đi thắt cổ. Các thượng tế lượm lấy bạc đó và nói:

S. "Không nên để bạc này vào kho vì là giá máu".

C. Sau khi bàn bạc, họ lấy tiền đó mua thửa ruộng của người thợ gốm làm nơi chôn cất những người ngoại kiều. Bởi thế, ruộng ấy cho đến ngày nay được gọi là Haselđama, nghĩa là ruộng máu. Như vậy là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia nói: "Chúng đã lấy ba mươi đồng bạc là giá do con cái Israel đã mặc cả mà bán Ðấng cao trọng. Và họ mang tiền đó mua ruộng của người thợ gốm như lời Chúa đã truyền cho tôi".

Vậy Chúa Giêsu đứng trước quan tổng trấn, và quan hỏi Người rằng:

S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?"

C. Chúa Giêsu đáp:

J. "Ông nói đúng!"

C. Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người:

S. "Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?"

C. Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên.

Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng:

S. "Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?"

C. Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng:

S. "Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy".

C. Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ:

S. "Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích ai?"

C. Họ thưa:

S. "Baraba!"

C. Philatô hỏi:

S. "Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?"

C. Họ đồng thanh đáp:

S. "Ðóng đinh nó đi!"

C. Quan lại hỏi:

S. "Nhưng người này đã làm gì nên tội?"

C. Chúng càng la to:

S. "Ðóng đinh nó đi!"

C. Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói:

S. "Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi".

C. Toàn dân đáp:

S. "Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi".

C. Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá.

Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng:

S. "Tâu vua dân Do-thái!"

C. Ðoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người.

Họ đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: "Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm". Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người này là Giêsu, vua dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả.

Những người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói:

S. "Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!"

C. Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng:

S. "Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: "Ta là Con Thiên Chúa!"

C. Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng:

J. "Eli, Eli, lema sabachtani!"

C. Nghĩa là:

J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!"

C. Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng:

S. "Nó gọi tiên tri Elia".

C. Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo:

S. "Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?"

C. Ðoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở.

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói:

S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa".

C. Ở đó cũng có nhiều phụ nữ đứng xa xa; họ là những người đã theo giúp Chúa Giêsu từ xứ Galilêa. Trong số đó có Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê và Giuse, và mẹ các người con của Giêbêđê.

Tới chiều có một người giàu sang quê ở Arimathia tên là Giuse, cũng đã làm môn đệ Chúa Giêsu, ông đi gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Bấy giờ Philatô truyền giao xác cho ông. Vậy ông Giuse lấy xác, liệm trong một khăn sạch, và đặt trong mồ mà ông đã cho đục trong đá, rồi ông lăn một tảng đá lớn lấp cửa mồ lại và ra về. Còn Maria Mađalêna và bà Maria kia cùng ngồi đó nhìn vào mộ.

Hôm sau, tức là sau ngày chuẩn bị mừng lễ, các thượng tế và biệt phái đến dinh Philatô trình rằng:

S. "Thưa ngài, chúng tôi nhớ, lúc sinh thời tên bịp bợm ấy có nói: "Sau ba ngày, Ta sẽ sống lại". Vậy xin ngài truyền lệnh cho canh mộ đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ nó lấy trộm xác rồi phao đồn với dân chúng rằng: Người đã từ cõi chết sống lại! Và như thế, sự gian dối này lại còn tai hại hơn trước".

C. Philatô trả lời:

S. Các ông đã có lính canh thì cứ đi mà canh như ý.

C. Họ liền đi và đóng ấn niêm phong tảng đá và cắt lính canh giữ mồ.

 

Hoặc đọc bài vắn này: Mt 27, 11-54

C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đứng trước tổng trấn Phi-latô, và quan hỏi Người rằng:

S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?"

C. Chúa Giêsu đáp:

J. "Ông nói đúng!"

C. Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người:

S. "Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?"

C. Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên.

Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng:

S. "Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?"

C. Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng:

S. "Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy".

C. Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ:

S. "Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích ai?"

C. Họ thưa:

S. "Baraba!"

C. Quan lại lên tiếng hỏi họ:

S. "Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?"

C. Họ đồng thanh đáp:

S. "Ðóng đinh nó đi!"

C. Quan lại hỏi:

S. "Nhưng người này đã làm gì nên tội?"

C. Chúng càng la to:

S. "Ðóng đinh nó đi!"

C. Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói:

S. "Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi".

C. Toàn dân đáp:

S. "Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi".

C. Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá.

Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng:

S. "Tâu vua dân Do-thái!"

C. Ðoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người.

Họ đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: "Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm". Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người này là Giêsu, vua dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả.

Những người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói:

S. "Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!"

C. Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng:

S. "Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: "Ta là Con Thiên Chúa!"

C. Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng:

J. "Eli, Eli, lema sabachtani!"

C. Nghĩa là:

J. "Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!"

C. Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng:

S. "Nó gọi tiên tri Elia".

C. Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo:

S. "Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?"

C. Ðoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở.

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói:

S. "Ðúng người này là Con Thiên Chúa".

 

 

 

 

CHÚA NHẬT - PHẦN NGHI THỨC RƯỚC LÁ TRƯỚC LỄ

 

 

Ngày thứ 40 của Mùa Chay, thời điểm vừa kết thúc 40 ngày Mùa Chay vừa bắt đầu Tuần Thánh, là Chúa Nhật mà chúng ta gọi là Chúa Nhật Lễ Lá cũng là Chúa Nhật Thương Khó. 


Bởi vì, phụng vụ của ngày Chúa Nhật giao điểm kết thúc Mùa Chay và bắt đầu Tuần Thánh này bao gồm 2 biến cố hoàn toàn có tính cách khác nhau, đúng hơn hoàn toàn phản nghịch nhau: về chính bản thân Chúa Kitô thì Người đã đạt đến tột cùng vinh quang nhưng đồng thời cũng xuống tới tận cùng khổ nhục trước mặt trần gian, còn về phía chung dân chúng và môn đệ của Người thì vui thật là vui nhưng đồng thời cũng buồn thật là buồn, buồn đến hoảng sợ và hoảng loạn.


Trước hết, về khía cạnh vinh quang và vui mừng cho Chúa Nhật giao điểm này, được Giáo Hội cử hành trước Thánh Lễ, ở ngoài nhà thờ, với nghi thức làm phép lá và rước lá. Bài Phúc Âm cho nghi thức rước lá này, cả 3 chu kỳ A-B-C, đều thật sự cho thấy Chúa Kitô đã đạt đến tột cùng vinh quang của Người trước mặt trần gian khi Người tiến vào Thành Thánh Giêrusalem là giáo đô của Do Thái giáo.


Bài Phúc Âm của chu kỳ Năm A được Thánh ký Mathêu thuật lại rằng: "Các môn đệ ra đi và làm theo lời Chúa Giêsu dạy bảo. Hai môn đệ dẫn lừa mẹ và lừa con về, trải áo lên mình chúng và đặt Chúa ngồi lên trên. Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: 'Hoan hô con vua Ðavit! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!' Khi Ngài vào thành Giêrusalem, thì cả thành phố náo động và nói rằng: 'Người đó là ai vậy?' Dân chúng trả lời rằng: 'Người ấy là Tiên tri Giêsu, xuất thân từ Nadarét, xứ Galilêa'".

 

 

 

 

Qua bài Phúc Âm này, chúng ta chẳng những thấy được tất cả lòng trọng kính, bái phục và tôn sùng của chung dân chúng cũng như môn đệ đoàn của Người, qua các việc họ "trải áo lên mình chúng và đặt Chúa ngồi lên trên. Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi" và "kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: 'Hoan hô con vua Ðavit! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời'", những việc làm phải nói là chưa từng có cho bất cứ một ai (tiêu biểu và nổi tiếng nhất như tổ phụ Abraham, cứu tinh Moisen, tiên tri Elia, thánh vương Đavít, tiền hô Gioan v.v.) trong giòng lịch sử của dân Do Thái, mà còn thấy được cả cái bóng đen chập chờn bắt đầu xuất hiện, một chi tiết chỉ được một mình Phúc Âm Thánh Luca thuật lại ở cuối bài Phúc Âm cho phụng vụ phần rước lá Năm C như sau: 

 

 

"Một vài người biệt phái trong đám đông nói cùng Người rằng: 'Thưa Thầy, xin hãy mắng các môn đệ Ngài đi'. Chúa Giêsu nói: 'Tôi bảo cho các ông biết: nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên'".

 

Hiện tượng tương phản này cũng đã được Thánh ký Gioan ghi nhận như thế này: "Những kẻ ở với Người chứng kiến thấy việc Người gọi Lazarô ra khỏi mồ và làm cho ông ấy sống lại từ cõi chết. Dân chúng họ đi đón Người, bởi họ nghe biết Người đã làm dấu lạ ấy. Những người biệt phái mới bảo nhau rằng: 'Các ông thấy không, các ông chẳng đi đến đâu rồi đó! Kìa, cả thế gian đã chạy theo hắn ta mất rồi!" (Gioan 12:17:19).

Trước thái độ có vẻ ghen tương đầy thành kiến và ác cảm ấy của những người biệt phái, Chúa Giêsu đã nhắc khéo họ rằng: "nếu họ làm thinh, thì những viên đá sẽ la lên". Nghĩa là Người muốn nhắn nhủ họ rằng chỉ có ai tin tưởng vào Người mới có thể tỏ ra long trọng nghênh đón Người như thế mà thôi. Qua câu này Người cũng muốn nhắc nhở họ lời Người đã cảnh báo họ về lòng tin của họ trước kia, (trong bài Phúc Âm Thánh Gioan Thứ Ba Tuần V vừa rồi): "Tôi nói cho quí vị biết quí vị sẽ chết trong tội lỗi của các vị; quí vị sẽ chết trong tội lỗi của quí vị trừ phi quí vị tin vào Tôi" (Gioan 8:24).

Mà thật, đúng như những gì Người đã cảnh báo. Chính vì họ không tin mà họ đã thực sự chết trong tội lỗi của họ, khi họ càng trở nên mù quáng và điên cuồng lên án Người, vào chính lúc Người tỏ mình ra cho họ biết như họ nhân danh Thiên Chúa mà hỏi Người, và làm áp lực thẩm quyền đế quốc Roma để đóng đinh Người cho bằng được, dù vị tổng trấn Philatô này thấy Người vô tội và tìm cách tha Người. Chưa hết, trong cuộc khổ nạn và tử giá của Người, các môn đệ thân tín của Người cũng vì Người mà vấp phạm nữa. Không phải vì các vị không tin Người mà chính vì các vị tin rằng "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16).

 

Thật vậy, chính vì các vị tin rằng Vị Sư Phụ "đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14) của các vị chính là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" như thế mà các vị, qua lời can gián tiêu biểu của tông đồ Phêrô (xem Mathêu 16:22-23), đã cho thấy các vị không thể nào chấp nhận được sự kiện Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa vô cùng thiện hảo và toàn năng bị khổ nạn và tử giá như là một tên tử tội. Bởi thế, khi thấy Thày mình bị bắt và bị lên án tử các vị đã thật sự không thể nào không bị chao đảo đức tin!

 

 

Bài Phúc Âm trong Thánh Lễ hôm nay, dù theo chu kỳ A-B-C cũng đều thuật lại biến cố cứu độ vô cùng quan trọng này, một biến cố theo thời điểm xẩy ra vào Thứ Sáu trong tuần, nhưng lại là một biến cố cần phải long trọng cử hành vào Chúa Nhật cho mọi người môn đệ của Người được tham dự vào mầu nhiệm này. Đó là lý do Chúa Nhật Lễ Lá cũng là Chúa Nhật Thương Khó mở màn Tuần Thánh vậy.

Thánh Thi (Giờ Kinh Phụng Vụ Ban Ngày trong suốt Tuần Thánh - theo bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Phụng Vụ Giờ Kinh)

 

 

Toàn dân Chúa, nào reo vui hớn hở

Miệng hát mừng ơn cứu độ Chúa ban:

Ðức Giêsu, Ðấng chuộc tội trần gian

Ðã đánh bại tên tử thần độc dữ.

 

Ðường dậy sóng người đi như thác đổ

Ngành lá xanh phất phới tựa rừng cờ,

Cả một trời vang dội tiếng tung hô:

Vạn vạn tuế, mừng Con vua Ðavít!

 

Ta hết thảy cùng chạy ra nghênh tiếp

Vị Quân Vương cao cả đã tới đây,

Hát lên đi, lời vinh chúc giãi bày

Vung cành liễu, nhịp theo câu vạn tuế.

 

Xin Người khấng vì tình thương trời bể

Bước đường đời, giữ ta khỏi trượt chân,

Ðể bao lâu còn sinh sống cõi trần,

Ta hằng giữ lòng tri ân cảm mến.

 

Cung trầm bổng dệt bài ca cầu nguyện

Xin khấu đầu thượng tiến Chúa Ba Ngôi

Ðã đổ hồng ân cứu chuộc loài người,

Muôn muôn thuở xin dâng lời vinh chúc.

 

 

CHÚA NHẬT - THƯƠNG KHÓ TRONG LỄ

 

Giáo Hội cử hành biến cố khổ nạn và tử giá của Chúa Kitô trong Thánh Lễ Chúa Nhật này với phần phụng vụ lời Chúa, trước hết về thái độ của Người (như Tiên Tri Isaia cho biết trong Bài Đọc 1 cho thấy), sau nữa về thân phận của Người (như Thánh Phaolô cảm nhận trong Bài Đọc 2), và sau hết về công cuộc cứu chuộc của Người (như Thánh ký Mathêu trình thuật trong Bài Phúc Âm).

 

 

Trước hết về thái độ của Chúa Kitô, Người đã được Tiên Tri Isaia tiên báo hoàn toàn hiền lành như con chiên bị mang đi sát tế: "Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn". Tất cả đã được ứng nghiệm nơi Người như chúng ta sẽ thấy rõ hơn trong Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu hôm nay, để chứng tỏ Người thật sự đã Đấng Thiên Sai đến không phải để làm theo ý mình mà là ý Cha là Đấng đã sai Người.

 

 

 

 

 

Thái độ hiền lành như chiên bị mang đi sát tế của Chúa Kitô còn được Thánh Vịnh 21 diễn tả trong Bài Đáp Ca hôm nay, nhất là 3 câu đầu, tất cả cũng đã ứng nghiệm trong Bài Phúc Âm hôm nay:

 

 

1) Bao người thấy con đều mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: "Hắn tin cậy Chúa, xin Ngài cứu hắn, xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương".

 

2) Ðứng quanh con là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay con chúng đều chọc thủng, con có thể đếm được mọi đốt xương con.

 

3) Phần chúng thì nhìn xem con và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn tấm áo dài, thì chúng rút thăm... Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi Ðấng phù trợ con, xin kíp ra tay nâng đỡ.

 

 

 

 

Sau nữa về thân phận của Người, Người đã được Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô, vị đã được mang lên tầng trời thứ ba để nghe thấy những lời khôn tả chưa từng nghe thấy ai nói (xem 2Corinto 12:2-4), và là vị chiêm ngưỡng thấy một "Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá".

 

 

 

 

 

 

 

Và chính vì thân phận vô cùng cao cả như Thiên Chúa và bằng Thiên Chúa của mình như thế mà Người mới có tư cách và quyền năng cứu độ nhân loại, ở chỗ tất cả những gì Người làm, nhất là những gì Người chịu, mới có một giá trị vô cùng, chẳng những cứu được một thế giới nhân loại tội lỗi này mà còn cả ngàn muôn ức triệu thế giới tội lỗi khác. Nếu để ý đến thân phận vô cùng cao cả của Chúa Kitô là Thiên Chúa, chúng ta mới thông cảm được cái vấp phạm của các tông đồ, mới thấy được Thiên Chúa toàn thiện toàn ái đã yêu thương con người tạo vật vô cùng thấp hèn bất xứng của Ngài là chừng nào, và mới thấy tội lỗi của nhân loại kinh hoàng khủng khiếp đến đâu!

 

 

Sau hết về công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô, một công cuộc cứu chuộc lên đến tột đỉnh vào Tam Nhật Thánh, một tam nhật, theo Thánh ký Mathêu thuật lại, bao gồm các biến cố chính yếu được bộ Phúc Âm Nhất Lãm cùng thuật lại thứ tự như sau: 1- Âm mưu bán Thày của tông đồ Giuđa Íchca (có thể vào đầu Tuần Thánh); 2- Chúa Giêsu ăn mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ ở Bữa Tiệc Ly thiết lập Thánh Thể (Chiều Tối Thứ Năm Tuần Thánh); 3- Chúa Giêsu cầu nguyện trong Vườn Cây Dầu (Đêm Thứ Năm Tuần Thánh); 4- Chúa Giêsu bị bắt giải đến Hội Đồng Đầu Mục Do Thái (Rạng Sáng Thứ Sáu Tuần Thánh); 5- Chúa Giêsu được xét xử trước Tổng Trấn Philatô (Sáng Thứ Sáu Tuần Thánh); 6- Chúa Giêsu vác thập giá và bị đóng đanh vào thập giá (Trưa và Chiều Thứ Sáu Tuần Thánh).

 

 

Tuy nhiên, nếu Phúc Âm Thánh Luca có những chi tiết không hề có trong Phúc Âm Thánh Mathêu và Marco, như đã được phân tích và dẫn giải ở Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật Thương Khó của Phụng Niên Năm C - Lễ Lá Tuần Thánh: "Đấng Nhân Danh Chúa mà đến" - "Vua Dân Do Thái",

thì Phúc Âm Thánh ký Mathêu cũng vậy, cũng có một số chi tiết nổi bật, đặc biệt về người môn đệ Giuđa Íchca, một chi tiết phải nói là đầy đủ nhất về người môn đệ bất thường này trong bài Phúc Âm Chúa Nhật mở đầu Tuần Thương Khó của Chúa Kitô.

 

 

Nếu mỗi phụng niên chúng ta có một bài Phúc Âm khác nhau về Chúa Nhật Thương Khó này, và năm nào chúng ta cũng khai triển về những điểm nổi bật của Bài Phúc Âm của năm đó, cùng với Bài Phúc Âm Thương Khó của Thánh ký Gioan vào Thứ Sáu Tuần Thánh bao gồm rất nhiều những khác biệt với bộ Phúc Âm Nhất Lãm của Thánh Mathêu, Marco và Luca, thì thiết tưởng mỗi năm chúng ta chỉ cần khai triển đặc điểm nổi nhất của từng bài Phúc Âm cho Chúa Nhật mở đầu Tuần Thánh cũng là Tuần Thương Khó này cũng đủ, để chẳng những đỡ lập đi lập lại những gì trùng hợp không cần thiết, mà còn bổ túc thêm cho trọn vẹn toàn bộ Phúc Âm về cuộc khổ giá và tử nạn của Chúa Kitô.

 

 

Bài Phúc Âm theo Thánh ký Mathêu cho chu kỳ phụng niên Năm A là Phúc Âm duy nhất trong 4 Phúc Âm tường thuật lại đầy đủ nhất về người môn đệ phản bội Giuđa Íchca, người môn đệ ngay đầu Bài Phúc Âm Thương Khó Chúa Nhật Năm A hôm nay: 1- đã âm mưu đi bán đứng Thày mình, trước khi Chúa Giêsu ăn mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ; 2- đã tham dự vào bữa mừng lễ Vượt Qua với Thày và các tông đồ đồng bạn trong Nhà Tiệc Ly; 3- đã dẫn đường chỉ mặt Thày mình cho đám bộ hạ của Hội Đồng Đầu Mục Do Thái đến bắt Người ở trong Vườn Cây Dầu; và sau hết 4- đã trở lại với Hội Đồng Đầu Mục Do Thái trao trả số tiền bán Thày rồi đi thắt cổ tự tử.

 

 

Thiết tưởng, chúng ta chỉ cần tìm hiểu và suy niệm về nhân vật môn đệ Giuđa Íchca này cũng thấy được một trong ba yếu tố chính yếu bất khả thiếu (như yếu tố Hội Đồng Đầu Mục Do Thái thuộc giáo quyền Do Thái giáo, yếu tố thành phần môn đệ của Chúa Kitô được tiêu biểu nơi tông đồ Phêrô và Giuđa Íchca, và yếu tố Tổng Trấn Philatô thuộc chính quyền đế quốc Roma), làm nên cuộc khổ nạn và tử giá của Chúa Kitô.

 

 

1- Môn đệ Giuđa Íchca đã âm mưu đi bán đứng Thày mình, trước khi Chúa Giêsu ăn mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ

 

 

Ở đây, Chúa Giêsu đã tự mình biết được ý định nộp Thày của môn đệ Giuđa Íchca, và Người cũng đã thấy được người môn đệ đáng thương tham lam tiền bạc này đã lén lút đến thương lượng trực tiếp với các vị có thẩm quyền về đạo giáo trong dân về giá cả và mưu kế bán Người: "'Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?' Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người".

 

Image result for judas iscariot 30 pieces of silver

 

Thời điểm thương lượng và âm mưu này xẩy ra vào thời điểm gần đến Lễ Vượt Qua của dân Do Thái, có thể là vào ngay trước hay vào chính "Ngày thứ nhất tuần lễ ăn bánh không men", một thời điểm đã được Thiên Chúa ấn định để thực hiện dự án cứu độ của Ngài nơi Con Ngài là Đức Giêsu Kitô.

 

"Hắn từ đó tìm dịp thuận tiện để nộp Người", nhưng không phải ngay trong bữa mừng lễ Vượt Qua của Người, vì, trước hết "chưa đến giờ của Người" (Gioan 7:30), sau nữa, lúc ấy chưa tiện, bởi bấy giờ ở trong một căn phòng sáng sủa, không giống như Vườn Cây Dầu là nơi vốn âm u tăm tối và cũng là nơi, theo thói quen, Chúa Giêsu có thể hay đến đó cầu nguyện, mà người môn đệ nào lưu ý đều biết, nhất là khi đã có mưu đồ xảo quyệt như người môn đệ phản bội này sẽ không thể nào không lợi dụng.

 

Cho dù chỉ mưu tính theo ý đồ ám muội của mình, nhưng không ngờ lại thực hiện dự tính cứu độ của Thiên Chúa nơi Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô vào chính thời điểm mừng Lễ Vượt Qua năm ấy, như thiên định. Có nghĩa là người môn đệ phản nội Thày mình này cần phải ra tay làm sao để công cuộc cứu chuộc của Chúa Kitô phải xẩy ra đúng thời điểm ấn định liên quan đến Lễ Vượt Qua năm ấy.

 

Có thể ở vào lúc Chúa Giêsu sai các tông đồ đi lo chỗ mở lễ Vượt Qua cho thày trò là lúc người môn đệ mưu phản này đã lén bỏ đi riêng để đến với thẩm quyần tôn giáo Do Thái mà thương lượng cùng bày mưu bán Thày của mình.

 

 

2- Môn đệ Giuđa Íchca cũng đã tham dự vào bữa mừng lễ Vượt Qua với các tông đồ trong Nhà Tiệc Ly

 

Cho dù biết được cả ý định lẫn hành động âm mưu lén lút của người môn đệ phản bội này, Chúa Giêsu vẫn không ngăn cản đương sự một tí nào hết, hoàn toàn không đụng chạm đến tự do của người môn đệ muốn làm tôi hai chủ và muốn bắt cá hai tay này, mà chỉ khéo léo nhắc nhở riêng cá nhân đương sự thôi, vừa không làm bẽ mặt người môn đệ này trước tông đồ đoàn (cho dù Người có thể nói trắng ra để mọi người biết), vừa chứng tỏ cho riêng đương sự biết rằng mưu đồ phản bội của đương sự đã bị chính Đấng mà đương sự âm mưu phản nộp nắm bắt tất cả rồi:

 

"Các môn đệ làm như Chúa Giêsu truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, khi các ông đang ăn, Người nói: 'Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy'. Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người: 'Thưa Thầy, có phải con không?' Người trả lời rằng: 'Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy. Thực ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ sẽ nộp Con Người! Thà người đó đừng sinh ra thì hơn!' Giuđa, kẻ phản bội, cũng thưa Người rằng: 'Thưa Thầy, có phải con chăng?' Chúa đáp: 'Ðúng như con nói'".

 

 

Thế nhưng, khốn nạn thay, người môn đệ duy nhất trong nhóm 12 vị thuộc tông đồ đoàn này đã mù quáng đến độ vẫn tiếp tục ý định quái gở khủng khiếp của mình, thậm chí, như Chúa Kitô khẳng định về đương sự rằng: "thà hắn đừng sinh ra thì hơn".

 

Theo tiến trình tường thuật của bài Phúc Âm Thánh ký Mathêu hôm nay thì Chúa Giêsu đánh động đương sự môn đệ này trước khi Người thiết lập Bí Tích Thánh Thể. Và theo Thánh ký Gioan thì người môn đệ bất hạnh ấy sở dĩ trở nên mù quáng quá sức như thế là vì đã để cho Satan chiếm nhập, ở chỗ, cho dù đương sự đã được chính Thày nhắc nhở mà còn cả gan nhận lấy tấm bánh của Ngưòi trao cho, như thể thách thức Người rằng: đúng thế, con đã có ý định phản nộp Thày rồi đó, Thày làm gì được con chăng.

 

Chính vì thế, vì quá cứng lòng như vậy mà người môn đệ đương sự này đã bị Satan "là tên gian ác" (Gioan 8:44) sai khiến theo ý đồ quỉ quyệt của hắn, nên ngay sau đó người môn đệ nạn nhân này đã bị Satan thôi thúc rời Nhà Tiệc Ly, nơi có chính Chúa hiện diện và Giáo Hội của Người (qua đại diện tông đồ đoàn), nơi hắn không làm gì được, để thoát ly mà lao đầu xuống hố diệt vong vô cùng tăm tối như chính sự chết: "lúc đó trời đã tối", như thể người môn đệ đương sự này đi tự tử về phần hồn trước khi đi tự tử về phần xác.

 

"Ðức Giêsu trả lời: 'Thầy chấm bánh đưa cho ai, thì chính là kẻ ấy'. Rồi Người chấm một miếng bánh, trao cho Giuđa, con ông Simon Íchca. Y vừa ăn xong miếng bánh, Satan liền nhập vào y. Ðức Giêsu bảo y: 'Con làm gì thì làm mau đi!' Nhưng trong số các người đang dùng bữa, không ai hiểu tại sao Người nói với hắn như thế. Vì Giuđa giữ túi tiền, nên có vài người tưởng rằng Chúa Giêsu nói với hắn rằng: 'Hãy mua những món cần dùng trong dịp lễ', hoặc bảo hắn đi bố thí cho người nghèo. Sau khi ăn miếng bánh, Giuđa liền đi ra. Lúc đó, trời đã tối" (13:26-30).

 

 

Chúa Giêsu thật sự "đã yêu thương những kẻ thuộc về Người thì Người muốn chứng tỏ là Người yêu thương họ cho đến cùng" (Gioan 13:1), đến cùng ở chỗ "hiến mạng sống vì người mình yêu" (Gioan 15:13), trong đó có người môn đệ Giuđa Íchca, và đến cùng còn ở con chiên lạc duy nhất trong đàn chiên 100 con (xem Luca 15:1-7) là Giuđa Íchca, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa của việc Người cúi mình xuống rửa chân cho chung tông đồ đoàn, đặc biệt nhắm đến người môn đệ Giuđa Íchca, người môn đệ được bộ ba Phúc Âm Nhất Lãm liệt kê cuối cùng (như chân là phần thể cuối cùng của toàn thân) trong tông đồ đoàn, nhất là so với tông đồ Phêrô bao giờ cũng được liệt kê trước hết (như đầu của toàn thân tông đồ đoàn), và vì cả thân mình (bao gồm cả đầu) ám chỉ 11 tông đồ đã được sạch "nhờ lời Thày" (Gioan 15:3), chỉ còn mỗi một mình tông đồ Giuđa Íchca cuối cùng như phần chân trong tông đồ đoàn là chưa sạch, nơi duy nhất cần phải rửa.

 

Nếu hiểu được lòng yêu thương vô biên của Chúa Kitô đối với chung các môn đệ và từng môn đệ, nhất là sứ vụ Người "đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì đạ hư hoại" (Luca 19:10), như người môn đệ Giuđa Íchca, thì mới cảm thấy được cái quằn quại đớn đau của Người như thế nào trước một người môn đệ thuộc về Người như vậy. Có thể lúc Vị Thiên Chúa Làm Người này không cầm nổi cảm xúc nên đã "khóc" trước mộ người bạn thân Lazarô của Người, cho dù Người có thể làm cho người bạn thân này hồi sinh và ngay trước khi hồi sinh anh ta, ở vào thời điểm sắp tới Lễ Vượt Qua ít lâu, là lúc Người đã nghĩ đến người môn đệ Giuđa Íchca này, người môn đệ đã không còn có thể nghe thấy tiếng của Người nữa để có thể bước ra khỏi mồ như Lazarô (xem Gioan 11:35,43-44). 

 

 

3- Môn đệ Giuđa Íchca dẫn đường chỉ mặt Thày cho đám bộ hạ Hội Đồng Đầu Mục Do Thái đến bắt Người ở trong Vườn Cây Dầu

 

Thiên Chúa quả thật đã ấn định thời điểm cho Chúa Giêsu Kitô Con của Ngài phải hoàn tất công cuộc cứu độ của Người vào lễ Vượt Qua năm ấy, mà người môn đệ Giuđa Íchca đã vô tình "tìm dịp thuận tiện để nộp Người" vào ngay đêm Thứ Năm Tuần Thánh ở trong Vườn Cây Dầu, một thời điểm tối tăm nhất trong ngày, thời điểm hoạt động của "quyền lực tăm tối" (Colose 1:13), nhưng cũng là thời điểm áp Thứ Sáu Tuần Thánh để công cuộc cứu chuộc xẩy ra vào chính ngày con người tạo vật đã được Thiên Chúa dựng nên, tức vào "Ngày Thứ Sáu" (Khởi Nguyên 1:31) trong 6 ngày tạo dựng của Thiên Chúa ngay từ ban đầu.

 

Phải chăng câu Chúa Giêsu than lên vô cùng não nuột sau khi dẫn các môn đệ vào Vườn Cây Dầu và trước khi Người đi cầu nguyện một mình rằng: "Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được", là câu Người ám chỉ đến người môn đệ Giuđa Íchca, một người môn đệ Người vẫn tha thiết yêu thương và muốn cứu độ nhưng hắn vẫn tự mình cứ lao đầu xuống hố hư vong, hầu như Người tự mình vốn là Đấng toàn năng mà đã trở thành bất lực không thể cứu được con người đáng thương ấy, đến độ khiến "Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được", và đó cũng chính là chén mà Người xin Cha của Người đến 3 lần cất đi cho Người:  "Lạy Cha, nếu được, xin cho Con khỏi chén này! Nhưng đừng như ý Con muốn, một theo ý Cha muốn"?!

 

Có thể là như thế, có thể nỗi buồn đến chết được của Người gây ra bởi lòng Người yêu thương cho đến cùng đối với những kẻ thuộc về Người là người môn đệ Giuđa Íchca này, mà Người đã xin các môn đệ khác trong tông đồ đoàn hãy chia sẻ cái buồn vô cùng thảm thương này của Người: "các con hãy ở lại đây và thức với Thầy". Thế nhưng, tiếc thay, các môn đệ không hiểu ý của Người nói, và vì chưa được hiệp nhất nên một với Người nên vẫn theo "bản chất thì yếu nhược" (Mathêu 26:41) của mình thiếp ngủ một cách ngon lành, cho đến khi được đích thân Thày đánh thức dậy vào chính giây phút nguy hiểm nhất cho cả Thày lẫn trò, liên quan đến chính người môn đệ phản nộp Người:

 

"Ðoạn Người trở lại và thấy các ông còn ngủ, vì mắt các ông nặng trĩu. Người để mặc các ông và đi cầu nguyện lần thứ ba, vẫn lại những lời như trước. Sau đó Người trở lại với các môn đệ và bảo: 'Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi! Này sắp đến giờ Con Người sẽ bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Các con hãy chỗi dậy. Chúng ta hãy đi: này kẻ nộp Thầy đã tới gần'".

 

Đúng vậy, sự kiện vừa được Người báo cho các môn đệ biết đã xẩy ra như thể chộp bắt cả đám Thày trò của Người, khiến Thày trò hoàn toàn không kịp trở tay, thậm chí các tông đồ có sợ sệt khiếp run cũng không thể nào thoát chạy ngay lập tức theo phản ứng tự nhiên, như trình thuật của Thánh ký Mathêu như sau: "Người còn đang nói ("Chúng ta hãy đi: này kẻ nộp Thầy đã tới gần"), thì đây (ngay chính lúc bấy giờ, như thể ứng nghiệm lời Người nói và chứng tỏ Người biết họ tới mà vẫn không né tránh), Giuđa, một trong nhóm mười hai, và cùng với y có lũ đông mang gươm giáo gậy gộc, do các thượng tế và kỳ lão trong dân sai đến".

 

Image result for judas iscariot

 

Sở dĩ Người không báo cho các môn đệ sớm hơn và cố ý để cả nhóm Thày trò bị chộp bắt như vậy, trong khi Người đã biết trước và vẫn có thể tránh né như những lần trước, là vì, trước hết và trên hết, đã đến giờ của Người, sau nữa, Người muốn các tông đồ tham phần khổ nạn với Người, và nhất là hình như Người muốn đích thân gặp mặt người môn đệ Giuđa Íchca của mình lần cuối, một con người thật là đáng thương, cần phải được cứu độ hơn ai hết và hơn bao giờ hết. Đó là lý do, lợi dụng ngôn hành phản bội của đương sự môn đệ ấy tỏ ra với Người bấy giờ: "Vậy tên nội công đã dặn họ ám hiệu này: 'Hễ tôi hôn người nào, thì đó chính là Người, các ông hãy bắt lấy'. Tức khắc Giuđa tới gần Chúa Giêsu và nói: 'Chào Thầy'. Và nó hôn Người", Người liền dịu dàng nhỏ nhẹ thì thào vào tai của hắn, chỉ để một mình hắn nghe thấy thôi, rằng: "Hỡi bạn, bạn đến đây làm chi?"

 

 

4- Môn đệ Giuđa Íchca đã trở lại với Hội Đồng Đầu Mục Do Thái trao trả số tiền bán thày rồi đi thắt cổ tự tử

 

Không biết câu nói thì thào cuối cùng của Vị Thày "đã yêu thương những ai thuộc về Người thì Người muốn chứng tỏ Người yêu thương họ đến cùng" (Gioan 13:1) như thế có gây tác dụng thần linh nào nơi người môn đệ vô cùng đáng thương này hay chăng. Thực tế cho thấy, có thể phần nào đúng như vậy, bởi không nhiều thì ít, hắn hình như đã tỉnh ngộ. Bởi thế, ngay lúc bấy giờ, tuy không thể nào kịp can ngăn đám thuộc hạ của Hội Đồng Đầu Mục Do Thái đừng xông vào bắt Vị Thày đáng kính của mình nữa, nhưng có thể hắn đã cảm thấy một điều gì đó biến đổi trong tận thẳm cung của mình. Đó là lý do cuối cùng mới xẩy ra những gì hoàn toàn bất ngờ về người môn đệ phản bội này, như Thánh ký Mathêu thuật lại như sau:

 

"Trời vừa sáng, các thượng tế và kỳ lão trong dân hội họp bày mưu giết Chúa Giêsu. Họ trói Người và điệu đi nộp cho tổng trấn Phongxiô Philatô. Bấy giờ Giuđa, kẻ nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận, đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ lão mà nói rằng: 'Tôi đã phạm tội vì nộp máu người công chính'. Nhưng họ trả lời: 'Can chi đến chúng tôi! Mặc kệ anh!' Anh ta ném những đồng bạc đó vào trong đền thờ và ra đi thắt cổ".

 

Image result for judas iscariot 30 pieces of silver

 

 

Sự kiện người môn đệ phản bội Giuđa Íchca tỏ ra hối hận, theo Thánh ký Mathêu thuật lại, đã xẩy ra ngay sau sự kiện tông đồ Phêrô chối Thày ba lần, và ba lần chối Thày của vị trưởng tông đồ đoàn này đều xẩy ra vào thời khoảng còn mờ tối của sáng Thứ Sáu Tuần Thánh (xem Gioan 18:15-18,25-27), nghĩa là người môn đệ phản nộp Thày cảm thấy "hối hận" vào sáng hôm sau, Thứ Sáu Tuần Thánh, sau một đêm Chúa Kitô bị Hội Đồng Mục Vụ Do Thái, qua vị thượng tế Caipha, nhân danh Thiên Chúa buộc Người phải xưng thật Người là ai:

 

"'Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, ta truyền cho ông hãy nói cho chúng ta biết: Ông có phải là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa không?' Chúa Giêsu trả lời: 'Ông đã nói đúng. Nhưng Ta nói thật với các ông: rồi đây các ông sẽ xem thấy Con Người ngự bên hữu Ðấng Toàn Năng, và sẽ đến trên đám mây'. Bấy giờ thầy thượng tế xé áo mình ra và nói: 'Nó đã nói lộng ngôn! Chúng ta còn cần gì đến nhân chứng nữa? Ðây các ngài vừa nghe lời lộng ngôn. Các ngài nghĩ sao?' Họ đáp lại: 'Nó đáng chết!'": - "Kẻ nộp Người thấy Người bị kết án thì hối hận" là như thế.

 

Như thế thì lời Chúa Giêsu êm ái thủ thỉ trong tai người môn đệ phản nộp này có lẽ đã thật sự tác động lòng của chàng, nhất là vì môi miệng đã từng trả giá bán Thày của chàng lần đầu tiên trong đời đã nhờ cái hôn gian ác, và đôi tay nhơ nhớp đã từng trân trọng cầm nắm lấy số tiền bán Thày, cả hai phần thể đã trở thành dụng cụ phản bội Thày ấy lại không ngờ được chạm đến Thánh Thể của Đấng "đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14), Đấng vốn có quyền lực chữa lành và trừ quỉ của Người, trong khi tất cả mọi môn đệ khác đều tẩu tán vì sợ: "Bấy giờ các môn đệ bỏ Người và chạy trốn hết", thì một mình người môn đệ đã thuộc về phe địch này đã có thể dễ dàng âm thầm tiếp tục theo dõi Đấng đã bị chàng lỡ bán đi, xem thành phần mà chàng đã bán Thày cho đối xử với Người ra sao, bởi có lẽ chàng cứ tưởng rằng, cho dù chàng có bán Người đi nữa thì Người cũng vẫn thoát thân được như các lần trước (xem Gioan 8:59,10:39), nhờ đó hai tay của chàng bắt được hai con cá ngon lành như chơi: vừa Thiên Chúa lẫn tiền bạc (xem Mathêu 6:24).

 

Có nghĩa là, tự mình, người môn đệ phản bội này vẫn "lầm không biết việc mình làm" (Luca 23:34), vẫn có thể được thứ tha, vì đương sự môn đệ ấy chỉ phạm đến "Con Người" hơn là đến "Thánh Linh" (xem Mathêu 12:32):

 

Phạm đến Con Người - vì lầm nên được thứ tha, ở chỗ chỉ phạm đến nhân tính của Người, nghĩa là chỉ tưởng Con Người ấy chỉ là một con người như mình, như một vị tiên tri hay đại tiên tri vậy thôi (xem Mathêu 16:14), chứ không phải là Thiên Chúa làm người - theo họ thì Thiên Chúa không thể nào làm người như họ...;

 

Phạm đến Thánh LInh - là chối bỏ sẽ không được tha, vì Thánh Linh "là Thần Chân Lý ... Đấng dẫn các con vào tất cả sự thật" (Gioan 16:13), nghĩa là Đấng làm cho các môn đệ nhận biết "chân lý / sự thật" là Chúa Kitô (xem Gioan 14:6), Đấng được ban cho con người để nhờ đó họ nhận biết Chúa Kitô mà con người không chấp nhận Thánh Linh thì có nghĩa không muốn nhận biết Chúa Kitô, chối bỏ "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16), Đấng Thiên Sai Cứu Thế duy nhất của con người (xem Tông Vụ 4:12).

 

Đúng thế, Thánh Linh, trước hết và trên hết, được thông ban cho con người nói chung và Giáo Hội nói riêng (qua các tông đồ là thành phần chứng nhân tiên khởi) từ Chúa Kitô, Đấng tràn đầy Thánh Linh và được Cha xức dầu Thánh Linh để sai váo thế gian (xem Luca 4:17-19; Gioan 10:36), và Chúa Kitô thông ban Thánh Linh của Người cho con người bấy giờ là dân của Người, bao gồm cả dân chúng cũng như thành phần giáo quyền và nhất là thành phần môn đệ của Người, bằng lời Người nói và việc Người làm. Bởi thế, ai không chấp nhận những gì Người nói và làm tức là không chấp nhận Thánh Linh từ Người thông ban cho họ, nói cách khác, tức là không tin vào Người nên không được sống, thế thôi.

 

Tuy nhiên, cho dù tội phạm đến Thánh Linh "không thể tha cả ở đời này lẫn đời sau" (Mathêu 12:32), nghĩa là tội chối bỏ Chúa Kitô thì không thể nào được cứu độ, nhưng đó là nói theo nguyên tắc, giống như theo nguyên tắc ai phạm tội trọng thì mất linh hồn vậy, nhưng nếu ai mắc tội trọng hay tội phạm đến Thánh Linh mà biết ăn năn thống hối thì vẫn được tha thứ và cứu độ bởi Lòng Thương Xót Chúa vô biên.

 

Điển hình về trường hợp phạm đến Con Người hoàn toàn vì lầm nên còn được tha thứ là trường hợp của dân Do Thái, ở chỗ, cho dù họ, căn cứ vào diễn tiến của vụ án Giêsu, (nhất là theo Phúc Âm Thánh ký Gioan), thực sự là cố tình sát hại Người bằng quyền lực dân ngoại Roma, nhưng họ vẫn cứ tưởng Người chỉ là một con người thuần túy như họ mà lại lộng ngôn dám coi mình ngang hàng với Thiên Chúa (xem Gioan 10:33), thế mà tội giết Con Thiên Chúa của họ vẫn là những gì nhấm lẫn, lại còn giúp cho Thiên Chúa một cơ hội lợi dụng chính cái toan tính một cách "vô thức (ignorant)" của họ để hoàn tất dự án cứu độ của Ngài nơi Con của Ngài đúng như lời Thánh Kinh nữa (xem Tông Vụ 3:17-18).

 

Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao người môn đệ phản bội đáng thương này đã tỏ ra hối hận mà không ăn năn khóc lóc như tông đồ Phêrô mà lại đi tự tử, một dấu hiệu chết dữ, ám chỉ số phận hư vong. Thật ra, hai hành động phản bội Thày và chối bỏ Thày, một của người môn đệ cuối cùng trong 12 tông đồ, đóng vai như cái chân là phần thể cuối cùng trong toàn thân, và một của người môn đệ đầu tiên đóng vai làm đầu tông đồ đoàn, xét cho cùng, cũng đều gây ra bởi một nguyên nhân duy nhất, đó là cả hai đều tin rằng: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mathêu 16:16). Oái oăm thay và ngược đời thay, nhưng cũng hợp tình hợp lý thay theo lý lẽ lập luận trần gian, chính vì tin như thế, tin "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" mà tông đồ Phêrô đã không thể nào chấp nhận được "Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa" lại có thể chịu khổ nhục và chết đi, nên đã chân thành khuyên can Người, không ngờ lại bị chính Người thậm tệ khiển trách là "Đồ Satan..." (Mathêu 16:23). Tông đồ Phêrô đã chối Thày ngay từ lúc đó.

 

Môn đệ Giuđa Íchca cũng thế, một khi Thày là  "Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa" thì không ai có thể làm gì được Người, không ngờ vào chính lần Người bị đương sự bán đi lại vào chính lúc tới giờ của Người, nên Người "tự hiến tế để họ được thánh hóa trong chân lý" (Gioan 17:19). Có lẽ môn đệ Giuđa Íchca này, ở một nghĩa nào đó, đã được hiến tế của Người, ngay khi Người vừa mới bị Hội Đồng Đầu Mục Do Thái lên án tử, "thánh hóa trong chân lý" rồi vậy, ở chỗ người môn đệ phản nộp này đã tỏ ra "hối hận", qua hành động đem trả lại số tiến đã bán Thày mình. Trường hợp người trộm lành cũng thế, trước đó cũng đồng thanh với tên trộm dữ nguyền rủa Chúa Kitô (xem Mathêu 27:44), nhưng sau khi nghe thấy Người xin Cha tha cho kẻ làm khốn mình (xem Luca 23:34) thì đã chẳng những hối hận mà còn mạnh mẽ bênh vực Người, cùng xin Người nhớ đến mình, nên anh ta đã cướp được cả Nước Trời, đã trở thành sản phẩm cứu chuộc đầu tiên của Người ngay khi còn trên thập tự giá (xem Luca 23:39-43).

 

Còn về việc tử tự của người môn đệ phản bội này thì có thể hiểu rằng, bởi quá hối hận, và biết rằng tội lỗi của mình là một tội tầy trời, không đáng được Thày tha thứ, trái lại, còn đáng bị trừng phạt muôn ngàn lần vẫn chưa cân xứng, nên đương sự, có thể, trong lúc vô cùng hối hận bấy giờ ấy, chỉ còn nghĩ được rằng:

 

"Thày ơi, con đã phạm đến 'Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống', phạm đến Đấng vô cùng, nên con đáng bị trừng phạt, và cho dù có băm con ra muôn ngàn mảnh, vẫn chưa tương đáng với tội lỗi của con trong việc con dám cả gan phản nộp Con Thiên Chúa. Giờ đây, con biết Thày đã sẵn sàng 'tự hiến' để cứu lấy cả loài người, trong đó có con là một đệ nhất tội nhân cần được cứu nhất, xin Thày thương đến con. Giờ đây, con chỉ còn biết lấy chính cái chết của con, hợp với cái chết vô giá của Thày, để có thể đền tội lỗi vô cùng của con, cũng như để phần nào tạ tội với Thày là Đấng vô cùng đáng kính đáng mến của con, Đấng đã thật sự yêu thương con đến cùng".

 

Các câu Thánh Kinh nói về người môn đệ bất hạnh này, những câu thiên về chiều hướng hư vong, ở một nghĩa nào đó, có thể hiểu là theo nguyên tắc thì thế, như ở vào trường hợp của đương sự phản bội, tuy nhiên, thực tế có thể lại khác, vì đối với Lòng Thương Xót Chúa thì một khi còn tin vào Người thì vẫn được cứu độ. 

 

Image result for judas iscariot hanged himself

 

Phải chăng đó là lý do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vị giáo hoàng được Đức Thánh Cha Phanxicô coi như vị mở màn cho Thời Điểm của Lòng Thương Xót Chúa, trong tác phẩm "Vượt Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng" của mình, ấn bản Anh ngữ (Alfred A. Knopf, New York 1994, trang 186), đã nhận định về trường hợp điển hình đặc biệt của người môn để phản nộp Thày mình như thế này: "Ngay cả khi Chúa Giêsu nói về Giuđa, con người phản bội, rằng 'Thà hắn đừng sinh ra thì hơn' (Mathêu 26:24), thì lời của Người không ám chỉ một cách chắc chắn về số phận muôn đời bị luận phạt"?!

 

Đúng thế, không một ai biết được số phận đời đời của người khác, kể cả của một đại tội nhân như người môn đệ Giuđa Íchca này. Thế nhưng, không một tội nào của loài người có thể qua mặt được và vượt tầm Lòng Thương Xót Chúa vô cùng bất tận, miễn là họ nhận biết Lòng Thương Xót của Người, chấp nhận Lòng Thương Xót của Người, tin vào Lòng Thương Xót của Người.

 

Chỉ có kẻ nào không chấp nhận Lòng Thương Xót của Người, nghĩa là hoàn toàn chối bỏ (deny) Lòng Thương Xót là bản tính vô cùng toàn hảo của Người mới đời đời bị hư đi mà thôi, ngoài ra, cho dù họ có bất trung (unfaithful) với Người đến thế nào chăng nữa, Người vẫn trung thành với họ, vẫn tha thứ cho họ, vẫn cứu độ họ, như chính Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô đã xác tin và khẳng định: "Nếu chúng ta chối bỏ Người thì Người cũng chối bỏ chúng ta. Nếu chúng ta bất trung (unfaithful) thì Người vẫn trung thành, bởi Người không thể chối bỏ chính mình Người" (2Timôthêu 2:12-13).

 

Căn cứ vào nguyên tắc cứu độ này, nếu khách quan so sánh với trường hợp chối bỏ Thày (deny) của tông đồ Phêrô là đầu tông đồ đoàn thì hành động phản nộp chỉ mang tính cách bất trung với Thày (unfaithful) của tông đồ Giuđa Íchca, hơn là chối bỏ Thày, còn nhẹ hơn, còn có thể tha thứ. Vả lại, chính vị tông đồ bất trung này đã tỏ dấu "hối hận" rõ ràng, chỉ khác với việc hối hận của tông đồ Phêrô, ở chỗ một đàng thì tông đồ Phêrô "ra ngoài khóc lóc thảm thiết" (Luca 22:62), một đàng thì tông đồ Giuđa Íchca "đi thắt cổ tự tử", thế thôi.

 

Thế nhưng, chính hành động tự tử của tông đồ Giuđa Íchca lại chứng tỏ vị tông đồ này cảm thấy tội lỗi của mình quá ư là lớn lao trầm trọng, không thể nào đền bù cho đủ, dù có khóc đến mù mắt chăng nữa, ngoài chính cái chết, vì đương sự đã gây ra cái chết cho chính Con Thiên Chúa Làm Người hoàn toàn vô tội, một cái chết mà về phần Thày là cái chết "tự nguyện" (xem Gioan 10:18), chẳng những để cứu chuộc chung nhân loại (xem mathêu 20:28) mà còn để "thánh hóa" riêng thành phần môn đệ của Người (xem Gioan 17:19) là làm cho họ nhận biết Người để sau này làm chứng nhân cho Người nữa.

 

Cho dù vào lúc người môn đệ phản bội tự tử vẫn chưa chính thức ở vào giây phút Chúa Giêsu Kitô "tự hiến để họ (các Tông Đồ) được thánh hóa trong chân lý" (Gioan 17:19), nhưng riêng tông đồ Giuđa phản bội đã nhận biết Người ngay vừa khi biết Người bị Hội Đồng Đầu Mục lên án tử. Hành động người môn đệ phản bội này quyết chọn cách chết tự tử, lủng lẳng treo ở một cành cây nào đó cao hẳn trên mặt đất, thay vì lao đầu xuống biển như một kẻ gây ra gương mù gương xấu (xem Mathêu 18:6) trong tông đồ đoàn, phải chăng đương sự đã có một ngậm ý muốn được Thày của mình "kéo lên" như Thày đã có lần công khai hứa rằng: "Khi Tôi được treo lên, Tôi sẽ kéo mọi sự lên cùng Tôi" (Gioan 12:32).

 

Nếu hình ảnh muốn chết treo trên cao của tông đồ Giuđa Íchca, khách quan hay chủ quan, cho thấy hai cái chết giống nhau (cả hai đều chết treo trên cao bên trên mặt đất) giữa hai Thày trò thế nào, thì tác động gục đầu xuống mà chết của người môn đệ phản bội này cũng được giống như tác động sau cùng của cuộc đời Chúa Giêsu Kitô, tác động "gục đầu xuống mà sinh thì" (Gioan 19:30).

 

Tác động gục đầu chết đầy ý nghĩa này, về phía người môn đệ phản bội, như thể đã hoàn toàn chấp nhận sự thật "Tôi đã phạm tội vì nộp máu người công chính", nên đã "hối hận" như tỏ lòng ăn năn, và về phía Đấng "đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì hư vong" (Luca 19:10), như thể gật đầu chấp nhận tất cả những ai ăn năn thống hối vì tin vào Người, tin vào Lòng Thương Xót của Người, Đấng "đã yêu thương những ai thuộc về mình thì Người muốn chứng tỏ Người yêu họ cho đến cùng" (Gioan 13:1), đặc biệt là người môn đệ phản bội Giuđa Íchca, bởi ngay sau câu trên đây, Thánh ký Gioan đã đề cập liền đến vị tông đồ này: "Trong bữa ăn tối, ma quỷ đã gieo vào lòng Giuđa, con ông Simon Ítcariốt, ý định nộp Ðức Giêsu" (Gioan 13:2).

 

Nếu ma quỉ đã bắt cóc được người môn đệ Giuđa Íchca nhẹ dạ này để làm tay sai cho hắn, làm nội công bán Thày, thì hắn đâu ngờ rằng chính hắn đã bị gậy ông đập lưng ông, khi tên tay sai của hắn ấy bị nằm gọn trong tay hắn như một thứ con tin, lại được Đấng đã chiến thắng các chước cám dỗ của hắn trong hoang địa (xem Mathêu 4:1-11), nộp mạng chuộc về, chẳng những chuộc được cả cá nhân của người môn đệ phản bội này mà còn chuộc đưoọc tất cả loài người nữa, và vì thế, đã làm cho vương quốc được hắn thiết lập trên trần gian từ nguyên tội hoàn toàn bị sụp đổ bởi tay "Vua Dân Do Thái" (Mathêu 27:37), một nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét là "Con Thiên Chúa đã tỏ mình ra để hủy diệt các công việc của ma quỉ" (1Gioan 3:8).

 

 Image result for jesus died on the cross