SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa 
Mùa Thường Niên Tuần IV 
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL



Chúa Nhật


Lời Chúa


Bài Ðọc I: Xp 2, 3; 3, 12-13

"Ta sẽ để sống sót lại giữa ngươi, một dân tộc khiêm tốn và nghèo hèn".

Trích sách Tiên tri Xôphônia.

Hãy tìm Chúa, hỡi tất cả các người hiền lành trong nước, là những kẻ tuân giữ luật Chúa; hãy tìm công lý, hãy tìm sự khiêm nhường, nếu các ngươi muốn được che chở trong ngày thịnh nộ của Chúa. Ta sẽ để sống sót lại giữa ngươi một dân tộc khiêm tốn và nghèo hèn, biết tin tưởng vào thánh danh Chúa. Kẻ sống sót của Israel sẽ không làm điều bất công, sẽ không nói dối, miệng chúng sẽ không nói lời phỉnh gạt, vì chúng sẽ được chăn dắt và nằm ngủ không bị quấy rầy.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 145, 7. 8-9a. 9bc-10.

Ðáp: Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ (Mt 5,3).

Xướng: 1) Thiên Chúa trả lại quyền lợi cho người bị áp bức, và ban cho những kẻ đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. - Ðáp.

2) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù, Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân; Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. - Ðáp.

3) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Ðức Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua từ đời này sang đời khác. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Cr 1, 26-31

"Thiên Chúa đã chọn những điều hèn hạ đối với thế gian".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, anh em hãy xem ơn kêu gọi của anh em: Vì (trong anh em) không có mấy người khôn ngoan theo xác thịt, không có mấy người quyền thế, không có mấy người sang trọng. Nhưng điều mà thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những người khôn ngoan phải xấu hổ; điều mà thế gian cho là yếu hèn, thì Thiên Chúa đã chọn để làm cho những gì là mạnh mẽ phải hổ ngươi. Thiên Chúa đã chọn những điều hèn hạ đối với thế gian, những điều bị khinh chê, những điều không không, để phá huỷ những điều hiện hữu, hầu mọi xác thịt không thể vinh vang trước mặt Người. Chính do Người mà anh em ở trong Chúa Giêsu Kitô, Ðấng do Thiên Chúa, đã trở nên sự khôn ngoan, sự công chính, sự thánh hoá và sự cứu rỗi cho chúng ta, ngõ hầu, như đã chép: "Ai tự phụ, thì hãy tự phụ trong Chúa".

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Lc 19, 38

Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời và vinh quang trên các tầng trời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 5, 1-12a

"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng:

"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời".

Ðó là lời Chúa.

 

Related image

 

 

Suy niệm

 

Tư cách sống xứng với danh xưng và ơn gọi là con cái của Thiên Chúa là "Cha trọn lành ở trên trời"

 

Trong bài Phúc Âm về Phúc Đức Trọn Lành này, Thánh ký Mathêu đã mô tả một cảnh tượng rất thích hợp với nội dung của bài giảng Phúc Đức Trọn Lành ấy: "Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng...".  

Trước hết, về thời điểm, bài giảng này của Chúa Giêsu chỉ được Người thực hiện và chỉ xẩy ra vào lúc "khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi...", tức là vì dân chúng mà có bài giảng này, nhưng, ngay câu sau đó lại cho thấy lại bài giảng này giành riêng cho các tông đồ, nghĩa là giáo huấn của Người được truyền đạt từ cao (tấm mức tông đồ, Giáo Hội) xuống thấp (tầm mức dân chúng, giáo dân, cộng đồng) 

Sau nữa, về địa điểm, bài giảng này được Chúa Giêsu giảng không phải là dưới thung lũng, hay ở đồng bằng, hoặc trong thành phố, hay ở trên thuyền ngoài bờ biển như các lần khác sau này, mà là ở trên "núi", một biểu hiệu cho ý nghĩa trọn lành, sống trổi vượt hơn thế gian, hơn phàm nhân;  

Sau hết, về tính cách, bài giảng này được Chúa Giêsu giảng một cách thân tình, ở tư thế "ngồi xuống" với thành phần "các môn đệ đến gần Người" để Người có thể dạy bảo các vị những gì giúp các vị "là ánh sáng thế gian" (5:14). Cử chỉ "ngồi" đây còn ám chỉ quyền giảng dạy của Chúa Giêsu nữa, một quyền giảng dạy được Người trao ban cho chung Tông Đồ Đoàn (xem Mathêu 18:18) và cho riêng Tông Đồ Phêrô (xem Mathêu 16:19), một quyền bính được Giáo Hội hằng năm tưởng kính nơi phụng vụ Lễ "Ngai Tòa Thánh Phêrô - Chair of Peter" vào ngày 22/2 hằng năm.  

Một chi tiết được Thánh ký Mathêu ghi nhận cũng cần lưu ý ở đây nữa là: "lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người", tức là thế giá và uy tín của Chúa Giêsu đã lôi kéo các môn đệ đến cùng Người, và chỉ có từ Chúa Kitô và bởi lằng nghe Chúa Kitô, thấm nhuần giáo huấn của Người, các tông đồ mới có thể trở thành chứng nhân tiên khởi của Người và cho Người sau này.  

Nếu căn cứ vào các chữ "phúc" ở đầu mỗi phúc thì có tất cả là 9 Phúc hơn là chỉ có 8 phúc. Và phúc nào cũng ngược đời hết. Ở chỗ, trong khi thế gian cho những 9 điều được Chúa Giêsu gọi là và cho là phúc thì họ cho là khốn, đặc biệt là 3 phúc đầu và 2 phúc cuối. Theo tu đức Kitô giáo vốn có 3 bậc hay 3 giai đoạn nên trọn lành thì 9 phúc được Chúa Giêsu liệt kê theo thứ tự trong bài Phúc Âm hôm nay, về ý nghĩa liên hệ của của chúng với nhau, có thể được ghép lại thành 3 phúc cho một giai đoạn hay một bậc nên trọn lành. Chẳng hạn, 3 phúc đầu (1-2-3) thuộc về bậc hay giai đoạn tu đức khởi sinh (từ bỏ), 3 phúc tiếp theo (4-5-6) thuộc về bậc hay giai đoạn tu đức tiến sinh (tập đức), và 3 phúc cuối cùng (7-8-9) thuộc về bậc hay giai đoạn tu đức hiệp sinh (nên một).

Thật ra, nội dung chính yếu của riêng bài Phúc Âm Thánh ký Mathêu hôm nay về Các Mối Phúc Đức và chung Bài Giảng Trên Núi về Linh Đạo Trọn Lành (3 chương 5-7), thì Chúa Kitô là Con Thiên Chúa muốn đặc biệt dạy cho thành phần môn đệ được ngài chọn làm tông đồ của Người, thành phần là chứng nhân tiên khởi của Người đồng thời cũng là thành phần lãnh đạo với tư cách là Thừa Tác Viên ban phát mầu nhiệm thánh cho dân Tân Ước của Người, đường lối sống trọn lành, hay nói dễ hiểu hơn, tư cách sống xứng với danh xưng và ơn gọi là con cái của Thiên Chúa là "Cha trọn lành ở trên trời", như Người là Con của Cha làm gương cho các vị noi theo, một tư cách trọn lành ở chỗ sống đức ái trọn hảo (perfectae caritatis).

Trong bài Phúc Âm hôm nay, ngoài chi tiết có 9 mối phúc đức chứ không phải là 8, còn có một 4 chi tiết nữa như sau:

1- Phần thưởng của phúc thứ 1 và thứ 8 giống nhau, đều "được Nước Trời làm của mình vậy". Thế nhưng, thực tế khác nhau ở chỗ, một đàng được ngày từ đầu nhờ tinh thần khó nghèo, và một đàng cuối cùng mới được khi bị bách hại. Chẳng hạn những ai dâng mình cho Chúa trong đời sống tu trì, bỏ mọi sự thế gian mà "tìm Nước Trời trước" (Mathêu 6:33) thì họ được Nước Trời ngay trong lòng của họ, một tấm lòng không còn quyến luyến thế gian, từ bỏ tất cả mọi sự để theo Chúa là tất cả của họ. Thế nhưng, nếu trong đời sống tu trì nên trọn lành ấy họ vẫn còn quyến luyến thế gian cách nào đó, người này hay vật nọ hoặc việc kia, thì họ một cách nào đó đã bị mất đi Nước Trời trong lòng họ, nên khi bị thử thách bách hại họ sẽ không thể nào chịu được, không thể bền đỗ đến cùng để được cứu rỗi (xem Mathêu 24:13), để được Nước Trời.

2- Phúc thứ 8 và thứ 9 thoạt tiên có vẻ giống nhau, ở chỗ chịu khổ, nhưng xét kỹ thì lại hoàn toàn khác nhau. Trước hết, vì phúc thứ 8 áp dụng chung cho "những ai", còn phúc thứ 9 chỉ cho "các con" là thành phần môn đệ của Chúa Kitô; sau nũa ở phúc thứ tám lý do chịu khổ là vì sự công chính nói chung, vì thế có thể bao gồm người không phải Kitô hữu đã dám chết cho sự thật, cho lương tâm chân thật của họ hơn là làm điều gian trá tác hại đồng loại, còn phúc thứ 9 lý do chịu khổ là vì danh Thày, vì sống tinh thần Phúc Âm và làm chứng cho Chúa Kitô; sau hết ở phúc thứ tám phần thưởng là "Nước Trời" còn phúc thứ chín "phần thưởng lớn lao trên trời".

3- Phúc thứ 1 và phúc thứ hai phần thưởng hoàn toàn khác nhau, thậm chí ngược nhau: trong khi phúc thứ nhất phần thưởng là "Nước Trời" thì phúc thứ hai phần thưởng là "Đất". Nghĩa là hai phúc đầu tiên này là hai phúc căn bản cho tất cả các phúc được Chúa Kitô khôn khéo liệt kê thứ tự sau đó. Dù rằng "Đất" thấp hơn "Trời", nhưng phải được "Trời" trước "Đất", chứ không phải "Đất" trước "Trời". Tại sao thế? Tại vì "Trời" tiêu biểu cho Thiên Chúa, nếu đã có Thiên Chúa là có tất cả, còn được tất cả (biểu hiểu "Đất) mà mất Thiên Chúa là Trời thì cũng chỉ là hư không. Một tâm hồn đã bỏ hết mọi sự mà theo Chúa, và vì Chúa yêu tất cả mọi sự thì nhờ họ mà tất cả mọi sự được thánh hóa, như thể họ được Đất làm của mình vậy.

4- Không phải tình cờ và ngẫu nhiên Chúa Kitô liệt kê 8 hay 9 mối phúc đức này theo thứ tự trước sau như thế. Chỉ biết rằng các phúc đức đầu sẽ dẫn đến các phúc đức sau, và ai đạt được các phúc sau cần phải có cả các phúc đức đầu nữa. Chẳng hạn, ai đã đạt đến phúc thứ 9 là phúc cao nhất, ở chỗ được hiệp nhất nên một với Chúa Kitô, được chịu bách hại và sát hại như Chúa Kitô, thì họ phải là những con người có đầy đủ những tinh thần của 8 phúc đức trước, đó là nghèo khó, hiền lành, khổ ải, ước thiện, xót thương, tinh tuyền, hòa thuận và công chính.

 

"Người ta bắt đầu từ một thân phận khốn khổ đến chỗ hướng bản thân về tặng ân Chúa ban và tiến vào một thế giới mới, đó là 'Vương Quốc' được Chúa Giêsu loan báo... Người ta không được phúc đức nếu họ không hoán cải, để có thể nhờ đó cảm nhận được và sống các tặng ân Chúa ban"

 

Xin chào anh chị em thân mến!

Phụng vụ Chúa Nhật hôm nay giúp chúng ta suy niệm về Các Mối Phúc Đức (xem Mathêu 5:1-12a), những mối phúc đức mở đầu một bài giảng quan trọng được gọi là "bài giảng trên núi", một Đại Hiến Chương (the Magna Carta) của Tân Ước. Chúa Giêsu bày tỏ ý của Thiên Chúa muốn dẫn con người đến hạnh phúc. Sứ điệp này đã được trình bày trong việc rao giảng của các vị tiên tri, đó là Thiên Chúa là Đấng gần gũi với những người nghèo khổ và bị áp bức, và Ngài giải phóng họ khỏi những ai ngược đãi họ. Tuy nhiên, trong bài giảng này, Chúa Giêsu theo một đường lối đặc biệt: Người bắt đầu bằng chứ "Phúc thay" (blessed), hạnh phúc thay (happy). Người tiếp tục bằng cách nêu lên thứ thân phận được như vậy, và Người bằng cách đưa ra một hứa hẹn. Cái động lực để có phúc đức, tức là để được hạnh phúc, không phải là ở nơi chính thân phần cần phải như thế - chẳng hạn cần phải "tinh thần nghèo khó", "than khóc", "đói khát sự công chính", "bị bách hại"..., nhưng là ở cái hứa hẹn sau đó, thứ hứa hẹn được tin tưởng chấp nhận như tặng ân Chúa ban. Người ta bắt đầu từ một thân phận khốn khổ đến chỗ hướng bản thân về tặng ân Chúa ban và tiến vào một thế giới mới, đó là "Vương Quốc" được Chúa Giêsu loan báo. Đây không phải là một cơ cấu tự động mà là một lối sống theo Chúa, nhờ đó cái thực tại gian nan khốn khổ được nhận định bằng một nhãn quan mới và được cảm nghiệm tùy theo việc hoán cải xẩy ra. Người ta không được phúc đức nếu họ không hoán cải, để có thể nhờ đó cảm nhận được và sống các tặng ân Chúa ban. 

Tôi muốn dừng lại ở mối phúc đúc thứ nhất: "Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì chưng Nước Trời là của họ" (câu 4). Người có tinh thần nghèo khó là người có cảm nhận và thái độ của những người nghèo khổ không nổi loạn vì thân phận của mình, mà là khiêm tốn, ngoan hiền, hướng về ân sủng của Thiên Chúa. Cái hạnh phúc của người nghèo khó - của người sống tinh thần nghèo khó - có hai khía cạnh: khía cạnh liên hệ với các của cải sản vật và khía cạnh liên hệ với Thiên Chúa. Về khía cạnh liên hệ với các của cải sản vật, với những của cải vật chất, thì tinh thần nghèo khó là ở chỗ điều độ, không cần phải từ bỏ, mà là khả năng hoan hưởng những gì là thiết yếu, là chia sẻ; là khả năng lập lại hằng ngày việc nghĩ đến sự thiện hảo của các sự vật, mà không bị rơi vào tình trạng mù quáng của việc ngấu nghiến hưởng thụ. Tôi càng có thì lại càng muốn; tôi càng có thì lại càng muốn: đó là thứ ngấu nghiến hưởng thụ. Và đó là những gì sát hại linh hồn. Con người nam nữ nào làm như thế, thành phần có thái độ "tôi càng có thì càng muốn" ấy thì không được hạnh phúc và sẽ không đạt được hạnh phúc. Còn về khía cạnh liên hệ với Thiên Chúa thì đó là việc ngợi khen và cảm tạ vì thế giới này là một phúc lành và theo nguồn gốc của mình thì nó là tình yêu sáng tạo của Chúa Cha. Thế nhưng, nó cũng là việc cởi mở đối với Ngài, ngoan hiền trước vai trò làm chủ của Ngài: Ngài là Chúa; Ngài là Đấng Cao Cả. Tôi không phải là kẻ cao cả là vì tôi có nhiều thứ! Nhưng Ngài là thế: Ngài là Đấng muốn dựng nên thế giới này cho tất cả mọi người và muốn dựng nên nó cho hạnh phúc của con người.

Một con người có tinh thần nghèo khó là một Kitô hữu không tin tưởng vào bản thân mình, vào những thứ giầu sang phú quí về vật chất của mình, người không cố chấp với những ý nghĩ của mình mà là trân trọng lắng nghe cùng sẵn sàng theo quyết định của người khác. Nếu có nhiều người nghèo hơn nữa trong các cộng đồng của chúng ta thì sẽ ít xẩy ra chia rẽ, chống đối và tranh cãi! Đức khiêm nhượng, như đức bác ái, là một nhân đức thiết yếu cho việc chung sống trong các cộng đồng Kitô hữu của chúng ta. Thành phần ngheo khó theo nghĩa của Phúc Âm đây trở thành như những con người gìn giữ cho đích điểm của Nước Trời sống động, làm cho người ta thấy rằng Nước Trời được trông đợi ở nơi cái mầm của một cộng đồng huynh đệ yêu thích chia sẻ hơn là sở hữu. Tôi muốn nhấn mạnh điều này: yêu thích chia sẻ hơn là sở hữu. Luôn có một tấm lòng và đôi tay mở ra chứ không đóng lại (nói đến những chỗ "mở ra" và "đóng lại" này ĐTC còn kèm theo cử chỉ của ngài nữa, câu sau đó ngài cũng tiếp tục làm thế khi nói đến "đóng lại" và "cởi mở"). Khi con tim đóng lại thì nó là một con tim hẹp hòi: nó chẳng biết yêu thương là gì. Khi con tim cởi mở thì nó tiếp tục con đường yêu thương.

Xin Đức Trinh Nữ Maria, mẫu gương và là hoa trái đầu mùa của người có tinh thần nghèo khó vì Người đã hoàn toàn tỏ ra ngoan ngoãn với ý muốn của Chúa, giúp chúng ta biết trao phó bản thân của chúng ta cho Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót, để Ngài làm cho chúng ta tràn đầy các tặng ân của Ngài, nhất là tràn đầy ơn tha thứ của Ngài.                                                                   

https://zenit.org/articles/angelus-address-on-the-beatitudes/

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch kèm theo nhan đề và những chi tiết nhấn mạnh tự ý bằng mầu        

 




Thứ Hai


Lời Chúa


Bài Ðọc I (Năm I): Dt 11, 32-40

"Nhờ đức tin, họ chiến thắng các vương quốc. Thiên Chúa dự liệu cho chúng ta một cái gì tốt hơn".

Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, tôi còn phải nói gì nữa? Tôi không có đủ thời giờ thuật lại về Gêđêon, Barac, Samson, Giephtê, Ðavít, Samuel và các tiên tri. Nhờ đức tin, họ chiến thắng các vương quốc, thực thi công bình, được hưởng lời hứa, bịt miệng sư tử, dập tắt hoả hào, thoát khỏi lưỡi gươm, chế ngự bệnh tật, hùng dũng trong trận chiến; đánh đuổi các đạo quân ngoại bang, làm cho những người chết sống lại để trao trả cho các phụ nữ của họ. Có những người đành chịu hành hạ, mà không muốn được giải thoát, hy vọng được phục sinh hoàn hảo hơn. Lại có những người đành chịu nhục nhã, đòn vọt, kể cả xiềng xích và tù ngục. Họ bị ném đá, cưa xẻ, thử thách, bị giết bằng gươm. Họ mặc áo da cừu da dê, lưu lạc khắp nơi, thiếu thốn mọi điều, bị áp bức, ngược đãi. Thế gian chẳng xứng với họ. Họ lang thang trong hoang địa, trên núi non, trong hang đá, dưới hầm đất. Và tất cả họ đều nhờ bằng chứng đức tin mà lãnh nhận lời hứa tốt lành, thế mà họ chưa được lãnh nhận điều đã hứa, là vì Thiên Chúa đã dự liệu cho chúng ta một cái gì tốt hơn, kẻo họ đạt đến hoàn hảo mà không có chúng ta.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 30, 20. 21. 22. 23. 24.

Ðáp: Lòng chư vị hãy can trường mạnh bạo, hết thảy chư vị là người cậy trông ở Chúa (c. 25).

Xướng: 1) Lạy Chúa, vĩ đại thay lòng nhân hậu Chúa, lòng nhân hậu Ngài dành để cho những kẻ kính sợ Ngài, lòng nhân hậu Ngài ban cho những ai tìm nương tựa Ngài, ngay trước mặt con cái người ta. - Ðáp.

2) Chúa che chở họ dưới bóng long nhan Ngài cho khỏi người ta âm mưu làm hại. Chúa giấu họ trong lều trại của Ngài, cho khỏi miệng lưỡi người đời tranh luận. - Ðáp.

3) Chúc tụng Chúa, vì Ngài đã tỏ lòng nhân hậu với con, trong nơi thành trì kiên cố. - Ðáp.

4) Phần con, trong lúc gian truân, con đã nói: "Con bị loại ra khỏi long nhan Ngài rồi". Nhưng Chúa đã nghe lời con khẩn nguyện, khi con lên tiếng kêu cầu tới Chúa. - Ðáp.

5) Chư vị thánh nhân của Chúa, hãy mến yêu Ngài, Ngài gìn giữ những kẻ trung thành. Nhưng Ngài trả miếng thực là đầy đủ cho những ai sử sự kiêu căng. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 129, 5

Alleluia, alleluia! - Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia. 

Phúc Âm: Mc 5, 1-20

"Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ sang bờ biển bên kia, đến địa hạt Giêrasa. Chúa Giêsu vừa ở thuyền lên, thì một người bị quỷ ô uế ám từ các mồ mả ra gặp Người. Người đó vẫn ở trong các mồ mả mà không ai có thể trói nổi, dù dùng cả đến dây xích, vì nhiều lần người ta đã trói anh ta, gông cùm xiềng xích lại, nhưng anh ta đã bẻ gãy xiềng xích, phá gông cùm, và không ai có thể trị nổi anh ta. Suốt ngày đêm anh ta ở trong mồ mả và trong núi, kêu la và lấy đá rạch mình mẩy. Thấy Chúa Giêsu ở đàng xa, anh ta chạy đến sụp lạy Người và kêu lớn tiếng rằng: "Hỡi ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, ông với tôi có liên hệ gì đâu? Vì danh Thiên Chúa, tôi van ông, xin chớ hành hạ tôi". Nhưng Chúa Giêsu bảo nó rằng: "Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này". Và Người hỏi nó: "Tên ngươi là gì?" Nó thưa: "Tên tôi là cơ binh, vì chúng tôi đông lắm". Và nó nài xin Người đừng trục xuất nó ra khỏi miền ấy.

Gần đó, có một đàn heo đông đảo đang ăn trên núi, những thần ô uế liền xin Chúa Giêsu rằng: "Hãy cho chúng tôi đến nhập vào đàn heo". Và Chúa Giêsu liền cho phép. Các thần ô uế liền xuất ra và nhập vào đàn heo, rồi cả đàn chừng hai ngàn con lao mình xuống biển và chết đuối. Những kẻ chăn heo chạy trốn và loan tin đó trong thành phố và các trại. Người ta liền đến xem việc gì vừa xảy ra. Họ tới bên Chúa Giêsu, nhìn thấy kẻ trước kia bị quỷ ám ngồi đó, mặc quần áo và trí khôn tỉnh táo, và họ kinh hoảng. Những người đã được chứng kiến thuật lại cho họ nghe mọi sự đã xảy ra như thế nào đối với người bị quỷ ám và đàn heo. Họ liền xin Chúa Giêsu rời khỏi ranh giới họ. Khi Người xuống thuyền, kẻ trước kia bị quỷ ám xin theo Người. Nhưng người không cho mà rằng: "Con hãy về nhà với thân quyến, và loan truyền cho họ biết những gì Thiên Chúa đã làm cho con và đã thương con". Người đó liền đi và bắt đầu tuyên xưng trong miền thập tỉnh, tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm cho anh ta, và mọi người đều thán phục.

Ðó là lời Chúa. 



Suy niệm

 

   

Một nơi ma quỉ thích trú ngụ nhất

  

Ngày Thứ Hai trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay, quyền uy trừ quỉ của Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm hôm nay thực sự là những gì phản ảnh chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này.

Đúng thế, nếu quỉ cả không thể nào đi trừ quỉ con, vì ma quỉ không thể nào tự chia rẽ nhau, như chính Chúa Giêsu khẳng định trong Bài Phúc Âm Thứ Hai tuần trước, và nếu loài người vốn bị ma quỉ thống trị từ sau nguyên tội không ai có thể trừ quỉ, thì ai trừ được quỉ người đó chắc chắn phải từ Thiên Chúa là Đấng vô cùng toàn năng mà đến, hay là chính Thiên Chúa, như trường hợp của Vị Thiên Chúa Làm Người Giêsu Kitô trong Bài Phúc Âm hôm nay.

Thật vậy, trong các người bị quỉ ám được bộ Phúc Âm Nhất Lãm thuật lại, chưa có một trường hợp nào đầy kinh hoàng và thật khiếp sợ như trường hợp này, một trường hợp được Thánh ký Marco thuật lại trong Bài Phúc Âm hôm nay, vừa quá dữ tợn, quá mãnh liệt và quá nhiều quỉ, chứng tỏ không một con người thuần túy nào có thể trừ quỉ ngoại trừ một mình Vị Thiên Chúa Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô:

"Khi ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ sang bờ biển bên kia, đến địa hạt Giêrasa. Chúa Giêsu vừa ở thuyền lên, thì một người bị quỷ ô uế ám từ các mồ mả ra gặp Người. Người đó vẫn ở trong các mồ mả mà không ai có thể trói nổi, dù dùng cả đến dây xích, vì nhiều lần người ta đã trói anh ta, gông cùm xiềng xích lại, nhưng anh ta đã bẻ gãy xiềng xích, phá gông cùm, và không ai có thể trị nổi anh ta. Suốt ngày đêm anh ta ở trong mồ mả và trong núi, kêu la và lấy đá rạch mình mẩy".

Sự kiện "một người bị quỷ ô uế ám từ các mồ mả ra" và "người đó vẫn ở trong các mồ mả" (câu này bản dịch có thể bị hiểu lầm là người bị quỉ ám  bên trong các ngôi mộ, đúng hơn là "ẩn nấp ở giữa các ngôi mộ - the man had taken refuge among the tombs") cho thấy ma quỉ đồng nghĩa với chết chóc và gây ra chết chóc (xem Gioan 8:44), mà đã là người thì tự nhiên ai cũng sợ chết và bị chết về thể lý, không ai có thể thoát chết và làm chủ được sự chết, ngoại trừ Đấng từ cõi chết sống lại là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý".

Cho dù vì kiêu ngạo ngay từ ban đầu mà đệ nhất thần trời là minh thần Luxiphe đã cùng với 1/3 thần trời trở thành ma quỉ (xem Khải Huyền 12:4,7-9), chúng sau đó đã tỏ ra biết mình, như Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy thái độ của chúng tự động tỏ ra với Đấng quyền năng hơn chúng, dù Người còn ở đằng xa, và van xin với Người là Đấng mà chúng nhận biết là ai và đừng ra tay làm khốn chúng: 

"Thấy Chúa Giêsu ở đàng xa, anh ta chạy đến sụp lạy Người và kêu lớn tiếng rằng: 'Hỡi ông Giêsu, Con Thiên Chúa Tối Cao, ông với tôi có liên hệ gì đâu? Vì danh Thiên Chúa, tôi van ông, xin chớ hành hạ tôi'". 

Thế nhưng, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" đến để cứu độ con người được dựng nên theo hình thần linh và tương tự thần linh (xem Khởi Nguyên 1:26-27) khỏi tội lỗi và sự chết gây nên bởi ma quỉ ngay từ ban đầu, khỏi tình trạng con người đang bị nô lệ ma quỉ và bị ma quỉ thống trị, làm sao có thể làm theo ý muốn gian ác hại người của chúng. Bởi thế Người đã ra tay trừ chúng: "Hỡi thần ô uế, hãy ra khỏi người này". 

Tuy nhiên, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại, trước khi chúng xuất ra, "Người hỏi nó: 'Tên ngươi là gì?' Nó thưa: 'Tên tôi là cơ binh, vì chúng tôi đông lắm'. Và nó nài xin Người đừng trục xuất nó ra khỏi miền ấy". Nếu tên của một con quỉ ám người ấy là "cơ binh" thì có thể suy ra rằng

1- Ma quỉ là một tập thể hơn là từng cá nhân, (hoàn toàn khác hẳn với con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa nhờ đó trở thành từng cá nhân được Ngài yêu thương), nên chúng không thể tách lìa nhau, "trừ khử nhau... chia rẽ nhau" (Marco 3:23-24); 

2- Ma quỉ là một quyền lực mãnh liệt, quyền lực tối tăm, quyền lực sự dữ, quyền lực chết chóc, không gì có thể thắng nổi, (như ở nơi trường hợp người bị chúng ám được diễn tả trong Bài Phúc Âm hôm nay), ngoi trừ quyền năng của một mình Thiên Chúa.

Ma quỉ chẳng những là một quyền năng nhưng tự bản chất chúng vẫn sợ đau khổ, vẫn sợ bị trừng phạt, bởi thế, cho dù tự mình là một quyền lực hủy hoại, chúng cũng đã đề nghị với Đấng trừ chúng, đúng hơn là xin cùng Đấng không thể nào không trừ chúng, cho chúng nhập vào đàn heo ở gần đó để chúng tự dùng quyền năng chết chóc của mình mà thực hiện một hành động "tự tử" qua đàn heo ấy, còn hơn bị một tay cao thủ hơn mình như Chúa Kitô ra tay hạ sát cho đỡ bị nhục nhã:

"Gần đó, có một đàn heo đông đảo đang ăn trên núi, những thần ô uế liền xin Chúa Giêsu rằng: 'Hãy cho chúng tôi đến nhập vào đàn heo'. Và Chúa Giêsu liền cho phép. Các thần ô uế liền xuất ra và nhập vào đàn heo, rồi cả đàn chừng hai ngàn con lao mình xuống biển và chết đuối". 

Sự kiện đám quỉ xin nhập vào đàn heo đây dường như ám chỉ là ở nơi đâu vốn sống theo xu hướng về xác thịt, về đam mê nhục dục, về tham lam hưởng thụ, về những gì xấu ra tồi bại thấp hèn đều là những chỗ của ma quỉ và giành cho ma quỉ, những chỗ hết sức thuận lợi cho ma quỉ hoành hành hơn đâu hết, những chỗ ma quỉ là tác nhân mang lại chết chóc cho những tâm hồn quay cuồng theo cuộc sống buông thả như thế... 

Trường hợp của những con người sống băng hoại buông thả ấy có thể nói còn tệ hại và nguy hiểm hơn cả của trường hợp những ai bị quỉ ám nữa, vì người bị quỉ ám hoàn toàn xẩy ra ngoài ý muốn của họ, và họ không thể tự cứu mình cho đến khi được giải cứu bởi một quyền lực thần linh của Thiên Chúa. Họ thật là đáng thương và cần cứu. Một khi được cứu và tỉnh lại, họ trở thành những con người tốt hơn trước, như trường hợp nạn nhân đương sự trong Bài Phúc Âm hôm nay: 

"Kẻ trước kia bị quỉ ám ngồi đó, mặc quần áo và trí khôn tỉnh táo, và họ kinh hoảng... Khi Người xuống thuyền, kẻ trước kia bị qu ám xin theo Người. Nhưng người không cho mà rằng: 'Con hãy về nhà với thân quyến, và loan truyền cho họ biết những gì Thiên Chúa đã làm cho con và đã thương con'. Người đó liền đi và bắt đầu tuyên xưng trong miền thập tỉnh, tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm cho anh ta, và mọi người đều thán phục".

Về phía thành phần dân chúng nói chung và chủ nhân của đàn heo bị thiệt hại nói riêng: "họ tới bên Chúa Giêsu, nhìn thấy kẻ trước kia bị quỷ ám ngồi đó, mặc quần áo và trí khôn tỉnh táo, và họ kinh hoảng", đến độ, họ chẳng những không tỏ ra cảm phục "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", như dân làng Samaria của người phụ nữ tội lỗi đã "tuốn ra gặp Người" mà còn "tin vào Người" nữa (xem Gioan 4:30,39), và mừng cho nạn nhân bị quỉ ám vốn là người trong làng của mình, mà họ lại còn có một thái độ hoàn toàn phản ngược, ở chỗ họ đã tỏ ra sợ hãi Chúa Kitô, như thể họ sợ hãi quyền năng trừ quỉ của Chúa, sợ hãi hành động bị trừ quỉ gây thiệt hại cho họ... 

Phải chăng đó là lý do ma quỉ đông như "đạo binh" đã thích thú ở vùng lầy bại hoại này, một vùng đầy những ma quỉ đông như cả một "đạo binh", một sào huyệt của ma quỉ nên chúng không muốn rời bỏ một nơi béo bở như vậy, và "nó nài xin Người đừng trục xuất nó ra khỏi miền ấy"? 

Và cũng phải chăng sau khi thoát khỏi cảnh bị ma quỉ khống chế ở miền này, nạn nhân được trừ quỉ không muốn ở lại một miền đất như sào huyệt của ma quỉ ấy nữa, mà chỉ muốn theo Đấng đã trừ qủi cho mình, theo Đấng đã giải thoát mình, một trường hợp duy nhất trong Phúc Âm liên quan đến nạn nhân trừ quỉ muốn theo Chúa Kitô sau khi được trừ quỉ??

Nhất là phải chăng Chúa Giêsu không chấp nhận lời xin rất chân thành và tốt lành hiếm có này của nạn nhân bị quỉ ám được Người giải thoát là vì Người muốn anh ta trở thành tông đồ của Người và cho Người ở ngay vùng đất của ma quỉ này, một vùng đất dân địa phương ở đấy không muốn thấy sự hiện diện cứu độ của Người, sợ hãi quyền năng giải thoát của Người, nhờ đó, nhờ sự hiện diện gián tiếp của Người qua chứng nhân sống động là anh ta mà ma quỉ không dám hoành hành miền đất ấy nữa. Anh ta trở thành như một ấn tín cứu độ của Người ở vùng này và cho vùng đất vốn là của ma quỉ và thuộc về ma quỉ mà chính anh ta đã từng là ngai tòa ngự trụ của chúng giữa vương quốc của chúng ở đấy???

Trong bài giảng cho Lễ Thứ Sáu 29/1/2016 tại Nhà Trọ Thánh Matta, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh một lần nữa, trong nhiều lần khác, về tình trạng tội lỗi là những gì khả chấp còn băng hoại là những gì bất khả chấp, như trường hợp của dân làng sống ở "địa hạt Giêrasa" có thái độ sợ Chúa trên đây trong bài Phúc Âm hôm nay, khi ngài kết thúc bài giảng của mình bằng lời cầu nguyện như sau:

"Lạy Chúa, xin cứu chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi bị băng hoại. Ôi Chúa, vâng, chúng con là những tội nhân, thế nhưng không bao giờ trở thành băng hoại. Chúng con xin Chúa ban cho chúng con ơn này". 

 

 

Thứ Ba


Lời Chúa


 Bài Ðọc I (Năm I): Dt 12, 1-4

"Chúng ta hãy kiên quyết xông ra chiến trận đang chờ đợi ta".

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, cả chúng ta, chúng ta cũng có một đoàn thể chứng nhân đông đảo như đám mây bao quanh, chúng ta hãy trút bỏ tất cả những gì làm cho chúng ta nặng nề và tội lỗi bao quanh chúng ta. Chúng ta hãy kiên quyết xông ra chiến trận đang chờ đợi ta. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Ðức Giêsu, Ðấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất; vì trông mong niềm vui đang chờ đón mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn, và rồi lên ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. Anh em hãy tưởng nghĩ đến Ðấng đã liều thân chịu cuộc tấn công dữ dội của những người tội lỗi vào chính con người của Ngài, ngõ hầu anh em khỏi mỏi mệt mà thất vọng. Vì chưng, trong khi chiến đầu với tội lỗi, anh em chưa đến nỗi phải đổ máu.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 21, 26b-27. 28 và 30. 31-32

Ðáp: Lạy Chúa, những kẻ tìm kiếm Chúa sẽ ca khen Chúa (c. 27b).

Xướng: 1) Tôi sẽ làm trọn những lời khấn hứa của tôi, trước mặt những người tôn sợ Chúa. Bạn cơ bần sẽ ăn và được no nê, những kẻ tìm kiếm Chúa sẽ ca khen Chúa: "Tâm hồn các bạn hãy vui sống tới muôn đời". - Ðáp.

2) Thiên hạ sẽ ghi lòng và trở về với Chúa, khắp cùng bờ cõi địa cầu; và toàn thể bá tánh chư dân sẽ phủ phục trước thiên nhan Chúa. Bao người ngủ trong lòng đất sẽ tôn thờ duy một Chúa, bao kẻ nằm xuống bụi tro sẽ sấp mình trước thiên nhan. Và linh hồn tôi sẽ sống cho chính Chúa. - Ðáp.

3) Miêu duệ tôi sẽ phục vụ Ngài, sẽ tường thuật về Chúa cho thế hệ tương lai, và chúng kể cho dân hậu sinh biết đức công minh Chúa, rằng "Ðiều đó Chúa đã làm". - Ðáp.

  

Alleluia: Tv 144, 13cd

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mc 5, 21-43

"Hỡi em bé, Ta bảo em hãy chỗi dậy".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu đã xuống thuyền trở về bờ bên kia, có đám đông dân chúng tụ họp quanh Người, và lúc đó Người đang ở bờ biển. Bỗng có một ông trưởng hội đường tên là Giairô đến. Trông thấy Người, ông sụp lạy và van xin rằng: "Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống". Chúa Giêsu ra đi với ông ấy, và đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía.

Vậy có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu cực khổ, tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của mà không thuyên giảm, trái lại bệnh càng tệ hơn. Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ: "Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì tôi sẽ được lành". Lập tức, huyết cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình, Người liền quay lại đám đông mà hỏi: "Ai đã chạm đến áo Ta?" Các môn đệ thưa Người rằng: "Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vậy mà Thầy còn hỏi "Ai chạm đến Ta?" Nhưng Người cứ nhìn quanh để tìm xem kẻ đã làm điều đó. Bấy giờ người đàn bà run sợ, vì biết rõ sự thể đã xảy ra nơi mình, liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người tất cả sự thật. Người bảo bà: "Hỡi con, đức tin con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh".

Người còn đang nói, thì người nhà đến nói với ông trưởng hội đường rằng: "Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?" Nhưng Chúa Giêsu đã thoáng nghe lời họ vừa nói, nên Người bảo ông trưởng hội đường rằng: "Ông đừng sợ, hãy cứ tin". Và Người không cho ai đi theo, trừ Phêrô, Giacôbê và Gioan, em Giacôbê. Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Và Chúa Giêsu thấy người ta khóc lóc kêu la ồn ào, Người bước vào và bảo họ: "Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó". Họ liền chế diễu Người. Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết, chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Và Người cầm tay đứa nhỏ nói rằng: "Talitha, Koumi!", nghĩa là: "Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!" Tức thì em bé đứng dậy và đi được ngay, vì em đã được mười hai tuổi. Họ sửng sốt kinh ngạc. Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết việc ấy, và bảo họ cho em bé ăn.

Ðó là lời Chúa.




Suy niệm



  

Con Số Đông Đảo Vuông Tròn: 12 x 12 = 144 


Hôm nay, Thứ Ba trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinhchủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này vẫn tiếp tục với phụng vụ lời Chúa hôm nay nói chung và bài Phúc Âm nói riêng.

Thật thế, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" đã tỏ mình ra trong bài Phúc Âm hôm nay ở chỗ chữa lành cho một người đàn bà bị bệnh loạn huyết 12 năm và đã hồi sinh một bé gái 12 tuổi.

Trước hết là phép lạ chữa lành người đàn bà loạn huyết 12 năm:

"Có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu cực khổ, tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của mà không thuyên giảm, trái lại bệnh càng tệ hơn. Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ: 'Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì tôi sẽ được lành'. Lập tức, huyết cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình, Người liền quay lại đám đông mà hỏi: 'Ai đã chạm đến áo Ta?' Các môn đệ thưa Người rằng: 'Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vậy mà Thầy còn hỏi Ai chạm đến Ta?' Nhưng Người cứ nhìn quanh để tìm xem kẻ đã làm điều đó. Bấy giờ người đàn bà run sợ, vì biết rõ sự thể đã xảy ra nơi mình, liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người tất cả sự thật. Người bảo bà: 'Hỡi con, đức tin con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh'".

Sau nữa là phép lạ hồi sinh một bé gái 12 tuổi: 

"Người còn đang nói, thì người nhà đến nói với ông trưởng hội đường rằng: 'Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?' Nhưng Chúa Giêsu đã thoáng nghe lời họ vừa nói, nên Người bảo ông trưởng hội đường rằng: 'Ông đừng sợ, hãy cứ tin'. Và Người không cho ai đi theo, trừ Phêrô, Giacôbê và Gioan, em Giacôbê. Các ngài đến nhà ông trưởng hội đường. Và Chúa Giêsu thấy người ta khóc lóc kêu la ồn ào, Người bước vào và bảo họ: 'Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó'. Họ liền chế diễu Người. Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết, chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Và Người cầm tay đứa nhỏ nói rằng: 'Talitha, Koumi!', nghĩa là: 'Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!' Tức thì em bé đứng dậy và đi được ngay, vì em đã được mười hai tuổi. Họ sửng sốt kinh ngạc. Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết việc ấy, và bảo họ cho em bé ăn".

Theo bộ 3 Phúc Âm Nhất Lãm thì 2 phép lạ này bao giờ cũng đi liền với nhau, nhưng có cái lạ là con số 12 trùng hợp ở giữa hai nạn nhân nhận được phép lạ của Chúa Giêsu, rồi một điều nữa là phép lạ chữa lành cho nữ nạn nhân loạn huyết 12 năm đã kéo dài thời giờ khiến bé gái 12 tuổi "đang hấp hối" không kịp chữa lành khi còn sống như người đàn bà loạn huyết 12 năm. Ngoài ra, sự kiện "đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía" khiến Người không thể đi nhanh hơn cũng là nguyên nhân chậm trễ khiến Chúa Giêsu không đến kịp lúc trước khi bé gái chết. 

Tuy nhiên, vì là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", Chúa Giêsu vẫn có thể tỏ mình ra một cách hữu hiệu nhất và sáng tỏ nhất vào bất cứ lúc nào, tùy từng trường hợp của mỗi người cũng như của những ai liên hệ, miễn là làm sao để mang lại lợi ích thiêng liêng tối đa chẳng những cho chính nạn nhân đương sự mà còn cho chung cả cộng đồng của họ nữa. Phải chăng đó là lý do có con số trùng hợp 12 với 12: 12 x 12 = 144, hình ảnh vuông tròn của con số đông được tuyển chọn, bao gồm cả cựu ước (12 chi tộc dân Do Thái) lẫn tân ước (12 tông đồ của Giáo Hội), như được Sách Khải Huyền đề cập tới con số 144.000 (21:17) về một Tân Thánh Đô Giêrusalem?

Về trường hợp của người đàn bà loạn huyết 12 năm, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" muốn tỏ mình ra ở một "đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía", nhờ đó, riêng người đàn bà bị bệnh loạn huyết có thể lợi dụng dịp may hiếm quí ấy mà tự động chạm đến gấu áo của Người hầu được chữa lành, bằng không, như những lần khác, Người thường xuống thuyền để tránh đám đông thì bà ấy chẳng bao giờ có thể chạm đến Người

Và mục đích Người cố ý lên tiếng hỏi "ai đã đụng đến Tôi" một cách công khai giữa đám đông trong Bài Phúc Âm hôm nay, không phải là vì Người không biết kẻ nào đã động đến Người, hay Người muốn kẻ đụng đến Người tự thú; thực sự Người đã biết được rằng chính những gì từ Người xuất ra, (như tác dụng thần linh và ân sủng vẫn từ các Bí Tích Thánh hiện nay), và quyền lực chữa lành từ Người thông ra đó đã chữa lành con người chạm đến Người là ai; vì thế, mục đích Người lên tiếng là để cho mọi người hiện diện bấy giờ hãy lưu ý đến nạn nhân được Người chữa lành, đúng hơn đến yếu tố bà đã được chữa lành là chính "đức tin con đã chữa con" của bà, một đức tin có tác dụng chữa lành dù bề ngoài Người như thể không biết và hoàn toàn do đương sự tự động làm thôi.

Về trường hợp của bé gái 12 tuổi hấp hối và lìa đời, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" muốn tỏ mình ra vào chính lúc em chết rồi mới rạng ngời hơn lúc em đang hấp hối, và mới đúng lúc hơn, bởi vì, lúc ấy mới là lúc có đông người thương cảm về cái chết mệnh yểu của một "lá xanh rụng xuống lá vàng trên cây" như em đến chia buồn với tang gia, đông hơn là lúc em mới hấp hối. Trường hợp của người đàn bà loạn huyết cũng thế, bà ấy phải trải qua tất cả những gì có thể theo tự nhiên, đến độ không còn cậy trông gì được nữa ngoài chính Người là Đấng cứu độ duy nhất: "Bà đã chịu cực khổ, tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của mà không thuyên giảm, trái lại bệnh càng tệ hơn. Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ: 'Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì tôi sẽ được lành'".

Còn cái chết tự nhiên về phần xác của con người trên trần gian này, như trường hợp của bé gái 12 tuổi này, hay của Lazarô bạn thân của Người (xem Gioan 11:11), đối với Người, chỉ là một giấc ngủ mà thôi: "Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó", còn có thể thức dậy được, đúng hơn, còn có thể đánh thức dậy bằng quyền năng của Người, vì thân xác chết chóc của con người sau nguyên tội và bởi nguyên tội, nhờ quyền năng Vượt Qua của Người sau này, hay nhờ Thánh Thần của Người (xem Roma 8:11), "sẽ được sống lại vào ngày sau hết" (Gioan 11:24).

 


Thứ Tư


Lời Chúa


Bài Ðọc I (Năm I): Dt 12, 4-7. 11-15

"Chúa sửa dạy ai mà Người yêu mến".

Bài trích thơ gởi tín hữu Do thái.

Anh em thân mến, khi chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa đến nỗi phải đổ máu và anh em đã quên lời yên ủi tôi nói với anh em, như nói với những người con rằng: "Hỡi con, con chớ khinh thường việc Chúa sửa dạy, và đừng nản chí khi Người quở trách con; vì Chúa sửa dạy ai mà Người yêu mến, và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con".

Trong khi được sửa dạy, anh em hãy bền chí, Thiên Chúa xử sự với anh em như con cái: vì có người con nào mà cha không sửa phạt.

Ngày nay, hẳn ai cũng coi việc sửa dạy là nỗi buồn khổ, hơn là nguồn vui, nhưng sau này, nó sẽ mang lại hoa quả bình an công chính cho những ai được sửa dạy.

Vì thế, anh em hãy nâng đỡ những bàn tay bủn rủn và những đầu gối rụng rời.

Ðường anh em đi, anh em hãy bạt cho thẳng, để người què khỏi bị trẹo chân, nhưng được an lành.

Anh em hãy sống hòa thuận với hết mọi người, hãy ăn ở thánh thiện, chẳng vậy không ai được nhìn thấy Thiên Chúa.

Anh em hãy coi chừng đừng ai để mất ơn Chúa, đừng để một rễ cay đắng nào mọc chồi gây xáo trộn và làm cho nhiều người bị nhiễm độc.

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv. 102, 1-2, 13-14, 17-18a

Ðáp: Lòng yêu thương của Chúa vẫn tồn tại từ thuở nầy tới thuở kia cho những ai kính sợ Ngài. (17)

Xướng 1) Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, toàn thể trong người tôi, hãy chúc tụng thánh danh Ngài. Linh hồn tôi ơi, hãy chúc tụng Chúa, và chớ khá quên mọi ân huệ của Ngài. - Ðáp.

2) Cũng như người cha yêu thương con cái, Chúa yêu thương những ai kính sợ Ngài. Ngài biết chúng tôi được luyện bằng chất gì, Ngài nhớ rằng tro bụi là chính chúng tôi! - Ðáp.

3) Nhưng lòng yêu thương của Chúa vẫn còn tồn tại từ thuở nọ tới thuở kia cho những ai kính sợ Ngài, và đức công minh Chúa còn dành để cho con cháu họ, cho những ai giữ lời minh ước của Ngài. - Ðáp.

Alleluia: Ga 8,12

Alleluia, Alleluia. - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống. - Alleluia. 

Phúc Âm: Mc 6,1-6

"Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương".

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người.

Ðến ngày Sabát, Người vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sủng sốt về giáo lý của Người, nên nói rằng: "Bởi đâu ông nầy được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông nầy chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?"

Và họ vấp phạm vì Người.

Chúa Giêsu liền bảo họ: "Không một tiên tri nào mà không bị kinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình".

Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin.

Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.

Ðó là Lời Chúa. 



Suy niệm

 


   Đức Kitô Nazarét  - Một Cớ Vấp Phạm


Phụng vụ lời Chúa, nhất là Bài Phúc Âm, cho Thứ Tư trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay vẫn tiếp tục phản ảnh chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này.

Bài Phúc Âm hôm nay được Thánh ký Marco thuật lại, có nội dung phần nào giống phần đầu của bài Phúc Âm được Thánh ký Luca thuật lại và được Giáo Hội sử dụng cho Chúa Nhật IV Năm C. Bài Phúc Âm hôm nay, tuy ở cùng một địa điểm và cùng một thành phần thính giả: "Chúa Giêsu trở về quê nhà" như bài Phúc Âm Chúa Nhật IV Năm C, nhưng khác với bài Phúc Âm Chúa Nhật IV Năm C này ở chỗ không có đoạn Chúa Giêsu bị dân làng dẫn ra sườn núi để xô Người xuống cho chết như ở phần cuối của Bài Phúc Âm Chúa Nhật IV Năm C này.

Tuy nhiên, cả bài Phúc Âm cho Chúa Nhật IV Năm C này của Thánh ký Luca cũng như bài Phúc Âm cho Thứ Tư hôm nay của Thánh ký Marco đều giống nhau ở phản ứng của dân chúng về Chúa Giêsu Kitô, ở chỗ, một đàng thì họ tỏ ra "sng sốt về giáo lý của Người", đàng khác, trái lại, chính vì họ cảm thấy lạ lùng "sửng sốt" như vậy về Người "nên nói rằng: 'Bởi đâu ông nầy được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông nầy chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?'

Thái độ ba phải của họ đã được Thánh ký Marco trong Bài Phúc Âm hôm nay kết luận là: "Và họ vấp phạm vì Người". "Vấp phạm" ở chỗ nào? Phải chăng ở chỗ họ đã phạm tội, ở chỗ họ đã tỏ ra uất hận với Người đến độ muốn sát hại Người như trong Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca cho Chúa Nhật IV Năm C?

Thế nhưng, phản ứng và hành động sát hại Chúa Giêsu Kitô đây chỉ xẩy ra sau khi Người thẳng thắn cho họ biết về tình trạng mù quáng và cứng lòng tin của họ mà thôi, như Bài Phúc Âm Chúa Nhật IV Năm C cho biết, còn ở trong Bài Phúc Âm hôm nay, trước khi Người cảnh giác họ rằng: "Không một tiên tri nào mà không bị kinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình", thì Thánh ký Marcô đã khẳng định rằng "họ vấp phạm vì Người" rồi.

Vậy thì phải chăng không tin vào Chúa Kitô là một thái độ hay hành động hoặc trạng thái "vấp phạm". Theo nguyên tắc có thể hiểu như thế. Bởi vì, nếu Chúa Kitô là "ánh sáng thật chiếu soi mọi người..." (Gioan 1:9) thì một khi Người chưa xuất hiện thì tất cả nhân loại vẫn còn tiếp tục "ngồi trong tăm tối và trong bóng sự chết" (Luca 1:79), tức là vẫn còn ở trong tình trạng "vấp phạm", cần phải được cứu độ, cần phải được giải cứu cho khỏi tình trạng bất hạnh vô phúc ấy.

Con người lại càng "vấp phạm" hơn nữa, khi "ánh sáng thật chiếu soi mọi người đã đến trong thế gian" (Gioan 1:9), nghĩa là khi Thiên Chúa đã "hóa thành nhục thể" nơi Con Ngài là Đức Giêsu Kitô, Đấng "tỏ Cha ra" (Gioan 1:18) cho họ mà họ vẫn "không nhận biết Người" (Gioan 1:10) và vẫn "không chấp nhận Người" (Gioan 1:11), như trường hợp điển hình là dân làng Nazarét của Người được Thánh ký Marco ghi lại trong Bài Phúc Âm hôm nay.

Thật vậy, cho dù con người không phạm một thứ tội nào đó thật sự được liệt kê trong 10 điều răn, nhưng một khi con người không chấp nhận sự thật được tỏ ra cho họ, qua tiếng lương tâm của họ, qua những chứng từ của Giáo Hội, qua những nguyên tắc luân lý bất dịch, qua Giáo Huấn chân thật của Giáo Hội v.v., thì ở một nghĩa nào đó, tự mình, họ đã ở trong tình trạng "vấp phạm" rồi vậy, như chính Chúa Kitô đã khẳng định về họ dưới đây

"Phán quyết luận phạt là thế này: ánh sáng đã đến trong thế gian nhưng con người lại chuộng tối tăm hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều gian ác. Hết mọi kẻ làm điều gian ác xấu xa đều ghét ánh sáng, không muốn đến gần ánh sáng bởi sợ các việc làm của mình bị bại lộ" (Gioan 3:19-20).

Thành phần không chấp nhận sự thật hay từ chối sự thật này sở dĩ là thành phần "vấp phạm" vì họ không muốn hoán cải đời sống, trái lại họ muốn tiếp tục sống trong tội lỗi, cho dù họ thực sự biết mình đang tội lỗi, đang sống một cách giả dối và gian ác, hoàn toàn bất khả chấp. Thậm chí chính bản thân đương sự phạm nhân cũng không thể chịu được, khi họ bị lương tâm cắn rứt hay khi họ bị đau khổ bởi tội lỗi do chính họ gây ra.

Nếu họ chấp nhận sự thật thì họ phải hoán cải. Mà hoán cải thì mất tự do phạm tội. Bởi thế, họ không ngừng trốn tránh sự thật, không nương tay đàn áp sự thật và sát hại sự thật là chính những gì giải phóng họ (xem Gioan 8:32). Điển hình và thực tế nhất là trường hợp của những con người luôn trấn an lương tâm để cố tình lao đầu theo đam mê nhục dục và tham vọng lợi lộc điên cuồng của mình, bằng mọi giá, bất chấp mọi thiệt hại gây ra cho tha nhân. 

Với những con người cố tình sống trong tình trạng băng hoại thối nát ấy, như Thiên Chúa không hiện hữu, hay như Thiên Chúa đã chết, như không có đời sau, như chỉ có thiên đường trần thế, như tử thi chết 4 ngày như vậy, cho dù Chúa Giêsu vẫn có thể hồi sinh như Lazarô, nhưng có những trường hợp "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" này chỉ còn biết "khóc" (xem Gioan 11:39,35; Luca 19:41) mà thôi. Đó là lý do bài Phúc Âm hôm nay đã kết lại ở chỗ: 

"Ở đó Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin. Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy". 

Đúng thế, đa số thành phần dân làng ở Nazarét có "vấp phạm vì Người" chăng nữa, Người đã chẳng những không chán nản hay thất vọng, trái lại, càng vì thế Người càng phải nỗ lực rao giảng hơn nữa, ở chỗ: "Người đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy", chẳng những để ngăn chặn tình trạng băng hoại như ở Nazarét mà còn để cứu độ những con người đáng thương khác, thật sự lầm lạc khác. 

Tuy nhiên, theo nguyên tắc, "ở đó Người không làm phép lạ nào được... vì họ cứng lòng tin". Đó là lý do Chúa Giêsu đã khẳng định trong một số trường hợp rằng "đức tin của con đã cứu con" (Luca 7:50; 18:42). Khẳng định như thế không phải là Chúa Giêsu muốn nói rằng ai tin thì có thể tự cứu chữa mình, mà là chính Người đã cứu chữa họ nhờ đức tin của họ. Hành động đức tin của họ ở nơi Người là hành động nhận biết Người là Đấng Cứu Thế duy nhất, là hành động chấp nhận Người chính là Đấng Thiên Sai, Đấng được Cha sai đến không phải để luận phạt mà là để ban sự sống cho con người (xem Gioan 3:16-17).


Thứ Năm


Lời Chúa


2/2 Đức Mẹ Dâng Con 

Bài Ðọc I: Ml 3, 1-4

"Ðấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, đến trong đền thánh Người".

Bài trích sách Tiên tri Malakhi.

Này đây Chúa là Thiên Chúa phán: "Ðây Ta sai thiên thần Ta đi dọn đường trước mặt Ta!" Lập tức Ðấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, và thiên thần giao ước mà các ngươi mong ước, đến trong đền thánh Người. Chúa các đạo binh phán: "Này đây Người đến". Ai có thể suy tưởng đến ngày Người đến, và có thể đứng vững để trông nhìn Người? Vì Người sẽ như lửa thiêu đốt, như thuốc giặt của thợ giặt. Người sẽ ngồi như thợ đúc và thợ lọc bạc, Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi, và làm cho chúng nên sạch như vàng bạc. Chúng sẽ hiến dâng lễ tế cho Chúa trong công bình. Lễ tế của Giuđa và Giêrusalem sẽ đẹp lòng Chúa, như ngày xưa và như những năm trước. Ðó là lời Chúa toàn năng phán.

Ðó là lời Chúa. 

Ðáp Ca: Tv 23, 7. 8. 9. 10

Ðáp: Vua hiển vinh là ai vậy? (c. 8a)

Xướng: 1) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên; vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu! để Vua hiển vinh Người ngự qua. - Ðáp.

2) Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa dũng lực hùng anh, đó là Chúa anh hùng của chiến chinh. - Ðáp.

3) Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên, vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu, để vua hiển vinh Người ngự qua. - Ðáp.

4) Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa đạo thiên binh, chính Người là Hoàng Ðế hiển vinh. - Ðáp. 

Bài Ðọc II: Dt 2, 14-18

"Người phải nên giống anh em Mình mọi đàng".

Bài trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Vì các con trẻ cùng chung thân phận máu thịt, chính Chúa Giêsu cũng giống như chúng, cũng thông phần điều đó, để nhờ cái chết của Người mà Người huỷ diệt kẻ thống trị sự chết là ma quỷ, và để giải thoát tất cả những kẻ sợ chết mà làm nô lệ suốt đời. Vì chưng Người không đến cứu giúp các thiên thần, nhưng đến cứu giúp con cái Abraham. Bởi thế, Người nên giống anh em Mình mọi đàng, ngõ hầu trong khi phụng sự Chúa, Người trở thành đại giáo trưởng nhân lành và trung tín với Chúa, để đền tội cho dân. Quả thật, bởi chính Người đã chịu khổ hình và chịu thử thách, nên Người có thể cứu giúp những ai sống trong thử thách.

Ðó là lời Chúa. 

Alleluia: Lc 2,32

Alleluia, alleluia! - Ánh sang đã chiếu soi muôn dân, và là vinh quang của Israel dân Chúa. - Alleluia. 

Phúc Âm: Lc 2, 22-32 [hoặc 22-40]

"Mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa". Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu con.

Và đây ở Giêrusalem, có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:

"Lạy Chúa, giờ đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa". 

[ Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: "Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!"

Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.

Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo Luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người. ]

Ðó là lời Chúa.


Chúng Ta Hãy Nhận Lấy Ánh Sáng Đời Đời Rạng Chiếu

(St Sophronius, bishop, Orat 3 de Hypapante 6, 7: PG 87, 3, 3291, 3293)
 

Để tôn vinh mầu nhiệm thần linh chúng ta cử hành hôm nay đây, tất cả chúng ta hãy mau mắn đến gặp gỡ Chúa Kitô. Mọi người phải hăng hái nhập vào đoàn kiệu và cầm ánh sáng.

Những ngọn nến sáng của chúng ta là dấu hiệu tỏ cho thấy ánh quang vinh thần linh của Đấng đến để đẩy lui bóng tối tăm sự dữ, và để làm cho cả hoàn vũ này tỏa chiếu rạng ngời ánh sáng đời đời của Người. Những cây nến của chúng ta cũng chứng tỏ cho thấy linh hồn của chúng ta phải làm sao cho ngời sáng khi chúng ta đi nghênh đón Chúa Kitô.

Mẹ Thiên Chúa, Vị Trinh Nữ rất tinh tuyền, đã cầm trong đôi cánh tay của mình một thứ ánh sáng thật, và đã mang Người đến cho những ai còn nằm trong u tối. Cả chúng ta nữa cũng phải mang ánh sáng đến cho tất cả mọi người được thấy, và phải phản chiếu ánh quang của ánh sáng thật khi chúng ta mau mắn đến gặp gỡ Người.

Aùnh sáng đã đến và đã chiếu tỏa trên một thế giới đầy những bóng tối tăm; Bình Minh từ trời cao đã đến viếng thăm chúng ta và chiếu sáng cho những ai còn sống trong tăm tối. Bởi thế, đây là lễ của chúng ta, và chúng ta đi theo đoàn rước cầm cây nến sáng để tỏ cho thấy rằng có một thứ ánh sáng đã chiếu rọi trên chúng ta, cũng như để tỏ cho thấy rằng vinh quang từ Người vẫn tỏa ra cho chúng ta. Bởi thế, tất cả chúng ta hãy mau mắn cùng nhau đến gặp Vị Thiên Chúa của chúng ta.

Ánh sáng thật đã đến, ánh sáng chiếu soi hết mọi người sinh vào trần gian. Hỡi anh em, tất cả chúng ta hãy nhờ ánh sáng này mà thắp sáng lên và tỏa chiếu ra. Tất cả chúng ta thông phần vào ánh quang rạng ngời của ánh sáng ấy, nhờ đó được tràn đầy ánh sáng để không ai còn ngồi trong tăm tối nữa. Chúng ta hãy chiếu soi cho chúng ta khi chúng ta cùng nhau đi với ông già Simêon đến gặp gỡ ánh sáng rạng ngời muôn thuở này. Hân hoan mừng rỡ với Simêon, chúng ta hãy hát lên bài thánh ca tạ ơn Thiên Chúa, Cha của ánh sáng, Đấng đã sai ánh sáng thật đến để đánh tan đi bóng tối tăm, cũng như để cho tất cả chúng ta được tham phần vào ánh rạng ngời của Người.

Qua con mắt của Simêon, chúng ta cũng được thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa, ơn cứu độ Ngài đã sửa soạn cho tất cả mọi dân tộc và tỏ ra cho thấy như vinh quang của một dân tân Yến Duyên là chúng ta đây. Như Simêon đã ra đi khỏi những ràng buộc ở đời này khi ông được trông thấy Chúa Kitô thế nào, chúng ta cũng được giải thoát lập tức khỏi tình trạng tội lỗi cũ kỹ của mình như vậy.

Nhờ đức tin chúng ta cũng ẵm lấy Chúa Kitô, ơn cứu độ của Thiên Chúa là Cha, khi Người từ Bêlem đến với chúng ta. Trước kia chúng ta là Dân Ngoại, nay chúng ta trở thành dân Chúa. Mắt chúng ta đã được thấy Thiên Chúa nhập thể, và vì chúng ta đã thấy Người hiện diện giữa chúng ta, cũng như đã nhận lấy Người trong cánh tay của mình, mà chúng ta được gọi là một dân tân Yến Duyên. Chúng ta sẽ không bao giờ quên được sự hiện diện này; hằng năm chúng ta cử hành lễ này để tôn kính Người.

 

(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ The Office of Readings, Saint Paul Editions, 1983, trang 1332-1333)

 

 Phụng Vụ Lời Chúa ngày trong tuần cho năm không trùng với Lễ Mẹ Dâng Con 

 

Bài Ðọc I (Năm I): Dt 12, 18-19. 21-24

"Anh em tiến đến núi Sion và thành trì của Thiên Chúa hằng sống".

Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, Không phải anh em tiến tới một ngọn núi có thể sờ được, hay là lửa cháy, gió lốc, mây mù, bão táp, hoặc tiếng kèn và tiếng gầm thét, khiến cho người nghe xin tha đừng nói với họ lời nào nữa. Cảnh tượng thật hãi hùng, đến nỗi Môsê thốt lên: "Tôi đã kinh khiếp và run sợ". Trái lại, anh em tiến đến núi Sion và thành trì của Thiên Chúa hằng sống, là Giêrusalem trên trời, tiến đến muôn ngàn thiên thần, và cộng đoàn các trưởng tử đã được ghi sổ trên trời, và đến cùng Thiên Chúa, Ðấng phán xét mọi người, đến cùng các linh hồn những người công chính hoàn hảo, đến cùng Ðấng trung gian của giao ước mới là Ðức Giêsu, và đến cùng máu đã rảy khi giao ước lên tiếng còn mạnh thế hơn máu Abel.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 47, 2-3a. 3b-4. 9. 10-11.

Ðáp: Ôi Thiên Chúa, chúng con tưởng nhớ lại lòng thương xót của Chúa, ngay trong nơi đền thánh của Ngài (c. 10).

Xướng: 1) Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen trong thành trì của Thiên Chúa chúng ta. Núi thánh của Ngài là ngọn đồi duyên dáng, niềm hoan lạc của khắp cả địa cầu. - Ðáp.

2) Núi Sion là cùng kiệt phương bắc, là thành trì của Ðức Ðại Ðế. Thiên Chúa ngự trong thành quách của Ngài, tự chứng tỏ Ngài là an toàn chiến luỹ. - Ðáp.

3) Chúng tôi đã nhìn thấy, như đã nghe kể lại, trong thành trì của Chúa thiên binh, trong thành trì của Thiên Chúa chúng tôi: Thiên Chúa kiên thủ thành đó tới muôn đời. - Ðáp.

4) Ôi Thiên Chúa, chúng con tưởng nhớ lại lòng thương xót của Chúa, ngay trong nơi đền thánh của Ngài. Ôi Thiên Chúa, cũng như thánh danh Ngài, lời khen ngợi Ngài sẽ vang cùng cõi đất. Tay hữu Ngài đầy đức công minh. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 6, 64b và 69b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, lời của Chúa là thần trí và là sự sống: Chúa có những lời ban sự sống đời đời. - Alleluia. 

Phúc Âm: Mc 6, 7-13

"Người bắt đầu sai các ông đi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế. Và Người truyền các ông đi đường đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo. Người lại bảo: "Ðến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ". Các ông ra đi rao giảng sự thống hối. Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân.

Ðó là lời Chúa. 


Suy niệm



  

"Truyền giáo là một công cuộc thần linh, ở chỗ truyền đạt thần linh để có thể hiệp thông thần linh, bởi thế nó không thể nào lệ thuộc vào phương tiện, cho dù là cần thiết..."     


Hôm nay, Thứ Năm trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này vẫn tiếp tục được tỏ hiện trong Bài Phúc Âm hôm nay, bài đọc chính yếu cho phần phụng vụ Lời Chúa mỗi ngày.

Ở chỗ, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý", trong sự kiện Người "gọi mười hai tông đồ và sai từng hai người đi", "Người (đã) ban cho các ông có quyền trên các thần ô uế", và quả thực cái "quyền trên các thần ô uếnày nơi các tông đồ được Người sai đi như thế đã thực sự có tác dụng: "Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân".

Thế nhưng, "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" này không phải chỉ được tỏ hiện ở thành quả gặt hái được bởi các tông đồ, mà nhất là ở những gì các tông đồ thực hiện theo lời Người căn dặn các vị nữa, bằng không, cho dù các vị có quyền năng trừ quỉ đấy, quyền năng ấy cũng không có tác dụng gì hay chẳng tác dụng là bao nhiêu từ các vị, như sau này đã có lần các vị đã không trừ được quỉ (xem Marco 9:18,28-29), nếu các vị không sống theo tinh thần được Người chỉ bảo cặn kẽ kỹ càng trong Bài Phúc Âm hôm nay trước khi các vị lên đường thi hành sứ vụ truyền giáo của các vị:

"Người truyền các ông đi đường đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áoNgười lại bảo: 'Ðến đâu, các con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ'".  

Trong lời hướng dẫn sai đi này, các tông đồ thừa sai truyền giáo của Người cần phải tối thiểu có một tinh thần tin tưởng vào Đấng đã sai các vị, ở chỗ siêu thoát hơn là trần tục và phó mặc hơn là cân đo.

Trước hết là tinh thần tin tưởng ở chỗ siêu thoát hơn là trần tục: "đi đường đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo".

Truyền giáo là một công cuộc thần linh, ở chỗ truyền đạt thần linh để có thể hiệp thông thần linh, bởi thế nó không thể nào lệ thuộc vào phương tiện, cho dù là cần thiết, thậm chí cả những gì cần thiết mà có thiếu cũng vẫn có thể truyền giáo, vẫn càng đạt hiệu năng hơn, bởi tác nhân chính yếu của công cuộc và sứ vụ truyền giáo là Thánh Thần, Đấng hoàn thành mọi sự theo ý muốn của Chúa Cha, và theo mẫu gương của Chúa Kitô là Đấng "cáo có hang, chim có tổ Con Người không có chỗ dựa đầu" (Mathêu 8:20; Luca 9:58).

Truyền giáo thực sự là việc rao giảng và loan truyền tin mừng cứu độ cho nhân loại, cụ thể nhất ở nơi các vị thừa sai dấn thân truyền giáo ở khắp nơi trên thế giới, từ thời các tông đồ trở đi, dọc suốt giòng lịch sử của Giáo Hội, theo lệnh truyền khẩn trương bất khả châm chước của Chúa Kitô Phục Sinh (xem Mathêu 28:19-20; Marco 16:16); và cũng chính vì sứ mệnh truyền giáo gắn liền với bản chất của Giáo Hội này (xem Sắc Lệnh Truyền Giáo, 2), Giáo Hội mới đã được lãnh nhận "Thánh Thần là Đấng ban sự sống" từ Cha do Chúa Kitô sai xuống với Giáo Hội từ Ngày Lễ Ngũ Tuần (xem Tông Vụ 1:8).

Bởi thế, kinh nghiệm hoạt động tông đồ cho thấy có thời chúng ta làm được những gì chúng ta yêu thích, những gì mong muốn, những gì chúng ta có thừa khả năng, những gì chúng ta đã mang lại dồi dào thành quả thiêng liêng cho nhiều người, và chính bản thân chúng ta cũng đã từng được nhiều người biết đến cùng cảm phục, khi chúng ta dấn thân phục vụ hăng say, với tư cách tham gia hay đóng vai trò thực hiện những việc tông đồ giáo dân của mình, trong các giáo xứ, cộng đoàn, hội đoàn, phong trào v.v. 

Thế nhưng, kinh nghiệm sống đạo cũng cho thấy không phải là không có trường hợp người tông đồ ấy lại bị người phối ngẫu của mình ngăn cản, hay bị lòng ganh tị cạnh tranh của những ai đồng hành tông đồ với mình và của mình tẩy chay loại trừ, hoặc bị liệt giường không thể làm gì được nữa v.v., chúng ta hãy yên tâm vui lòng tuân theo Thánh ý Chúa, vì chính lúc chúng ta không làm được những gì chỉ là phương tiện hơn là cùng đích truyền giáo ấy nữa lại chính là lúc chúng ta trở thành đắc lực nhất, bởi bấy giờ Thiên Chúa làm trong chúng ta qua niềm tin và sức chịu đựng của chúng ta.

Chúa Kitô cũng chỉ hoàn tất mọi sự của Người như Đấng đã sai Người mong muốn trên trần gian này một cách trọn vẹn và tối hậu không phải trong thời gian Người còn có thể đi đây đi đó rao giảng tin mừng, làm phép lạ, chữa lành và trừ quỉ, mà vào chính lúc Người kể như không còn nhúc nhích gì được nữa, trên thập tự giá ở Sọ Trường Canvê.

Sau nữa là tinh thần tin tưởng ở chỗ phó mặc hơn là cân đo: "Ai không đón tiếp các con, cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố cáo họ". Bởi vì, theo tự nhiên, con người, bao gồm cả thành phần thừa sai truyền giáo, thường lưu ý đến thành quả gặt hái được từ những gì mình làm và căn cứ vào đó để định lượng mức độ thành công hay thất bại của mình, của công việc mình làm, chứ không hay ít khi hoàn toàn chú trọng đến yếu tố chính yếu là ý muốn tối hậu của Thiên Chúa. 

Điển hình nhất là chính Chúa Giêsu Kitô, Người chỉ làm sao chu toàn ý của Đấng đã sai Người mà thôi, nghĩa là việc thành công hay thất bại của Người là ở chỗ Người có hoàn thành đúng như ý muốn của Đấng đã sai Người hay chăng, chứ không phải ở chỗ cứu được tất cả mọi linh hồn hay chăng, hay có bao nhiêu kẻ đã tin vào Người, bằng không thì Ngườđã hoàn toàn thảm bại trong công cuộc cứu chuộc loài người khi Người bị chết trên thập tự giá ở Đồi Canvê.

Thành phần không tin Người, "không chấp nhận Người" (Gioan 1:11) thì Người không cần phải bận tâm phán xét họ, cho bằng chính họ đã tự luận tội họ rồi: "Ai không tin đã bị phán xử rồi, vì họ không tin vào danh Người Con duy nhất của Thiên Chúa" (Gioan 3:18). Bởi vậy, hãy cứ để Thiên Chúa xét xử những ai chúng ta thấy gian ác, tội lỗi, cứng lòng, băng hoại v.v., kể cả những ai phạm đến chúng ta, đừng xét đoán họ, đừng nguyền rủa họ, đừng khinh thường họ, nhất là đừng trả đũa những ai phạm đến chúng ta, chúng ta mới thật sự là giống Chúa Kitô và mới có thể làm chứng nhân truyền đạt Người cho tha nhân một cách hiệu năng.




Thứ Sáu


Lời Chúa


Bài Ðọc I (Năm I): Dt 13, 1-8

"Ðức Giêsu Kitô hôm qua, hôm nay và cho đến muôn đời vẫn như thế".

Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, tình bác ái huynh đệ phải tồn tại trong anh em. Anh em đừng lãng quên việc cho khách đỗ nhà: vì khi làm như vậy, có kẻ không ngờ mình đã đón tiếp các thiên thần. Anh em hãy nhớ đến những tù nhân như chính anh em bị tù đày chung với họ, và hãy nhớ đến những kẻ đau khổ, vì chính anh em cũng đang ở trong thân xác như họ. Mọi người phải tôn trọng hôn nhân, hãy giữ phòng the cho tinh khiết, vì Thiên Chúa sẽ đoán phạt các người tà dâm và ngoại tình. Trong nếp sống, anh em đừng tham lam; hãy bằng lòng với những gì đang có, vì Chúa đã phán: "Ta sẽ không để mặc ngươi và không bỏ rơi ngươi đâu", đến nỗi chúng ta có thể tin tưởng mà thưa rằng: "Chúa là Ðấng phù trợ tôi, tôi chẳng sợ người đời làm gì được tôi". Anh em hãy nhớ đến các vị lãnh đạo anh em, là những người đã rao giảng lời Chúa cho anh em. Hãy nhìn xem đời họ kết thúc ra sao mà noi gương đức tin của họ. Ðức Giêsu Kitô hôm qua, hôm nay, và cho đến muôn đời vẫn như thế.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 26, 1. 3. 5. 8b-9abc

Ðáp: Chúa là sự sáng và là Ðấng cứu độ tôi (c. 1a).

Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ tôi, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? - Ðáp.

2) Nếu thiên hạ đồn binh hạ trại để hại tôi, lòng tôi sẽ không kinh hãi, nếu thiên hạ gây chiến với tôi, tôi vẫn tự tin. - Ðáp.

3) Vì ngày tai hoạ, Chúa sẽ che chở tôi trong nhà Chúa, Chúa sẽ giấu tôi trong nơi kín đáo ở Ðền Người, trên tảng đá vững chắc Người sẽ cất nhắc tôi lên. - Ðáp.

4) Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa. Xin Chúa đừng ẩn mặt xa con, xin đừng xua đuổi tôi tớ Ngài trong thịnh nộ. Chúa là Ðấng phù trợ con, xin đừng hất hủi con. - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 4, 4b

Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.

Phúc Âm: Mc 6, 14-29

"Ðó chính là Gioan Tẩy Giả trẫm đã chặt đầu, nay sống lại".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, vua Hêrôđê nghe nói về Chúa Giêsu, vì danh tiếng Người đã lẫy lừng, kẻ thì nói: "Gioan Tẩy giả đã từ cõi chết sống lại, nên ông đã làm những việc lạ lùng"; kẻ thì bảo: "Ðó là Êlia"; kẻ khác lại rằng: "Ðó là một tiên tri như những tiên tri khác". Nghe vậy, Hêrôđê nói: "Ðó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại". Vì chính vua Hêrôđê đã sai bắt Gioan và giam ông trong ngục, nguyên do tại Hêrôđia, vợ của Philipphê anh vua mà vua đã cưới lấy. Vì Gioan đã bảo Hêrôđê: "Nhà vua không được phép chiếm lấy vợ anh mình". Phần Hêrôđia, nàng toan mưu và muốn giết ông, nhưng không thể làm gì được, vì Hêrôđê kính nể Gioan, biết ông là người chính trực và thánh thiện, và giữ ông lại. Nghe ông nói, vua rất phân vân, nhưng lại vui lòng nghe. Dịp thuận tiện xảy đến vào ngày sinh nhật Hêrôđê, khi vua thết tiệc các quan đại thần trong triều, các sĩ quan và những người vị vọng xứ Galilêa. Khi con gái nàng Hêrôđia tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hêrôđê và các quan khách, thì vua liền nói với thiếu nữ ấy rằng: "Con muối gì, cứ xin, trẫm sẽ cho", và vua thề rằng: "Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm cũng cho". Cô ra hỏi mẹ: "Con nên xin gì?" Mẹ cô đáp: "Xin đầu Gioan Tẩy Giả". Cô liền vội vàng trở vào xin vua: "Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa". Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có các quan khách, nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một thị vệ đi lấy đầu Gioan và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền đi vào ngục chặt đầu Gioan, và đặt trên đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem cho mẹ. Nghe tin ấy, các môn đệ Gioan đến lấy xác ông và mai táng trong mồ.

Ðó là lời Chúa. 



Suy niệm



  "Ðó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại".   


Ngày Thứ Sáu trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh hôm nay bài Phúc Âm đã chứng thực chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này, với câu đầu tiên như thế này: "Khi ấy, vua Hêrôđê nghe nói về Chúa Giêsu, vì danh tiếng Người đã lẫy lừng".

Tuy nhiên, đối với chung dân chúng thì sở dĩ "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" trở thành "lừng lẫy danh tiếng" như thế là vì, như Bài Phúc Âm hôm nay cho biết: "kẻ thì nói: 'Gioan Tẩy giả đã từ cõi chết sống lại, nên ông đã làm những việc lạ lùng'; kẻ thì bảo: 'Ðó là Êlia'; kẻ khác lại rằng: 'Ðó là một tiên tri như những tiên tri khác'". Còn riêng vua Hêrôđê thì khi "nghe vậy (đã) nói: 'Ðó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại'".

Thật ra, theo nội dung của bài Phúc Âm hôm nay thì "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" không đóng vai chủ động và tự tỏ mình ta như các bài Phúc Âm trước, mà chỉ được nói đến lúc đầu thôi rồi sau đó chỉ liên quan đến những chi tiết về sự kiện vua Hêrôđê sát hại Tiền Hô Gioan Tẩy Giả vậy thôi. Thế nhưng, chính trọng sự kiện có tính cách tiêu cực như "sự cố" này cũng đã gián tiếp cho thấy Người quả thực là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý". 

Không phải hay sao, chính Hêrôđê đã phải công nhận mối liên hệ bất khả phân ly giữa Chúa Kitô là nhân vật mà ông ta chưa bao giờ gặp mà lại rất mong muốn được gặp (xem Luca 23:8) với nhân vật đã bị ông bất đắc dĩ phải cắt thủ cấp, chỉ vì đã bị lỡ lời giữa cả một triều thần bá quan văn võ để giữ lấy thể diện của mình, ở chỗ, ông đã đồng hóa hai nhân vật đặc biệt này của ông thành một: "Ðó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại".

Cái "đầu" của Gioan bị vua Hêrôđê chặt mất đây, trước hết, là biểu hiệu cho "chân lý" đã được Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, nhân vật vốn được vua "kính nể, (vì vua) biết ngài là người chính trực và thánh thiện", hiên ngang bênh vực cho đến cùng, một "chân lý" về luân lý mà nhà vua đã bất chấp vấp phạm: "Nhà vua không được phép chiếm lấy vợ anh mình", như thể nhà vua đã "chặt" đi "chân lý" ấy bằng đam mê nhục dục của mình, một "chân lý" được biểu hiệu nơi cái "đầu" về thể lý của nhân vật bất khuất Gioan đã bị nhà vua quả thực chặt đi để thỏa mãn ý muốn gian ác hận thù của nàng Hêrôđia là người vợ bất chính của vua, một người vợ bất chính hèn hạ vốn đã "mưu toan muốn giết ngài, nhưng không thể làm gì được", cho tới khi bất ngờ nắm được cơ hội ngàn vàng trong tay là lúc, như Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại: 

"Khi con gái nàng Hêrôđia tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hêrôđê và các quan khách, thì vua liền nói với thiếu nữ ấy rằng: 'Con muối gì, cứ xin, trẫm sẽ cho', và vua thề rằng: 'Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm cũng cho'. Cô ra hỏi mẹ: 'Con nên xin gì?' Mẹ cô đáp: 'Xin đầu Gioan Tẩy Giả'. Cô liền vội vàng trở vào xin vua: 'Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu Gioan Tẩy Giả đặt trên đĩa'. Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có các quan khách, nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một thị vệ đi lấy đầu Gioan và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền đi vào ngục chặt đầu Gioan, và đặt trên đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem cho mẹ".

Chưa hết, cái "đầu" của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả bị vua Hêrôđê chặt mất đây còn ám chỉ chính Chúa Kitô "là chân lý" (Gioan 14:6) mà ngài chỉ được sai đến trước để dọn đường và để "làm chứng" cho Người (xem Gioan 1:15), Đấng là "ánh sáng chiếu trong tăm tối nhưng tăm tối không át được ánh sáng" (Gioan 1:5), Đấng đến sau ngài nhưng lại vô cùng cao trọng hơn ngài và có trước ngài, như "đầu" của ngài, như vị thủ lãnh tối cao của ngài, đến độ ngài "không đáng cởi giây giầy cho Người" (xem Gioan 1:15,27), một "vị vua mới sinh" (Mathêu 2:2) ngày xưa đã từng bị vương phụ của Hêrôđê đương kim này bấy giờ tìm sát hại khi sau biến cố tam vị chiêm vương gia đến bái thờ Người ở Bêlem Xứ Giuđa mà không trở về trình báo lại cho vua ấy (xem Mathêu 2:1-18).

Như thế, sự kiện cái "đầu" của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả bị quyền lực chính trị đầy vô luân của dân Do Thái thời ấy chặt mất đây, đã trở thành một dấu chỉ đầy bí nhiệm về cuộc tử nạn của một nhân vật sau này sẽ được một quyền lực chính trị khác, uy thế hơn, là tổng trấn Philatô ở Giuđêa tôn vương là "Vua dân Do Thái" (xem Gioan 19:19; Mathêu 27:37), khi vị thẩm quyền của đế quốc Rôma này, một đàng thì muốn biết "chân lý là gì?" khi tra vấn Chúa Giêsu và đối diện với Chúa Giêsu (Gioan 18:38), một đàng, cũng như Hêrôđê đang làm vua nước bị trị Do Thái bấy giờ đã lấy "đầu" Gioan Tẩy Giả chỉ vì danh dự thế giá của mình trước kia, đành phải ra lệnh đóng đanh một con người mà tự ông biết được là vô tội và tìm cách thả ra (xem Gioan 19:4,6,10-12).

Vậy thì sự kiện Tiền Hô Gioan Tẩy Giả bị vua Hêrôđê sát hại quả thực có liên quan đến cuộc tử nạn của Chúa Kitô là Đấng đến sau ngài, như một dấu báo trước về Đấng mà ngài đã hai lần tuyên bố và công khai giới thiệu: ngày hôm trước với chung dân chúng - "Kìa Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian" (Gioan 1:29), và ngày hôm sau với riêng các môn đệ của ngài - "Hãy nhìn xem kìa, Con Chiên Thiên Chúa đó" (Gioan 1:36). 

Như thế, câu tuyên bố "đó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại" của một nhà vua bất luân gian ác ấy dầu sao cũng có tính cách tiên tri, như trong câu của vị thượng tế Caipha thời ấy quả thực đã chất chứa tính chất tiên tri và đã thực sự hoàn toàn ứng nghiệm về nhân vật Giêsu Nazarét đã gây chấn động cả Thành Giêrusalem là Giáo Đô Do Thái giáo về sự kiện nhân vật tầm thường này, một nhân vật xuất thân từ Galilêa xa xôi là nơi chẳng có vị tiên tri nào xuất thân (xem Gioan 7:52), chẳng phải là luật sĩ hay thành phần trong hội đồng đầu mục Do Thái, nhưng đã làm cho Lazarô, một tử thi hồi sinh sau 4 ngày đã lên mùi (xem Gioan 11:43-44), rằng "các người chẳng hiểu gì hết, các người không thấy rằng thà một người chết thay cho dân chúng còn hơn là toàn dân bị hủy diệt hay sao?" (Gioan 11:50).

Thật sự câu tuyên bố "đó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại" của vua Hêrôđê, tự nó chất chứa tính chất tiên tri, mà chính người nói không hề hay biết là mình muốn nói gì và lời ấy có ý nghĩa ra sao, không phải chỉ ám cuộc tử nạn của Chúa Kitô là "đầu" tự hiến cho Giáo Hội là thân thể của mình (xem Gioan 17:19; Epheso 5:23,25-27), mà còn ám chỉ những gì vị Tiền Hô Gioan này "làm chứng" về Đấng là "Con Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian" đến sau ngài đều đúng, đều ứng nghiệm nơi Chúa Kitô, như thể "Gioan ... nay đã sống lại" nơi Chúa Kitô ở cuộc tử nạn của Người vậy, Đấng "đã được sinh ra, đã đến thế gian là để làm chứng cho chân lý" (Gioan 18:37), như chính vị tiền hô của Người cũng đã được sai đến tuy "không phải là ánh sáng" như Người nhưng cũng đã "làm chứng" cho Người "là ánh sáng đã chiếu soi trong tăm tối, một thứ tăm tối không át được ánh sáng" (Gioan 1:5).

Thật ra bài Phúc Âm hôm nay nhân vật chính không phải là vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả mà là quận vương Hêrôđê. Bởi thế, có 4 vấn đề được đặt ra liên quan đến nhân vật này như sau: 1- Quận vương Hêrôđê yêu thương nàng Hêrôđia như thế nào? 2- Quận vương Hêrôđê kính nể Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đến đâu? 3- Vị quận vương Hêrôđê ham sắc dục và sát nhân này còn lương tri hay chăng? 4- Vị quận vương Hêrôđê này có được cứu độ hay chăng?

Trước hết, về tình yêu của chàng quận vương Hêrôđê với nàng Hêrôđia là người chị của ông anh mà chàng lấy làm vơ một cách bất chính như thế thì chỉ là một thứ tình yêu sắc dục, tình yêu hướng hạ. Bởi thế, nàng vẫn không thể làm gì nổi phần thượng của chàng quận vương này, cho dù "nàng toan mưu và muốn giết ông, nhưng không thể làm gì được, vì Hêrôđê kính nể Gioan, biết ông là người chính trực và thánh thiện, và giữ ông lại". Thậm chí chàng quận vương này ra lệnh lấy đầu của vị tiền hô ấy theo ý của nàng Hêrôđia cũng không phải là chiều nàng cho bằng "vì lời thề và vì có các quan khách, nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn".

Nhưng tận thâm tâm của mình, vì chàng vốn đã "kính nể Gioan" nên chàng cảm thấy "buồn lắm", đến độ vẫn còn tỏ ra hết sức "kính nể Gioan" cho dù ông đã chết: "Ðó chính là Gioan trẫm đã chặt đầu, nay sống lại". Nghĩa là chàng quận vương này, cho dù đầy sắc dục, sát nhân và tự trọng sai lầm nhưng vẫn còn lương tâm, tức vẫn còn có thể hoán cải vào một lúc nào đó, vẫn còn khả năng trở về với chân lý tối hậu để được giải thoát, một chân lý tối hậu được vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả mà chàng "kính nể" cảnh báo cho chàng như tiếng lương tâm thức tỉnh chàng nhưng bị chàng dập vùi bằng lệch lấy đầu của ông.

Nhưng vì chân lý có quyền lực giải phóng (xem Gioan 8:32) mà cái chết của một nhân vật đầy Thánh Linh như vị Tiền Hô Tẩy Giả này chắc chắn không trở thành vô nghĩa và chẳng có giá trị gì, trái lại, chắc chắn phải mang lại một hoa trái xứng đáng nào đó, chẳng hạn phần rỗi chẳng những cho cả chàng quận vương Hêrođê mà còn cả nàng Hêrôđia cùng đứa con gái vũ nữ đồng lõa với mẹ của mình nữa, và cả triều đình của chàng quần vương vì sợ quyền hành mà không ai dám lên tiếng ngăn cản cái lệnh sai lầm của chàng quận vương dầu sao cũng đáng thương về cả tâm lý lẫn luân lý này.

 

 

Ngày 03/2: Thánh Blasiô, giám mục tử đạo và thánh Ansgariô, giám mục (316)

 

Khi còn nhỏ thánh Blasiô là một cậu bé hiền hậu và nhu mì. Tới tuổi trưởng thành, ngài vẫn giữ được vẻ khiêm tốn và lòng đạo đức hiếm có ấy. Mọi người đều quý mến và khen ngợi đức tính sáng chói của ngài nên đã đề cử ngài lên chức Giám Mục thành Sébaste thuộc xứ Arménie (Thổ Nhĩ Kỳ). Licimius (320-324) ra lệnh bắt đạo và áp dụng chính sách tiêu diệt chủ chiên, đoàn chiên tự nhiên sẽ tan rã. Bị truy nã gắt gao, ngài phải trốn lên rừng vắng, suốt ngày cầu nguyện cùng Thiên Chúa.

Ít lâu sau, cuộc bách hại gia tăng. Tổng trấn Agricola cho quân lùng bắt và đem ngài về giam trong ngục thất. Ở đó, ngài đã làm nhiều phép lạ chữa lành bệnh. Những phép lạ ấy được truyền tụng trong Giáo Hội Tây Phương cũng như Ðông Phương. Sau cùng, ngài đã đổ máu đào vì Chúa Kitô, và nhờ lời bầu cử của thánh nhân, Giáo Hội Arménie dù trải qua cơn sóng gió, vẫn sống bình yên và kiên trì trong đức tin.

 


Thứ Bảy


Lời Chúa

 

Bài Ðọc I (Năm I): Dt 13, 15-17, 20-21

"Nguyện Thiên Chúa bình an, Người đã đem ra khỏi cõi chết Ðấng nhờ máu giao ước, làm cho anh em xứng đáng thi hành việc thiện".

Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, nhờ Ðức Giêsu mà trong mọi lúc, chúng ta luôn luôn hiến dâng cho Thiên Chúa của lễ ngợi khen, tức là hoa quả của miệng lưỡi ta tuyên xưng danh Người. Anh em đừng quên công việc từ thiện và sự tương tế, vì Chúa hài lòng về những của lễ như thế. Anh em hãy vâng lời và tùng phục các vị lãnh đạo anh em, vì chính các ngài canh giữ linh hồn anh em, như những người sẽ phải trả lẽ, để các ngài hân hoan thi hành việc đó, chớ không phàn nàn, vì điều đó không có lợi gì cho anh em. Nguyện Thiên Chúa bình an, Người đã đem ra khỏi cõi chết Ðấng nhờ máu giao ước vĩnh cửu, trở nên vị Mục tử cao cả, tức là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, xin Người làm cho anh em trong các việc thiện, xứng đáng thi hành thánh ý Người, khi Người thực hiện trong anh em điều Người hài lòng, nhờ Ðức Giêsu Kitô, Ðấng được vinh quang đến muôn đời. Amen.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6

Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).

Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.

2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sỡ dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa,) dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Người, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 10, 27

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta; Ta biết chúng và chúng biết Ta". - Alleluia. 

Phúc Âm: Mc 6, 30-34

"Họ như đàn chiên không người chăn".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Marcô.

Khi ấy, các tông đồ hội lại bên Chúa Giêsu và thuật lại với Người mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy. Người liền bảo các ông: "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút". Vì lúc ấy dân chúng đến tấp nập đến nỗi các tông đồ không có thì giờ ăn uống. Vậy các ngài xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh. Thấy các ngài đi, nhiều người hiểu ý, và từ các thành phố, người ta đi bộ kéo đến nơi đó và tới nơi trước các ngài. Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều.

Ðó là lời Chúa. 

 


Suy niệm

 


  "Như đàn chiên không người chăn"

 

 

Hôm nay, Thứ Bảy, ngày cuối cùng trong Tuần 4 Thường Niên hậu Giáng Sinh, chủ đề "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý" của chung thời điểm phụng vụ kéo dài cho tới Mùa Chay này, vẫn tiếp tục với phụng vụ lời Chúa hôm nay nói chung và bài Phúc Âm nói riêng, ở câu "Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều".

Đúng thế, là Đấng được sai đến và thực sự đã "đến cho chiên được sự sống và là sự sống viên mãn" (Gioan 10:10), Chúa Giêsu không động lòng thương "họ như đàn chiên không người chăn" sao được! Đó là lý do, trong bài Phúc Âm Thứ Năm vừa rồi, Người đã sai cả các tông đồ của Người đi đến với họ để đáp ứng nhu cầu mục vụ của họ nữa, ở chỗ: "Các ngài trừ nhiều quỷ, xức dầu chữa lành nhiều bệnh nhân".

Cũng có thể vì thế, vì ảnh hưởng thành công của cuộc truyền giáo tiên khởi này của các tông đồ cho "các con chiên lạc nhà Yến Duyên / Israel" (Mathêu 10:6) mới xẩy ra hiện tượng, như Bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: "dân chúng đến tấp nập", ngay sau sự kiện "các tông đồ hội lại bên Chúa Giêsu và thuật lại với Người mọi việc các ông đã làm và đã giảng dạy", càng lúc càng đông "đến nỗi các tông đồ không có thì giờ ăn uống", không tìm được một nơi kín đáo thuận lợi cho bản thân các vị sau chuyến đi mệt mỏi tuy đầy hứng thú, như chính Chúa Giêsu đã thông cảm và khuyên giục các vị: "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút".

Có lẽ điều làm cho Chúa Giêsu động lòng nhất nơi dân chúng bấy giờ không phải chỉ vì họ đông đúc kéo đến với thày trò của Người, cho bằng sự kiện cho dù "các ngài (có) xuống thuyền, chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh (như thể tạm xa lánh họ để nghỉ ngơi một chút nhờ đó và sau đó có sức phục vụ họ hơn). (Nhưng khi) Thấy các ngài đi, nhiều người hiểu ý, và từ các thành phố, người ta đi bộ kéo đến nơi đó và tới nơi trước các ngài". Có nghĩa là trong thành phần dân chúng này đã nhiều người trong họ cảm thấy nghiện thày trò của Người, không có không được, thậm chí đã quen hơi biết tiếng của các ngài, biết được cả ý định đi đâu cùng với điểm đến của các ngài nữa.

Họ tha thiết theo đuổi các ngài, một cách, chẳng những thấu biết về các ngài, mà còn hết sức mau mắn nữa, ở chỗ, cho dù "đi bộ" theo đường vòng hơn là đường thẳng như bằng thuyền theo đường thủy như thày trò các ngài, mà họ vẫn "kéo đến nơi đó (còn) tới nơi trước (cả) các ngài (nữa)". Thường bao giờ đến với Chúa Giêsu, họ cũng dẫn theo các nạn nhân bệnh hoạn tật nguyền, hay chính các nạn nhân tật bệnh này đích thân đến với Người. Vậy mà cả thành phần bệnh hoạn tật nguyền này trong dân chúng cũng có đủ sức và dư sức đến trước các ngài để nghênh đón các ngài!

Thật là cảm động. Thật là dễ thương. Thật là đáng thương. Bởi thế, mới có chuyện "lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông, thì động lòng thương, vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều".

Đối với Chúa Giêsu, vì "người ta sống không nguyên bởi bánh mà còn bởi mọi lời bởi miệng Thiên Chúa phán ra" (Matheu 4:4), và vì chỉ có "những lời Tôi nói với quí vị toàn là thần linh và là sự sống" (Gioan 6:63) mà trước khi Người làm phép lạ bánh hóa ra nhiều nuôi họ lần thứ nhất, như đoạn Phúc Âm tiếp theo sau bài Phúc Âm hôm nay cho thấy, "Người (đã) dạy dỗ họ nhiều điều".

"Nhiều điều" mà Chúa Giêsu đã muốn "dạy dỗ" cho dân chúng bấy giờ là những gì? Phải chăng về Nước Trời, bằng các dụ ngôn khác với những dụ ngôn Người đã được Người sử dụng trước đó?? Phải chăng là các mối Phúc Đức Trọn Lành như Người đã giảng dạy và được Thánh ký Mathêu ghi lại trong Phúc Âm của mình kéo dài đến 3 đoạn, từ đoạn 5 đến hết đoạn 7, hay cũng đã được Thánh ký Luca ghi lại trong Phúc Âm của ngài ở đoạn 6, những gì được cả 2 vị thánh ký này ghi lại hoàn toàn chưa hề có trong Phúc Âm của Thánh ký Marco???

Căn cứ vào đoạn Phúc Âm ngay sau bài Phúc Âm hôm nay, đoạn Phúc Âm liên quan đến phép lạ hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất, chúng ta chẳng những biết được con số dân chúng "tấp nập kéo đến" là bao nhiêu mà còn biết cả nội dung của những gì Chúa Giêsu muốn dạy dỗ cho dân chúng bấy giờ nữa.

 Trước hết, căn cứ vào phần ăn được Chúa Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều mà còn thu lại được 12 thúng đầy thì con số dân chúng hiện diện bấy giờ là 5 ngàn người đàn ông, không kể đàn bà con nít, mà đàn bà con nít bao giờ cũng đông hơn gấp hai hay gấp ba đàn ông, thì con số dân chúng bấy giờ phải lên tới cả 15 - 20 ngàn người.

Sau nữa, về nội dung bài giảng của Chúa Giêsu, căn cứ vào Bài Phúc Âm của Thánh ký Gioan, đoạn 6, sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no nê còn dư 12 thúng đầy, và sau khi trốn lên núi để tránh cảnh dân chúng tôn vương mình, cuối cùng dân chúng cũng tìm thấy thày trò của Người thì Chúa Giêsu đã giảng dạy họ về Bánh Sự Sống là chính bản thân Người nói chung và thân xác của Người nói riêng cho những ai tin vào Người là "Người Con duy nhất đến từ Cha... đầy ân sủng và chân lý": "Tôi chính là bánh sự sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời. Bánh Tôi ban chính là thịt Tôi cho thế gian được sự sống" (Gioan 6:51).

Phải, chỉ "những lời Tôi nói với quí vị toàn là thần linh và là sự sống", và những ai khao khát lời Người, theo đuổi Người cho đến cùng như đám đông dân chúng trong Bài Phúc Âm hôm nay mới được "Người dạy dỗ họ nhiều điều", về chính bản thân của Người, nhờ đó họ mới có thể khôn ngoan và sống trọn hảo theo đúng thân phận làm người phổ quát của họ cũng như ơn gọi riêng biệt trên đời của mỗi người trong họ.