Đau Khổ
Ư Nghĩa của Đau Khổ: Cảm Nhận Chủ Quan
Không một con người nào được sinh vào trần gian này thoát được khổ đau. Có thể
nói chính v́ đau khổ là thân phận của con người mà vừa mở mắt chào đời là con
người đă bật tiếng khóc, tiếng khóc chào đời. Đến nỗi, ai không bật tiếng khóc
đầu tiên này được coi là bất thường hay phi thường.
Cách đây 15 năm, tôi biết có một bé trai Việt Nam, con của một người bạn chí
thân của tôi ở tiểu bang Wisconsin, đă không hề khóc, chẳng những từ khi lọt
ḷng mẹ mà c̣n cho tới nay nữa. Cha mẹ em cho biết họ không bao giờ thấy em khóc
hay nghe em khóc. Tôi đă gặp em bốn năm lần, lần cuối cùng vào tháng 8/2002 tại
Missouri, em đă trở thành một thiếu niên, hoàn toàn b́nh thường và rất dễ thương
về cả tâm hồn lẫn thể xác. Hầu như em không biết buồn. Em cũng có ư riêng, cũng
đ̣i cha mẹ điều này điều kia. Nhưng em không hề bất măn khi không được thỏa
nguyện. Không biết tương lai của em như thế nào. Hiện tại em đúng là một con
người thật sự hiếm có trên đời.
Tôi c̣n thân với một người bạn nữa, lớn hơn tôi mấy tuổi, người nhỏ con, ăn ít,
ngủ ít, song làm nhiều, mà hầu như thân xác của anh chẳng có bệnh tật ǵ bao giờ.
Theo anh cho biết, từ năm 1956 đến năm 1982, năm chúng tôi xa nhau, anh chỉ uống
một viên Aspirin duy nhất, bất chấp cảm cúm hằng năm hoành hành cộng đoàn cả
trăm người anh chung sống. Đặc biệt nhất là, trong thời gian sống sát bên con
người này từ năm 1964 tới 1982, tôi không hề thấy anh tỏ ra bất măn với ai bao
giờ, dù có bị những người nhỏ tuổi chọc ghẹo hay bị bất cứ ai xúc phạm cách nào.
Không biết anh bạn có tâm tính dễ thương được mọi người quí mến đây có giống em
bé chào đời và sống trên đời chẳng bao giờ khóc trên đây hay chăng, tôi chưa kịp
hỏi. Dầu sao đó cũng là những trường hợp thuộc luật trừ.
Thế nhưng, vấn đề ở đây là những con người thuộc loại luật trừ này, dù không bao
giờ khóc, hay bị bệnh hoạn, hoặc tỏ ra khó chịu bất măn, có bao giờ họ cảm thấy
đau khổ một cách nào đó chăng? Chắc chắn là có. Chẳng hạn họ cảm thấy đói khát
khi thiếu của ăn nước uống, dù không mở miệng kêu ca, cảm thấy nóng lạnh theo
mùa thời tiết hay trong lúc thất thường khí hậu, dù không lên tiếng kêu than,
nhất là cuối cùng họ sẽ đi đến cái đau khổ cuối cùng của cuộc đời con người đó
là cái chết, dù họ không sợ chết. Bởi thế, vấn đề đau khổ ở đây trước hết liên
quan đến vấn đề cảm nhận chủ quan hơn là khách quan.
Thật vậy, về khách quan, đau khổ có thể bao gồm tất cả những ǵ phản lại với bản
tính tự nhiên của con người, tức phản lại với thể xác, nhất là tâm hồn của con
người, phản lại nội tâm của con người, phản lại với ư nghĩ, ư thích và ư muốn
của con người, những phản khắc khiến con người cảm thấy hết sức khó chịu. Đến
nỗi, nhiều khi họ tỏ ra những phản ứng kinh hoàng khiếp đảm, đi tới chỗ “cả giận
mất khôn”, “mắt đền mắt răng đền răng”, như t́nh h́nh khủng bố tấn công và tấn
công khủng bố vào đầu thiên niên kỷ thứ ba hiện nay trên thế giới, nhất là tại
Trung Đông, giữa khối Palestine và Do Thái hiện nay. V́ đau khổ liên quan đến
cảm nhận chủ quan của con người như thế mà nếu con người nào không hề cảm thấy
đau khổ một tí nào trong cuộc đời, gây ra bởi những ǵ phản lại với bản tính tự
nhiên của ḿnh như thế, họ chỉ có thể là một xác chết vô hồn.
Cho dù thành phần chậm phát triển nặng, profound mental retarded, cũng không
thoát được cảm nghiệm khổ đau này. Một con người bị stroke nặng, hoàn toàn bất
động như chết về thân xác, kể cả miệng lưỡi, nhưng trước khi ĺa đời, thân nhân
của họ vẫn thấy họ âm thầm thốt lên lời vĩnh biệt được bộc thoát, qua những giọt
lệ khổ đau trào ra từ khóe mắt hấp hối của họ. Thành phần nhân gian gọi là
“thánh nhân dị chúng nhân” cũng thế, dù siêu việt và siêu thoát mấy đi nữa, cũng
cảm thấy khổ đau. Chỉ khác chúng nhân ở chỗ họ không bị khổ đau quật ngă mà thôi.
Trái lại, họ c̣n có thể nhờ khổ đau để vươn lên, để luyện thân cho khôn ngoan và
cứng cát hơn, nhờ đó họ có đủ khả năng thông cảm với đời và phục vụ đời hơn. Về
lănh vực t́nh yêu nói chung và t́nh yêu phái tính nói riêng, càng khổ v́ người
yêu mà chủ thể yêu vẫn cứ yêu, không phải là dấu chứng tỏ cho thấy nhờ đau khổ
t́nh yêu của chủ thể yêu đă thực sự trở nên chân chính và trọn hảo hay sao? Nhân
gian Việt Nam đă chẳng cảm nghiệm được ư nghĩa sâu xa và tác dụng tích cực của
khổ đau khi nói “thời thế tạo anh hùng”, “cái khó bó cái khôn”, “thất bại là mẹ
thành công” v.v. là ǵ?
Giá Trị của Đau Khổ: Tác Dụng Nhân Bản
Vấn đề thứ hai được đặt ra ở đây là, nếu đau khổ có một giá trị nhân bản hóa con
người như thế, ở chỗ nó có thể giúp cho con người đốt giai đoạn một cách short
cut, để chẳng những thành nhân, như trường hợp những đứa con mồ côi bao giờ cũng
khôn lanh hơn những đứa con có cha có mẹ, mà c̣n thành “thánh nhân dị chúng nhân”
như thế, th́ tại sao, thực tế cho thấy, con người lại sợ hăi đau khổ, lại hết
sức t́m cách thoát khổ, trái lại, tại sao con người không hiên ngang và hăng hái
đi t́m đau khổ như đi t́m một kho tàng quí nhất trên đời?
Thực ra, về phương diện thể xác cũng như tâm linh, con người đă từng t́m kiếm
đau khổ, thậm chí họ không có đau khổ không được, đến nỗi có người sống với đau
khổ như người t́nh trăm năm của ḿnh. Không phải hay sao, nếu đau khổ là tất cả
những ǵ phản lại bản tính tự nhiên của con người, th́ chua cay tự bản chất vốn
là một những chất vị không hợp với khẩu vị và tâm lư tự nhiên thịnh ngọt của con
người. Ấy thế mà nhiều người lại thích chua cay, nhất là phái nữ, thèm chanh
nghiện ớt, đến nỗi, không có ớt bữa cơm mất ngon, t́m trái cây nào chua chua ăn
mới thú vị. Về phương diện tâm linh cũng thế, nếu đau khổ là tất cả những ǵ làm
cho con người tự nhiên cảm thấy khó chịu, th́ tại sao có những con người đă tự
động trở thành ẩn sĩ, tu sĩ, chẳng những sống đời ăn uống khem khổ, trái với bản
năng thích ăn uống cao lương mỹ vị của ḿnh, mà c̣n sống đời độc thân, trái với
bản năng phái tính vốn bị chi phối mănh liệt bởi nhu cầu sinh lư dục t́nh của
ḿnh. Điển h́nh nhất là Đức Thích Ca Mâu Ni, vị đă từ bỏ mọi sướng vui trên đời,
giầu sang phú quí và vợ con, đang được hưởng bấy giờ để sống đời khổ hạnh. Đấy
là chưa kể đến thành phần tử tự, đă t́m kiếm cái chết là đệ nhất đau khổ làm cứu
cánh của ḿnh, là cứu tinh của ḿnh.
Thật ra, các nhà tu hành và thành phần tự tử không lấy đau khổ làm cùng đích mà
chỉ là phương tiện để đạt đích của họ mà thôi. Tại sao? Điển h́nh nhất là trường
hợp của con người tự tử, thành phần chỉ muốn lạm dụng cái chết để thoát khổ. Đó
là lư do, nếu họ không đi đến chỗ cùng cực hay ở trong t́nh trạng cùng khổ,
chẳng những họ, mà tất cả mọi con người hạnh phúc trên đời khác sẽ không một ai
muốn chết, trừ khi chết v́ chính nghĩa, v́ lư tưởng. C̣n các vị tu hành, sở dĩ
họ cương quyết dấn thân vào cuộc đời khổ hạnh là v́ họ muốn sử dụng chiêu “gậy
lưng đập lưng ông”, hay lợi dụng phép “của độc giải độc”. Nghĩa là họ muốn dùng
khổ hạnh để họ có thể thoát khỏi t́nh trạng chết chóc nội tâm, t́nh trạng tách
ĺa phần thượng với phần hạ nơi họ, một t́nh trạng báo trước biến cố hồn thiêng
thuộc phần thượng ĺa biệt xác chất thuộc phần hạ trong giờ lâm tử của họ, một
t́nh trạng cho thấy phần hạ luôn lấn át và làm chủ phần thượng của con người,
một t́nh trạng con người cần phải hạ thấp mới có thể bay cao, mới có thể làm chủ
con người ḿnh, nhờ đó họ chẳng những có thể sống đúng với thiên chức siêu việt
và phẩm giá cao quí làm người của họ, mà c̣n có thể cứu nhân độ thế nữa.
Phật Giáo Với Đau Khổ: Diệt Dục Vô Ngă
Các đạo giáo, mỗi đạo đều có một chủ trương chuyên nhất khác nhau, một chủ
trương làm nên căn tính của đạo ḿnh. Nếu Khổng Giáo thiên về hay nổi bật về vấn
đề giáo dục con người và xây dựng xă hội, như đă mới được đề cập đến trong bài
về Con Người Thành Nhân và Con Người Vào Đời, th́ Phật Giáo thiên về hay nổi bật
về vấn đề Cứu Độ, tức cứu nhân độ thế, một vấn đề liên quan đến bài này và một
bài nữa về đề tài Cứu Độ.
Thật vậy, có thể nói, Phật Giáo được bắt nguồn từ cảm nghiệm nhân sinh hết sức
thực tế “đời là bể khổ”, một thực tại đồng thời cũng là một chân lư không ai có
thể chỗi căi. Đó là lư do thực tại “đời là bể khổ” chính là chân lư thứ nhất
trong giáo thuyết Tứ Diệu Đế của Phật Giáo, tức giáo thuyết về bốn chân lư huyền
diệu, đó là Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế và Đạo Đế. Vấn đề Cứu Độ theo Phật Giáo là
con đường con người đi từ Khổ Đế, thực tại liên quan tới sinh-bệnh-lăo-tử, đi
vào Tập Đế, chân lư liên quan tới căn nguyên của đau khổ là Lục Côn, Lục Trần và
Lục Đạo, qua Diệt Đế, chân lư liên quan tới Ngũ Giới và Bát Chính Đạo, sau cùng
đến Đạo Đế là chân lư liên quan tới Luân Hồi và Niết Bàn.
Khổ Đế hay hiện tượng đau khổ, theo Phật Giáo, trước hết do sáu gốc được gọi là
Lục Côn, đó là thị, thính, khứu, vị, xúc và tri, hay mắt, tai, mũi, lưỡi, da
thịt và tri thức, một bộ Lục Côn hoàn toàn bị chi phối bởi ngoại cảnh, bởi Lục
Trần là sắc, thanh, hương, vị, cảm, pháp, hay nhan sắc, âm thanh, hương thơm,
mùi vị, cảm xúc và tưởng tượng, những ǵ làm cho con người bị tục lụy nên phải
luân hồi trong Lục Đạo là thiên đạo, nhân đạo, qủy đạo, A-Tu-La đạo, súc sinh
đạo và địa ngục đạo. Nhưng sở dĩ Lục Côn của con người c̣n bị Lục Trần chi phối
là v́ con người c̣n sống trong tục lụy vô minh. Thật vậy, Thuyết Thập Nhị Nhân
Duyên của Phật Giáo bao gồm 12 nhân quả đó là Lăo-Tử, Sinh, Thủ, Hữu, Ái, Thụ,
Xúc, Lục Nhập, Danh Sắc, Thức, Hành và Vô Minh.
Theo thuyết Thập Nhị Nhân Duyên này: 1) cái nguyên Nhân của Lăo-Tử là biểu hiệu
và cũng chính là thực tại của đau khổ - Duyên do là bởi Sinh, tức nếu không sinh
ra sẽ không bị khổ; 2) cái nguyên Nhân của Sinh - Duyên do là bởi Hữu, tức bởi
con người muốn thành một cái ǵ đó; 3) cái nguyên Nhân của Hữu - Duyên do là bởi
Thủ, tức bởi con người muốn nắm giữ trần gian; 4) cái nguyên Nhân của Thủ -
Duyên do là bởi Ái, tức bởi con người ham hố hưởng thụ; 5) cái nguyên Nhân của
Ái - Duyên do là bởi Thụ, tức bởi việc con người tiếp nhận cảm giác khoái lạc
của ngũ quan; 6) cái nguyên Nhân của Thụ - Duyên do là bởi Xúc, tức bởi việc con
người tiếp xúc với sự vật ngoại tại; 7) cái nguyên Nhân của Xúc - Duyên do là
bởi Lục Nhập hay Lục Côn nơi con người mà có; 8) cái nguyên Nhân của Lục Nhập –
Duyên do là bởi Danh Sắc, tức bởi Lục Trần bên ngoài chi phối con người; 9) cái
nguyên Nhân của Danh Sắc – Duyên do là bởi Thức, tức bởi ư thức, tâm thức của
con người tỏ ra muốn tiếp thụ ngoại vật; 10) cái nguyên Nhân của Thức – Duyên do
là bởi Hành, tức bởi tất cả Nghiệp Báo của quá khứ thúc đẩy con người hành động;
11) cái nguyên Nhân của Hành – Duyên do là bởi Vô Minh, tức bởi con người hành
động một cách mù quáng theo bản năng và xu hướng tự nhiên; 12) chính v́ Vô Minh
là Duyên do của khổ lụy, của Lăo, Tử nên con người cần phải tiến đến chỗ Giác
Ngộ.
Đó là lư do, một khi con người đă được Giác Ngộ, được ở vào t́nh trạng giống như
Phật Tổ sau thời gian tọa thiền dưới gốc cây Bồ Đề, con người, về tiêu cực sẽ
giữ đủ Ngũ Giới, và về tích cực hoàn toàn sống theo Bát Chính Đạo, một đời sống
khiến họ, trước mắt chúng sinh, trở thành những bậc thánh nhân hay Bồ Tát, thành
Phật sống, chẳng những bản thân họ được siêu độ, được thoát tục, được vào cơi
Niết Bàn hiện sinh, mà c̣n có thể cứu nhân độ thế như Phật Tổ nữa, như Phật Tổ
sau khi Giác Ngộ vậy. Ngũ Giới của Phật Giáo là không sát sinh,
không trộm cắp, không gian dâm, không nói bậy và không rượu thịt. Bát Chính Đạo
của Phật Giáo là chính kiến, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính định,
chính niệm, chính tư duy và chính tinh tấn. Tóm lại, theo Phật Giáo, nếu căn
nguyên khiến con người đau khổ là tham, sân, si, tức tham vọng, giận dữ và ngu
muội, những ǵ khiến con người bị đầu thai luân hồi th́ con người chỉ hoàn toàn
thoát khổ và được cứu độ khi con người không c̣n luân hồi nữa, không c̣n bị
Nghiệp Báo nữa, tức không c̣n Chấp Ngă trong cơi nhân gian Thường Trụ, song trở
thành Vô Ngă trong cơi Vô Thường.
Kitô Giáo Với Đau Khổ: Thập Giá Cứu Độ
Theo Thánh Kinh Do Thái Giáo và giáo lư Kitô Giáo, con người được Tạo Hóa dựng
nên ngay từ ban đầu là để hưởng phước, được tự do thoải mái, chứ không phải để
bị đọa đầy, trừng phạt, khổ đau. Đó là lư do, Sách Sáng Thế Kư, cuốn sách đầu
tiên trong bộ Thánh Kinh Do Thái Giáo đă cho thấy, Thiên Chúa Hóa Công sau khi
dựng nên con người đă chẳng những đặt họ làm chủ tất cả những ǵ Ngài dựng nên
trên thế gian, mà c̣n mang họ vào vườn địa đường để họ được sống một cuộc đời tự
do thoải mái trong phạm vi tạo vật của họ nữa (xem 1:28; 2:15-17). Thế nhưng,
như Cuốn Sách Thánh Kinh đầu tiên này cho biết, con người đă vượt biên, đă tự
động ra khỏi phạm vi tạo vật của ḿnh, tức đă lạm dụng quyền tự do của ḿnh để
làm trái ư muốn tối cao của Đấng đă tạo dựng nên ḿnh.
Do đó, họ đă làm đảo lộn trật tự bẩm sinh nơi bản thân họ, ở chỗ họ muốn lên
bằng Thiên Chúa, muốn tự ḿnh toàn quyền quyết định như Thiên Chúa, một hiện
tượng hằng diễn tiến trong suốt gịng lịch sử của con người, nhất là trong thời
đại văn minh vật chất và nhân bản của họ hiện nay. Để rồi, với vai tṛ làm chủ
trái đất của ḿnh, tác động phản loạn của họ đối với chủ tể của họ cũng làm đảo
lộn cả trật tự giữa họ và thiên nhiên tạo vật nữa, tức họ cho ḿnh là chủ tể tối
cao của những ǵ đă được trao cho họ, chứ không phải là quản lư của Đấng đă trao
cho họ những ǵ Ngài dựng nên v́ họ và cho họ. Hậu quả của hành động được Kitô
Giáo gọi là nguyên tội này là ở chỗ, con người phải chịu đau khổ ở đời này, nam
th́ vất vả làm ăn sinh sống, nữ th́ phải phục tùng chồng và mang nặng đẻ đau, để
rồi cuối cùng sẽ phải chết, phải trở về với bụi đất (xem cùng nguồn 3:16,18-19).
Theo Kitô Giáo, tự bản chất, đau khổ là sự dữ do tội lỗi của con người mà có,
nhưng nó đă được biến thành sự thiện nhờ Vị Thiên Chúa Làm Người là Đức Giêsu
Kitô, Đấng đă tự nguyện chấp nhận vác Thập Giá và chết trên Thập Giá, tiêu biểu
cho tội lỗi và sự chết, để cứu chuộc con người khỏi tội lỗi và sự chết, tức để
nhân tính đă bị hư đi theo nguyên tội của con người, nhưng lại là một nhân tính
đă được Ngài mặc lấy khi làm người, chẳng những được tái sinh, được trở về với
t́nh trạng công chính tốt lành nguyên thủy, mà c̣n được sống một sự sống thần
linh dồi dào hơn, nhờ đó họ cũng có thể như Ngài chiến thắng sự dữ bằng sự lành.
Đó là lư do Thập Giá chính là biểu hiệu cho Kitô Giáo, và những ai muốn theo
Ngài mà không chịu vác thập giá không đáng làm môn đệ của Ngài. Đó cũng là lư do
như lịch sử cho thấy trên khắp thế giới, thân phận của những ai theo Vị Sáng Lập
Kitô Giáo này, ở nhiều nơi và nhiều thời điểm, thậm chí giữa thế giới văn minh
nhân bản ngày nay, nhất là nơi thế giới Hồi Giáo và Ấn Giáo, đă và đang bị bách
hại và tử đạo. Thực tế cho thấy, trong tất cả các đạo, chỉ có Kitô Giáo là bị
bách hại và sát hại nhất, thế nhưng, càng bị khổ đau bởi bách hại và tử đạo khắp
nơi trong suốt gịng lịch sử của ḿnh, Kitô Giáo chẳng những không bị tiêu diệt,
trái lại, c̣n lan tràn khắp thế giới, một thế giới Kitô Giáo coi như môi trường
tông đồ truyền giáo của ḿnh với vai tṛ làm men trong bột, được thể hiện sống
động nhất qua đời sống tu tŕ dấn thân phục vụ tha nhân, thăng tiến xă hội, bằng
các việc từ thiện bác ái, cứu nhân độ thế, như các dân nước đều tận mắt chứng
kiến thấy.
Nếu Thập Giá thời đế quốc Rôma là biệu hiệu cho tội lỗi và sự chết, mà Thiên
Chúa Làm Người đă giang tay chịu chết trên Thập Giá, th́ Vị Thiên Chúa Vô Cùng
Toàn Hảo này đă xuống tận cùng vực thẳm khốn nạn của loài người để t́m kiếm và
cứu độ họ, và bởi thế, nhân loại cũng sẽ không thể nào có thể chắc chắn t́m thấy
và hiệp thông với Vị Thần Linh Vô Cùng Siêu Việt này ngoài Thập Giá. Đó là lư do
không một vị thánh Kitô Giáo nào không bị khổ, và càng được đau khổ thanh luyện
càng trở nên đại thánh. Đó c̣n là lư do Thập Giá đối với Kitô Giáo là biểu hiệu
cho ân phúc và sự sống. Tóm lại, nếu Thiên Chúa đă dùng Thập Giá để cứu nhân độ
thế th́ con người sa đọa và đă được cứu chuộc bởi Thập Giá của Đức Giêsu Kitô
cũng chỉ t́m thấy hạnh phúc hiện sinh và đạt được vinh phúc ngàn thu qua đau khổ
và nhờ đau khổ mà thôi. Linh đạo của Kitô Giáo chính là ở chỗ vượt qua sự chết
mà vào sự sống vậy!
Tâm Phương Cao Tấn Tĩnh, BVL
(Bài chia sẻ cho buổi phát thanh Vui Mừng Và Hy Vọng 47, 8/12/2002)
KHỔ !
Trần Mỹ Duyệt
“Đời là bể khổ”. Tư tưởng này có bi quan quá không? Và con
người phải làm ǵ để thoát khỏi bể khổ ấy? Hoặc con người có hy vọng không rơi
vào bể khổ ấy?! Câu trả lời là có và không.
Nếu cho rằng đời là bể khổ rồi để đời cuốn trôi mặc theo số mệnh th́ đó là một
quan niệm và lối sống bi quan. Nhưng nếu bảo rằng ḿnh phải t́m cách đừng rơi
vào bể khổ, th́ đó lại là một thứ lạc quan hăo huyền và kỳ cục. Tâm lư học khảo
cứu những người gặp cùng cảnh ngộ trong hoạn nạn, hoặc sợ hăi cho thấy rằng,
những người này có khuynh hướng xích lại gần nhau, và trở thành thân thiết với
nhau một cách nhanh chóng, như ư nghĩa của một câu nói trào lộng: “Hoạn nạn cùng
chia, vui sướng hưởng một ḿnh” là vậy.
Cũng trong cùng một cảnh ngộ, thí dụ, một người găp tai nạn giữa đường, nếu
trong lúc xẩy ra tai nạn chỉ có một người qua đường, th́ nạn nhân sẽ được người
qua đường săn sóc và giúp đỡ. Ngược lại, nếu trong lúc xẩy ra tai nạn mà có
nhiều người qua lại cùng một lúc, th́ sẽ chẳng ai buồn nh́n và giúp đỡ nạn nhân.
Tâm lư này lột tả đúng ư nghĩa câu ca dao tục ngữ Việt Nam: “Aùch giữa đàng
quàng vào cổ”. Do đó, không ai muốn ḿnh bị liên lụy, hoặc nhường cái ách ấy cho
người khác.
Qua hai thí dụ trên cho thấy rằng, đau khổ, thử thách và những thách đố cuộc đời
nếu xét theo một khía cạnh tích cực, nó thật sự đóng góp rất nhiều vào sự trưởng
thành của con người, và cho đời một ư nghĩa để sống. Người ta sẽ chẳng có ǵ để
nói, để bàn, hoặc để ca tụng khi thấy một người được sinh ra trong giầu có, được
mọi chiều chuộng, được nuôi nấng đầy đủ, được học hành đến nơi, đến chốn, và khi
lớn lên lại được ngồi vào những chiếc ghế quyền hành, có danh giá địa vị. Nhưng
cũng cùng một con người ấy, nếu sinh ra trong thanh bần, lớn lên trong nghèo nàn,
và cuộc đời đầy những sóng gió, thử thách nhưng đă vươn lên và thành công, th́
sự ca tụng của người đời mới thật là giá trị. Ngoài ra, chỉ khi nào con người
trải qua những đau khổ, lúc ấy mới có kinh nghiệm để chia sẻ, và nâng đỡ những
người cùng cảnh ngộ. Và sự trưởng thành tâm linh cũng lớn lên từ đó.
Như vậy, đau khổ hay những vất vả, và khó khăn chính là gia nghiệp của kiếp
người. Những thứ này ai cũng muốn tránh, và không muốn chúng xẩy đến cho ḿnh,
nhưng lại không ai có thể trách khỏi. Người khổ về tinh thần, người khổ về thể
xác. Có người khổ v́ bệnh tật, người khác khổ v́ trí khôn kém thông minh. Người
khổ v́ thiếu sức khoẻ, kẻ khổ v́ thiếu tự do. Người khổ v́ chồng, người khác khổ
v́ vợ, v́ con, v́ cháu. Và đây cũng là tâm lư tự nhiên, một nhận thức chung của
con người. Nếu có ai nói rằng ḿnh thích được khổ, thích được người đời chê bai,
và thích được sống nghèo, sống trong tù đày, bệnh tật, th́ người đó một là thánh
nhân, hai là điên khùng. Tuy nhiên, khi nói rằng tôi muốn vươn lên từ những thử
thách của cuộc đời, th́ tâm lư ấy là một tâm lư tích cực và là một động lực thôi
thúc những cố gắng mang lại những giá trị cho cuộc đời.
Nhưng tất cả những đau khổ mà con người phải chịu, dưới h́nh thức này hay h́nh
thức khác được chia thành hai loại: Đau khổ và thử thách thể xác. Đau khổ và thử
thách tâm hồn. Người Việt Nam ta thường gọi là “lao tâm” và “lao lực”. Vất vả về
thể xác như mệt nhọc, bệnh tật, đau yếu, đói, khát, lạnh, nóng là những cái
thuộc về lao lực. Để đối phó với cái khổ này, con người phải đổ mồ hôi, sôi nước
mắt, phải vận dụng bắp thịt của ḿnh để mưu cầu sự sống, và để sinh tồn. Điều
này ta thấy nơi những người làm việc lao công và khó nhọc ngoài đường, ngoài
đồng ruộng, hoặc trong các hầm mỏ, công sở đ̣i hỏi sức lao động.
Khó nhọc, mệt mă thuộc lănh vực tâm linh, tức những người phải vận dụng chất xám
của óc. Những nhà chính trị, những nhà tư tưởng, những người làm việc mà khả
năng đ̣i phải suy nghĩ và dùng trí tuệ. Bề ngoài, những người này ít đổ mồ hôi,
không bị chai bàn tay, không phải dùng đến bắp thịt, nhưng họ lại là những con
mồi ngon của các chứng nhức đầu kinh niên, lở loét dạ dầy, chai gan, cứng tim,
hoặc đau thận, và nhất là các chứng ung thư. Họ được xếp loại những người “lao
tâm”.
Tuy đau ốm, đói khát đáng thương v́ nó trực tiếp liên quan đến thể xác con người.
Nhưng nếu xét về một khía cạnh mà ảnh hưởng của những đau khổ có thể làm suy sụp
và nhận ch́m một con người, th́ những đau khổ ấy là những đau khổ của tâm hồn.
Tâm lư học coi những đau khổ tinh thần có chiều kích ảnh hưởng xâu xa hơn những
đau khổ thể xác. Lấy một thí dụ, tại Việt Nam có hơn 80 triệu dân mà phần đông
nghèo nàn và đói khổ về thể xác. Nhưng nếu ở đó con người được tự do, được thoải
mái và được tôn trọng th́ cũng chẳng ai muốn bỏ nước ra đi; cũng chả cần ai biểu
t́nh, phản đối, hoặc xuống đường đả đảo. Đó chỉ là một h́nh ảnh rất mờ nhạt về
sự đau khổ của tâm hồn, sự “lao tâm” tinh thần.
Nhưng để sống vui với những đau khổ và để chinh phục những đau khổ, th́ ta phải
làm ǵ? Có ít nhất hai phương pháp ta có thể áp dụng để vượt thắng đau khổ và để
mang lại cho đời một ư nghĩa.
- Về tâm lư:
1. Chúng ta hăy tự an ủi ḿnh rằng con người sinh ra ai cũng phải khổ. Nguyễn
Công Trứ nh́n đời bằng con mắt thực tế nhưng cũng không kém phần hài hước. “Vừa
sinh ra đà khóc choé. Đời có vui sao chẳng cười kh́”. Một cách b́nh tĩnh, ta hăy
nhủ ḿnh: “Nếu đời cho ḿnh một trái chanh, th́ hăy dùng nó để vắt lấy một ly
nước chanh đường”. Như vậy, không phải là vừa đi trên đường đời vừa khóc, mà là
vui v́ vừa đi đường mệt mỏi và lại có ly nước chanh để nhâm nhi cho đỡ khát và
đỡ mệt.
2. Nghĩ rằng ḿnh khổ, th́ cũng có người khổ hơn ḿnh. Có những người mà nếu
ḿnh chia sẻ được 1/10 cái đau khổ của họ, chưa chắc ḿnh sống nổi.
3. Tích cực hơn, hăy nghĩ rằng chiếc mề đay bề ngoài càng đẹp bao nhiêu, th́ bề
trong càng nhiều mối chỉ và đường may bấy nhiêu. Và đó là những giá trị thật của
cuộc đời, của đau khổ và của kiếp người. Ở đây ta thấy đúng với ư nghĩa của một
câu nói người xưa: “Ví thử đường đời bằng phẳng cả. Anh hùng, hào kiệt có hơn
ai”.
- Về tâm linh:
1. Tạo cho ḿnh một niềm tin vững chắc, và tin tưởng mănh liệt. Đây là một khám
phá mới mẻ của tâm lư và y khoa gần đây. Về mặt tôn giáo, niềm tin xây dựng một
đời sống nội tâm và đạo đức. Về mặt tâm lư và khoa học, niềm tin có khả năng
chữa lành bệnh tật. Trong một cuộc khảo cứu về tâm lư trị liệu, người ta khám
phá ra rằng, những ai có niềm tin th́ sống thanh thản hơn. Ít bệnh tật hơn. Khi
có bệnh th́ dễ chữa hơn, và mau b́nh phục hơn.
2. Dùng niềm tin để thắng vượt được đau khổ. Điều này có thể t́m thấy nơi những
nhà tuẫn giáo, tức là những người dám chết cho niềm tin của ḿnh. Ngoài ra, dù
chỉ là tin mù quáng và cuồng tín như những anh chàng Hồi Giáo ôm bom tự sát, hay
lái máy bay đâm đầu vào hai toà cao ốc 9 tháng 11 năm ngoái tại New York chẳng
hạn, tất cả đă nói lên niềm tin có sức giúp con người vượt thắng sợ hăi, vượt
thắng đau khổ. Ai cũng biết rằng cái đau khổ và sợ hăi nhất là sự chết. Nhưng
với niềm tin, con người đă có thể thắng vượt nổi sự sợ hăi và đau khổ cuối cùng
này.
***
Tóm lại, trốn thoát và chạy trốn đau khổ là một điều không ai có thể làm nổi.
Vậy chỉ c̣n cách là t́m cho đau khổ một ư nghĩa tích cực, và sắm cho ḿnh một
niềm tin vững mạnh. Và đó là hai phương pháp giúp con người t́m được ư nghĩa của
cuộc sống, và ư nghĩa của đau khổ.