THƯ PHÒNG LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
của Nhóm
Tông Đồ Chúa Tình Thương
Năm Thánh Gia
Huynh Đệ
2021
TĐCTT Hành Hương 2021 - Tập Sách Hành Trang
Nội Dung
Phần Một
Tâm Nguyện Hành Hương
Chương Trình Hành Hương
Phần Hai
Chốt Điểm Hành Hương
Ngày 10/11 - Thứ Tư
The Basilica San Marco in Venice
The Basilica of St. Anthony in Padua
The Magnificent Gothic cathedral in Milan
La Scala opera house and the glass-domed Galleria
Ngày 11/11 - Thứ Năm
The Duomo di Milano and St. Ambrose Church in Milan
The Chapel of the Holy Shroud in Turin
The serene Tuscan countryside in Florence
The cradle of Renaissance Art in Florence
Former stronghold of the Medici family in Florence
From Botticelli to Da Vinci in Florence
Ngày 12/11 - Thứ Sáu
The Neptune Fountain in Florence
The Church of Santa Croce in Florence
Giotto's Bell Tower in Florence
The Cathedral of Santa Maria del Fiore in Florence
The Pisa Cathedral and Leaning Tower in Pisa
Ngày 13/11 - Thứ Bảy
St. Catherine’s Church in Siena
The Church of St. Christina in Bolsena
Ngày 14/11 - Chúa Nhật
The Basilica of St. Francis in Assisi
The Church of St. Clare and Santa Maria degli Angeli in Assisi
The National Shrine of Saint Rita of Cascia in Cascia
Ngày 15/11 - Thứ Hai
The House of the Holy Family in Loreto
Home and burial place of Saint Padre Pio in San Giovanni Rotondo
Ngày 16/11 - Thứ Ba
The Shrine of Padre Pio in San Giovanni Rotondo
The church of Santa Maria della Grazia in San Giovanni Rotondo
The Duomo di Gernnaro in Naples
The Benedictine Abbey of Montecassino in Montecassino
Ngày 17/11 - Thứ Tư
Audience with Our Holy Father in Vatican
Santo Spirito in Sassia
The Catacombs in Rome
The legendary Trevi Fountain in Roma
The mighty Colosseum in Rome
Ngày 18/11 - Thứ Năm
The Vatican Museum and Gallery
The Sistine Chapel with Michelangelo’s magnificent frescoes.
The Basilica of St. Peter.
The Basilica of St. Mary Major,
The Basilica of St. John Lateran, Scala Sancta
The Basilica of St. Paul's outside the Walls.
Phần Ba
Phụng Vụ Hành Hương
Qui Lệ Hành Hương
Phần Hai
Chốt Điểm Hành Hương
Ngày 10/11 - Thứ Tư
The Basilica San Marco in Venice
Venice là một thành phố với 118 đảo nhỏ, nắm cách đất liền khoảng 4 cây số, và
đường xá ở Venice được làm nên bởi nước với đảo nhiều cây cầu nối
Đền Thánh Marcô là điểm hấp dẫn hàng đầu ở Venice sau Quảng trường Thánh Marco.
Đền Thờ này được xây dựng để làm nhà chứa xương của Thánh ký Marcô, những xương
thánh này đã được lấy trộm từ Alaxandria Ai Cập, bởi hai lái buôn người Venice
vào năm 828, và các xương của vị thánh này đã có thể qua mặt của các kiểm viên
người Hồi giáo, bằng việc các xương ấy đã được nhồi nhét vào trong một cái thùng
thịt heo. Khoảng 200 năm sau đó, các xương của Vị Thánh ký này, bấy giờ đang ở
những nơi tạm thời, đã được chuyển đến tân Đền Thờ Thánh Marco, ngôi nhà thờ thứ
ba ở cùng vị trí, vào thế kỷ thứ 11.
Cái đáng chú ý là ở chỗ, Đền Thờ Thánh Marco không trở thành vương cung thánh
đường của Venice mãi cho đến năm 1807, sau nhiều trăm năm như là một nguyện
đường và nhà thờ của nhà nước thuộc thẩm quyền của Cộng hòa Doges Venice. Có một
số vị giáo hoàng đã từng là Thượng Phụ ở Venice này, cận đại nhất là 2 vị Thánh
Giáo hoàng Gioan XXIII và Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô I.
Được ghép nối bởi nhiễu kiểu kiến trúc khác nhau, ngày nay tính chất phong phú
về nghệ thuật kiến trúc của nó được tỏ hiện ở gần như hết mọi góc cạnh - từ bốn
con ngựa bằng đồng canh cửa vào, cho đến cả ngàn bộ vuông những bức tranh bằng
vi thạch, tới bàn thờ chính Pala d'Oro trên cung thánh. Nếu bạn nhìn kỹ vào ngay
chính giữa nóc đỉnh tiền đường của nó, bạn có thể nhìn thấy tượng Thánh Marco
đứng bên trên cái biểu tượng của Venice là một con sư tử có cánh bay.
Muốn xem thêm nhiều chi tiết hơn nữa về lịch sử, nghệ thuật và kiến trúc của
Đền Thờ này hãy vào tham khảo thêm ở cái link này: Basilica
di San Marco Web site
Vương cung thánh đường chính tòa thượng phụ Thánh Máccô (tiếng
Ý: Basilica
Cattedrale Patriarcale di San Marco)
tại Venezia,
Italia, là bảo vật quốc gia của Cộng
hòa Venezia cho
đến năm 1797 và
từ năm 1807 là nhà
thờ chính tòa của
Venezia. Nhà thờ nằm trên Quảng
trường San Marco trong
khu phố San Marco.
Lịch sử
Qua nhiều thế kỷ, mãi cho đến khi Cộng
hòa Venezia suy tàn, chính phủ Venezia đã cố tình tách xa trụ
sở của vị tổng giám mục khỏi nơi là trung tâm quyền lực của nền cộng hòa. Nhà
thờ Thánh Mark là nơi cầu nguyện của các vị tổng trấn (doge), được xây
dựng để lưu giữ hài cốt của tông đồ Mark, vị Thánh
bảo hộ Venezia thay thế cho Thánh Theodorus. Dinh thự và nhà
thờ chính tòa của tổng giám mục thời kỳ đấy nằm trong khu phố San Pietro di
Castello xa xôi.
Nhà thờ Thánh Mark đầu tiên được hiến tặng năm 828 và
được xây dựng từ năm 829 đến 832 ở
nơi nguyên là nhà thờ cầu nguyện của Dinh
tổng trấn (Venezia) để lưu trữ hài cốt của Thánh Mark do các
thương gia Venezia mang từ Alexandria về
đây. Năm 976,
ngôi nhà thờ, Dinh
Tổng trấn và khoảng 200 căn nhà đã bị hỏa hoạn thiêu đốt. Ngay
trong năm đó vị tổng trấn Pietro
I Orseolo đã bắt đầu cho xây mới. Qua nhiều lần ngưng trệ, công
trình tái xây dựng kéo dài cho đến năm 1094 mới
hoàn thành. Do Venezia có liên hệ mật thiết với Đế
quốc Byzantine nên các nhà nghệ thuật tạo dáng cho công trình
đều theo gương mẫu kiến
trúc Byzantine. Mặt bằng nhà thờ là một chữ thập Hy Lạp (chữ thập vuông),
phía trên là mái vòm. Các lần xây dựng mở rộng sau này trong thế
kỷ 13 vẫn còn mang phong cách Byzantine, sang đến thế
kỷ 14 thì đã mang phong cách kiến
trúc Gothic.
Nhà thờ Thánh Mark mang hình dáng cơ bản của Nhà thờ các tông đồ tại
Constantinopolis, đã được xây dựng trong thế
kỷ thứ 6 (536-546 nhưng
đã bị phá hủy năm 1452). Nhà thờ hình chữ thập Hy Lạp có mái vòm này là bước
phát triển chung cuối cùng của nghệ thuật kiến trúc thời đầu Ki
tô giáo. Sau đấy, nghệ thuật kiến trúc đã tách ra thành hai hướng: kiến trúc
Byzantine phía đông và kiến trúc phương Tây, là kiến trúc dẫn đến nghệ thuật
kiến trúc Carolinge và kiến
trúc Roman.
Kiến trúc
Trên 500 cột bằng đá
hoa, porphyry, thạch
anh (jasper), serpentine và thạch
cao tuyết hoa (alabaster) trang trí cho mặt ngoài cũng
như bên trong nhà thờ. Các tấm tranh
khảm (mosaic) trên nền mạ vàng (diện tích tổng cộng là
4.240 m²) đã mang lại cho nhà thờ tên "Nhà thờ Vàng". Các bức lâu đời nhất xuất
phát từ thế
kỷ 12, phần lớn là từ thế
kỷ 13. Một vài bức – đặc biệt là mặt ngoài nhà thờ - đã được thay thế bằng
các tác phẩm có cùng motiv từ thế
kỷ 16 đến thế
kỷ 18.
Mặt chính nhà thờ với hai tầng có 5 cổng mà trong đó 3 cổng giữa dẫn vào tiền
sảnh. Cổng chính được trang trí bằng đầu sư tử có 3 vòm với các tượng từ thế kỷ
13 mô tả các phường hội Venizia, tượng trưng của 12 tháng trong năm và biểu
tượng của đức hạnh. Trước cửa sổ tầng trên là bản sao của bốn con ngựa nổi tiếng
bằng đồng mạ vàng. Mỗi một tượng ngựa cao 1,60 m và nặng 875 kg. Chúng xuất phát
từ khoảng thế
kỷ thứ 4, do Enrico
Dandolo mang về Venezia từ Constantinopolis trong
cuộc Thập
tự chinh lần thứ 4.
Nhà thờ được chia làm 3 gian và, theo gương mẫu Byzantine, có một gian tiền sảnh
với các bức tranh khảm (1220-1290) mô tả cảnh trong sách Cựu
Ước. Thuộc vào trong số các phẩm nổi tiếng nhất là Pala d'oro, màn che phía
sau của bàn thờ chính (thế
kỷ 10 – thế
kỷ 14).
Nội thất
Điểm thu hút chính bên trong nhà thờ là các tấm tranh khảm. Các tác phẩm này
được bắt đầu dưới thời của tổng trấn Domenico
Selvo (1071 – 1084)
và được tiếp tục trong những thế kỷ tiếp theo sau đó. Trên diện tích 4.240 m²,
bộ tranh khảm lớn nhất của phương tây mô tả lại các đề tài trong kinh Cựu
Ước (trên tiền sảnh) và Tân
Ước (trong nhà thờ). Nơi rửa
tội trong phần phía nam của tiền sảnh cũng được trang trí với
rất nhiều tranh khảm, thuộc vào trong số các tranh khảm đẹp nhất trong nhà thờ.
Trên
Kiến trúc nhà thờ sử dụng rất nhiều cột. Mỗi khi xâm chiếm (thí dụ như Byzantine
trong lần Thập tự chinh năm 1204),
người Venezia thường mang nhiều cột làm bằng vật liệu quý giá về Venezia để
trang hoàng cho vật báu quốc gia này. Nhà thờ Thánh Mark có 2.600 cột (người ta
tin rằng trong số đó có một vài cột từ Đền
thờ Salomon), được dựng phía ngoài và bên trong, chủ yếu là để trang trí và
cũng là biểu tượng cho quyền lực của Venice.
Cũng đáng đến tham quan là Tesoro, nơi trưng bày nhiều dụng
cụ, di vật và tác phẩm điêu khắc mang tính tôn giáo còn lại (phần lớn đã bị
Napoléon chiếm đoạt). Museo Marciano phía trên
của tiền sảnh, nguyên là xưởng của những người thợ khảm tranh ngày xưa, trưng
bày bốn con ngựa bằng đồng mạ vàng nguyên bản, nhiều tượng Thánh, áo khoác khi
làm lễ và nhiều tranh khảm vụn.
Tứ Mã
Bộ tứ mã này là một tứ mã duy nhất còn lại từ thời Cổ
đại. Bộ tứ mã được đúc cách đây khoảng 2.000 năm, nơi đúc chúng không thống
nhất trong các tài liệu còn lại: Roma, Hy
Lạp hay Alexandria là
những nơi được nhắc đến. Chúng đầu tiên được dựng trên khải hoàn môn của Hoàng
đế Nero tại
Roma. Hoàng đế Constantine mang bộ tứ mã này về Constantinople rồi
từ đấy chúng là chiến lợi phẩm được mang về Venezia năm 1204.
Năm 1798 Napoléon cho
mang chúng cũng như nhiều báu vật nghệ thuật khác về Paris,
trưng bày trong Bảo
tàng Louvre và rồi bộ tứ mã lại được trả trở về Venezia năm 1815.
Mỗi một con ngựa cao 1,7 m nặng khoảng 15 tấn được đúc hoàn toàn bằng đồng và mạ vàng,
bao gồm hai phần, đường kết nối hai phần này được che bằng bộ dây cương.
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C6%B0%C6%A1ng_cung_th%C3%A1nh_%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng_Th%C3%A1nh_M%C3%A1cc%C3%B4#:~:text=V%C6%B0%C6%A1ng%20cung%20th%C3%A1nh%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20ch%C3%ADnh,trong%20khu%20ph%E1%BB%91%20San%20Marco.
The Basilica of St. Anthony in Padua
Thánh Antôn Padua, sinh quán ở Lisbon Bồ Đào Nha, là một linh mục tu sĩ Dòng Anh
Em Hèn Mọn Thánh Phanxicô, và đã chết ở Padua Ý quốc vào ngày 13/6/1231, để rồi
vào năm 1263, khi thi thể của ngài được chuyển đến một Đền Thờ mới, thì thi thể
của ngài đã bị rữa, chỉ trừ mỗi cái lưỡi và những thanh quản, cả hai hài tích
hiếm quí này của ngài hiện đang được bảo trì ở các hộp hài tích thánh bằng vàng
tại Nguyện Đường Hài Tích trong Đền Thờ Thánh Antôn Padua. Thi thể của Thánh
Antôn Padua được bảo trì tại Nguyện Đường Thánh Antôn, ở cánh ngang.
Đền Thờ Thánh Antôn Padua là một trong những đền thờ đẹp nhất ở Ý quốc, và là
nhà thờ Công giáo quan trọng nhất ở Padua, cũng là một trong những nhà thờ rộng
lớn nhất thế giới, nơi mỗi năm có tới 6 triệu rưỡi khách hành hương tới kính
viếng, như là một trong những đền thánh hành hương được tôn kính nhất thế giới
Kitô giáo. Vị thánh này là một trong những vị được phong thánh nhanh nhất trong
lịch sử của Giáo Hội, từ Đức Giáo Hoàng Grêgôriô IX, vào ngày 30/5/1232, tức
chưa đầy một năm.
Theo ý nguyện của ngài, là được chôn táng ở ngôi Nhà Thờ nhỏ Thánh Maria Mẹ
Thiên Chúa Santa Maria Mater Domini, nơi ngài đã phục vụ hơn một năm (1229-1231)
trước khi chết, và chẳng bao lâu sau khi ngài qua đi thì rất nhiều phép lạ đã
xẩy ra ở mộ của ngài, khiến ngôi mộ của ngài đã biến thành một nơi hành hương
ngay từ đó. Một năm sau khi vị thánh qua đời, mới bắt đầu xây một nhà thờ mới đủ
sức chứa số lượng khách hành hương càng ngày càng đông. Ngôi nhà thờ cũ này là
tâm điểm để xây thành Đền Thờ, và vị trí của nó trở thành một Nguyện đường Đức
Mẹ Đen (Cappella della Madonna Mora). Công trình kiến trúc Đền thờ này
tiếp tục cho tới năm 1310, nhưng chỉ hoàn thành vào thế kỷ thứ 15, bởi có nhiều
thay đổi và thêm thắt cho hoàn hảo bao nhiêu có thể.
Đền Thờ Thánh Antôn Padua mang những đường nét kiến trúc khác nhau - mặt tiền
trên chóp đỉnh theo kiểu kiến trúc Roma thời trung cổ Âu Châu, các trụ tường
tiến triển thành những vòm cung nhô lên theo kiểu kiến trúc Gothic, các vòm cung
được kiến trúc theo kiểu Byzantine, và cấu trúc ở hậu cung bằng những nguyện
đường vòng xoay theo kiểu Gothic. Mặt tiền của Đền thờ Thánh Antôn Padua cao 28
mét (92 feet) và rộng 37 mét (121 feet). Ở mặt tiền có 5 vòm cung xen kẽ nhau,
và vòm cung ở giữa được phủ lên bằng một cái hốc để tượng Thánh nhân. Có 3 cửa
bằng đồng ở mặt tiền. Trên đỉnh của đền thờ này có 8 vòm cung và 2 tháp chuông
cao 68 mét (223 feet). Nội cung của Đền thờ này có một cái sàn hình thánh giá
Latinh, được chia ra thành ba gian giữa bởi các trụ cột.
The Magnificent Gothic cathedral in Milan / The Duomo di Milano in Milan
Công trình kiến trúc vương cung Thánh Đường Milan được bắt đầu vào năm 1386,
thời điểm mà kiểu kiến trúc Gothic đạt đến đỉnh điểm của mình. Ngôi nhà thờ mới
này được quyết định xây dựng ở khu vực của các đền thờ cổ kính Thánh Maria
Maggiore và Thánh Tecla, những vị thánh còn hài tích, cùng với bể rửa tội của
Thánh Giovanni alle Fonti, vẫn còn được thấy ở Khu Khảo Cổ Học. Ngôi Vương cung
Thánh đường nguy nga này nổi bật với 135 vòng xoáy lấp lánh, cùng với 2,245 bức
tượng bằng cẩm thạch trắng.
Lịch sử ghi nhận rằng vào Tháng 10 năm 1387, tổ chức the Veneranda
Fabbrica del Duomo
đã được thành lập,
theo ý đồ của vị công tước Milan là Gian Galeazzo Visconti, để thực hiện công
trình cả phác họa lẫn xây dựng Vương Cung Thánh Đường Milan này. Vị công tước
Milan muốn sử dụng đá cẩm thạch thay vì thứ gạch truyền thống xứ Lombard, và
muốn thực sự cách mạng về kiến trúc theo kiểu Gothic. Bởi thế tổ chức Fabbrica
cần phải tìm kiếm các chuyên viên kỹ sư, kiến trúc sư, điêu khác gia và các thợ
xẻ đá khắp Âu Châu. Vị trí của kiến trúc này vì thế đã trở thành một khu vực
sống động cho việc trao đổi những ý tưởng, kinh nghiệm và tài nghệ khác biệt
nhất từ các nhân viên ở khắp châu lục, nhờ đó mà Đại Thánh Đường này đã trở
thành một giao điểm của các dân nước cùng với các nền văn hóa có tính chất Âu
Châu nhất trong các vương cung thánh đường theo kiểu kiến trúc Gothic.
Nhà thờ chánh toà Milan (Duomo di Milano) là một nhà thờ được xây dựng theo
phong cách kiến trúc Gothic, nằm ở quảng trường Piazza del Duomo ngay trung tâm
thành phố Milan. Duomo di Milano dài 157m, rộng 92m, là một trong những nhà thờ
lớn nhất thế giới hiện nay.
Lịch sử xây dựng nhà thờ chánh toà Milan
Địa điểm toạ lạc hiện nay của nhà thờ chánh toà Milan (Duomo di Milano) trước
đây là vương cung thánh đường Sant’Ambrogio. Năm 838, một nhà thờ nữa là
Basilica di Santa Tecla được cho xây dựng sát bên cạnh nhà thờ đầu tiên. Năm
1075, toàn bộ hai công trình nói trên bị hoả hoạn thiêu huỷ. Năm 1386, nhà thờ
chánh toà Milan (Duomo di Milano) bắt đầu được xây dựng để thay thế cho hai nhà
thờ cổ.
Việc xây dựng nhà thờ chánh toà Milan kéo dài hơn 6 thế kỷ, với sự tham gia của
rất nhiều kiến trúc sư, nhà điêu khắc nổi tiếng theo từng giai đoạn. Nhà
thờ Duomo di Milano dài 157m, rộng 92m, có thể chứa được hơn 40.000 người, đây
là nhà thờ lớn thứ ba trên thế giới, sau Nhà thờ St. Peter ở Rome và Nhà thờ
Seville.
Kiến trúc của nhà thờ chánh toà Milan
Nhà thờ được xây dựng theo phong cách kiến trúc Gothic kết hợp với phong cách
Roman Romanesque. Toà bộ nhà thờ được phủ bằng những tấm đá cẩm thạch lớn: bên
ngoài có khoảng 2.000 bức tượng và 135 tháp, tất cả cũng đều được làm bằng đá
cẩm thạch. Bên trong toà nhà có các cột đá cẩm thạch lớn chạm khắc tinh xảo nó
góp phần làm cân đối không gian nhà thờ và tạo những lối đi rất tự nhiên. Những
bức tranh lớn bên trong nhà thờ được tái hiện từ những câu chuyện trong kinh
thánh, những bức tượng được điêu khắc mô tả chân dung những vị thánh tử vì đạo.
Một trong những hiện vật quý giá ở bên trong nhà thờ là mái vòm phía sau bàn
thờ, đó là một trong những chiếc đinh được sử dụng trong lễ đóng đinh chúa Ki
Tô. Mỗi năm công chúng chỉ được vào xem một lần vào ngày thứ 7 gần nhất ngày
14/09.
Nhưng điểm nổi bật của nhà thờ chánh toà Milan (Duomo di Milano) là mái nhà
thờ.
Khu vực mái nhà thờ là nơi du khách có thể lên tham quan và ngắm toàn cảnh Milan
từ trên cao. Không chỉ vậy tại khu vực mái nhà thờ, du khách có cơ hội chiêm
ngưỡng những ngọn tháp và các tác phẩm điêu khắc độc đáo cận cảnh. Trên ngọn
tháp cao nhất là ngôi đền Madonnina – bức tượng bằng đồng mạc vàng được Giuseppe
Perego điêu khắc vào năm 1774. Để lên được sân thượng du khách có thể đi thang
bộ hoặc đi thang máy (giá vé khác nhau).
Những con số biết nói về Duomo di Milano
- 3.400 bức tượng
- 200 bức phù điêu
- 135 tháp
- 150 máng xối
- 325.000 tấn – tổng khối lượng
- Xâytrong 6 thế kỷ
- 80% du khách đến Milan ghé Duomo di
Milano
- Đón 100.000 lượt khách/tuần.
La Scala opera house in Milan
La Scala,
in full Teatro
alla Scala (Italian: “Theatre at the Stairway”),
theatre in Milan,
one of the principal opera houses of the world and the leading Italian house.
Built in 1776–78 by Empress Maria
Theresa of
Austria (whose country then ruled Milan), it replaced an earlier theatre that
had burned. In 1872 it became the property of the city of Milan. The house was
closed during World
War I.
In 1920 the conductor Arturo
Toscanini led
a council that raised money to reopen it, organizing it as an autonomous corporation.
Bombed during World
War II,
the theatre reopened in 1946, partly through funds raised by benefit concerts
given by Toscanini. In late 2001 La Scala closed for extensive renovations.
Mario Botta served as the architect of the project, estimated to have cost some
$67 million, and the theatre reopened in December 2004 with a performance of Antonio
Salieri’s Europa
riconosciuta,
which had been performed at La Scala’s opening on August 3,
1778.
La Scala’s repertoire is
more varied than that of the other four or five leading opera houses. It tends
to include a large number of unfamiliar works balanced by a limited number of
popular favourites. Conductors are given control of casting and rehearsals. The
composer Giuseppe
Verdi was closely associated with the house during the 19th
century. Toscanini’s tenure as
artistic director marked one of the finest periods in the theatre’s existence.
Associated with the theatre are a ballet company, a ballet school, and a singing
school.
The glass-domed Galleria in Milan
Everyone knows that Milan is the fashion capital of Earth, and the Galleria
Vittorio Emanuele II is not only one of the world’s oldest shopping malls but
also a place to see the best dressed men and women out there. Housed within a
four-story double arcade in central Milan, the Galleria is named after Vittorio
Emanuele II, the first king of the Kingdom of Italy, and is just steps away
from the famous Milan
cathedral on
the north end of the Piazza del Duomo.
The structure consists of two glass-vaulted arcades intersecting in an octagon
covering the street connecting Piazza del Duomo to Piazza della Scala. The
street is covered by an arching glass and cast iron roof. The central octagonal
space is topped with a beautiful glass dome. The Galleria was designed in 1861
and built by Giuseppe Mengoni between 1865 and 1877.
The Galleria is often nicknamed il salotto di Milano (Milan’s drawing room), due
to its numerous shops and importance as a common Milanese meeting and dining
place.
The arcade principally contains luxury retailers selling haute couture, jewelry,
books and paintings, as well as restaurants, cafés, and bars. The Galleria is
famous for being home to some of the oldest shops and restaurants in Milan, such
as Biffi Caffè (founded in 1867), the Savini restaurant, the silverware store
Bernasconi and the Art Nouveau classic Zucca’s Bar.
On the ground of the central octagonal, there are four mosaics portraying the
Coat of Arms of the three Capitals of the Kingdom of Italy (Turin, Florence and
Rome) plus the Milan’s. The tradition tells that if a person put its right heel
on the bull’s genitals depicted of the bull from Turin Coat of Arms and turn on
himself three times, this will bring good luck. This practice causes damage to
the mosaic: a hole developed on the place of the bull’s genitals. Poor bull :-)
Ngày 11/11 - Thứ Năm
St. Ambrose Church in Milan
The Church of Sant' Ambrogio is a masterpiece of Romanesque architecture. It is
considered to be one of the most ancient churches in Italy and one of the most
historically interesting medieval buildings in Lombardy. The church was named
after St. Ambrose who consecrated it in 386. When he died in 397, he was buried
beside the bodies of St. Gervase and St. Protasius buried inside the Church.
Originally the church was known as Basilica Martyrum. It was a small
three-aisled, transept-less church and was situated in an area where numerous
martyrs of the Roman persecutions had been buried. The church was damaged in the
August 1943 bombings. Architect Ferdinando Reggiori restored the building to its
original form in the first half of the 12th century.
Like many Lombard churches, this one is also made of brick; the clay in this
region fires to a deep red. The Old Monk's Tower dated to the 10th century
whereas the Canon's Tower dated back to the 12th century. Lombard churches are
also characterized by the presence of huge gable over the nave and by a tall
square belfry.
The Basilica
of St. Ambrogio is
one of the oldest and most important churches in Milan. The origins of the
church date from the year 379 during the Roman Empire in Lombardy. Sant Ambrogio
is one of five Romanesque churches were consecrated by St. Ambrose.
Basilica di Sant'Ambrogio Milano
The three naves contain important artworks. The cupola comprises bright mosaics
and the golden altar is the work of the Master Volvinio.
The museum contains a treasury with ecclesiastical objects and parchment
manuscripts.
Bell Towers - Campanile
Note the two medieval bell towers left and right behind the church, which can be
seen from the center of the square of St. Ambrogio.
The right bell tower, the monk tower, dates from the 10th Century, while the
left bell tower, the so-called Kanonicza tower in the 13th Century has been
added. Bramante built in the 16th Century by order of the Sforza, the cloisters
and the portico.
Behind the church is the Temple of Victory, Tempio della Vittoria.
The Chapel of the Holy Shroud in Turin
Khăn Liệm
Thành Turin, cũng được gọi là Khăn Liệm Thánh, một
tấm khăn dài, qua các thế kỷ, vẫn được cho rằng tấm khăn liệm xác của Chúa Giêsu
Kitô. Tấm khăn này đã được bảo trì từ năm 1578 tại nhà nguyện trang trọng trong
vương cung thánh đường Thánh Giovanni Battista ở Turin Ý quốc.
Tấm Khăn Liệm Thánh này dài 4 mét 3 (14 feet 3 inches) và rộng 1 mét 1 (3 feet 7
inches). Trên Tấm Khăn Liệm Thánh này hiện lên hai hình ảnh nâu nhạt, cả mặt
trước lẫn mặt sau, về một con người còm cõi hốc hác cao 5 feet 7 inches (1 mét
7). Các hình ảnh trên Tấm Khăn Liệm Thánh này còn những dấu vết được cho rằng
tương hợp với các thương tích tử giá của Chúa Giêsu, bao gồm cả các dấu vết trên
đầu, những vết roi sau lưng, những vết bầm trên vai, và những vết như máu khác
nhau. Tấm Khăn Liệm Thánh này không phải là Tấm Khăn Lọt Mặt Chúa Giêsu mà bà
Veronica đã trao cho Người lau khi Người đang vác thập tự giá lên Đồi Canvê.
Tấm Khăn Liệm Thánh này, theo lịch sử, xuất hiện vào năm 1354, khi nó được ghi
nhận là ở trong tay của một hiệp sĩ có tiếng là Geoffroi de Charnay, vị lãnh
Chúa ở Lirey. Nó được trưng bày vào năm 1389, và bị vị giám mục địa phương ở
Troyes cho là giả tạo. Các vị giáo hoàng từ Đức Julius II (1503-1513) trở đi lại
công nhận tính chất thực sự của nó. Vào năm 1453 Cháu của lãnh chúa Geoffroi de
Charnay là Marguerite đã tặng Tấm Khăn Liệm này cho Nhà Savoy ở Chambéry, và ở
đó nó bị hư hại bởi lửa và nước vào năm 1532. Bởi thế nên nó được chuyển đến
Turin là tân thủ đô của Nhà Savoy vào năm 1578.
Từ đó, Tấm Khăn Liệm Thánh này đã hiếm thấy được công khai trưng bày cho dân
chúng thấy, như vào một số trường hợp đặc biệt như dịp kỷ niệm 400 năm tấm khăn
này đến Turin (1978). Năm 1998 và năm 2000, nó cũng được trưng bày theo ý của
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, và ngài gọi tấm khăn này là "một tấm gương của
Phúc Âm". Đức Thánh Cha Biển Đức XVI cũng muốn trưng bày Tấm Khăn này vào năm
2010. Gần đây nhất là vào năm 2015 khi Đức Thánh Cha Phanxicô hành hương kính
viếng Tấm Khăn Liệm Thánh ấy. Tấm ảnh của Tấm Khăn Liệm này được trưng bày tại
Bảo Tàng viện của Khăn Liệm Thành này ở Turin.
Về phương diện khoa học, từ cuối thế kỷ 19, đã có những cuộc phân tích để tìm
hiểu xem tính chất đích thật của tấm vải vốn được cho là Tấm Khăn Liệm Thánh này
của Chúa Giêsu Kitô. Vào năm 1898, những hình ảnh được chuyển từ đen trắng sang
nâu trên tấm vải này dường như có tính chất phim (negative) của tấm ảnh hơn là
chính hình ảnh (positive). Bắt đầu vào thập niên 1970, các cuộc thử nghiệm xem
những hình ảnh trên tấm khăn có phải là do vẽ, hay các thứ chất nhuộm, các vết
cháy sém, hoặc các thứ tác dụng nào khác hay chăng; nhưng chẳng có cuộc khảo sát
nào đáng thuyết phục hết. Vào năm 1988, Tòa Thánh Vatican đã cung cấp 3 phòng
thí nghiệm ở các xứ sở khác nhau các mảnh cỡ bằng con tem thư của tấm vải khăn
liệm này. Sau khi phân chất ở nơi tấm vải theo phương pháp carbon-14 dating, tất
cả 3 phòng thí nghiệm này đều đi đến cùng một kết luận rằng tấm vải của khăn
liệm này đã được làm khoảng giữa năm 1260 và 1390. Tuy nhiên, một số khoa học
gia đặt vấn đề với phương pháp khảo sát của các nhà nghiên cứu ấy. Do đó, nhận
được kết quả như vậy rồi, Tòa Thánh Vatican mới khuyến khích các khoa học gia
điều nghiên thêm về tính chất đích thực của tấm khăn liệm này, nhưng vẫn khuyên
Kitô hữu tiếp tục tôn kính tấm khăn liệm này như là một hình ảnh cảm hứng về
Chúa Kitô.
Nguyện đường Khăn Liệm Thánh hay Nguyện Đường Guarini là công trình kiến trúc
của Guarino Guarini, được xây dựng vào cuối thế kỷ 17, một tuyệt phẩm của kiểu
kiến trúc Baroque Ý quốc.
Tấm khăn liệm thành Torino: Lược
sử
Dựa vào Tin Mừng theo thánh Gioan, theo
đó, sau khi được bà Maria Madalena cấp báo, hai thánh tông đồ Phêrô và Gioan đã
chạy ra mồ và nhận thấy xác Chúa Giêsu không còn ở đó, nhưng tấm vải dùng để
liệm xác Ngài vẫn còn đó, truyền thuyết cho rằng thánh Phêrô đã thu nhặt tấm vải
và đem về nhà.
Theo ghi chép của thánh Nino vào thế kỷ
thứ 4, thì thoạt tiên tấm vải liệm này lọt vào tay của vợ tổng trấn Philato. Tin
mừng viết rằng người đàn bà này rất có thiện cảm với Chúa Giêsu; bà đã từng yêu
cầu tổng trấn Philato đừng nhúng tay vào việc sát hại Chúa Giêsu.
Theo lịch sử Giáo hội được Ðức giám mục
Eusebius viết năm 325 thì một môn đệ của Chúa Giêsu tên là Addai đã đem tấm khăn
liệm này đến Edessa, Thổ Nhĩ Kỳ, để tặng cho vua Abgar V. Lý do là vì lúc Chúa
Giêsu còn sống, ông vua này có nghe nói đến các phép lạ của Ngài, cho nên ngỏ ý
mời Ngài sang Edessa để chữa bệnh cho ông.
Theo Eusebius thì ông vua này đã tôn kính
tấm khăn liệm và được ơn khỏi bệnh. Khoảng năm 57 sau công nguyên, vua Abgar qua
đời. Con ông lên kế vị, nhưng lại thù nghịch Kitô giáo cho nên ra lệnh cấm đạo.
Giáo dân ở Edessa đã đem tấm khăn liệm cất dấu cẩn mật cho nên mấy thế kỷ sau
người ta không còn biết tấm khăn liệm này ở đâu. Năm 525, Edessa bị lụt lớn
khiến nhiều nhà cửa bị cuốn trôi và cổng thành phía tây của hoàng cung bị sập.
Lúc đó người ta mới thấy tấm vải liệm được dấu trong hốc tường của cổng thành
này. Thời đó, Edessa nằm dưới sự đô hộ của đế quốc La mã cho nên khi hay tin,
hoàng đế Justiniano đã ra lệnh xây cất tại Edessa một thánh đường lớn có tên là
Haiga Sophia để tôn kính thánh tích.
Năm 639, Edessa bị quân Hồi giáo chiếm
đóng nên tấm vải liệm được đem đi nơi khác để cất giấu. Năm 670, người ta thấy
tấm khăn liệm xuất hiện tại Palestine. Nhân dịp đi hành hương đến Thánh Ðịa, một
vị Giám mục người Pháp tên là Arcurf Pirigeux thấy một đám đông kéo tới một ngôi
nhà thờ để kính viếng tấm khăn liệm. Ngài đã đi theo đám đông và đã được diễm
phúc hôn lên tấm khăn liệm. Sau khi trở về Pháp, vị Giám mục này có viết sách kể
lại câu chuyện trên.
Năm 944, không biết do nguyên cớ nào mà
tấm khăn liệm lại xuất hiện tại nhà thờ Ðức Mẹ tại thành Constantinople, Thổ Nhĩ
Kỳ.
Năm 1203, thánh tích này được đưa về nhà
thờ Balachermal tại Hy lạp. Nhà thờ này mở cửa suốt ngày thứ Sáu cho mọi người
vào kính viếng thánh tích.
Năm 1418, khăn liệm lại được chuyển về
pháo đài Montfort tại Pháp và nằm trong tay một dòng họ quý tộc có tên là
Charny. Năm 1452, công chúa Magaret Charny đã tổ chức một cuộc triển lãm cho
công chúng đến chiêm ngưỡng tấm khăn liệm tại lâu đài Germolles và sau đó tặng
cho quận công Savoy. Ðáp lại, quận công Savoy tặng cho công chúa Magaret một lâu
đài tráng lệ tại Geneve và toàn bộ lợi tức bất động sản của mình tại Lyon, Pháp
quốc. Quận công Savoy cho xây một nguyện đường tại Chambery để tôn kính tấm khăn
liệm.
Năm 1506, Ðức giáo hoàng Julius I ban hành
sắc lệnh công nhận tấm khăn liệm là thánh tích thật sự của Chúa Giêsu và thiết
lập thánh lễ mừng thánh tích vào ngày 4 tháng 5 hằng năm. Từ đó, nguyện đường
riêng của dòng họ Savoy trở thành một nơi hành hương của các tín hữu Kitô trên
khắp thế giới.
Ngày 17 tháng 9 năm 1578, quận công
Philibert de Savoy dời đô về thành Torino, Bắc Ý, và mang tấm khăn liệm vào đặt
trong nhà thờ chính tòa của thành phố này. Kể từ đó tấm khăn liệm này được gọi
là tấm khăn liệm thành Torino.
Thời đệ nhị thế chiến, hậu thân của quận
công Savoy là hoàng đế Umberto Savoy bị lật đổ; ông mang theo tấm khăn liệm đi
lưu vong tại Bồ Ðào Nha.
Nhưng năm 1963, ông đã trao tấm khăn liệm
lại cho Tòa thánh và Tòa Thánh đã cho cất giữ tại nhà thờ chính tòa Torino cho
tới ngày nay.
http://vntaiwan.catholic.org.tw/thanhoc/mucluc.htm
Tấm khăn liệm thành Torino:
Tính chất
Tấm Khăn Liệm thành Torino hay Tấm Khăn
Liệm Thánh là một khăn vải gai, được lưu giữ trong nhà thờ chính tòa Torino,
trung bắc Italia, trên đó có hình của một người mang các dấu vết đối xử và tra
tấn tàn tệ phù hợp với các dấu vết được miêu tả trong cuộc khổ nạn của Ðức
Giêsu. Truyền thống kitô đồng hóa hình người với Ðức Giêsu và tấm khăn với tấm
khăn liệm xác Chúa Giêsu.
Từ Sindone bắt nguồn từ tiếng Hy lạp
"Sindon" có nghĩa là một tấm vải rộng như vải giường và có thể là vải gai tốt
hay vải Ấn Ðộ. Vào thời xa xưa từ Sindon đã không liên quan tới việc tôn kính
người chết hay việc an táng, nhưng ngày nay nó đã trở thành đồng nghĩa với tấm
vải liệm xác người chết trong truyền thống Do thái.
Năm 1988 việc khảo cứu bằng carbon 14 được
thực hiện một cách độc lập bởi các phòng thí nghiệm Oxford bên Anh quốc, Tucson
bên Hòa Kỳ và Zurich bên Thụy Sĩ, đã xác định thời gian tấm khăn liệm giữa các
năm 1260-1390, là thời gian tương ứng với khởi đầu lịch sử Tấm Khăn Liệm. Tuy
nhiên tính cách xác thực của nó tiếp tục là đối tượng của các tranh luận rất
mạnh mẽ. Lý do là vì các mẫu vải dùng để nghiên cứu chắc đã được lấy từ vải thêm
vào sau này trong các lần tu sửa tấm khăn liệm. Các cuộc nghiên cứu khác cho
biết tấm khăn liệm phát xuất từ Palestina thuộc thế kỷ thứ I và có nhiều vết
phấn hoa của các loại thảo mộc mọc bên Thánh Ðịa.
Tấm Khăn Liệm dài 4.41 mét, rộng 1.11 mét,
dầy 0.34 mm và nặng 2 ký 450 gr, được dệt bằng tay. Hình trên tấm khăn liệm là
hình của một người nam trưởng thành trần truồng, có râu và tóc dài, trên trán có
vết máu chảy, mũi bị đánh gẫy, thân mình đầy vết roi đánh từ trên xuống dưới
chân, phía trước cũng như sau lưng, đàng sau gáy bê bết máu. Tay phải để chéo
trên tay trái, cổ tay phải có dấu đinh đóng và máu, chân trái có vết đinh đóng
và máu.
Khi đứng xa khoảng 2 mét có thể nhận ra
hình người rất rõ với các chi tiết kể trên.
Các sử gia đều đồng ý cho rằng lịch sử Tấm
Khăn Liệm đã có từ giữa thế kỷ XIV, tức với chứng tích lịch sử chính xác năm
1353. Ngày 20 tháng 6 năm 1353 hiệp sĩ Geoffroy de Charny đã cho xây một nhà
nguyện trong thành phố Lirey nơi ông ở, rồi trao cho các kinh sĩ nhà nguyện một
tấm khăn và nói rằng đó là Tấm Khăn Liệm xác Chúa Giêsu. Nhưng ông không giải
thích tại sao ông lại có được nó. Sự kiện ông sở hữu Tấm Khăn Liệm cũng được
chứng minh bởi một chiếc mề đai vớt được trong sông Senne hồi thế kỷ XX, và hiện
được lưu giữ trong viện bảo tàng Cluny ở Paris, trên đó có hình Tấm Khăn Liệm
trong thế chiều ngang với hình mặt phía bên trái. Trên mề đai cũng có hình các
khí giới của nhà Charny và nhà Vergy của bà Jeanne vợ ông.
Có vài tin tức thời ấy liên quan tới Tấm
Khăn Liệm như "Ký ức của Arcis" là một lá thư Ðức Cha Pierre d' Arcis, Giám Mục
thành Troyes viết năm 1389 cho Ngụy Giáo Hoàng Clemente VII hồi đó được nước
Pháp coi là Giáo Hoàng hợp pháp, để phản đối việc trưng bầy Tấm Khăn Liệm do
Geoffroy II, con của Geoffroy tổ chức. Ðức Cha D' Arcis viết rằng Tấm Khăn Liệm
đã được trưng bầy lần đầu tiên trước đó 34 năm, tức vào năm 1355, nhưng thật ra
nhiều sử gia cho rằng vào năm 1357, tức sau khi Geoffroy qua đời trong trận đánh
tại Poitiers ngày 19 tháng 9 năm 1356. Và Ðức Cha D'Arcis cho biết vị tiền nhiệm
của ngài là Ðức Cha Henry de Poitiers đã mở án chống lại Kinh sĩ trưởng vì nghi
ngờ tính chất xác thực của khăn liệm, do đó tấm khăn mới bị giấu đi để không bị
tịch thu và nghiên cứu. Các nhà thần học được Ðức Cha Henry de Poitiers tham
khảo bảo đảm là không có Tấm Khăn Liệm với hình của Chúa Giêsu, bởi nếu không
thì các Phúc Âm đã nói tới. Ngoài ra, có một họa sĩ đã thú nhận ông đã vẽ tấm
khăn, nhưng Ðức Cha D' Arsis không cho biết tên.
Tuy nhiên, có nhiều nghi ngờ đối với Ký ức
của Ðức Cha D'Arsis. Ðã không có tài liệu nào xác định việc Ðức Cha Henry de
Poitiers đã cho mở cuộc điều tra Tấm Khăn Liệm. Trong một thư viết cho Geoffroy
de Charny năm 1356 ngài đã không đả động gì tới Khăn Liệm. Có vài sử gia cho
rằng Ðức Giám Mục D'Arsis muốn tuyên bố Tấm Khăn Liệm là khăn giả, vì thấy nó
lôi cuốn qúa nhiều tín hữu hành hương tới Lirey, và như thế gây thiệt hại cho số
tiền thu vào ở nhà thờ chính tòa Troyes, vì trong chính năm 1389 mái nhà thờ đã
bị sập và đang rất cần tài chánh dể tu sửa.
Công tước Geoffroy cũng gửi cho Ðức
Clemente VII một bức thư phản kháng, vì thế năm 1390 Ðức Clemente VII mới đưa ra
một giải pháp dung hòa. Một đàng ngài ra sắc lệnh cho phép trưng bầy Tấm Khăn
Liệm, đàng khác lại bắt phải tuyên bố rằng nó là một bức vẽ và hình người trên
tấm khăn liệm không phải là hình của Chúa Giêsu Kitô, nhưng là một bức vẽ hay
bản vẽ bắt chước Tấm Khăn Liệm. Nhưng vài tháng sau đó có lẽ vì nhận được các
tin tức khác nên Ðức Clemente VII thay đổi kiểu diễn tả và nói tấm khăn là một
hình ảnh hay một diễn tả không loại trừ tính cách xác thực của nó. Ngoài ra, Ðức
Giáo Hoàng cũng cấm Ðức Cha D' Arcis không được nói chống lại Tấm Khăn Liệm, nếu
không sẽ bị vạ tuyệt thông.
Vài năm sau đó khoảng năm 1415 quận công
Humbert de la Roche, chồng của bà Marguerite de Charny, con gái Geoffroy II,
nhận Tấm Khăn Liệm và cất kỹ khi xảy ra chiến tranh giữa Bourgogne và nước Pháp.
Sau đó bà Marguerite từ chối không giao Tấm Khăn Liệm cho kinh sĩ đoàn nhà
nguyện Lirey nữa. Các kinh sĩ tố cáo bà, nhưng vụ kiện kéo dài nhiều năm, và bà
Marguerite bắt đầu tổ chức các cuộc trưng bầy tại nhiều nơi trong Âu châu. Năm
1449 tại Chimay bên Bỉ sau một cuộc trưng bầy Tấm Khăn Liệm, Ðức Giám Mục địa
phương ra lệnh điều tra và buộc bà Marguerite trình sắc chỉ của Ðức Clemente VII
định nghĩa Tấm Khăn là một bức họa vì thế không được phép trưng bầy cho dân
chúng kính viếng nữa, và bà Marguerite bị trục xuất khỏi thành phố. Trong các
năm tiếp theo bà tiếp tục từ chối trả tấm khăn lại cho các kinh sĩ Lirey, rồi
năm 1453 bà bán tấm khăn cho nhà Savoia. Vì cung cách hành xử này năm 1457 bà bị
dứt phép thông công.
Nhà Savoia cất giữ Tấm Khăn Liệm tại
Chambéry và năm 1502 cho xây một nhà nguyện để giữ Tấm Khăn Liệm. Năm 1506 Ðức
Giáo Hoàng Giulio II cho phép tín hữu công khai tôn kính Tấm Khăn Liệm. Ðêm mùng
3 rạng ngày mùng 4 tháng 12 năm 1532 nhà nguyện Chambéry bị cháy. Một vị cố vấn
của công tước và hai tu sĩ của tu viện gần đó đã cùng vài bác thợ rèn phá cổng
vào nhà nguyện và vội vàng đem hòm bằng bạc đựng Tấm Khăn Liệm ra ngoài. Vài
giọt bạc bị nung chảy ra rơi trên Tấm Khăn Liệm và đốt cháy nhiều chỗ. Sau đó
Tấm Khăn Liệm được giao cho các nữ tu Clara Chambéry giữ. Các chị đã tu sửa Khăn
Liệm bằng cách khâu vá các mảnh vải bị cháy lớn nhất và khâu Khăn Liệm vào một
tấm vải khác đệm bên dưới. Trong cùng thời gian đó tin đồn Tấm Khăn Liệm đã bị
cháy hay bị đánh cắp khiến người ta cho mở cuộc điều tra chính thức và thu thập
chứng từ của những người đã trông thấy Tấm Khăn Liệm trước và sau cuộc hỏa hoạn.
Kết qủa chứng nhận rằng đó là Tấm Khăn Liệm thật và năm 1534 nó lại được trưng
bầy cho tín hữu kính viếng.
http://vntaiwan.catholic.org.tw/thanhoc/mucluc.htm
Tấm Khăn Liệm thành Torino: tin
mới
Torino (Vatican News 24-06-2020) - Trong
những ngày này, bà Emanuela Marinelli, một trong những chuyên gia và học giả nổi
tiếng về Tấm Khăn Liệm thành Torino đã cho xuất bản một cuốn sách với tựa đề
"Ánh sáng mới trên Tấm Khăn Liệm". Qua tác phẩm này, tác giả chứng minh sự trùng
khớp giữa Tấm Khăn Liệm thành Torino và khăn liệm xác Chúa trong ngôi mộ ở
Giêrusalem.
Cụ thể, bà Marinelli và một số chuyên gia
giới thiệu một cập nhật chuyên sâu về các nghiên cứu Khăn Thánh từ xưa cho đến
nay. Chính bà là người đã nghiên cứu sâu từng mảnh của tấm khăn và đưa ra những
kết luận, xác định những nghiên cứu cách đây 40 năm của nhà hóa học người Mỹ,
Walter C. McCrone trong tạp chí khoa học The Microscope Journal. Trong tạp chí
này, nhà khoa học tuyên bố Khăn Liệm thành Torino là một "bức tranh hoàn hảo".
Ở những trang đầu của cuốn sách, bà
Emanuela Marinelli đưa ra những kết luận của công trình nghiên cứu khoa học lịch
sử quan trọng nhất được thực hiện cho đến nay về thánh tích. Công trình nghiên
cứu có sự đóng góp của các chuyên gia nổi tiếng khác. Phần kết của cuốn sách là
những suy tư sâu sắc của Orazio Petrosillo, từng là nhà văn của Vatican, về việc
chiêm ngắm "Người của Khăn Liệm".
Như thế, với tác phẩm này người đọc có thể
thực hiện một hành trình thiêng liêng và lịch sử thực sự, qua các địa điểm và
hàng thế kỷ, theo vết tích của Khăn Thánh. Bắt đầu với việc vận chuyển từ
Edessa, nay là Urfa ở Thổ Nhĩ Kỳ, liên kết với khuôn mặt của thánh Giuđa Tađêô,
tông đồ Chúa Giêsu. Trong hành trình này người đọc sẽ khám phá nhiều tài liệu
tham khảo của các nguồn Ả Rập, Hồi giáo và Constantinople, nơi Khăn Liệm được
"tỏ lộ"; tiếp đến là hàng thế kỷ thời Trung cổ của việc sùng kính; sau cùng là
thời hiện đại, với các nghiên cứu được thực hiện nhờ các công nghệ tinh vi hơn,
các thí nghiệm được tiến hành bởi các nhà vật lý của Trung tâm nghiên cứu ENEA ở
Frascati gần Roma.
Kết quả nghiên cứu cho rằng, cơ thể của
người chết đã để lại trên tấm khăn liệm một dấu vết bí ẩn có thể giải thích.
Trong các thời gian qua Tấm Khăn Liệm
thành Torino đã được trưng bầy cho tín hữu kính viếng vào các năm 1978, 1998,
2000, 2010 và 2013 với video sứ điệp của Ðức Thánh Cha Phanxicô.
Khăn Liệm được trưng bày gần đây nhất vào
dịp thứ Bảy Tuần Thánh 11 tháng 4 năm 2020 trong buổi cầu nguyện xin cho đại
dịch chấm dứt. (Catt.ch 20/6/2020)
http://vntaiwan.catholic.org.tw/thanhoc/mucluc.htm
The serene Tuscan countryside in Florence
Former stronghold of the Medici family in Florence
The palace where the Medici
resided at the time was the Medici
Riccardi Palace, in Florence. It was built by Cosimo the Elder, Lorenzo’s
grandfather. But the rooms where
you see Lorenzo and his family that are shown
in the series are not to be found here (the main hall is
in Villa d’Este in Tivoli, Piero’s bedroom is in Ferrara, Palazzo Shifanoia).The
most notable room in Palazzo Medici Riccardi does
feature in the series, and can be visited. It’s the magnificent Magi
Chapel, frescoed by Benozzo Gozzoli for Piero de’ Medici.
The Medici
Chapels form part of the monumental
complex of San Lorenzo. The church of San Lorenzo was the official church of
the Medici from their period as private residents in their palace in Via Larga
(now via Cavour), becoming their mausoleum which houses most of the family.
Giovanni de' Bicci de' Medici (died
1429) was the first who wished to be buried there with his wife Piccarda in
Brunelleschi's small Sacristy.
Later, his son Cosimo
the Elder, was buried in the crossing of the church.
The project for a family tomb was conceived in 1520 when Michelangelo began
work on the New
Sacristy, corresponding to the Old Sacristy by Brunelleschi on
the other side of the church. It was above all Cardinal
Giulio de' Medici, future Pope Clement VII, who wished to erect a
mausoleum for certain members of his family, his uncle Lorenzo
the Magnificent, Lorenzo's grandson Lorenzo,
Duke of Urbino (1492-1519) and Lorenzo's youngest son, Giuliano,
Duke of Nemours (1479-1516).
The architecture was complete by 1524, its white walls and pietra
serena interior based on Brunelleschi's designs. Entered
through the back of the San Lorenzo Church, the chapels are divided into three
distinct parts: the crypt, the Cappella dei Principi (Chapel of the Princes) and
the New Sacristy.
The crypt is
the part where minor members of the dynasty were unceremoniously laid to rest.
In the 19th century
it was tidied up and now includes numerous tomb slabs.
The Chapel
of the Princes has a huge dome designed by Buontalenti and
begun in 1604 but not completed until the 20th century.
Six of the Medici Grand Dukes are buried here.
The New
Sacristy was built by Michelangelo between 1520 and 1534
and is a reminder that the Medici were enlightened patrons. Michelangelo worked
on the sculptures of the sarcophagi, but the only ones actually completed were
the statues of the Dukes Lorenzo and Giuliano, the allegories of Dawn and Dusk, Night and Day and
the group of Madonna and Child placed
above the sarcophagus of the two "magnifici" and flanked by Saints Cosmas and
Damian. The latter were executed by Montorsoli and Baccio
di Montelupo, pupils of Michelangelo.
The Medici family, also known as the House of Medici, first attained wealth and
political power in Florence in the 13th century through its success in commerce
and banking. Beginning in 1434 with the rise to power of Cosimo de’ Medici (or
Cosimo the Elder), the family’s support of the arts and humanities made Florence
into the cradle of the Renaissance, a cultural flowering rivaled only by that of
ancient Greece. The Medicis produced four popes (Leo X, Clement VII, Pius IV and
Leo XI), and their genes have been mixed into many of Europe’s royal families.
The last Medici ruler died without a male heir in 1737, ending the family
dynasty after almost three centuries.
Birth of the Medici Dynasty
The Medici story began around the 12th century, when family members from the
Tuscan village of Cafaggiolo emigrated to Florence. Through banking and
commerce, the Medicis rose to become one of the most important houses in
Florence. Their influence had declined by the late 14th century, however, when
Salvestro de’ Medici (then serving as gonfaliere, or standard bearer, of
Florence) was forced into exile.
Another branch of the family, descended from Salvestro’s distant cousin Giovanni
di Bicci de’ Medici, would begin the great Medici dynasty. Giovanni’s elder son,
Cosimo (1389-1464), rose to political power in 1434 and ruled Florence as an
uncrowned monarch for the rest of his life. Known to history as Cosimo the
Elder, he was a devoted patron of the humanities, supporting artists such as
Ghiberti, Brunelleschi, Donatello and Fra Angelico. During Cosimo’s time, as
well as that of his sons and particularly his grandson, Lorenzo the Magnificent
(1449-1492), Renaissance culture flourished, and Florence became the cultural
center of Europe.
Another branch of the family, descended from Salvestro’s distant cousin Giovanni
di Bicci de’ Medici, would begin the great Medici dynasty. Giovanni’s elder son,
Cosimo (1389-1464), rose to political power in 1434 and ruled Florence as an
uncrowned monarch for the rest of his life. Known to history as Cosimo the
Elder, he was a devoted patron of the humanities, supporting artists such as
Ghiberti, Brunelleschi, Donatello and Fra Angelico. During Cosimo’s time, as
well as that of his sons and particularly his grandson, Lorenzo the Magnificent
(1449-1492), Renaissance culture flourished, and Florence became the cultural
center of Europe.
From Botticelli to Da Vinci in Florence
Sandro Botticelli
Leonardo da Vinci
Annunciation - Leonardi da Vinci
Magi - Sandro Botticelli
Baptism - Leonardi da Vinci
The Resurrected Christ - Sandro Botticelli
Many things influence our lives: the people we meet, the place in which we
live. For an artist, such influences affect how they see the world and make
it into art. Both people and place influenced the life of Sandro Botticelli,
another great painter of Renaissance Italy alongside Leonardo da Vinci. It
is certain that the two men would have met; perhaps they were even close
friends. When Leonardo was working as an apprentice around the age of 16 in
Verrocchio’s workshop, the centre of Florence’s art in the 1460’s, he would
have had occasion to meet other young artists, apprentices like himself.
Botticelli was older than Leonardo by several years, and their characters
were very different, right from the start. How were they different, and how
did it affect their work?
Verrocchio’s workshop, which once stood on the corner of present-day Via de’
Macci in Florence (a fact I discovered after intensive research at the
National Library of Florence) is now a run-down café and empty storehouse.
Times have changed. The ring of hammers and fizz of soldering irons that
would once have seeped from the famous workshop has been replaced by the
whir of the espresso machine. But if you pause there for a moment you can
still imagine what it must have been like to work for the man who could open
the doors to the Medici powerhouse.
Verrocchio was known above all for his sculpture, but he was also a great
artist in his own right. Leonardo learned an enormous amount from him, and
probably saw the master craftsman as a kind of father figure, or at least as
the man who kick-started his career. Without the influence of Verrocchio,
Leonardo could have ended up drafting contracts in a corner of his father’s
notary office. Instead he was swept into a world he loved, and into a
craftsman’s guild that saved him from the obscurity of his illegitimate
birth and poor education.
Now that he had made it into the fold, Leonardo had to prove himself. It was
during the painting of The Baptism of Christ, a work attributed to
Verrocchio but certainly shared by his apprentices as a study, that Leonardo
made his impact. At that time there was another youngster working there
beside him, a sensitive, graceful youth with fair hair and slightly dreamy
hooded eyes. He would have made a very physical contrast to Leonardo, who
was certainly darker, probably leaner and doubtlessly more intense. But it
was not only their looks that formed a contrast. Their style of painting too
was different and Verrocchio, as he observed them from his master seat in
the workshop, must have seen it straight away. As if determined to set them
side-by-side, so that one could learn from the other, he gave them a task —
one angel each. Leonardo was to paint one of the angels in The Baptism of
Christ, while Sandro Botticelli would paint the other.
The result, when you look at it, is interesting. One angel is more static
and flat; the other seems to move in another dimension within the canvas,
reflecting greater light. Leonardo’s angel seems more alive, more divine.
Still, there is a pathos to Sandro Botticelli’s angel that may reflect his
personality and contrast to the drive and intensity of Leonardo’s hand, even
then. How did things evolve after that?
One thing to remember when you compare the two men and their work, is that
Leonardo went on to become Renaissance Man, Sandro did not. By Renaissance
Man I mean that Leonardo, in the true spirit of the Renaissance ideal, went
on to study everything. He became not just an artist, but also an inventor,
a natural scientist, a kind of physician, a philosopher, an engineer and
even a sculptor, for a while. Sandro Botticelli, on the other hand, remained
simply an artist. He even went on to open his own workshop, producing
statuettes by the dozen for the masses at one point, but also producing what
is arguably one of the most beautiful mythological paintings ever gazed
upon: Primavera, Spring.
Sandro’s style could be called incomplete or it could be called poetic, but
however you see it the result was very different to Leonardo’s work because
of the kind of free-handed style Leonardo used to develop the figures in his
paintings. Leonardo’s work had realism, spatial depth and intensity of light
and shadow. Botticelli’s paintings still lay on the edge of realism. They
were more stylised, less three dimensional, less real. But that didn’t make
them less remarkable or less beautiful, depending on how you qualify beauty.
Because of this lack of realism, Botticelli’s style has often been called
idealistic. If the style reflects the character of the man, it could well be
true.
Later in the 1490’s, when Leonardo returned to Florence after a long period
of absence in Milan, he would have found it greatly altered. Florence was in
the grip of Friar Savonarola at the time, a crazed zealot who believed that
the people of Florence should atone for their sins by burning their most
precious possessions on great fires he had built in the Piazza della
Signoria, known as the bonfires of the vanities. The people of Florence
were, he said, essentially damned.
It seems incredible to us now that people could believe such things, but
then there have always been those in the world who are vulnerable to fear,
and there still are. Sandro Botticelli, who had remained in Florence all
this time, was severely affected by Savonarola’s vitriolic preaching. He
fell into depression and became interested in Dante’s vision of hell. His
sketches reflected this. They are the visions of a tortured mind, and a far
different cry from the ephemeral beauty of the three graces of Spring.
It is likely that Leonardo remained a close friend of Botticelli, perhaps
helping him through this difficult period and keeping him safe from his
demons. Leonardo himself was a deeply religious man in many ways, but he was
not a dogmatic one. He saw God in Nature but he did not fear God. His
religious representations are framed by nature; they rest in nature’s
cradle, not in the hand of God.
Even if Leonardo managed to help his friend get over this difficult period
of his life, Botticelli never returned to the idealism and beauty of his
earlier classical work. For Botticelli, classical mythology became replaced
by more religious subject matter, and thus it continued until his death in
1510. Religious fervour had seeped beneath his skin; no amount of pigment,
not even Leonardo’s, would paint it away.
Ngày 12/11 - Thứ Sáu
The Neptune Fountain in Florence
For over four centuries, since 1565 to
be precise, Bartolomeo
Ammannati’s white Neptune has
triumphed over what some consider the most beautiful square in the world: Piazza
della Signoria in Florence, at the heart of the city’s political and
economic power.
The imposing Neptune is the fulcrum of the fountain, where four horses pull his
chariot amidst bronze
statues of mythological creatures. The marine god is a symbol of power
himself: the power of Cosimo
I de’ Medici, who wished to mark his position as absolute ruler by
renovating the urban spaces where the Florentine Republic’s monuments had risen
over the centuries.
All the most important sculptors of the time
submitted proposal for Cosimo’s new fountain: from Giambologna to Baccio
Bandinelli, from Benvenuto
Cellini to Vincenzo
Danti – but Bartolomeo Ammannati was the winner.
With power in Florence being such a focus in this masterpiece, even the artistic
competition sparked a small power struggle, as Giorgio
Vasari – a man of great influence at the Medici court – steered victory
in the direction of his protégé Ammannati also to keep dangerous rivals like
Cellini and Bandinelli away.
But now that power struggles and rivalries are a thing of the past, we can
simply enjoy the beauty of Piazza della Signoria.
The Church of Santa Croce in Florence
Thánh đường Thánh Croce (đối với người Ý là "Đền Thờ Thánh Giá") là một
thánh đường chính ở Florence, Ý quốc và là một tiểu đền thờ của Giáo Hội
Công Giáo Roma. Nó ở ngay Quảng trường Thánh Roce, như Đền Thờ Thánh Marco ở
Quảng trường Thánh Marco ở Venice vậy. Nó cách Nhà Thờ Chính Tòa 800 mét về
phía đông nam. Vị trí hiện nay của nó lúc đầu chỉ là một vùng đất bùn lầy
bên ngoài thành phố. Nó là nơi chôn táng của một số nhân vật Ý quốc nổi
tiếng nhất.
Đó là lý do Thánh đường Thánh Croce có 270 mộ bia trên sàn nhà thờ, để tôn
vinh những ai có ảnh hưởng mạnh mẽ sâu xa trong giòng lích sử về các lãnh
vực như nghệ thuật, lịch sử và nhạc thuật. Các mộ của một số nhân vật lừng
danh nhất bao gồm điêu khắc gia Michelangelo, khoa học gia Galileo, nhạc gia
Rossini v.v. Do đó nó được coi là Đền thờ của Vình quang Ý quốc (Tempio
dell'Itale Glorie).
Là ngôi thánh đường rộng nhất của dòng Phanxicô hiện nay trên thế giới,
Thánh đường Thánh Croce được xây dựng vào năm 1294 để thay thế một nhà thờ
nhỏ hơn xây vào năm 1222. Nó bao gồm 16 nhà nguyện, trong đó có nhiều những
bức tranh tường lừng danh nhất của Giotto, cha đẻ của ngành hội họa Tây
phương. Ngôi thánh đường này được hoàn thành vào năm 1415. Tương truyền rằng
chính Thánh Phanxicô Assisi đã ra công xây dựng ngôi thánh đường này. Theo
lịch sử thì ngôi thánh đường hiện nay được bắt đầu vào ngày 12/5/1294, có
thể bởi Arnolfo di Cambio, và được tài trợ bởi các gia đình giầu nhất trong
thành phố này. Nó được Đức Thánh Cha Eugine IV thánh hiến vào năm 1442.
Khung cảnh của ngôi thánh đường này phản ảnh tính chất khổ hạnh của Dòng
Phanxicô. Nó cao 115 mét (337 feet) với một gian chính giữa và hai gian bên
cạnh, được phân cách bằng những hàng cột hình bát giác. Ở phía nam của nhà
thờ là một tu viện. Khách hành hương có thể thấy được các thủ công viên ở
Trường Da Thuộc, nơi đã từng là phòng ngủ xưa kia của các thày dòng
Phanxicô, làm những đồ vật như túi xách da, ví da và các thứ đồ bằng da khác
được bán ngay tại tiệm bên cạnh.
Giotto's Bell Tower -
Tháp Chuông Giotto
At the top of the Tower a marvelous
panoramic view of the city and the surrounding hills awaits
you, not to mention a totally unique perspective from which you can admire the Cathedral and
the Cupola
of Brunelleschi.
After the death of Giotto, the next person to work on the tower was Andrea
Pisano, who following the original design, finished the first two
floors and then it was completed in 1359 by Francesco
Talenti, after the Black Plague interrupted the work done by Andrea.
The rooftop terrace and the highest point where one can reach was actually an
idea of Talenti.
The square base is approximately 15 meters. The tower reaches 84,70
meters in height and stands next to the Duomo, with which
it shares a similar facade made of red, white and green marble inlay.
The sculpted
decorations on the outside of the tower are extremely rich
in detail, in the form of a hexagon or a rhombus or diamond shape with bas
relief carvings and life size statues.
The lozenges
shaped carvings represent
the concept of Universal order and the story of Redemption, while the relief
carvings narrate
the “Creation of Man” and the influence of the Planets upon Man's life, Man’s
virtues and the they reflect the Liberal Arts and the Sacraments. There are also 16
life size statutes placed
in various niches which are the composite work of several artists from the 1300
and 1400’s, including Andrea
Pisano and Donatello.
The Campanile is a splendid example of Florentine
Gothic architecture from the 1300’s.
It was started in 1334 when Giotto,
one of the principle artists and architects of the time, began to build the bell
tower for the church, placing it next to the church. Even though the bell tower
is named after Giotto, he actually only worked on it for three years before his
death.
if you are moderately in shape and heights don’t make your head spin, then I
say: Prepare yourself for some breath taking experiences (and I don’t mean just
for the climb). Making your way to the top of Giotto’s
Campanile (an
unmistakable symbol of Florence), will certainly be one of these memorable
moments. From the lofty heights of the bell tower of the Cathedral
Santa Maria del Fiore,
you will find several glimpses of a suggestive landscape. Be prepared to sweat
just a bit, because there 414
steps to
reach the very top!
There are no elevators or
other shortcuts that could help you out. In fact, the climb is not for those who
suffer from heart problems, vertigo and claustrophobia.
For everyone else it is a workout, but if you set a calm pace and make use of
the various terraces where you can stop, take photos, rest your legs and catch
your breath.
The Campanile has seven
(7) bells.
The largest of which is called Santa
Reparata,
in honor of the saint to which the original church was dedicated. The others are
called: Misericordia, Apostolica (seen
in the photo below), the Assunta,
the Mater
Dei,
the Annunziata and
the Immacolata,
all these names are in some way tied to the Blessed Mother, and the dedication
of the church named: Cattedrale di Santa Maria del Fiore.
The Cathedral of Santa Maria del Fiore
Nhà thờ Florence ,
chính thức là Cattedrale
di Santa Maria del Fiore ( phát
âm tiếng Ý: [katteˈdraːle
di ˈsanta maˈriːa del ˈfjoːre] ;
trong tiếng Anh là Nhà
thờ Saint
Mary of the Flower ),
là nhà
thờ chính tòa của Florence ,
Ý ( tiếng
Ý : Duomo
di Firenze ). Nó
được bắt đầu vào năm 1296 theo phong
cách Gothic theo
thiết kế của Arnolfo
di Cambio và được
hoàn thành về cấu trúc vào năm 1436, với mái vòm do Filippo
Brunelleschi thiết kế . [1] Mặt
ngoài của vương
cung thánh đường được sơn
nhiều màucác
tấm đá cẩm thạch với
nhiều sắc thái khác nhau từ xanh lá cây và hồng, được viền bởi màu trắng, và có mặt
tiền công phu theo
phong cách Gothic Revival thế
kỷ 19 của Emilio
De Fabris .
Khu phức hợp nhà thờ, ở Piazza
del Duomo , bao
gồm Baptistery và Giotto's
Campanile . Ba
tòa nhà này là một phần của Di
sản Thế giới được UNESCO công nhận, bao
gồm trung
tâm lịch sử của Florence và
là một điểm thu hút khách du lịch chính của Tuscany . Vương
cung thánh đường là một trong những nhà thờ lớn nhất của Ý, và cho đến khi có sự
phát triển của các vật liệu cấu trúc mới trong thời kỳ hiện đại, mái vòm là lớn
nhất thế giới. Nó vẫn là mái vòm bằng gạch lớn nhất từng được xây
dựng.
Santa Maria del Fiore được xây dựng trên
địa điểm của nhà thờ thứ hai của Florence dành riêng cho Saint
Reparata ; [2] công
trình đầu tiên là Vương
cung thánh đường San Lorenzo di Firenze ,
tòa nhà đầu tiên được thánh Ambrose
của Milan thánh
hiến làm nhà thờ vào năm 393 . [3] Cấu
trúc cổ, được thành lập vào đầu thế kỷ thứ 5 và trải qua nhiều lần sửa chữa, đã
đổ nát theo tuổi tác, theo Nuova
Cronica của Giovanni
Villani thế kỷ 14 , [4] và
không còn đủ lớn để phục vụ dân số ngày càng tăng. của thành phố. [4] Các
thành phố lớn khác của Tuscany đã tiến hành tái thiết đầy tham vọng các thánh
đường của họ trong suốt thời kỳ Hậu Trung Cổ, chẳng hạn như Pisa và
đặc biệt là Siena ,
nơi những phần mở rộng khổng lồ được đề xuất chưa bao giờ được hoàn thành.
Hội đồng thành phố đã phê duyệt thiết kế Arnolfo
di Cambio cho nhà
thờ mới vào năm 1294. [5] Di
Cambio cũng là kiến trúc sư của nhà thờ Santa
Croce và Palazzo
Vecchio . [6] [7] Ông
thiết kế ba gian giữa rộng kết thúc dưới mái vòm hình bát giác, với gian giữa
bao phủ khu vực Santa Reparata. Viên đá đầu tiên được đặt vào ngày 9 tháng 9 năm
1296, bởi Hồng y Valeriana, vị giáo
hoàng đầu tiên từng
được gửi đến Florence. Việc xây dựng dự án rộng lớn này đã kéo dài 140 năm; Kế
hoạch của Arnolfo cho vùng cuối phía đông, mặc dù vẫn được duy trì ở dạng khái
niệm, nhưng đã được mở rộng quy mô rất nhiều.
Sau khi Arnolfo qua đời vào năm 1302,
công việc xây dựng nhà thờ bị chậm lại trong gần 50 năm. Khi di
tích của Thánh
Zenobius được
phát hiện vào năm 1330 ở Santa Reparata, dự án đã đạt được một động lực mới. Năm
1331, Arte
della Lana , hội
buôn len , nhận
quyền bảo trợ cho việc xây dựng nhà thờ và vào năm 1334 đã bổ nhiệm Giotto giám
sát công việc. Được hỗ trợ bởi Andrea
Pisano , Giotto
tiếp tục thiết kế của Cambio. Thành tựu chính của ông là xây dựng trại
lính . Khi
Giotto qua đời vào ngày 8 tháng 1 năm 1337, Andrea Pisano tiếp tục công việc xây
dựng cho đến khi công việc bị tạm dừng do Cái
chết Đen năm
1348.
https://wiki2th.com/vi/Cathedral_of_Florence
Bên ngoài của ngôi vương cung thánh đường này được bao phủ bởi một thứ trang trí
pha trộn cẩm thạch hồng, trắng và xanh dương. Trái lại, ở bên trong, lại đơn sơ
giản dị nhưng rất thoải mái vào những ngày hè nóng bức , vì nhiệt độ bên trong
có vẻ mát mẻ. Sàn nhà thờ như trông giống như những tấm thảm được khảm vậy rất
bắt mắt.
Cái đồng hồ ở trên lối vào trong nhà thờ, được thực hiện bởi Paolo Uccello vào
năm 1443 theo giờ ở Ý quốc
the ora
italica, nơi mà 24 tiếng đồng hồ được chấm dứt khi mặt trời lặn.
Đồng hồ này vẫn còn tồn tại và chạy cho đến ngày nay.
Công trình nghệ thuật lớn nhất ở bên trong ngôi vương cung Thánh đường này là
những bức trang vẽ trên tường của Giorgio Vasari về cuộc Chung Thẩm (1572-9),
nhưng các bức tranh tường này lại được sơn phết bởi người môn đệ kém tài hơn
thày mình là Federico Zuccari vào năm 1579.
The Pisa Cathedral
Vương Cung Thánh Đường Pisa được bắt đầu xây dựng vào năm 1063 bởi kiến trúc sư
Buscheto, với nguồn tài trợ từ những chiến lợi phẩm chiếm được từ cuộc chiến
đánh bại quân Hồi giáo ở Sicily năm 1063, và vì là một trong những siêu quyền
lực ở Địa Trung Hải, mà Pisa cần một Nhà Thờ Chính Tòa phản ảnh thế lực của nó.
Kiến trúc của ngôi vương cung này bao gồm các yếu tố kiểu mẫu khác nhau, như cổ
kính, Lombard-Emilian, Byzantine và Islamic, nghĩa là phản ảnh sự hiện diện quốc
tế của thành phần thương gia ở Pisa bấy giờ. Kiểu mẫu mới mẻ này được gọi là
'Pisan Romanesque'.
Vào năm 1118, ngôi vương cung thành đường này được nới rộng thêm, với ba gian
giữa được thêm vào cũng như một tiền diện mới. Sau đó, nó vẫn giữ được danh xưng
là Vương Cung Thánh Đường lớn nhất ở Âu Châu gần 1 thế kỷ. Còn những nới rộng
khác nữa đã được thực hiện cho tới thế kỷ 14.
Những sáng chế cấp tiến đã xẩy ra sau trận hỏa hoạn năm 1595, bao gồm cả việc
thay thế toàn bộ mái nóc của nó. Vào đầu thế kỷ 18, những bức tường ở bên trong
đã được trang hoàng lại bằng những bức tranh diễn tả về các vị thánh và chân
phước ở Pisa.
Khu vực Vương Cung Thánh Đường Pisa còn được gọi là Quảng Trường Phép Lạ Piazza
dei Miracoli. Ngày nay, khách hành hương hay du lịch còn thể trầm trồ ngắm nghía
kiến trúc và các tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời được thể hiện nơi Vương Cung
Thánh Đường Pisa cũng như nơi Tháp Nghiêng Leaning Tower.
Hoàn thành năm 1092, nhà thờ chính toà Pisa đã trở thành bằng chứng độc đáo cho
thấy lịch sử phong phú của thành phố này.
Tất cả chúng ta đều biết rằng ở Ý, có thành phố Pisa với toà tháp nghiêng được
coi là biểu tưởng của thành phố này. Nhưng ngay bên cạnh một trong những biểu
tượng của kiến trúc nước Ý này, còn sừng sững một ngôi nhà thờ chính toà hết sức
ấn tượng, mà bất cứ du khách Công giáo nào cũng không nên bỏ qua dịp may được
chiêm ngưỡng. Nhà thờ chính toà (duomo) của thành phố Pisa được hoàn thành năm
1092 và trở thành một trong những đại diện ấn tượng của trường phái Pisan Roman,
một nhánh có tính địa phương thuộc lối kiến trúc Roman.
Gốc tích của ngôi nhà thờ chánh toà này phải được tính từ thời đầu của giai đoạn
Trung cổ, khi ấy Pisa là quốc gia cộng hoà hàng hải thịnh vượng đang cạnh tranh
với Venice để giành lấy vai trò lãnh đạo như là thương cảng hàng đầu của Ý. Hai
thành phố bắt đầu xây dựng các ngôi nhà thờ chính toà cho mình, và xây dựng hầu
như cùng lúc, giống như trong một cuộc đua gay cấn xem, thành phố nào sẽ xây
dựng được nơi thờ tự nổi bật nhất. Venice bắt đầu xây dựng Vương cung Thánh
đường thánh Mác-cô nổi tiếng thế giới. Pisa bắt đầu xây dựng nhà thờ chính toà
cho mình, công việc được giao cho kiến trúc sư Buscheto năm 1063. Mất 30 năm để
hoàn thành công trình này, và một phần của công trình này được trang trí bằng
những chiến lợi phẩm có được trong cuộc chiến với quân Hồi giáo xâm lược ở
Sicily. Nó được xây lên bên ngoài các bức tường thời trung cổ của Pisa, tại địa
điểm là bãi tha ma của dòng tộc Lombard trước đây, như một lời thách thức gửi
tới các đối thủ tiềm tàng.
Tại thời điểm nó được hoàn thành năm 1092, ngôi nhà thờ chánh toà này được kể là
một trong những kiến trúc có tính cách mạng nhất, với các đặc nét kiến trúc
Lombard-Emilian, Byzantine và Hồi giáo. Ban đầu được gọi là nhà thờ chính toà
Santa Maria Maggiore, sau này được gọi là Santa Maria Assunta, nhà thờ này được
cung hiến bởi giáo hoàng Galasiô II vào năm 1118.
Các hoa văn trang trí phía ngoài được làm bằng các đồ khảm, đá cẩm thạch trắng,
hồng và xám, cùng với nhiều đồ đồng được lấy từ mạn nam Ý. Các khung cửa tò vò
cụt hình vòng cung là do ảnh hưởng của kiến trúc Ácmênia. Các cánh cửa bằng đồng
rất nặng được trang trí bằng 24 hình đắp nổi mô tả các khung cảnh trong Tân ước,
đây là lối trang trí theo kiểu kiến trúc Byzantine rất điển hình. Các cột khổng
lồ kiểu Corin ở giữa lòng nhà thờ và gian cung thánh, được chạm trổ từ các tảng
đá granit nguyên khối, từ thánh đường Hồi giáo Palermo. Cây đèn kiểu Đông phương
ở trung tâm gian giữa được gọi là “đèn Galilê”, vì theo truyền thống, chính tại
đây nhà khoa học đã phát triển lý thuyết về thời gian của ông, khi ngắm cây đèn
đong đưa lúc ngồi ở gian giữa của nhà thờ (cây đèn mà ông đã quan sát, thật ra
hiện đang được bảo quản ở khu vực đất thánh).
Ở gian cung thánh là bức khảm lớn là tác phẩm của điêu khắc gia người Ý,
Cimabue, mô tả Đức Kitô ngồi trên ngai, giữa Đức Trinh Nữ Maria và thánh Gioan.
Việc sử dụng các cửa tò vò có chóp nhọn và mái vòm hình oval giúp tạo nên hiệu
ứng không gian rộng lớn, giống như nơi các thánh đường Hồi giáo, hai tượng nữ
giới đắp nổi được tạc từ đá granit ở lòng nhà thờ là do ảnh hưởng Byzantine.
Bục giảng là nơi thể hiện một kiệt tác khác, và lần này là do Giovanni Pisano,
kiệt tác đó là các tấm ván cong, trên đó thể hiện các trích đoạn về cuộc đời
Chúa Kitô được chạm khắc rất nghệ thuật. Nhưng các khách tham quan không nên
quên đưa mắt xuống phía dưới nữa. Một trong những điểm nhấn trong ngôi thánh
đường này chính là phần nền đá cẩm thạch được lát, khảm theo phong cách
“cosmati”, với các hoạ tiết trang trí tuyệt đẹp.
Thánh Rainerius, thánh bổn mạng của thành Pisa, và thánh hoàng đế Henry VII,
thuộc số những nhân vật đáng kính được chôn cất nơi công trình vĩ đại này. Nhiều
đợt trùng tu được thực hiện kể từ khi ngôi nhà thờ chính toà này được khánh
thành năm 1091, nhiều nét chỉnh trang lớn được thực hiện sau trận hoả hoạn lớn
phá huỷ một phần nhà thờ năm 1595. Nét đại tu đó, kết hợp với tổng hợp kiến trúc
gốc, đã giúp cho nhà thờ chính toà Pisa trở thành một bằng chứng độc đáo cho
thấy lịch sử phong phú của thành phố Pisa, cũng như là bằng chứng cho thấy nhiều
ảnh hưởng ngoại lai đã tác động, đã được kết tụ thành những nét kiến trúc của
ngôi thánh đường này qua nhiều thế kỷ.
https://www.yeuchua.net/2020/02/ngay-canh-thap-nghieng-pisa-la-mot-ky-quan-cong-giao.html
Leaning Tower in Pisa
Tháp Pisa nói cho chính xác hơn ám chỉ là một tháp chuông / the bell tower, hay
gác chuông / campanile. Tháp Pisa là một trong 4 kiến trúc làm nên khu vương
cung thánh đường ở Pisa Ý quốc, được gọi là Quảng Trường Phép Lạ / Piazza dei
Miracoli. Kiến trúc đầu tiên ở Quảng Trường Phép Lạ này chính là ngôi vương cung
thánh đường, hay Nhà Thờ Chính Tòa Pisa, ở trên một mặt bằng cẩm thạch trắng, và
trở thành một mẫu thức cho kiểu kiến trúc Roma.
Kiến trúc thứ hai ở Quảng Trường Phép Lạ này là bể rửa tội ở về phía tây của
vương cung thánh đường. Sau đó tới công trình gác chuông. Nhưng trước khi công
trình gác chuông được hoàn thành thì đã có được một nghĩa trang / Campo Santo
nữa.
Tháp Nghiêng là công trình nổi nhất ở Quảng Trường Phép Lạ này. Cho dù chỉ cao
bằng 1/3 Đài Tưởng Niệm Washington, nó cũng là một phép lạ của công trình xây
dựng thời trung cổ, và có lẽ là một tháp chuông cao nhất Âu Châu.
Với 207 cột chung quanh 8 tầng lầu, có một phòng riêng cho các quả chuông, Tháp
Nghiêng này được kiến trúc vào Tháng 8/1173 và được tiếp tục khoảng 200 năm vì
bị ngăn trở bởi cả một loạt các cuộc chiến tranh trong vào thời bấy giờ. Cho đến
hôm nay vẫn không biết danh tánh của những ai góp công xây
Tầng cuối cùng bao gồm 15 vòng cung cẩm thạch. Sáu tầng ngay trên, tức trừ tầng
trên cùng, mỗi tầng có 30 vòng cung viền chung quanh tháp chuông này. Tầng trên
cùng là chính phòng của các quả chuông, một tầng có 16 vòng cung, và có 297 bậc
thang xoắn bên trong dẫn lên tới đỉnh tháp. Tầng tháp đỉnh này nghiêng khoảng 17
feet (hơn 5 mét) từ trục tâm thẳng đứng. Gần đây khách viếng thăm không được leo
lên đỉnh tháp theo bậc thang xoắn ở trong tầng trên cùng, vì bấy giờ đang có
công trình củng cố tháp chuông này. Tuy nhiên, hiện nay thì đã được phép trở
lại.
Ngày 13/11 - Thứ Bảy
St. Catherine’s Church in Siena
Thánh Caterine là một người nữ ngoại thường cho kỷ nguyên của chị, và thật sự là
một trong những công dân nổi tiếng nhất của thành Siena này trong quá khứ. Được
gán cho tước hiệu 'nhà thân bí chính trị gia', Thánh Caterine đã tranh đấu chống
loại tình trạng băng hoại trong Giáo Hội, và đã thuyết phục được vị giáo hoàng
bấy giờ ở Avignon Pháp quốc trở về Giáo đô Roma. Sau cái chết mới 33 tuổi trẻ
trung của mình, ngài đã được khắp Âu Châu tôn kính một cách nhanh chóng.
Vị thánh nữ ngoại thương biệt danh nhà thần bí chính trị gia" này, là vị thánh
nữ được Giáo Hội tặng ban nhiều danh hiệu nhất: ĐTC Piô II phong hiển thánh ngày
29/6/1461; ĐTC Piô IX phong ngài làm vị thánh nữ đồng quan thày của Thành Roma
ngày 13/4/1866; ĐTC Piô XII phong ngài là đồng quan thày của Âu Châu cùng với
Thánh Phanxicô Assisi ngày 18/6/1939; ĐTC Phaolô VI tôn phong ngài làm nữ tiến
sĩ Hội Thánh ngày 4/10/1970, ngay sau Thánh Têrêsa Avila ngày 27/9/1970; và ĐTC
Gioan Phaolô II đã phong cho ngài làm đồng quan thày Âu Châu với Thánh Nữ
Bridgita Thụy Điển và Teresa Benedicta Đức quốc gốc Do Thái (3 vị thánh nam cũng
là quan thày của Âu Châu trước 3 vị thánh nữ này là Thánh Biển Đức và hai anh em
Thánh Mêthôđiô và Cyrilô).
Thánh nữ được sinh ra ở Sienna ngày 25/3/1347 và trải qua thời niên thiếu với 23
anh chị em trong nhà ở đó,
một ngôi nhà vẫn còn được bảo trì cho tới ngày nay. Mẹ của chị sinh đôi 2 bé nữ,
trong đó có chị thánh, vào năm bà 40 tuổi và sau khi sinh 22 người con, nhưng số
còn sống chỉ còn một nửa, không bao gồm người chi em sinh đôi với thánh nữ đã bị
chết ngay khi còn thơ, và khi thánh nữ được 2 tuổi thì chị có đứa em út cũng là
đứa con thứ 25 trong gia đình của chị. Chị đã tỏ ra có lòng đạo hạnh ngay từ còn
nhỏ, và đã vào tu dòng nữ Đaminh để chăm sóc cho người nghèo khổ và yếu đau ở
Sienna. Mặc dù là nữ tu, nhưng chị vẫn có thể sống nhiều phần đời tại ngôi nhà
chị vào đời, một ngôi nhà giờ đây trở thành bảo tàng viện về chính thánh nữ, và
đồng thời cũng là một Cung Thánh Gia / the Home-Sanctuary, nơi có thể cống hiến
cho khách hành hương cái nhìn thấu đáo về đời sống và thời điểm của chị.
Khu vực Cung Thánh Gia này bao gồm những gì còn sót
lại về nơi sinh hạ của chị, một vài nhà nguyện, và một đan viện tĩnh lặng với
một cái giếng đá hoa. Những bức tường được trang hoàng bằng các bức tranh mầu
diễn tả những cảnh đời của thánh nữ, và một căn phòng nhỏ là nơi được nói rằng
thánh nữ gối đầu trên đá. Trong Nhà Nguyện Chịu Nạn có cây thập giá chịu nạn ở
Pisa. Đó là cây thập giá đã chiếu các tia sáng đâm vào thánh nữ một cách nhiệm
lạ các dấu thánh của Chúa Kitô. Còn cái đầu của thánh nữ được giữ trên bàn thờ
của Nguyện đường Thánh Catarina, bên trong Đền Thờ Thánh Đaminh.
Dân thành Siena muốn có được thi thể của thánh nữ. Chuyện kể rằng họ biết được
họ không thể nào lén lấy trộm được toàn thân của thánh nữ ra khỏi Roma, nên họ
quyết định chỉ cần lấy phần đầu của thánh nữ thôi, và cho phần đầu này vào trong
một cái bao. Khi họ bị cảnh binh Roma chặn lại thì họ cầu cùng thánh nữ giúp họ,
với lòng tin tưởng rằng toàn thân của thánh nữ, hay ít là một phần thân ấy sẽ về
ở Siena với họ. Khi họ mở bao ra cho nhóm cảnh binh thấy thì không còn đầu của
thánh nữ nữa mà toàn là những cánh hoa hồng thôi. Tuy nhiên, khi họ trở về Siena
thì cái đầu của thánh nữ đã trở lại nguyên vẹn hình hài về chất thể - đó là phép
lạ cuối cùng của thánh nữ vậy.
The Church of St. Christina in Bolsena
Nhà thờ Thánh Christina / Santa Cristina là một đền
thờ Công giáo Roma ở Bolsena, giáo tỉnh Viterbo, miền Lazio Ý quốc. Nhà thờ này
trở thành nổi tiếng là vì đó là nơi xẩy ra Phép Lạ Thánh Thể năm 1263, và trở
thành bất hủ bởi bức danh họa Mass of Bolsena của Raphael trong dinh Vatican,
đồng thời cũng là nơi chôn táng vị thánh nữ tử đạo Christina thành Balsena.
Người ta có thể
biết được Phép Lạ ở nơi bức danh họa Mass of Bolsena của Raphael này, trong đó
bao gồm những chi tiết xẩy ra phép lạ lịch sử ấy. Đó là có một vị linh mục người
Bohemia cử hành Thánh lễ, vào lúc truyền phép thì máu thánh Chúa Kitô nhỏ giọt
từ Bánh Thánh, lưu vết trên khăn thánh, nhờ đó đã làm tiêu tan mối ngờ vực của
vị chủ tế về sự kiện biến thể của bánh và rượu thành Mình Thánh và Máu Thánh
Chúa Kitô. Phép lạ này đã dẫn đến việc thiết lập lễ Mình Thánh Máu Thánh Chúa
Kitô cùng với việc kiến thiết vương cung thánh đường Orvieto, nơi đang lưu giữ
chiếc khăn thánh Phép Lạ Thánh Thể. Trong bức danh họa này cũng thấy cả Đức Giáo
Hoàng Julius II (1503-1513) chứng kiến thấy phép lạ khi ngài đang quì ở bên phải
bàn thờ với một số vị hồng y và thân thuộc của ngài.
Câu chuyện lịch sử về Phép Lạ Thánh Thể này xẩy ra như sau: vào năm 1263, một
linh mục người Đức là Cha Phêrô ở Prague là thủ đô của Cộng Hòa Séc /
Czech hiện nay, thực hiện một chuyến hành hương đến Roma. Ngài đã dừng chân lại
ở Bolsena để cử hành Thánh lễ ở Nhà Thờ Thánh Christina. Vào lúc ấy ngài đang
cảm thấy nghi hoặc về thực tại hiện diện thực sự của Chúa Giêsu nơi Bí Tích
Thánh. Ngài bị ảnh hưởng bởi cuộc tranh cãi dữ dội giữa một số thần học gia, lần
đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội, đã đặt vấn đề ngờ vực về sự hiện diện của Chúa
Giêsu nơi hình bánh và hình rượt đã được thánh hiến. Để trả lời cho tâm trạng hồ
nghi của vị linh mục chủ tế ấy, khi ngài đọc lời truyền phép thì máu bắt đầu nhỏ
giọt từ bánh thánh, rơi xuống bàn thờ và thấm vào khăn thánh.
Vị linh mục này đã tường trình cho Đức Thánh Cha Urban IV, vị bấy giờ đang ở gần
Orvieto. Đức giáo hoàng này sai các vị đại diện đến điều tra và truyền kiệu Bánh
Thánh và khăn thánh thấm Máu Thánh đến Orvieto. Những di tích thánh này sau đó
đã được để ở Vương Cung Thánh Đường Orvieto, cho đến ngày nay. Phép Lạ Thánh Thể
này xẩy ra như thể đã xác nhận những thị kiến Chị Thánh nữ tu thần bí
Juliana ở Bỉ (1193-1258) đã được Chúa cho thấy về một vầng trăng bị khuyết, để
xin Giáo Hội thiết lập Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Cuối cùng chị đã thuyết phục
được vị giám mục sau này là Đức Giáo Hoàng Urbanô IV thực hiện sau khi chị qua
đời ít lâu, và chính ngài là người đầu tiên cử hành lễ này ở Orvieto năm 1264,
tức một năm sau Phép Lạ Thánh Thể. Vị Giáo hoàng này cũng truyền cho Thánh Toma
Aquinas soạn phụng vụ Thánh lễ và giờ kinh cho lễ này, vị thánh tiến sĩ này đồng
thời cũng sáng tác các bản thánh ca về Thánh Thể vẫn được Giáo Hội sử dụng cho
tới ngày nay, như bài Bánh Thiên Thần / Panis Angelicus nhất là Bài Đây Nhiệm
Tích / Tantum Ergo v.v.
Vào năm 1964, kỷ niệm 700 năm Lễ Mình Máu Thánh Chúa
Kitô được thiết lập, Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI đã cử hành Thánh lễ ở bàn thờ
lưu giữ khăn thánh thấm máu trong Vương Cung Thánh Đường Orvieto. Sau đó, vào
năm 1976, vị giáo hoàng này còn thăm viếng Bolsena và huấn dụ qua truyền hình
cho Đại Hội Thánh Thể lần thứ 41 ở Philadelphia Hoa Kỳ, chủ đề "Chúa Giêsu Bánh
Sự Sống", và ngài cảm nhận thấy Thánh Thể là "một mầu nhiệm cao cả, khôn thấu".
St Christina of BolsenaThánh Christina sinh trong thế kỷ thứ 4 và là con gái của
một quan tòa giầu có và thế lực tên Urbain. Cha của ngài, là người đắm chìm
trong việc thờ cúng tà thần, có rất nhiều các tượng thần bằng vàng mà thánh nữ
đã tiêu hủy và lấy vàng phân phát cho người nghèo.
Tức giận vì hành động này, ông Urbain trở nên người hành hạ chính con gái mình.
Ông ra lệnh dùng roi đánh con và ném con vào ngục tối. Christina vẫn không lay
chuyển đức tin. Người cha ra lệnh dùng móc sắt để xé thân thể con gái mình và
cột cô vào tấm vỉ mà bên dưới đang cháy lửa. Nhưng Thiên Chúa đã gìn giữ tôi tớ
Người bằng cách khiến lửa bắn tung vào kẻ hành hình. Sau đó Christina bị quấn cổ
bằng một tảng đá lớn và ném xuống hồ Balsena, nhưng ngài được thiên thần cứu
sống, trong khi cha ngài, vì tức giận mà chết.
Quan toà kế vị Urbain cũng tàn nhẫn không kém. Ông ra lệnh thiêu sống Christina,
nhưng ngài vẫn sống sót. Ngài bị ném vào chuồng đầy rắn, sau đó bị cắt lưỡi và
sau cùng bị tên đâm thâu qua người. Ngài được triều thiên tử đạo ở Tyro năm 250
tại hồ Bolsena, Tuscany, nước Ý. Di tích của thánh nữ hiện vẫn còn giữ ở Palermo
thuộc Sicily. Còn hộp sọ được giữ tại nhà thờ chính tòa ở Milan, nước Ý.
nguon:https://dongten.net/2019/07/27
Altar of the Miracle inside
Grotto of Santa Cristina
The Tomb of St Cristina with Buglioni sculpture in the center the statue
illustrates the stone used in the attempt to drown her.
Ngày 14/11 - Chúa Nhật
The Basilica of St. Francis in Assisi
Thánh Phanxicô Assisi: Tiểu Sử
Thành phố Assisi nằm ở trung tâm nước Ý, toạ lạc trên dãy hoành sơn Subasio, bên
dưới là đồng bằng Ombria. Thành phố được xây dựng ở đó như để đón nhận và phản
chiếu tất cả ánh sáng từ trời toả xuống và từ đất chiếu lên…
Chính tại thành phố nhỏ bé thời trung cổ này, Phanxicô thành Assisi chào đời năm
1181.
Là con trai một thương nhân buôn vải giàu có, cậu bé được đặt tên là Gioan vào
ngày nhận phép rửa tội. Nhưng khi ông Phêrô Bênađônê, cha cậu từ nước Pháp trở
về sau một một chuyến buôn, ông đã đổi tên cậu bé thành Phanxicô (Francesco –
chú bé người Pháp).
Chàng trai Phanxicô tham gia rất sớm vào thương nghiệp của gia đình. Chàng kiếm
được rất nhiều tiền và cũng phung phí một cách ngông cuồng trong các lễ hội với
bạn bè. Họ tôn phong chàng là “ông vua tuổi trẻ vàng son” thành phố Assisi.
Chàng khôn khéo trong việc buôn bán, tao nhã và lịch thiệp trong giao tiếp, đồng
thời chàng còn là một người bạn vui tính. Chàng có tất cả mọi thứ để có thể gặt
hái thành công trong cuộc sống.
Phanxicô ôm ấp những hoài bão lớn. Năm 16 tuổi, chàng mơ ước vinh quang binh
nghiệp và khao khát trở thành một hiệp sĩ. Năm 18 tuổi, chàng gia nhập quân đội
công xã và tham chiến chống lại thành phố láng giềng thù nghịch là Pêrudia.
Nhưng chàng bị bắt làm tù binh, một năm sau mới được trở về Assisi với một tấm
thân tàn tạ. Chàng ngã bệnh. Đó là giai đoạn cô đơn và phản tỉnh trong cuộc đời
chàng. Thánh Bonaventura viết: “Chúa đã dùng những chuỗi ngày đau ốm để chuẩn bị
tâm hồn Phanxicô đón nhận ơn Thánh linh” (Đại truyện 1,2).
Tuy thế Phanxicô vẫn tiếp tục theo đuổi mộng công danh. Năm 1204, Gauthier de
Brienne một tướng lãnh của đạo quân Đức Giáo hoàng, chiêu mộ quân tình nguyện.
Phanxicô sắm sửa một chiến bào lộng lẫy để ra đi.
Trong đêm khuya, chàng chiêm bao thấy mình ở trong một lâu đài sang trọng: một
người thiếu nữ đẹp đứng giữa các vũ khí. Có tiếng gọi chàng và hứa cho chàng tất
cả những gì chàng thấy. Lạ thay, những vũ khí đều mang hình thánh giá. Phanxicô
không cần tìm ý nghĩa sâu xa. Chàng cắt nghĩa theo mộng công danh mà chàng đang
theo đuổi. Một lâu đài - những vũ khí - một hiền thê trẻ đẹp, đó chẳng phải là
điều chàng ao ước sao! Và Phanxicô hăng hái lên đường tới Spoletô, một thành phố
cách Assisi chừng 40 cây số.
Đêm hôm đó, chàng lại nghe có tiếng hỏi trong giấc mơ: ? Ai có thể cho ngươi
nhiều hơn, ông chủ hay tôi tớ - Thưa là chủ. ? Vậy sao ngươi bỏ chủ mà theo tớ -
Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì? Hãy trở về Assisi rồi ngươi sẽ biết phải làm
gì....
Phanxicô ý thức rằng cho tới bấy giờ, Thiên Chúa đã chỉ giữ một vai trò thứ yếu
trong cuộc đời chàng. Đời chàng đã ngập tràn những ước nguyện, những dự định
trần thế đến nỗi không còn chỗ cho Chúa, Đấng có quyền, như một lãnh chúa, đòi
hỏi con người từ bỏ những ước nguyện và dự định riêng để phụng sự Ngài cách vô
diều kiện. Và từ nội tâm đến cử chỉ bên ngoài, Phanxicô bắt đầu trở về với
Chúa.
Sáng hôm sau, không chút ngần ngại, Phanxicô lên ngựa trở về Assisi trước những
con mắt ngạc nhiên của dân thành. Nhưng bây giờ chàng phải làm gì? Ai sẽ nói cho
chàng biết? Để đón nhận sứ mạng mới, Phanxicô thường trốn bạn bè, đi tìm thanh
vắng trong những hang hốc và những ngôi thánh đường đổ nát, chẳng hạn nhà nguyện
Thánh Đamianô. Tại đó, chàng đã cầu nguyện hằng giờ trước ảnh tượng Chúa Kitô
theo kiểu Byzantin.
Những ngày dài trong thinh lặng và cầu nguyện đã làm cho Phanxicô ý thức rằng
muốn nghe theo tiếng Chúa và chiêm ngắm Người, trước hết phải từ bỏ những cái mà
ngày xưa chàng khao khát tìm kiếm và phải yêu mến những điều mà theo khuynh
hướng tự nhiên chàng lấy làm gớm ghiếc. Đó là ý nghĩa của sự trong sạch mà sau
này Ngài đã dạy cho anh em: “Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được
ngắm nhìn Thiên Chúa. Người thật sự có tâm hồn trong sạch là người khinh chê của
cải trần thế, tìm kiếm gia nghiệp thiên quốc và không ngừng thờ phượng, nhìn
ngắm Chúa là Thiên Chúa hằng sống chân thật với lòng thanh trí sạch” (Hn 16).
Một dịp xảy tới: Một hôm vừa ra khỏi Assisi, Phanxicô gặp một người phung cùi,
mang thứ bệnh ghê tởm nhất và bị mọi người sợ nhất. Khi thấy người cùi đến gần,
Phanxicô đã thúc ngựa chạy nhanh để tránh mặt. Nhưng chính lúc ấy, dường như có
một bàn tay nào đó kìm dây cương ngựa lại khiến chàng phải trực diện với bệnh
nhân. Lúc này chàng mới nhận ra sự biến dạng khủng khiếp trên thân thể con người
đang chống nạng lê bước tới chàng: môi bị ăn mòn, mũi chỉ còn một lỗ hổng khủng
khiếp. Một mùi hôi thối xông lên làm chàng ngạt thở. Tuy khó chịu, nhưng chàng
vẫn cảm thấy bị thúc bách tiến về phía người cùi. Khi đến nơi, chàng nhảy xuống
và đưa cho người cùi tất cả số tiền mang theo nơi mình. Thấy bàn tay lở loét,
chàng muốn quay đi. Nhưng cuối cùng, chàng đã cúi xuống và hôn lên bàn tay rùng
rợn ấy. Đó là chiến thắng đầu tiên của chàng hiệp sĩ. Không một chứng tá nào quí
hơn là chính tâm sự của Phanxicô:
“Chúa đã ban cho tôi, tu sĩ Phanxicô, ơn bắt đầu cuộc đời hoán cải như thế này:
Khi còn sống trong tội lỗi, mỗi lần thấy người phung, tôi lấy làm ghê tởm lắm.
Nhưng chính Chúa đã dẫn tôi đến với họ và tôi đã tỏ lòng thương xót họ. Khi xa
cách họ, điều đối với tôi trước kia là ghê tởm đã trở thành dịu ngọt cho tôi
trong tâm hồn cũng như thể xác” (DC 1-3). Phanxicô đã sống một cảm nghiệm dịu
ngọt trong tình thân ái đối với Chúa. Chàng khám phá ra người cùi là anh em của
mình. Kể từ ngày đó, chàng hay tới giúp việc cho những bệnh nhân cùi.
Giây phút quyết định đã đến: một ngày kia, đang quì trước thánh giá ở gian cung
thánh nhà nguyện Thánh Đamianô, ánh mắt Phanxicô đăm đăm nhìn lên Đức Kitô, ánh
mắt Đức Kitô đăm đăm nhìn Phanxicô: “Thiên Chúa tối cao và vinh hiển đến chiếu
rọi vào cõi tối tăm trong tâm hồn tôi…” Chàng chợt nghe một tiếng nói. Tiếng ấy
vọng xuống từ thánh giá hay vọng lên từ tâm hồn chàng: “Phanxicô, con không thấy
Nhà của Ta đổ nát sao? Hãy đi và sửa lại cho Ta”. Một làn sóng sự sống, một dòng
nước tình yêu xâm chiếm con tim Phanxicô.
Thế rồi, dòng nước tình yêu ấy đã cuốn hút chàng đi tu sửa các nhà nguyện và đến
với những người bần cùng: bấy giờ chàng mạnh dạn đến với người phong cùi, thăm
viếng các trại phong và tận tình chăm sóc họ. Thế giới của chàng đã nghiêng về
phía những người bị loại trừ, bé nhỏ và nghèo hèn.
Ông Phêrô Bênađônê không thừa nhận cậu con trai nữa. Ông không hiểu, nên ông
không chấp nhận sự biến chuyển đang làm thay đổi người con của ông. Thất vọng và
xấu hổ vì cậu con trai thường lui tới trại phong, ông giận tím mặt khi nghe biết
chàng đã bán một kiện vải để lấy tiền tu sửa một ngôi nhà thờ hoang tàn. Ông đòi
lại số tiền. Phanxicô bị triệu hồi ra trước toà án Đức Giám mục Assisi. Tại đây,
Phanxicô đã làm một cử chỉ bất ngờ: sau khi trả lại tất cả số tiền cho thân phụ,
chàng cởi luôn quần áo, trao trả cho ông và trước mặt Đức Giám mục và mọi người,
chàng nói: “Xin tất cả mọi người hãy nghe: xưa nay tôi vẫn gọi ông Phêrô
Bênadônê là cha tôi, nhưng từ nay, tôi sẽ thong dong mà thốt lên: Lạy Cha chúng
con ở trên trời”.
Kể từ lúc ấy, Phanxicô hoàn toàn tự do. Chàng khoác một tấm áo thô hèn và lên
đường ra đi, quay lưng với tiền bạc, quyền thế và công danh mà chàng chảng quan
tâm dính bén hơn bụi đường: chàng chìm ngập một cách huyền nhiệm trong luồng khí
ca tụng. Khi mấy anh cướp trấn lột chàng trên núi, chàng thản nhiên tuyên bố:
“Tôi là sứ giả của Đức Vua cao cả”. Nơi chàng, Tin mừng nghèo khó song hành với
Tin mừng lời tụng ca.
Chàng sống cuộc đời ẩn dật 2 năm, đi xin của bố thí như một người hành khất.
Vâng lệnh Đức Kitô truyền dạy tại nhà nguyện thánh Đamianô, chàng bắt tay sửa
chữa nhiều nhà nguyện hư nát vùng ngoại ô thành phố Assisi như nhà nguyện thánh
Đamianô, nhà nguyện thánh Phêrô và nhà nguyện Đức Bà các thiên thần hay còn gọi
là nhà nguyện Đức Maria Porziuncola.
Thế rồi một ngày kia, ngài vào cung thánh nhà nguyện Đức Mẹ Porziuncola tham dự
thánh lễ và nghe đọc bài Tin mừng Đức Giêsu sai các môn đệ đi truyền giáo: “Anh
em hãy ra đi, Thầy sai anh em đi như chiên giữa bầy sói. Anh em đừng đem theo
vàng bạc, tiền của… Vào nhà nào, anh em hãy nói: ‘chúc bình an cho nhà này’.” Đó
là một khai sáng cho tâm trí Phanxicô. Ơn gọi của ngài đã được mặc khải. Ngài
sung sướng kêu lên: “Đó là điều tôi ao ước, đó là điều tôi tìm kiếm!” Ngài sẽ đi
vào thế giới như các môn đệ đã được Thầy sai đi, “không vàng, không bạc”, hoàn
toàn trần trụi; và cũng như các môn đệ, ngài loan báo hoà bình: hoà bình của
Đấng Mêsia, sự giải hoà giữa Thiên Chúa với con người và giữa con người với
nhau. Trong một thế giới xâu xé, ngài sẽ là một sứ giả kiến tạo hoà bình.
Một dự phóng táo bạo trong tinh thần đơn sơ. Bước theo lý tưởng Tin mừng,
Phanxicô sẽ tuyệt giao với hệ thống chính trị-tôn giáo thời đại của ngài, thậm
chí ngài cũng không biết rõ điều đó: với quyền lãnh chúa của giáo hội cũng như
với các cuộc thánh chiến và thập tự chinh. Ngài sẽ khai mở một con đường mới
trong một Giáo Hội, vì sở hữu nhiều tài sản - các toà giám mục và đan viện -,
nên đã trở thành phong kiến và lãnh chúa.
Nói cho đúng, Phanxicô không hề mơ tưởng thiết lập một hội dòng tu trì hay cải
cách Giáo hội. Ngài chỉ muốn đi theo sát Đức Kitô. Tuy nhiên, nhiều thanh niên
trưởng giả thành phố Assisi như Bênađô Quintavalê, Phêrô Catanê đã bị gương sáng
của ngài thu hút và đến với ngài rất sớm. Phanxicô tiếp nhận họ như những anh em
được Chúa gởi đến. Đó là khoảnh khắc hệ trọng trong cuộc đời ngài. Bởi lẽ đó là
giây phút bắt đầu cuộc mạo hiểm phan sinh đúng nghĩa. Từ đó về sau, chính trong
huynh đệ đoàn mà ngài sống lý tưởng Tin mừng.
Việc đầu tiên của ngài là cùng với mười một anh em tiên khởi đi triều yết Đức
Giáo hoàng và đệ trình dự phóng tin mừng. Phanxicô nói với anh em: “Này anh em,
tôi thấy Chúa muốn cho cộng đoàn chúng ta đông dần, vì tình yêu của Ngài. Chúng
ta hãy đi gặp Mẹ thánh chúng ta là Giáo hội Roma. Chúng ta hãy bày tỏ cho Đức
Giáo hoàng biết điều mà Thiên Chúa đã thực hiện giữa chúng ta, để chúng ta tiếp
tục công việc đã được khởi sự theo ý và mệnh lệnh của Ngài” (Truyện ký Ba người
bạn, 46).
Sự táo bạo của dự phóng không khỏi làm cho Đức Innôxentê và giáo triều ái ngại:
“Phanxicô và anh em sẽ sống thế nào nếu không có sở hữu và lợi tức?” Đàng khác,
thời kỳ ấy đã có nhiều giáo phái viện dẫn lý tưởng Tin mừng và nhân danh lý
tưởng nghèo khó để công kích Giáo Hội! Giáo triều đang suy tính, thì Đức Hồng y
Jean de Saint-Paul, bạn của Đức Cha Guido, Giám mục địa phận Assisi, lên tiếng
can thiệp: “Nếu chúng ta từ chối và xem như một điều mới mẻ và kỳ lạ lời xin của
người nghèo này là sống theo Phúc âm, thì chúng ta phản nghịch với Phúc âm. Cho
rằng theo đuổi sự trọn lành Phúc âm là một điều mới mẻ, điên cuồng hay kỳ lạ,
tức là lăng mạ Chúa Kitô, vì Ngài là tác giả của Phúc âm” (Đại truyện 3,9).
Lời nói đó đã gây một ấn tượng sâu sắc trong giáo triều. Đức Hồng y đã đánh một
cú mạnh vào cái khôn ngoan của loài người. Trong một câu ngắn ngủi, Ngài đã tóm
tắt một cách rõ ràng bản chất của phong trào Phan sinh: Noi giữ Phúc âm Đức
Giêsu Kitô. Sau khi nghe Phanxicô giải thích thêm về lòng từ bi của Chúa không
bao giờ bỏ rơi những kẻ quyết sống nghèo khó, Đức Giáo hoàng liền chấp thuận:
“Anh em hãy ra đi, và xin Chúa ở với anh em. Anh em hãy rao giảng đời đền tội
cho mọi người theo như Chúa soi sáng. Khi Thiên Chúa tăng số và tăng ơn lành cho
anh em, thì hãy lấy làm vui mừng và nhớ cho Cha biết. Cha sẽ ban cho nhiều điều
khác nữa và sẽ an tâm giao phó cho nhiều trách nhiệm khác quan trọng hơn” (1 Cel
33).
Trước hôm đó, Ngài cũng đã thấy trong một giấc mộng: Đền thờ Laterano sắp sụp
đổ; nhưng một người nghèo kia, thân hình bé nhỏ và yếu ớt đưa vai ra đỡ và dựng
lại. Đức Giáo hoàng Innôxentê nhận ra con người bé nhỏ đó chính là Phanxicô
Assisi. Ngài chuẩn y Luật dòng do Phanxicô đã trình và cho phép đi giảng, tuy đó
mới còn là việc chuẩn y bằng miệng. Ngài còn muốn có thời gian để nhìn xem cây
non này sẽ đưa lại những hoa quả như thế nào. Hồng y Jean de Saint Paul tự tay
cắt vòng tóc trên đầu Phanxicô và các anh em của người như dấu hiệu công nhận
của Giáo hội.
Anh em tràn ngập niềm vui, lên đường trở về Assisi. Anh em dừng chân tại Rivô
Tortô, trú ngụ trong một túp lều chật chội và bỏ hoang bên một dòng suối. Thế là
đời sống của anh em bắt đầu: sống nghèo triệt để, nhưng cũng hân hoan trong tình
huynh đệ và trong tiếng ca ngợi khen Chúa. Để kiếm sống, anh em tự nguyện làm
công trong nhà dân chúng và đảm nhận những công việc thấp hèn. Một vài anh em
chăm sóc cho bệnh nhân phong cùi. Tất cả anh em đều chỉ có một mối ưu tư trở nên
người xây dựng hoà bình. Số lượng anh em không ngừng phát triển. Anh em rời Rivô
Tortô và đến cư trú giữa một rừng cây trong cánh đồng Assisi, chung quanh nhà
nguyện Đức Mẹ Porziuncola.
Thánh Phanxicô Assisi: Đền Thờ
Đền Thờ Thánh Phanxicô Assisi là nhà thờ mẹ của Dòng Anh Em Hèn Mọn ở Assisi,
một tỉnh ở miền Umbria Trung Ý, nơi Thánh Phanxicô đã vào đời và qua đời. Nó là
một tiểu Đền Thờ thuộc cấp Giáo Hoàng và là một trong những nơi hành hương Kitô
giáo ở Ý quốc. Đền Thờ này từng là một vị trí thuộc Di Sản Thế Giới được UNESCO
của Liên Hiệp Quốc công nhận từ năm 2000.
Đền thờ này, được bắt đầu khởi công xây dựng từ năm 1228, bên sườn của một ngọn
đồi và bao gồm hai thánh đường, Thánh đường thượng tầng và Thánh đường hạ tầng,
cùng với một hầm mộ, nơi lưu giữ hài tích của vị thánh. Bên trong của ngôi Thánh
đường thượng tầng là một mô mẫu quan trọng từ đầu về kiểi kiến trúc Gothic Ý
quốc. Cả ngôi thánh đường thượng tầng hay hạ tầng đều được trang hoàng bằng các
bức tranh tường bởi nhiều họa sĩ cuối thời trung cổ xuất thân từ các trường phái
Roma và Tuscan
Ngôi Đền thờ sáng sủa và rộng lớn này bao gồm một gian giữa có bốn ô với trần
đền thờ vươn cao cút hình thánh giá. Có 4 cái vòm: cái vòm thứ hai được trang
hoàng bằng những vòng tròn nửa người của Chúa Kitô đối diện với Thánh Phanxicô
và Đức Trinh Nữ với Thánh Gioan Tẩy giả. Cái vòm ở lối vào cho chúng ta thấy 4
vị đại tiến sĩ thuộc Giáo Hội Công Giáo Latinh: Thánh Gregorio đối diện với
Thánh Giêrônimô, và Thánh Amrosiô đối diện Thánh Augustino.
Ở vào khoảng nửa dưới của gian giữa khách hành hương có thể xuống hầm mộ bằng
một thang chân kép. Nơi chôn táng này của Thánh Phanxicô được xây cất vào năm
1818. Các hài tích của ngài được Người anh em Elias cất giấu để ngăn tránh việc
tràn lan các hài tích của ngài ở Âu Châu thời trung cổ. Hầm mộ ở bên dưới ngôi
Thánh đường hạ tầng này được thực hiện theo lệnh của Đức Giáo Hoàng Piô VII.
Chiếc quan tài bằng đá cổ được chằng bằng những sợi giây sắt được cất giữ ở một
khoảng trống trên bàn thờ. Vào năm 1934, những người anh em trung thành nhất của
ngài cũng đã được chôn táng ở những góc tường chung quanh bàn thờ, như các chư
Huynh Rufino, Angelo, Masseo và Leo. Ở ngõ vào hầm mộ có một hũ tro hài cốt của
Jacopa
dei Settesoli, một nư lưu quí tộc Roma, thường được cảm tình gọi là "Anh
Jacoba", một người bạn trung thành nhất và là ân nhân bậc nhất của Thánh
Phanxicô. Bà đã hiện diện bên cạnh ngài ở Porziuncola vào giờ lâm tử của ngài.
Đền Thờ hạ tầng bao gồm một gian giữa với một số nhà nguyện hai bên cùng với các
vòm bán nguyệt. Gian giữa được trang hoàng bằng những bức tranh tường cố kính
nhất trong Giáo Hội bởi một nghệ sĩ khuyết danh, được gọi là Maestro de San
Francesco. Những bức tranh tường này là cảnh Khổ Nạn của Chúa Kitô bên
phải, và bên trái là 5 cảnh đời chính yếu của Thánh Phanxicô. hai cảnh tượng kề
nhau giữa Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô với cảnh đời của Thánh Phanxicô như thế,
anh em tu sĩ Phanxicô như ám chỉ thánh nhân là Chúa Kitô đệ nhị. Tiến vào đền
thờ hạ tầng, người ta thấy một bên có tiền đình nguyện đường của Thánh nữ
Catharina Alaxandria tử đạo được dựng lên vào năm 1270. Ở bên trái của lối vào
nguyện đường nhỏ Thánh Sebastine có những hình vẽ về đời của vị thánh này. Bức
tường bên trái có bức tranh Thánh Christopher.
The Church of St. Clare in Assisi
Sau cái chết của vị thánh nữ Clara này, bên ngoài của ngôi thánh đường cổ kính
Thánh George, nơi lưu giữ thân thể của Thánh Phanxicô Assisi cho đến năm 1230,
đã được tái thiết theo kiểu Gothic và mang tên Nhà Thờ Thánh Clara.
Thánh Clara xuất thân từ một gia đình trưởng giả, nhưng chị đã cương quyết không
chịu kết hôn như cha mẹ mong muốn và sắp xếp để hiến thân cho đời sống chiêm
niệm theo gương Thánh Phanxicô Assisi, một thần tượng cùng sinh quán với chị,
nhưng hơn chị khoảng 12 tuổi. Do đó, vào năm 18 tuổi chị đã trốn gia đình để
theo gương Thánh Phanxicô như thành phần môn đệ đầu tiên của thánh nhân bấy giờ
ở Porziuncola. Thánh Phanxicô đã cắt mái tóc của chị như dấu hiệu của lòng thống
hối và khổ hạnh.
Chị đã bị gia đình đến áp lực bắt về, nhưng vẫn hoàn toàn bất lực trước con
người kiên quyết đến độ không ai có thể lay chuyển được thân xác của chị bấy
giờ. Sau khi được nhập tu như thành phần môn đệ của Thánh Phanxicô, chị được đến
ngụ ở nhà thờ Thánh Damiano, nơi từ từ có thêm cả mẹ của chị và người em gái của
chị, trong số khoảng 50 người nữ. Để rồi sau này thánh nữ đã lập dòng nữ theo lý
tưởng của Thánh Phanxicô, gọi là Dòng Thánh Clara Nghèo (Poor Clares), chuyên
sống nghèo và cầu nguyện.
Vị thánh nữ này chịu một chứng bệnh kinh niên, nhưng, theo truyền thuyết, vào
năm 1240, bất chấp bệnh nạn trầm trọng, thánh nữ cũng đã cố gắng cứu tu viện của
mình cho khỏi cuộc tấn công của đám dân du mục Ả Rập, bằng cách cầm lấy mặt nhật
có Mình Thánh Chúa xoay qua xoay lại, như vị linh mục ban phép lành Thánh Thể, ở
một cửa sổ của tu viện. Chị qua đời năm 1253, hưởng thọ 60 tuổi và được phong
hiển thánh 2 năm sau.
Đền thờ kính Thánh Clara chỉ có một gian giữa với một chỏm cao vút chính giữa
đầy những trang hoàng, trong khi đó lại không có các bức tranh vẽ trên tường như
ở đa số các nhà thờ nổi tiếng khác. Ở đây, trong nguyện đường Chúa Chịu Nạn, còn
có cây Thánh Giá nguyên thủy ở nhà thờ Thánh Damiano, cây Thánh Giá đã vang
tiếng gọi Thánh Phanxicô hãy "Xây nhà lại cho Ta", mà bấy giờ thánh nhân lại cứ
tưởng là đi xây lại các nhà thờ cũ kỹ ở Assisi, mà chính là canh tân lại Nhà
Giáo Hội của Chúa đang trở nên bệ rạc, nhất là nơi thành phần giáo sĩ bấy giờ.
Thánh Phanxicô Assisi có ngờ đâu tên của ngài được trở thành danh hiệu cho một
vị giáo hoàng hiện nay, ĐTC Phanxicô người Á Căn Đình, một vị giáo hoàng cũng
chủ chương canh tân Giáo Hội bằng cách về nguồn Phúc Âm: bần cùng nghèo khổ và
sống cho người nghèo, và là một vị giáo hoàng theo chiều hướng hiệp thông yêu
thương của ngài, đang kêu gọi con người hãy sống tình huynh đệ với nhau, qua
thông điệp Fratelli Tuti (3/10/2020), cũng như với thiên nhiên vạn vật, qua
Thông Điệp đầu tay Laudato Sí năm (24/5/2015), cả hai thông điệp của vị giáo
hoàng Phanxicô này đều lập lại nơi nhan đề của từng thông điệp chính những từ
ngữ hay thành ngữ Latinh của Thánh Phanxicô Assisi.
Santa Maria degli Angeli in Assisi
Đền Thờ Đức Maria của Các Thiên Thần (Italian: Basilica
di Santa Maria degli Angeli) là một tiểu đền thờ ở cấp tòa thánh, tọa lạc
trong đồng bằng dưới chân đồi Assisi, Ý quốc. Đền thờ này được kiến thiết trong
thời khoảng giữa những năm 1569 và 1679, bao trùm cả ngôi nhà thờ nhỏ thời thế
kỷ thứ 9 là nhà thờ Porziuncola, nơi thánh thiêng nhất của anh em hèn mọn dòng
Thánh Phanxicô. Vì chính ở đó thánh nhân đã nhận thức được ơn gọi của mình, để
rồi đã từ bỏ tất cả mọi sự mà sống nghèo giữa các người nghèo, nhờ đó ngài đã
bắt đầu phong trào Phanxicô nghèo.
Sau khi Thánh Phanxicô chết năm 1226, các anh em dòng của ngài đã xây cất một số
những cái chòi nhỏ chung quanh Porziuncola. Vào năm 1230 mới có một phòng ăn
cùng với mấy căn sát cận nữa. Cứ thế, khu vực Porziuncola tiếp tục có thêm một
số cổng nhỏ cùng với những tiện lợi khác cho anh em dòng của ngài. Những thêm
thắt ấy đã được khám phá ra nhờ cuộc khai quật trong thời khoảng 1967-1969 ở bên
dưới sàn của đền thờ hiện nay.
Vô vàn khách hành hương tuôn đến Assisi để lãnh nhận "Ơn Tha Thứ của Assisi"
(Pardon of Assisi), một Ơn Toàn Xá Giáo Hội ban cho những ai đến nguyện đường
Đức Maria của Các Thiên Thần này, nơi mà vào ngày 1/8 năm 1216, khi được Chúa
Kitô, Mẹ Maria và các Thiên thần hiện ra ở nguyện đường này, thánh nhận đã xin
ân xá cho tất cả những ai đến kính viếng ngôi thánh đường dâng kính Mẹ này. Sau
khi được Chúa nhận lời hôm trước, hôm sau, ngày 2/8, thánh nhân còn xin được cả
ĐTC Honorius III chuẩn nhận nữa. Cho tới ngày nay, Ơn Toàn Xá này còn có thể
được nhận vào hai ngày 1-2/8 hằng năm cho những ai, hội đủ điều kiện chung, đến
kính viếng chẳng những Thánh Đường Đức Maria của Các Thiên Thần, mà còn ở các
nguyện đường dòng Phanxicô cũng như ở các giáo xứ trong địa hạt Assisi.
Chính vì Ơn Toàn Xá này đã thu hút càng ngày càng nhiều đến hành hương để lĩnh
ơn toàn xá vào hai ngày 1-2/8 mà khu vực Porziuncola nhỏ bé đã không còn đủ chỗ
cho họ trọ nữa. Nhu cầu cần phải có một nhà thờ sát nhập vào nơi này. Các dinh
thự mọc lên chung quanh đền thánh này đã bị dẹp bởi lệnh của ĐTC Piô V
(1566-1572), ngoại trừ nguyện đường Transito, gian nhà đã chứng kiến Thánh
Phanxicô thở hơi cuối cùng. Ngôi đền thờ Đức Maria của Các Thiên Thần được khởi
công vào ngày 25/3/1569, theo kiểu kiến trúc Mannerist, tiền thân của kiểu kiến
trúc Baroque, của hai kiến trúc sư Galeazzo Alessi và Vignola. Công trình tiến
triển chậm bởi thiếu ngân sách từ các nhà hảo tâm. Cuối cùng mọi sự đã được hoàn
thành vào năm 1669, đúng 100 năm sau. Đấy là một thánh đường nguy nga, ngôi
thánh đường lớn thứ 7 của Giáo Hội.
Qua dòng thời gian bị hư hại bởi thiên tai như động đất, ngôi đến thờ này đã
được tái thiết vào năm 1836 bởi kiến trúc sư Luigi Poletti và tái mở cửa vào năm
1840. Giữa năm 1924 - 1930, Mặt tiền của nó được Cesare Bazzani tái thiết lại
theo đúng kiểu kiến trúc nguyên thủy, kiểu tiền Baroque. Vào năm 1930 ở trên
đỉnh của mặt tiền đền thờ xuất hiện một bức tượng mạ vàng Đức Mẹ của Các Thiên
Thần the Madonna degli Angeli được thực hiện bởi điêu
khắc gia Colasanti và được đúc bởi
Ferdinando
Marinelli Artistic Foundry.
Ngày 11/4/1909, ngôi thánh đường này được ĐTC Piô X nâng lên bậc "đền thờ thượng
phụ và nguyện đường giáo hoàng /
patriarchal
basilica and papal chapel". Đền thờ này bao gồm một gian
chính giữa và hai bên cánh với 10 nguyện đường. Vị trí Porziuncola ở ngay dưới cái vòm.
Bên trong có vẻ giản dị nhưng sang trọng, không như các nguyện đường ở hai bên.
The National Shrine of Saint Rita of Cascia in Cascia
Thánh Rita Cascia: Quan Thày của những gì bất khả
Thánh Rita (tên được gia đình gọi tắt
từ tên Magarita, nghĩa là hạt trân châu theo tiếng Ý)
có biệt danh là vị "Thánh quan thày của những gì bất khả / Patron
Saint of the Impossible".
Thật vậy, những gì bất khả đã xẩy ra ngay nơi bản thân và cuộc đời của vị thánh
nữ lạ lùng này:
1- Ngài đã được hạ sinh bởi cha mẹ gần thất tuần, và chính ngài qua đời cũng vào
tuổi thất tuần!
2- Ngài đã làm bạn với đàn ong từ thuở còn trong nôi cho đến khi vào dòng và
thậm chí cả sau khi qua đời (xin xem thêm ở cuối)
3- Ngài đã biến đổi người chồng vũ phu và du đãng trở lại đến độ chàng bị sát
hại chỉ vì trở lại;
4- Ngài đã cầu được như ý cho 2 con trai chết đi hơn là phạm tội giết người trả
thù cha;
5- Ngài đã được 3 vị thánh Gioan Tẩy Giả, Âu Quốc Tinh và Nicholas trực tiếp dẫn
vào tu trong dòng nữ Augustino sau khi bị bề trên từ chối 3 lần bởi đã lập gia
đình;
6- Ngài đã vị đức vâng lời bề trên đem trồng cành nho héo và hằng ngày chăm bón
suốt một năm trời, sau đó nó đã trở thành cây nho tươi tốt hơn 500 năm rồi;
7- Ngài đã xin Chúa cho được in dấu thánh như Thánh Phanxicô Assisi, và sau khi
nghe giảng về Cuộc Khổ Nạn của Chúa, chị đã được Chúa in dấu thánh trên trán của
chị;
8- Ngài đã xin bề trên đi hành hương Roma nhưng với điều kiện dấu ấn trên trán
chị phải biến mất và Chúa đã làm biến dấu ấn ấy đi cho chị được đi nhưng chị vẫn
đau bởi dấu ấn ấy;
9- Ngài đã có được bông hoa hồng ở trong khu vườn thuộc ngôi nhà cũ của ngài do
một người ngài nhờ hái cho ngài ngay giữa mùa đông không thể có hoa hồng, và cả
trái vả nữa;
10- Ngài đã trở nên hiện tượng lạ ngay sau khi qua đời và từ nơi thân xác của
ngài, một thân xác đã trở thành tươi tốt như khi còn sống
Ngày 22.05.1457, soeur Rita nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng, hồn bay thẳng về
thiên quốc. Bấy giờ nhiều việc lạ lùng xảy ra :
- Trước tiên chuông trong tu viện bỗng nhiên đổ hồi làm cho dân chúng quanh vùng
tuôn đến quanh tu viện.
- Dân chúng đều trông thấy từ trong tu viện một vùng ánh sáng huy hoàng mát dịu
bay thẳng lên trời. Họ đứng nhìn cho đến khi không còn trông thấy gì nữa mới
thôi.
- Từ biệt phòng của soeur Rita mùi hương thơm lạ lùng chưa từng ngửi thấy xông
ra.
- Vết thương dấu gai trên trán khô hẳn để lại một chấm son đỏ tươi.
- Khuôn mặt soeur Rita trở nên trẻ đẹp hơn lúc còn là một trinh nữ.
- Một nữ tu, cánh tay bị bệnh tê liệt, cúi xuống hôn mặt soeur Rita, bỗng chốc
cánh tay được lành hẳn.
Tin soeur Rita qua đời đồn ra rất nhanh. Cả Cascia hay biết rất chóng. Tu viện
muốn giữ xác của soeur trong nguyện đường để tôn kính song dân chúng khiếu nại,
ai ai cũng muốn được đụng đến xác thánh. Họ viện lý do rằng : Một vị thánh là
tài sản Chúa ban chung cho giáo hữu. Cũng vì vậy mà người ta tổ chức đoàn kiệu,
rước thi hài soeur Rita ra bên ngoài tu viện để mọi người kính tôn khấn nguyện.
Lúc còn sống soeur Rita gầy gò ốm yếu lắm, chẳng khác gì một thây ma. Nhưng khi
qua đời rồi thì mặt mày biến đổi, trẻ đẹp như người sống, thân xác trở nên mềm
mại. Người ta sắm chiếc hòm bằng gỗ quý, không có nắp, bên trong trải gấm rồi
đặt thi hài của soeur Rita lên như đặt trên chiếc võng. Mặc cho thời tiết đổi
thay, mặc cho hàng vạn bàn tay, vì cung kính, đụng chạm vào.
Đàn Ong từ trong nôi cho tới sau khi chết
Sau khi được lãnh bí tích Thánh Tẩy, trẻ thánh được cha mẹ già mang theo ra đồng
làm việc, ở trong một chiếc thúng và để dưới chân cây cổ thụ, và cả 2 ông bà yên
trí rằng Rita chưa biết bò biết lật, chắc chắn không việc gì xảy ra hại đến tính
mạng, đám ruộng cũng gần cây cổ thụ, chốc chốc đứng lên xem chừng con.
Nằm trong thúng, Rita nói líu lo, hoa tay múa chân, tiếng cười khúc khích hòa
với tiếng chim đang hót trên cành; thật là một cảnh tượng ngây ngô, đẹp đẽ, dễ
thương. Bất ngờ, không biết từ đâu, một đàn ong ruồi (abeilles) bay đến lượn
quanh chiếc thúng, đùa giỡn với Rita, chúng bu đậu vào người Rita, đậu lên mặt,
lên tay chân đầu óc mà không châm nọc vào da thịt non nớt của Rita, và cô bé vẫn
hoa tay múa chân, khúc khích ra vẻ khoái chí nữa chứ. Lạ thật!
Trong khi ấy, tại đám ruộng bên cạnh, một nông dân gặt lúa. Không biết anh ta vô
ý thế nào, liềm cắt phải bàn tay, máu chảy ròng ròng. Anh ta ôm tay chạy về nhà
để băng bó vết thương. Khi ngang qua chiếc thúng có Rita nằm trong ấy, anh ta
thấy mặt mày tay chân cô bé có ong ruồi đậu đen sì, anh ta dừng chân, đưa hai
tay ra đưổi bầy ong. Song, lạ thay! tay bị thương của anh ta tự nhiên lành hẳn,
máu thôi chảy vì da thịt liền lại với nhau mà không để vết sẹo. Anh ta hô hoán
lên. Vợ chồng Antoine vội chạy đến. Anh ta chỉ đàn ong ruồi trên người Rita. Anh
ta thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Ông bà Antoine sửng sốt, lập tức quỳ gối tạ ơn
Chúa. Ông bà mang chiếc thúng về nhà; đàn ong ruồi bay theo rồi bay tản mát. Hai
ông bà thầm thì bảo nhau : Không biết sau này con của chúng ta, đứa con mà Chúa
đã ban cho chúng ta trong tuổi già, già quá như thế này, sẽ ra sao?�
Sau này, khi Rita vào tu viện rồi, đàn ong ruồi đến làm tổ ở tu viện và ở mãi
trong tu viện cho đến ngày nay. Đàn ong ruồi trước đây đã làm bạn với Rita hồi
Rita còn trong nôi, bây giờ kéo nhau đến xây tổ trong tu viện. Thân ong đen như
nhung và trên lưng có chấm đỏ, phải chăng là dấu gai trên trán soeur Rita. Đàn
ong ở mãi trong tu viện, đến nay vẫn còn.
Đức Giáo Hoàng Urbain VIII muốn xem một con ong ruồi kỳ lạ ấy. Người ta bắt một
con, cho vào lọ thủy tinh gửi đến Vatican cho ngài. Xem xét kỹ lưỡng xong, ngài
dùng sợi chỉ lụa buộc vào ong rồi thả ra. Trên khoảng cách hơn 200km, ong không
lạc đường, bay về họp đàn của nó. Người ta còn kể lại rằng : đàn ong ấy, cứ đến
mùa Thương khó thì kéo nhau đi đâu không biết. Nhưng cứ đến ngày 22 tháng 5 thì
bay về tu viện để mừng kỷ niệm ngày soeur Rita qua đời.
Thánh Rita Cascia: Đền Thờ
Dự án xây đền thờ này nguyên thủy từ Đức ông Spirito Chiapetta nhưng sau được
điểu chỉnh bởi Giuseppe Calori và Giuseppe Martinenghi. Vào ngày 20/6/1937, Đức
Hồng y Enrico Gasparri đã đặt viên đá đầu tiên. Mười năm sau, ngôi thánh đường
này đã được thánh hiến vào ngày 18/5/1947. Ngôi thánh đường này đã được ĐTC Piô
XI nâng lên cấp Đền thờ vào ngày 1/8/1955.
Ở chóp đỉnh của mặt tiền, bên trên cây thánh giá được đỡ bởi 6 thiên thần, có
khắc năm năm hoàn thành công trình này bằng tiếng Roma: A.D.MCMXLIII (1943). Ở
thanh ngang bên trên cửa chính có một câu kính vị thánh bằng tiếng Latinh như
thế này: "Salve Rita vas amoris, sponsa Christi dolorosa / tu de spinis
Salvatoris pulchra nasceris ut rosa" (Kính chào Thánh Rita là bình tình yêu, là
hôn thê đau thương của Chúa Kitô / Ngài như hoa hồng nẩy nở xinh tươi xuất phát
từ những gai nhọn của Chúa Cứu Thế).
Viền khung lối vào là 10 hoạ cảnh được thực hiện bởi bàn tay tài tình khéo léo
của Eros Pellini đã làm bất hủ hóa những đoạn đời đáng chú ý trong cuộc sống của
vị thánh này: (nếu nhìn theo thứ tự từ trên xuống dưới và và trái sang phải) 1-
Thánh nữ với đàn ong; 2- ngài dạy các con của ngài cầu nguyện; 3- cái chết của
chồng ngài; 4- ngài vào đan viện nữ Augustino; 5- thử thách đức vâng lời; 6-
thánh nữ cung cấp bánh cho người nghèo; 7- ngài nhận được dấu ấn trên trán; 8-
ngài tham dự chuyến hành hương Roma; 9- ngài có được như mong mong muốn những
bông hồng và trái vả giữa mùa đông; 10- thánh nữ qua đời.
Ở bên trái của mặt tiền đền thờ, đằng sau cái cổng bằng đồng, khách hành hương
có thể thấy được cửa vào ngôi nhà thờ cũ của Thánh nhân (1577), nơi thi thể của
ngài được tôn kính trong quá khứ.
Bên trong đền thờ, dọc theo các bức tường là 14 chặng Đàng Thánh Giá mỹ lệ bằng
cẩm thạch trắng được thực hiện bởi Pellini. Một tòa giảng lớn bằng gỗ cây walnut
của điêu khắc gia Emilio Monti. Huy hiệu giáo hoàng của ĐTC Piô XII bằng cẩm
thạch đa sắc ở trên sàn của trung tâm nhà thờ.
Cái vòm chính giữa có con chim cầu, biểu hiệu cho Thánh Linh, và vinh quang của
các vị thánh Dòng Thánh Augustinô, được thực hiện bởi Florentine Luigi
Montanarini.
Ngày 15/11 - Thứ Hai
The House of the Holy Family in Loreto
House of the Virgin Mary in Ephesus Turkey
House of the Virgin Mary in Loreto Italy became a Marian Shrine
Một trong những nơi linh thánh nhất và thịnh hành nhất ở Ý là Loreto, nằm ở Miền
Đông Duyên Hải Ý quốc. Theo truyền thống thì đây là ngôi nhà mà Mẹ Maria đã được
cưu mang và hạ sinh, lớn lên, và là nơi Tổng thần Gabiên đã hiện ra truyền tin ý
Chúa muốn Mẹ làm mẹ của Thiên Chúa. Kỹ thuật tân tiến ngày nay đã xác nhận rằng
những lớp ở nơi các thứ đá giống như thứ đá ở Nazarét và các thứ vật liệu cùng
kỹ thuật xây cất ngôi nhà này là những gì tương hợp với vật liệu và kỹ thuật
được sử dụng ở Thánh địa. Có những câu khắc, như câu "Oi Giêsu Kitô, Con Thiên
Chúa" bằng chữ Hy Lạp sát cận với chữDo Thái, được viết cùng kiểu ở Hang động
Nazarét.
Ngoài ra, ngôi nhà này không có nền móng, như thể Loreto không phải là gốc gác
của ngôi nhà này. Nữ hoàng Helena đã hành hương đến Thánh Địa, thăm viếng cả
Nazarét vào năm 336, nơi Ngôi Nhà Thánh này tọa lạc. Sau này bà đã xây một ngôi
đền thờ, Đền Thờ Truyền Tin, được xây dựng trên vị trí của ngôi nhà ấy. Có 2 câu
chuyện về ngôi nhà việc di chuyển của ngôi nhà Đức Mẹ này. Đó là vào thời điểm
Thánh Địa sắp sửa bị quân Thổ Nhĩ Kỳ xâm chiếm thì ngôi nhà của Đức Mẹ cũng có
thể bị tàn phá. Bởi thế, theo tương truyền thì các thiên thần đã chuyển ngôi nhà
này từ Nazarét đến Dalmatia (tức Croatia ngày nay) vào năm 1291, và Mẹ Maria đã
thực sự hiện ra ở đó kèm theo nhiều phép lạ xẩy ra. Ngôi nhà này lại được chuyển
đến đỉnh đồi ở Loreto, ý quốc vào tháng 12 năm 1294. Theo câu chuyện khác thì có
một gia đình giầu có ở Thánh Địa, Gia đình Angeli, đã thuê tháo gỡ ngôi nhà này
ra, sau đó ráp lại ở Ý quốc. Tên Angeli được chuyển dịch sang cả tiếng latinh và
Ý là "thiên thần".
Đền thờ này được xây dựng trong thời Đức Sixtus V, và các thêm thắt sau đó là
thành quả bới nhiều kiến trúc sư khác nhau. Cho dù đền thờ này có những đại tác
phẩm về nghệ thuật và đáng kính viếng, nhưng điểm thu hút nhất vẫn ;à ngôi nhà
của Đức Mẹ. Ngôi nhà thực sự của Đức Mẹ, dài 31 feet và rộng 13 feet, được bao
bọc bằng cẩm thạch ở ngay trung tâm của Đền Thờ. Thường có những cuộc kiệu Thánh
Thể ở khuôn viên ngoài Đền Thờ, nơi tập trung các bệnh nhân và khuyết tật nhân
đang chờ đợi được chữa lành khi Thánh Thể đi ngang qua. Ngôi NHà Thánh ở Loreto
này trực thuộc quyền của Giáo Hoàng. Vào Tháng 10/2019, ĐTC Phanxicô đã thêm lễ
Đức Mẹ Loretto ngày 10/12 hằng năm vào lịch phụng vụ Roma.
Loreto là một thị trấn nhỏ bé và yên bình bên bờ biển miền trung tây của Ý. Từ
đây, khách tham quan có thể thưởng lãm cảnh quan ngây ngất và đầy thơ mộng của
biển Adriatic, phân cách bán đảo Ý và Balkan. Thế nhưng, điều đã giúp đô thị
trên đồi thuộc địa phận tỉnh Ancona khác biệt với những vùng còn lại của quốc
gia hình chiếc ủng chính là mối liên hệ sâu xa và kỳ diệu với Ðức Mẹ.
Lòng tôn kính đối với Ðức Bà Loreto bắt nguồn từ câu chuyện liên quan đến nỗ lực
đưa ngôi nhà của Ðức Maria ở Nazareth (Israel) về vùng làng quê xứ Ý. Căn nhà
nhỏ với những bức tường gạch cổ xưa có tên chính thức là Holy House (Nhà Thánh),
tương truyền là nơi Tổng lãnh thiên thần Gabriel truyền tin cho Mẹ. Khi còn tọa
lạc trên Ðất Thánh, ngôi nhà luôn là trọng điểm được giới Kitô hữu bảo vệ, vì
bên dưới mái nhà khiêm tốn này, thiên thần Gabriel đã loan báo với Ðức Mẹ Maria
về Ðấng Hài Nhi sắp giáng thế. Chúa Giêsu cũng trải qua thời niên thiếu tại đây.
Nhiều thế kỷ sau, vào năm 1291, khi vua Hồi giáo kéo quân đi khắp chốn và chiếm
đóng Jerusalem, ngôi nhà đột nhiên biến mất một cách bí ẩn khỏi Nazareth. Sau đó
nó lại xuất hiện không giải thích được tại thành phố Trsat, ngày nay là Croatia.
Linh mục coi sóc giáo xứ địa phương cũng “choáng váng” về sự xuất hiện bất ngờ
của ngôi nhà, và sau đó đã nhận được thông điệp của Mẹ trong mơ. Ðức Maria nói
với vị linh mục rằng, đó là ngôi nhà thơ ấu của Chúa Giêsu, và bởi vì thế nên vị
linh mục được chữa khỏi căn bệnh phải chịu đựng nhiều năm. Câu chuyện này sau đó
đã được lan truyền khắp chốn.
Các tín hữu bắt đầu hành hương đến địa điểm mới của ngôi nhà, và nhận được nhiều
ơn Chúa và phép lạ. Giới chức địa phương quyết định cử phái đoàn đến Ðất Thánh
để xác định liệu ngôi nhà thật sự đã được dời đến Trsat. Theo ghi chép, khi đến
Nazareth, họ chỉ còn tìm thấy phần móng của ngôi nhà trong nỗi bàng hoàng của
người dân xung quanh. Phần móng có kích cỡ tương đương với ngôi nhà lúc đó đã ở
Trsat (hiện nó vẫn được bảo quản tại Vương Cung Thánh Ðường Truyền Tin ở
Nazareth). Trong khi đó, nhà ở Trsat vẫn nguyên vẹn và không có dấu hiệu nào cho
thấy đã được tháo ra và xây dựng lại.
Khoảng 3 năm sau, phép màu một lần nữa lại diễn ra: Ngày 10.12.1294, ngôi nhà
được di chuyển, và đưa đến cánh rừng ở Loreto. Phép lạ đã chứng thực lời tiên
tri của thánh Phanxicô thành Assisi, ngài từng nói sẽ đến ngày Loreto trở thành
một trong những thành phố linh thiêng nhất thế giới và Ðền thánh vinh danh Ðức
Mẹ sẽ được xây dựng tại đây.
Sau đây là những điểm nổi tiếng về cấu trúc Loreto:
1. Những tảng đá dựng nên các bức tường của ngôi nhà không thuộc về Ý, mà đến từ
Nazareth ở Ðất Thánh.
2. Cửa chính làm từ gỗ cây tuyết tùng, loại không tìm thấy ở Ý mà là loại thực
vật đặc trưng của vùng Palestine.
3. Loại xi măng được dùng để kết dính các khối đá xuất hiện vào thời Chúa Giêsu,
được người Palestine dùng để xây nhà, nhưng không được sử dụng tại Ý vào thời
điểm Nhà Thánh lộ diện ở Loreto.
4. Kích thước của Nhà Thánh hoàn toàn tương đồng với phần nền bị bỏ lại ở quê
hương Nazareth.
5. Ngôi nhà nhỏ và đơn giản, giống như vào thời Chúa Giêsu.
Ðức Bà Loreto còn là thánh bảo trợ ngành hàng không vì những phép lạ liên quan
đến sự dịch chuyển huyền nhiệm của Nhà Thánh. Hiện Nhà Thánh nằm bên trong Ðền
thánh Ðức Bà Loreto, một công trình tráng lệ được khởi công dưới triều đại của
Ðức Giáo Hoàng Sixtus V.
http://www.cgvdt.vn/cong-giao-the-gioi/nha-thanh-cua-uc-me-o-loreto_a8939
Home and burial place of Saint Padre Pio in San Giovanni Rotondo
Cha Thánh Piô Năm Dấu: Cuộc đời
Cha thánh Piô sinh ngày 25-05-1887 tại Pietrelcina, được gọi tên là Francesco
Forgione. Ngài lớn lên trong một gia đình Công Giáo đạo đức. Lúc khoảng 6, 7
tuổi, ngài đã có được sự liên kết rất đặc biệt với Thiên Chúa. Ngài thường trò
chuyện với Thiên Chúa ở nơi đồng vắng. Từ thuở nhỏ, ngài có thói quen rất tốt
lành là sốt mến cầu nguyện. Ngài nhìn ngắm Chúa Giêsu trên Thánh giá và thân
thưa cùng Chúa cho mình được chia sẻ những đau đớn với Chúa.
Năm 1903, ngài vào dòng Phanxicô. Một năm sau nhận tu phục Dòng Phanxicô
Capucinô và có tên mới là Piô. Ngài được phong chức linh mục và được chuyển đến
một số nơi. Đến năm 1916, ngài được chuyển đến San Giovanni Rotondo và đã ở đây
suốt 52 năm. Cha được mọi người ngưỡng mộ vì lòng yêu mến nhiệt thành đối với
Chúa Giêsu, Mẹ Maria và được coi như là một nhà thần bí vĩ đại thời hiện đại.
Vào ngày 20/9/1918, trong lúc cầu nguyện cảm tạ sau Thánh Lễ, Cha Piô được nhìn
thấy Chúa Giêsu. Khi thị kiến ấy chấm dứt, ngài được in các dấu thánh ở tay,
chân và cạnh sườn. Sau biến cố ấy, cuộc đời ngài phức tạp hơn. Các bác sĩ y
khoa, các giới chức của Giáo Hội và những người tò mò đến xem Cha Piô. Trong năm
1924 và một lần nữa vào năm 1931, vấn đề dấu thánh được đặt ra; Cha Piô không
được phép cử hành Thánh Lễ nơi công cộng hay được giải tội. Ngài không than
trách về sự cấm cách này, mà sau đó đã được bãi bỏ. Tuy nhiên, sau năm 1924 ngài
không còn viết gì thêm nữa. Những tư liệu của ngài về sự thống khổ của Chúa
Giêsu đều được viết trước năm 1924. Sau khi được in dấu thánh, Cha Piô ít khi
rời tu viện, nhưng biết bao người đã đến thăm ngài. Mỗi buổi sáng, sau Thánh Lễ
5 giờ đầy nghẹt người, ngài nghe xưng tội cho đến trưa. Ngài dùng thời gian nghỉ
trưa để chúc lành cho người đau yếu và tất cả những ai đến gặp ngài. Sau đó ngài
lại tiếp tục giải tội. Vào lúc ấy, việc giải tội của ngài thường kéo dài 10
tiếng một ngày; người muốn xưng tội phải lấy số chờ đợi. Nhiều người nói rằng
Cha Piô biết rõ các chi tiết cuộc đời của họ mà chưa bao giờ họ tiết lộ.
Cha Pio xuất thân từ nhà nghèo nên ngài rất yêu mến người nghèo. Cha ao ước có
được bệnh xá để sau cuộc chiến sẽ cứu chữa những thương binh trở về, và cha cũng
đã được toại nguyện do tin tưởng mãnh liệt vào Đức Maria ban ơn cứu giúp.
Cha Piô nhìn thấy Chúa Giêsu trong tất cả sự bệnh
hoạn và đau khổ. Theo sự đốc thúc của ngài, một bệnh viện xinh xắn được xây trên
rặng Gargano gần đó. Ý tưởng xây cất bệnh viện được phát khởi năm 1940; một ủy
ban gây quỹ được thành lập. Năm 1946, lễ vỡ đất được bắt đầu. Việc xây cất bệnh
viện rất khó khăn về kỹ thuật vì khó kiếm được nước và phương tiện chuyên chở
vật liệu xây cất. Sau cùng, “Nhà
Chữa Trị Người Ðau Khổ” được hình thành với 350 giường bệnh. Nhiều người
tin rằng họ được chữa lành qua sự can thiệp của Cha Piô. Những ai được dự Thánh
Lễ của ngài đều cảm thấy sốt sắng; còn những người tò mò thì rất xúc động. Như
Thánh Phanxicô, đôi khi áo dòng của Cha Piô cũng bị người ta cắt xén để làm kỷ
niệm. Một trong những sự đau khổ của Cha Piô là vài lần những người thiếu đạo
đức rêu rao những điều tiên tri mà họ gán cho là của ngài. Ngài không bao giờ
nói tiên tri về các biến cố trên thế giới, và không bao giờ cho ý kiến về các
vấn đề mà ngài cảm thấy thuộc về sự quyết định của các giới chức trong Giáo Hội.
Cha Pio có nhiều kinh nghiệm về những khả năng siêu nhiên với các phép lạ kèm
theo: nhìn thấu suốt tâm hồn con người, nói tiên tri, ở hai nơi cùng một thời
điểm, hương thơm đời sống thánh thiện, biết biện phân các thần khí, ngủ ít nhưng
vẫn sống được, chữa người ta khỏi bệnh cách lạ lùng, được Chúa Giêsu và Mẹ Maria
đến thăm, nhất là hằng ngày được rước lễ với Thiên thần bản mệnh của mình.
Một trong những ân huệ siêu nhiên nổi tiếng nhất của ngài là được Chúa ghi Năm
Dấu Thánh trên thân xác vào năm 1918 khi ngài cầu nguyện trước Thánh giá. Những
vết thương đã gây cho ngài rất nhiều đau đớn và cũng rất nhiều ân ban kỳ diệu.
Trong cuốn sách “Cuộc đời cha Piô” có kể lại rằng: “Cái yên tĩnh của ban đêm đã
bao trùm tu viện khi Cha Piô còn ngồi giải tội cho các thầy. Đó là ngày 5 tháng
Tám 1918, là ngày ngài không thể quên được vì nó bắt đầu sự thống khổ đặc biệt
của ngài.
Ngài giật mình kinh hãi khi thấy một người lạ tay cầm thanh kiếm dài và mỏng
đứng ngay trước mặt. Thân thể như tê liệt, ngài không thể cựa quậy và mắt trừng
trừng theo dõi mũi kiếm mà từ đó phát ra những tia lửa. Đột nhiên, ngài thất
thanh kêu lên một tiếng lớn khi thanh kiếm như xuyên qua linh hồn ngài. Không
biết làm sao mà ngài lấy lại được bình tĩnh và giải tán các thầy đang chờ xưng
tội. Suốt đêm đó và qua một ngày và một đêm hôm sau, thân thể ngài yếu dần vì
như có lưỡi kiếm bằng lửa đang cắt thân thể ngài ra từng mảnh.
Hơn một tháng trôi qua, sau khi làm lễ vào sáng thứ Sáu, ngày 20 tháng Chín, sự
kinh hoàng và thống khổ của ngài đến tột đỉnh ngoài sức chịu đựng của con người.
Tuy nhiên, cơn ác mộng đó bắt đầu trong một giây phút thật bình thản và yên
lặng. Ngài cảm thấy buồn ngủ, như thể ngài ngủ say đến độ không còn biết gì cả.
Cái cảm giác kỳ lạ thấm dần qua từng sớ thịt và hầu như làm ngài mê đi.
Và rồi, vị khách bí ẩn đã đến trong giấc mộng êm đềm, và chính lúc đó các giọt
máu từ tay, chân và cạnh sườn của vị khách bắt đầu chẩy ra và đọng lại thành
vũng trên sàn nhà. Ngay lập tức cái êm đềm của Cha Piô tan biến và tim ngài bắt
đầu đập mạnh như muốn vỡ tung lồng ngực trong cái thân thể bất động. May mắn
thay, tất cả dịu lại một cách thật bất ngờ cũng như khi xuất hiện, và thân thể
mềm nhũn của ngài khụy xuống vũng máu.
Ngài mở mắt, những giọt nước lăn dài trên khoé mắt. Cơ thể ngài bắt đầu có cảm
giác và ngài nhận thấy tay trái của mình đang run rẩy. Ngài cố nhấc chân lên và
ngay lập tức cái đau âm ỉ trở thành nhói buốt đâm vào tay, chân và cạnh sườn
ngài. Ngài chống khủy tay ngẩng đầu dậy và nhìn vào đôi tay run lẩy bẩy. Hai bàn
tay đầy máu. Nhìn vào thân thể, ngài thấy một bên áo dòng ướt đẫm. Đôi mắt ngài
tiếp tục nhìn xuống. Và đôi chân ngài cũng đỏ máu. Toàn thân ngài run lên vì sợ
hãi. Ngài muốn cất tiếng kêu cứu nhưng cổ họng như nghẹn lại, và ngài há hốc mồm
để thở.
Cơn ác mộng tiếp diễn. Có một động lực nào như giục ngài đứng dậy, đi về phòng
trước khi các linh mục trong tu viện trở về và có thể bắt gặp. Ngài cố nhấc mình
lên, và thân thể quặn đau theo từng bước. Không hiểu làm sao mà ngài có thể lết
qua cái hàng lang dài để về đến phòng. Ngài ngã vật xuống giường trong đau đớn
và sợ hãi. Ngài rên rỉ, "Xin giúp con. Xin Chúa giúp con để hiểu."
Hơi thở ngài đã đều hòa, nhưng cơn đau vẫn mãnh liệt. Khi đưa tay sờ vào cạnh
sườn, ngài cảm thấy vết máu trên áo dòng ngày càng lan rộng, như bị xuất huyết
tự bên trong. Đôi mắt mở to vì sợ hãi, ngài ngồi dậy và xem xét vết máu trên áo,
tự hỏi không biết mình có chết vì vết thương này hay không. Ngài cầu xin, "Xin
đừng để con khiếp sợ."
Những giây phút chậm chạp trôi qua. Từ từ ngài lấy lại bình tĩnh và xem xét các
vết thương. Không nghi ngờ gì cả, đó là những vết thương thật. Đó không phải là
ác mộng hay ảo giác. Bắt đầu ngài nhận ra sự thật. Ngài được in năm dấu thánh là
những vết thương có hình dạng và vị trí giống như các vết thương của Đức Kitô.
Tâm trí ngài từ từ mở ra với thực tại, và cảm thấy khuây khỏa khi biết rằng các
vết thương đó không nguy hiểm đến tính mạng. Nước mắt ngài tuôn tràn, và cảm tạ
Thiên Chúa…
Cha Thánh Piô Năm Dấu: Đền Thánh và Nhà Cứu Tế Đau Thương
Cha Piô chết vào năm 1968, và khi mồ của ngài được khai quệt lên vào năm 2008,
40 năm sau, thì thấy vẫn ở trong tình trạng tốt đẹp, dù nó có bị tan rữa. Thân
thể của ngài hiện nay được trưng bày trong ngôi mộ ở Nhà Thờ Đức Mẹ Ban Ơn
(Santa Maria delle Grazie). Nhà thờ này đã được hoàn thành khi Cha Piô còn sống
để đáp ứng số hành hương càng ngày càng đông. Ngày nay có khoảng 7 triệu khách
hành hương hằng năm đến hành hương.
Tuy nhiên, để đáp ứng lượng khách hành hương khổng lồ này mà ngôi Thánh Đường
Đức Mẹ Ban Ơn ngày nay hoàn toàn khác với những gì Cha Thánh Piô biết đến khi
còn sống. Trước hết là mặt tiền của nó hoàn toàn vừa mới mẻ vừa lớn rộng hơn, và
kiến trúc mới bao gồm cả "ngôi nhà thờ cũ" lẫn "ngôi nhà thờ rộng lớn hơn". Hiện
nay một ngôi Nhà Thờ Thánh Piô mới và to lớn ở đằng sau và hơi thấp hơn cấu trúc
bao gồm 2 nhà thờ được nới rộng trên đây, Nhà Thờ Thánh Piô có thể chứa được 7
ngàn người, chưa kể bên ngoài quảng trường dọc theo nhà thờ còn có thể chứa thêm
cả ngàn người nữa.
Ở đằng trước và bên phải của cấu trúc nới rộng bao gồm 2 nhà thờ như được đề cập
đến trên đây là một nhà thương lớn 5 tầng lầu. Bệnh viện này là Nhà Cứu Tế Đau
Thương / the House for the Relief of Suffering, có 350 giường và đã từng là giấc
mơ của Cha Piô từ lâu. Vào năm 1940, Cha Piô và 2 vị bác sĩ quyết định xây dựng
một bệnh viện như thế. Công cuộc được bắt đầu từ năm 1947, và bắt đầu phục vụ từ
năm 1954, cho tới nay vẫn là một bệnh viện được trân trọng vào bậc nhất.
Chính bệnh viện này chứng thực với nhiều người về tình trạng cân bằng
thiêng liêng của Cha Piô. Mặc dù ngài được cho rằng đã thực hiện được hơn cả
ngàn cuộc chữa lành qua năm tháng, ngài vẫn quyết tâm xây dựng bệnh viện này.
Ngôi Nhà Cứu Tế Đau Thương ấy cũng còn cho thế giới thấy rằng Thiên Chúa có thể
chữa lành cho nhân loại đau thương về thể lý qua khả năng chữa trị của các bác
sĩ và ý tá, cũng như nhờ sự nâng đỡ và chăm sóc của cộng động, gia đình và thân
bằng quyến thuộc của bệnh nhân.
https://www.vaticannews.va/en/pope/news/2018-03/pope-francis-padre-pio-tomb-s-giovanni-rotondo-.html
https://www.padrepiodapietrelcina.com/en/church-padre-pio-convent-san-giovanni-rotondo/
Những năm của tuổi thơ ấu - Cha
Pio sinh tại xã Pietrelcina, thuộc tỉnh Benevento (miền nam nước Ý) ngày 25
tháng 5 năm 1887, trong gia đình nông thôn, rất sùng đạo. Thân phụ tên là Grazio
Forgione, mẹ là Giuseppina Di Nunzio. Trong ngày rửa tội, Cha Piô
nhận tên thánh Francesco (Phanxicô).
Hồi năm tuổi, Francesco đã mơ ước trở
thành một Tu sĩ Dòng Phanxicô-Cappucin với bộ râu, hằng ngày từ
nhà này qua nhà khác xin bố thí cho Tu viện. --(Ðây là luật lệ của các Dòng hành
khất thời Trung cổ)--. Một ngày kia, trước bàn thờ chính của nhà thờ
Pietrelcina, chính Francesco kể lại là mình thấy Chúa Giêsu
lại gần và đặt tay trên đầu, như dấu hiệu yêu thương, khích lệ. Francesco cũng
thấy Thiên Thần bản mệnh, luôn luôn đồng hành và Ðức Mẹ Maria hiện ra. Francesco
thấy cả Quỉ dữ dưới những hình ảnh rất ghê tởm.
Các hiện tượng này không thể giải thích
như những tưởng tượng của tuổi trẻ, nhưng Francesco nghĩ rằng: những hiện tượng
như vậy cũng xẩy đến cho các bạn cùng tuổi mình.
Các người trong gia đình hết sức ngạc
nhiên về những vụ đánh tội của Francesco ban đêm. Francesco nghĩ rằng: để thánh
hiến cuộc đời cho Chúa, phải gần gũi hết sức có thể Chúa Giêsu. Một ngày kia, Bà
mẹ Giuseppina không thấy con, liền chạy đi tìm. Francesco trả lời:
"Con phải đánh mình con như người Do thái xưa kia đã đánh đập
Chúa Giêsu, đến độ làm Máu của Người chảy ra". Nhiều lần Francesco ngủ trên sàn
nhà lát đá cẩm thạch, gối đầu trên một viên đá, bởi vì Francesco nghĩ rằng: phải
tự gánh tội trần gian theo gương Chúa Giêsu. Ðây là một ơn gọi riêng, ơn gọi đau
khổ; nếu không, Francesco nghĩ rằng: sẽ đi đến chổ hư mất đời đời. Francesco sớm
ý thức về ơn gọi chịu đau khổ này.
Sau lễ Ba Vua năm 1903, Francesco xin vào
Nhà Tập Dòng Cappucin. Tâm hồn Francesco bị xúc động: "Lạy Chúa con - Francesco
viết - ai sẽ có thể tả lại được cuộc tử đạo diễn ra trong tâm hồn con? Con
cảm thấy tiếng nói của bổn phận phải vâng lời Chúa, ôi lạy Chúa của con, Chúa
nhân hậu của con! Nhưng thù địch của Chúa và của con hành hạ con, muốn đập tan
các xương con, nhạo cười con, đảo lộn mọi sự trong con!" Trong tình trạng này,
Francesco được nhìn thấy lần thứ nhất "một người uy nghi với vẻ xinh
đẹp khác thường", người này mời gọi Francesco "chiến đấu như
một binh sĩ anh dũng" chống lại một quái vật, xem ra không thể thắng được, nhưng
Francesco, với sự giúp đỡ của nhân vật trên trời kia, đã thành công trong việc
xua đuổi quái vật này".
Ngày 6 tháng Giêng năm 1903, lúc 15 tuổi,
Francesco được nhận vào Tập viện tại Morcone, cách Molise ít cây số. Sau hai
tuần tĩnh tâm, Francesco được mặc áo Dòng và nhận tên dòng là "Pio da
Pietrelcina", để kính nhớ Ðức Thánh Pio V, Giáo Hoàng, và cũng
kính nhớ Ðức Thánh Giáo Hoàng Pio X (1903-1914), lúc đó vừa được bầu làm Giáo
Hoàng. Thời gian của Tập viện là thời gian rất gay go theo Luật Dòng Phanxicô.
Pio đã trải qua thời kỳ thử thách này một cách gương mẫu. Việc chiến đấu với
Satan càng ngày càng gia tăng đến độ từ những phòng kế bên phòng của Pio, các Tu
sĩ khác thường nghe thấy những vụ đập đánh và những tiếng động. Lúc các thầy
chạy đến xem, thì thấy Pio nằm bất tỉnh trên sàn nhà. Sau những năm tập
viện,Thầy Piô tuyên khấn tạm, và ngày 27 tháng giêng năm 1907, thầy khấn trọng
thể.
Thầy Pio lúc đó chưa phải là linh mục, đã
được ơn hiện diện tại hai nơi một lúc, như chính Thầy kể lại với Cha Agostino:
"Một ngày kia (ngày 18 tháng Giêng năm 1905) con thấy xẩy ra một sự kiện khác
thường, trong lúc con đang ở trong nhà thờ (nơi hát kinh) với Thầy Anastasio,
con cũng thấy mình ở trong nhà của một gia đình, nơi đây người cha
đang hấp hối, chính trong lúc đó một trẻ em cũng sắp ra đời. Ðức Mẹ Maria hiện
ra nói với con: "Mẹ phú thác đứa nhỏ này cho con... Con đừng sợ hãi: đứa nhỏ này
một ngày kia sẽ đến với con, nhưng trước đó, con sẽ gặp đứa nhỏ
này tại San Pietro". Ngay sau đó, con lại thấy mình ở trong nhà
thờ hát kinh". Ðứa nhỏ này tên là Giovanna Rizzani. Sau này sẽ trở nên người con
thiêng liêng của Cha Pio và thuộc Dòng Ba Phanxicô.
Sức khỏe thầy Pio rất kém, không cho phép
tiếp tục đời sống trong Tu viện được. Thầy bị sốt liên miên, nhưng không giải
thích được căn cớ của chứng bệnh này. Thầy trở về nhà để chữa bệnh
và ở lại từ năm 1909 đến 1916, sống ngoài Luật phép Dòng, trong tình trạng không
thể chấp nhận được theo Luật Dòng Phanxicô. Cha Agostino và Cha Benedetto, mà
Thầy vẫn liên lạc thường xuyên bằng thư tù, tin chắc rằng: Thầy Pio, người được
Thiên Chúa hướng dẫn, đang đi đến việc thực hiện đầy đủ một ơn kêu
gọi đặc biệt, cho dù cuộc đời của Thầy đang trở nên "một cuộc tử đạo dữ dội", do
bởi những cuộc chiến đấu thường xuyên với ma quỉ, với hậu quả đáng lo sợ là Thầy
có thể trở thành nạn nhân của những cuộc ám ảnh và tình trạng ảo tưởng.
Việc sống ngoài Tu viện đặt ra nhiều
câu hỏi. Mỗi lần trở lại Tu viện, Thầy Pio lại ngã bệnh, đến độ các Bề trên phải
đưa Thầy trở về Pietrelcina, vì ở đây xem ra Thầy lấy lại sức khỏe nhanh chóng.
Nhưng tháng Hai năm 1917, Cha Agostino mời Thầy đến thăm gia đình Cerase ở
Foggia (miền nam nước Ý), một gia đình rất sùng kính các Tu sĩ Cappucins. Người
con gái của gia đình tên là Raffaellina, lúc đó mắc bệnh nặng và xin được gặp
Thầy Pio trước khi chết. Thầy Pio trú tại Tu viện Sant'Anna ở Foggia. Tiếng đồn
về một Tu sĩ có những nhân đức khác thường, có khả năng đánh động những ai được
may mắn nghe và nói với Tu sĩ này. Và từ đó người dân bắt đầu đi lại tìm gặp
Thày Pio.
Sức nóng tại Foggia trở nên không chịu
nổi. Vì thế Cha Paolino đưa Thầy Pio đến nghỉ trong Tu viện Santa Maria delle
grazie trên một đồi cao, tại San Giovanni Rotondo. Tại đây Thầy thụ phong Linh
mục, làm mục vụ cho tới lúc qua đời. Trên phòng nhỏ dành cho ngài
có hàng chữ "Thánh giá luôn luôn sẵn sàng và chờ đợi con mọi nơi".
Ðến tuổi phải thi hành Nghĩa vụ quân dịch,
Thầy Pio đến trình diện tại Quân khu Benevento. Thầy được công nhận là đủ điều
kiện. Hết nghĩa vụ quân dịch, Thầy còn được nghỉ hai năm tại gia đình. Nhờ những
năm nghỉ nầy, Thầy được bình phục hoàn toàn, khỏi hẳn chứng bệnh sưng màn
phổi.Với sức khỏe khả quan hơn, Thầy Piô được lãnh chức linh mục tại nhà thờ
chính tòa Benevento, ngày 10 tháng 8 năm 1910, lúc 25 tuổi. Nhưng vì vấn đề sức
khỏe, Bề Trên cho phép Cha Piô ở lại gia đình cho đến năm 1916. Tháng 9 cùng năm
1916 nầy, Cha được sai đến Tu Viện Santa Maria delle Grazie, -- Thánh Maria của
Muôn Ơn Lành,-- ở San Giovanni Rotondo, và ở lại đây cho đến lúc qua đời ngày 23
tháng 9 năm 1968.
Ngày 20 tháng 9 năm 1918, lúc thánh lễ ban
sáng vừa kết thúc, và mọi người ra về, Cha Pio còn ở lại cầu nguyện trong yên
lặng và như xuất thần. Một nhân vật bí nhiệm hiện ra, tay và chân đẫm máu. Cha
Pio kể lại cho Cha Agostino và Cha Benedetto như sau: "Từ ngày đó, con bị một
vết thương chí tử. Trong thâm tâm, con cảm thấy vết thương này luôn luôn mở ra,
làm con đau đớn nhiều". Vết thương cạnh sườn bị đâm bởi một nhân vật trên trời
bằng một lưỡi dao rất dài và rất sắc ở đầu, trong lúc Cha Pio ngồi tòa giải tội
ngày 6 tháng 8 năm 1918. Cha Agostino và Cha Benedetto cho biết: Cha Pio đã sống
"cuộc thử thách của tình yêu đặc biệt: vết thương thiêng liêng của nhân vật trên
trời là dấu hiệu của tình yêu Thiên Chúa dành cho Cha". Cha Pio có cảm giác
không chịu nổi một sự đau đớn lớn lao như vậy được. Với thời gian qua đi, Cha
Pio khám phá ra những vết thương đẫm máu kia trở nên những vết thương của chính
mình. Những vết thương này mọi người đều thấy và làm cho Cha trở nên một "người
bị đóng đanh sống động". Cha muốn giấu, nhưng vết máu tiếp tục chảy ra, và anh
em trong Dòng đều thấy. Từ ngày đó, Cha phải mang găng tay bằng len mầu xám tối,
chỉ để thò ngón tay ra mà thôi, nhưng lúc đọc lời truyền phép, dâng
Mình và Máu thánh Chúa lên, găng tay được tháo ra.
Bề trên nhà và Bề trên Tỉnh
Dòng Cappucin muốn biết chắc chắn về các vết thương của Cha Pio, để đề phòng
khỏi nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng các bác sĩ và giáo sư chuyên môn chỉ có thể
giải thích được rằng: các vết thương kia không phải là những vết thương gây nên
do chứng lao phổi, cũng không phải những vết thương tự tạo nên.
Giáo sư Luigi Romanelli của Bệnh viện Barletta coi là "chứng bệnh mầu nhiệm".
Trong sự đau khổ không thể diễn tả được, Cha Pio xác nhận rằng: "Tất cả những gì
Chúa Giêsu đã chịu trong cuộc Tử nạn của Người, nay tôi cũng chịu như vậy", theo
sức có thể của một tạo vật yếu hèn, không phải vì công nghiệp của
tôi, nhưng chỉ vì lòng nhân hậu của Chúa mà thôi".
Tiếng đồn về dấu thánh của Cha Pio mỗi
ngày mỗi lan rộng các nơi. Các tín hữu tuốn đến Tu viện Santa Maria delle grazie
ở San Giovanni Rotondo. Ðời sống của Cha Pio cũng thay đổi. Cha trả lời các thư
nhận được. Cha ngồi Tòa giải tội và cử hành thánh lễ. Cha Pio trở nên như "một
mầu nhiệm cho nhiều người". Các vết thương của Cha trở nên đề tài học hỏi,
nghiên cứu, không những trong lãnh vực Y khoa, nhưng cả nơi Giáo quyền. Những vụ
xuất thần trong lúc Truyền phép và dâng Mình Máu thánh Chúa, đám đông lũ luợt
tuốn đến mỗi ngày mỗi thêm nhiều tìm Cha Pio.... Tất cả đặt ra nhiều câu hỏi.
Ngày 18 tháng 4 năm 1920, Cha Pio được Cha
Agostino Gemelli viếng thăm (Cha Gemelli là một nhà trí thức, sáng lập Bệnh viện
Bách khoa Gemelli ở Roma, thuộc Ðại học Thánh Tâm Chúa ở Milano). Cha Pio không
cho Cha Gemelli khám xét các vết thương, vì không có phép chính thức. Cha
Gemelli theo tư tưởng này là các vết thương kia không thực. Một nhận xét không
phù hợp với ý nghĩ mà Ðức Benedicto XV (1914-1922) vẫn có về Cha
Pio: "Ðây là một trong các người mà Thiên Chúa đã sai đến mỗi khi cần đến trên
thế gian này để làm cho con người trở lại". Ngày 2 tháng 6 năm 1922, những biện
pháp đầu tiên được gủi đến Cha Pio. Cha không được cử hành thánh lễ công khai,
cũng không được thư từ với cha linh hướng của mình, và với rất nhiều tín hữu từ
khắp thế giới viết cho ngài.
Trước những biện pháp giới hạn, Cha Pio
chỉ đáp lại bằng sự yên lặng và vâng phục: "Tôi là người con của sự phục tùng".
Từ năm 1923 đến 1933 Cha Pio bị kiểm soát
ngặt nghèo, Cha không được giải tội và dạy các học sinh của trường thuộc Tu viện
nữa. Cha bị hoàn toàn cô lập. Khiếm tốn, Cha đáp lại: "Tôi là người con của sự
phục tùng". Ðây chính là thái độ của một tu sĩ Cappucin. Thái độ vâng phục này
sẽ tránh được những cuộc biểu tình chống đối có thể lan rộng nơi các tín hữu vốn
sùng kính Cha Pio.
Những tố cáo chống lại Cha dần dần thấy rõ
là không có nền tảng nào cả. Từ ngày 16 tháng 7 năm 1933 (sau 10 năm), Cha lại
có thể cử hành thánh lễ công khai và năm sau trở lại tòa giải tội. Sứ mệnh của
Cha là tòa giải tội, một ơn vĩ đại của lòng thương xót Thiên Chúa. Cha còn được
ơn thấy những bí nhiệm trong tâm hồn của các người đến tòa giải tội. Nhiều lúc,
sau khi giải tội, người ta thấy cha khóc vì đau đớn. Và đây cũng là một ơn riêng
Chúa dành cho Cha, một cái nhìn siêu nhiên về tình trạng đáng thương của con
người tội lỗi. Dù sống đầy đủ thừa tác vụ linh mục, Cha Pio thỉnh thoảng bị cám
dỗ về một hồ nghi dữ dội làm Cha đau khổ nhiều: "Tôi đẹp lòng Chúa
hay không?".
Các nhóm cầu nguyện. Trong những năm 1940,
Cha Pio lãnh nhận lời mời gọi của Ðức Pio XII (1939-1958) lập các nhóm cầu
nguyện để nâng đỡ nhân loại bị chiến tranh đe dọa. Ðây cũng là những năm bắt đầu
đào móng xây cất Bênh viện "Casa del Sollievo della Sofferenza", được khánh
thành 5 tháng 5 năm 1956. Hoa kỳ và các quốc gia đồng minh cung cấp phần lớn tài
chính để xây cất Bệnh viện này, sau đệ nhị thế chiến. Số tiền gửi
đến Cha Pio thật nhiều. ÐTC đã miễn Cha khỏi lời Khấn Khó nghèo. Và sau này Cha
Pio đã trao việc quản trị và thừa hưởng gia tài cho Tòa Thánh.
Lòng sùng kính mỗi ngày gia tăng của người
dân đối với Cha Pio làm tiêu tan những thù địch trước đây. Dân chúng luôn luôn
coi Cha Pio là người của Thiên Chúa. Sau chuyến viếng thăm của Ðức Giám mục
Carlo Maccari, đại diện Tòa Thánh, Cha Pio được hoàn toàn phục hồi trong năm
1965, thời Ðức Phaolô VI, để thi hành Thừa tác vụ linh mục. Ngoài
ra, ÐTC còn cho phép Cha Pio, lúc đó đã già yếu, cử hành thánh lễ
theo lễ nghi Latinh cũ, thay vì lễ nghi mới, được cải tổ sau Công
đồng Vatican II.
Các đau khổ không lúc nào từ bỏ Cha Pio.
Vào cuối năm 1966, Cha không thể đứng để cử hành thanh lễ, bắt buộc phải ngồi
trong suốt thánh lễ. Cha cũng không thể đi từ phòng ở đến Tòa giải tội đặt trong
nhà thờ.
Ngày 20 tháng 9 năm 1968, kỷ niệm 50 năm
lãnh nhận dấu thánh. Trong dịp này, Ðại hội quốc tế
các nhóm cầu nguyện được tổ chức; nhưng Cha Pio không thể tham dự, vì ngài sắp
qua đời. Lúc 2g30 ngày 23 tháng 9 năm 1968, Cha đã tắt thở. Lúc
các Bác sĩ và các Tu sĩ mặc áo lễ cho Cha, các vết thương biến mất
hoàn toàn, không để lại dấu vết nào cả.
Năm 1982 ÐTC Gioan Phaolô II cho phép khởi
sự vụ làm án phong Chân phước cho Cha Pio và, năm 1997 (sau 15
năm), ngài công nhận nhân đức anh hùng của Cha. Ngày 2 tháng 5 năm 1999, ÐTC chủ
tế Thánh lễ tôn phong Cha lên bậc Chân phước, sau khi công nhận phép lạ do lời
bầu cử của Cha. Người được khỏi bệnh lạ lùng và tức khắc là bà Consiglia De
Martino, lúc đó điều trị tại Bênh viện ở thành phố Salerno (miền nam nước Ý).
Giảng trong thánh lễ, ÐTC nói: "Chứng tá của Cha Pio là một lời kêu gọi mạnh mẽ
về chiều kích siêu nhiên ... Vũ khí thực của Ngài là những cử chỉ thánh hằng
ngày của việc giải tội và thánh lễ, bởi vì thánh lễ là trung tâm mỗi một ngày
của Ngài".
Và Chúa nhật 16 tháng 6 năm 2002, tức sau
ba năm, chính ÐTC lại chủ tế Thánh lễ phong Hiển Thánh cho Chân phước Pio, và từ
đây Thánh Pio được tôn kính trong toàn Giáo hội. "Mirabilis Deus in Sanctis
suis", Chúa thật kỳ diệu và làm những việc kỳ diệu nơi các Thánh
của Người".
http://vntaiwan.catholic.org.tw/thanhoc/mucluc.htm
Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II và Cha Piô Năm Dấu
Thánh.
Tin Vatican (Fides, n.4145): Theo nguồn tin của
hãng thông tấn Fides, số phát hành cho ngày 30 tháng 4/1999 nầy, thì Ðức Gioan
Phaolô II đã có dịp gặp Cha Piô từ năm 1947. Lúc đó, Ðức Gioan Phaolô II còn là
Linh Mục sinh viên tại Roma, và đã đến tận San Giovanni Rotondo, để xưng tội với
cha Piô và tham dự thánh lễ của ngài. Năm 1962, với tư cách là Tổng Giám Mục
Cracovia, đến Roma tham dự các khóa họp Công Ðồng Vaticanô II, Ðức WOJTYLA đã
viết thơ cho cha Piô để xin cầu nguyện cho một người thân đang bị bệnh nặng.
Mười ngày sau, Ðức Wojtyla viết thơ cám ơn Cha Piô vì người thân đó đã đươc khỏi
bệnh. Năm 1974, Ðức Hồng Y Wojtyla đến Roma để tham dự khóa họp Thượng Hội Ðồng
Giám Mục về việc Rao Giảng Phúc Âm, từ ngày 27 tháng 9 cho đến 26 tháng 10/1974.
Ðức Hồng Y đi hành hương San Giovanni Rotondo, để cầu nguyện bên mộ của Cha Piô,
đã qua đời ngày 23 tháng 9 năm 1968. Và cuối cùng, vào năm 1987, Ðức Wojtyla đã
là Giáo Hoàng, đến thăm Bệnh Viện do cha Piô thiết lập, và viếng thăm Tu Viện
nơi cha Piô sinh sống, tại San Giovanni Rotondo. Ðức Gioan Phaolô II đã nhiều
lần lên tiếng cảm phục Cha Piô, và khen ngợi Cha như là một người có ước muốn
mạnh mẽ bắt chước Chúa Kitô.
Tuy nhiên, cha Piô cũng đã trải qua những lúc bị
hiểu lầm và bị chống đối. Năm 1920, Linh Mục Agostino Gemelli đến khám nghiệm
những "dấu thánh" nơi thân thể Cha Piô và quả quyết Cha bị bệnh thần kinh. Ðức
Cha Pasquale Gagliardi, Giám Mục Manfrêdonia, Italia, thì tố cáo cha là con
người đóng kịch lường gạt kẻ khác; Năm 1960, Tòa Thánh đã cử Linh Mục Carlo
Maccari đến tìm hiểu về những khả năng ngoại thường của Cha Piô, và kiểm soát sổ
sách tài chánh liên quan đến việc xây cất bệnh viện. Cha Piô chỉ được phục hồi
danh dự vào năm 1965, duới triều của Ðức Giáo Hoàng Phaolô VI. Cha Fidel
Gonzales, cố vấn của Bộ Phong Thánh, đã nhận định về Cha Piô như sau: "Cha Piô
đã chịu đau khổ rất nhiều, nhưng Cha chấp nhận tất cả với tinh thần đơn sơ của
một Tu Sĩ Phanxixô, và luôn giữ được niềm an vui nội tâm. Thái độ vâng phục của
cha Piô đối với Giáo Hội là một mẫu gương cho tất cả các nhà thần học ngày nay."
http://vntaiwan.catholic.org.tw/thanhoc/mucluc.htm
Ngày 16/11 - Thứ Ba
The Shrine of Padre Pio in San Giovanni Rotondo
Please see as above in November 15
The church of Santa Maria della Grazia in San Giovanni Rotondo
Please see as above in November 15
The Duomo di Gernnaro in Naples
Ngày 21/9/2008, tại thành phố cảng Naples của Ý, một lọ chứa khối chất rắn đậm
màu, được cho là máu khô của giám mục Januarius, lại một lần nữa hóa lỏng trước
ánh mắt ngỡ ngàng của dân chúng. Phép lạ “máu đông hóa lỏng” này đã xuất hiện
rất nhiều lần kể từ thời Trung Cổ cho đến nay. Hiện tượng kì lạ này tuy được
những tín đồ Công giáo sùng bái như một phép màu, nhưng vẫn còn để ngỏ một lời
giải thích thỏa đáng từ giới khoa học.
Januarius (còn gọi là Gennaro) (270-305 sau Công nguyên) vốn là một giám mục của
giáo phận Benevento (một thị trấn nhỏ gần Naples của nước Ý). Ông được phong
“Thánh bổn mạng của Naples” sau khi tử vì đạo cùng với phó tế Festus vào tháng 9
năm 305 tại Pozzuoli. Kẻ sát hại ông và các giáo dân khác chính là Hoàng đế La
Mã Dioclentianus, trong một cuộc bách hại những người theo Công giáo.
Người dân tin rằng Januarius được nhiều người tôn kính vì những nhân đức anh
hùng của ông nên Chúa đã tạo ra phép lạ làm cho máu ông luôn tươi tốt và có đủ
mọi đặc tính như khi còn sống. Ngoài truyền thuyết cho rằng một giáo dân tên
Eusebia đã giữ lại máu của Januarius khi ông bị hành hình, không có tài liệu
nào, ngay cả biên niên sử của Naples, đề cập việc lọ máu ấy được tạo ra như thế
nào. Chỉ biết rằng “phép màu” được ghi nhận lần đầu tiên vào ngày 17/8/1389.
Chiếc lọ được xem như một thánh tích nổi tiếng của Thiên Chúa giáo, đặt trang
nghiêm trong nhà thờ chính tòa Naples. Bề ngoài trông lọ khoảng 60ml, chứa một
khối vật chất đặc khô chiếm nửa bình. Cứ đến các tháng 5, 9, 12, khi thực hiện
nghi lễ truy tôn Thánh Januarius, chiếc lọ được đưa ra, xoay chuyển để “phép
màu” xuất hiện: khối vật chất ấy hóa lỏng ra, có khi ngay lập tức, có khi từ từ,
vài giờ đến vài ngày… sau đó đông lại như cũ. Không những thế, một số hiện tượng
khác cũng được ghi nhận như: sôi, sủi bọt, đổi màu từ đỏ thẫm sang đỏ hồng, thậm
chí khi cân thấy tăng khối lượng!!! Có lúc khối ấy không hóa lỏng hết mà nổi
thành viên nhỏ trên lớp chất lỏng.
Về việc khối vật chất ấy có thật sự là máu không, các nhà khoa học đã dùng máy
đo quang phổ chiếu vào lọ vào các năm 1902 và 1989. Cả hai lần đều xác nhận dấu
vết của hemoglobin bên trong và có đầy đủ tính chất của máu người.
Thế nhưng vẫn còn những hiện tượng khác gây khó hiểu cho các nhà khoa học. Thứ
nhất, máu cần có một bề mặt nhám, xù xì để kết tụ lại thành cục, nhưng ở đây máu
hóa lỏng rồi đông lại trong một chiếc lọ hoàn toàn trơn nhẵn. Thứ hai, cục máu
đông khi đã vỡ thì không thể tái tạo lại được nếu không bổ sung thêm yếu tố thứ
nhất và các chất giúp đông máu. Thứ ba, máu chỉ xảy ra “phép màu” vào ba tháng
nhất định trong năm và… trước công chúng.
Bà Margheritta Hack, giáo sư vật lý thiên thể tại đại học Trieste của Ý lại cho
rằng phép lạ ấy chỉ là một hiện tượng vật lý bình thường: tính xúc biến. Tính
xúc biến hay còn gọi là tính “sol - gel thuận nghịch” - được xem là lời giải
thích hợp lý nhất cho đến nay. Hiện tượng này xảy ra khi một chất từ dạng rắn,
bán rắn có thể hóa lỏng và ngược lại nhờ khuấy, rung lắc hay các tác động cơ học
nói chung. Vì vậy có thể xem hành động xoay chuyển chiếc lọ của vị tổng giáo
phận Naples là nhân tố gián tiếp khiến máu trong bình hóa lỏng.
Mặc dù vậy, những chứng cứ khoa học có vẻ không làm lay chuyển lòng tin mạnh mẽ
của những tín đồ Công giáo vào “phép màu trăm năm” này. Họ tin tưởng rằng hằng
năm, nếu máu hóa lỏng là báo hiệu một năm an lành, còn nếu máu không lần nào hóa
lỏng là điềm gở của thiên tai. Điển hình là năm 1527, máu đông không hóa lỏng và
10,000 người tử vong trong một trận dịch quái ác. Đến năm 1980, một lần nữa
“phép màu” không xảy ra và 3,000 người đã thiệt mạng trong một trận động đất
thuộc miền Nam nước Ý.
Còn bạn, bạn tin vào khoa học hay cho rằng “phép màu” này có thật? (Tường
Vy)
Tại nhà thờ chính tòa Đức Mẹ lên trời, Đức Hồng y Crescenzio Sepe, giám mục
Napoli, đã tuyên bố với các tín hữu hiện diện bên trong và bên ngoài nhà thờ:
“Các bạn thân mến, các tín hữu quý mến, một lần nữa tôi vui mừng và xúc động báo
tin với anh chị em rằng máu của thánh tử đạo Januarius, bổn mạng của chúng ta,
đã hóa lỏng.” Đức Hồng y cũng cho biết máu đã hoàn toàn hóa lỏng, không có bất
kỳ cục máu đông nào.
Đức Hồng y khẳng định phép lạ là “một dấu hiệu của tình yêu, sự tốt lành và lòng
thương xót của Thiên Chúa, và sự gần gũi, tình bạn, tình huynh đệ của thánh
Januarius của chúng ta.”
Thánh Januarius, tên tiếng Ý là thánh Gennaro, là thánh quan thầy của Napoli.
Ngài là giám mục của thành phố này vào thế kỷ thứ 3. Ngài đã tử đạo trong cuộc
bách hại của hoàng đế Diocletianus. Xương và máu của ngài được kính trong nhà
thờ chính tòa Napoli.
Máu thánh nhân hóa lỏng ít nhất 3 lần mỗi năm: ngày lễ kính thánh nhân 19/9; thứ
Bảy trước ngày Chúa Nhật đầu tiên của tháng 5; và ngày 16/12, là ngày kỷ niệm
núi lửa Vesuvius phun trào.
Đối với người dân địa phương, phép lạ là một dấu hiệu tốt cho thành phố Napoli
và miền Campania của nó. Ngược lại, nếu phép lạ không xảy ra sẽ bị xem là dấu
hiệu của chiến tranh, nạn đói, bệnh tật hoặc các thảm họa khác.
Khi phép lạ xảy ra, khối máu khô, có màu đỏ ở một mặt của bình đựng thánh tích
trở thành chất lỏng bao phủ gần như toàn bộ mặt kính. Lần gần đây nhất máu không
hóa lỏng là vào tháng 12/2016.
Phép lạ đã xảy ra trong khi Napolis bị phong tỏa vì đại dịch virus corona vào
ngày 2/5. Đức Hồng Y Sepe đã dâng thánh lễ truyền chiếu trực tiếp và ban phước
cho thành phố với thánh tích của máu hóa lỏng. Ngài tuyên bố: “Ngay cả trong
thời gian đại dịch virus corona, qua lời chuyển cầu của thánh Januarius, Chúa đã
cho máu hóa lỏng!”. (CNA 19/09/2020)
Nhà Thờ Chính Tòa Naple - Duomo
di Napoli,
hay Nhà Thờ Chính Tòa Đức Mẹ Mông Triệu
- Cattedrale
di Santa Maria Assunta,
và được biết phổ thông nhất là Vương Cung Thánh Đường Thánh Januarius để tôn
kính vị thánh quan thày của thành phố Naple này.
Ngôi vương cung thánh đường hiện nay được Vua Charles I of Anjou ủy thác. Công
trình xây cất được tiếp nối bới vị thừa kề vua là Charles II (1285-1309), và
được hoàn tất vào đầu thế kỷ thứ 14 dưới triều Robert of Anjou. Nó được xây trên
nền của hai đền thờ Kitô giáo ban đầu. Dinh của vị Tổng Giám mục dính liền với
vương cung thánh đường
Ngôi thánh đường này chất chứa một lọ máu của Thánh Januarius, được trưng ra
ngoài một năm 3 lần, vào Thứ Bảy Đầu Tháng 5, vào ngày 19/9 và ngày 16/12, thời
điểm máu khô thường hóa loãng. Bằng không thì thường được coi là dấu hiệu bất
hạnh sẽ xẩy ra cho thành phố Naple.
Một giả thuyết gần đây của
Garlaschelli, Ramaccini và Della Sala đó là cái lọ
đựng máu này chứa một thứ được gọi là thixotropic gel,
tức là
một loại gel hoặc chất lỏng đặc hoặc nhớt trong điều kiện tĩnh sẽ chảy theo thời
gian khi bị lắc, kích động, ứng suất cắt hoặc áp lực khác. Sau đó, chúng sẽ mất
một thời gian cố định để trở lại trạng thái nhớt hơn. Vấn đề được đặt ra ở đây
là tại sao cứ vào 3 ngày nhất định trong năm thì máu khô loãng ra, dù lọ máu khô
này không bị ai lắc hay đụng chạm đến.
Vào ngày 21/3/2015, máu trọng lọ đựng này hóa loãng trong thời gian kính viếng
của ĐTC Phanxicô. Sự kiện này có thể được hiểu rằng vị thánh ưu ái vị giáo hoàng
này, và cụng có thể là dấu báo trước cho thấy vị giáo hoàng này có thể sẽ bị đổ
máu hay chăng? Trong khi đó, thời điểm ĐTC Biển Đức XVI thăm viếng vào năm 2007
thì máu lại không loãng ra!
The Benedictine Abbey of Montecassino in Montecassino
Monte Cassino (today
usually spelled Montecassino)
is a rocky hill about 130 kilometres (80 mi) southeast of Rome,
in the Latin
Valley,
Italy, 2
kilometres (1+1⁄4 mi)
west of Cassino and
at an elevation of 520 m (1,710 ft). Site of the Roman town of Casinum,
it is best known for its abbey,
the first house of the Benedictine
Order,
having been established by Benedict
of Nursia himself
around 529. It was for the community of Monte Cassino that the Rule
of Saint Benedict was
composed.
The first monastery on
Monte Cassino was sacked by the invading Lombards around
570 and abandoned. Of the first monastery almost nothing is known. The second
monastery was established by Petronax
of Brescia around 718, at the suggestion of Pope Gregory
II and with the support of the Lombard Duke Romuald
II of Benevento. It was directly subject to the pope and many monasteries in
Italy were under its authority. In 883 the monastery was sacked by Saracens and
abandoned again. The community of monks resided first at Teano and
then from 914 at Capua before
the monastery was rebuilt in 949. During the period of exile, the Cluniac
Reforms were introduced into the community.
The 11th and 12th centuries were the abbey's golden age. It acquired a large
secular territory around Monte Cassino, the so-called Terra
Sancti Benedicti ("Land of Saint Benedict"), which it
heavily fortified with castles.
It maintained good relations with the Eastern
Church, even receiving patronage from Byzantine
emperors. It encouraged fine art and craftsmanship by employing Byzantine
and even Saracen artisans. In 1057, Pope Victor
II recognised the abbot of Monte Cassino as having precedence
over all other abbots. Many monks rose to become bishops and cardinals, and
three popes were drawn from the abbey: Stephen
IX (1057–58), Victor
III (1086–87) and Gelasius
II (1118–19). During this period the
monastery's chronicle was written by two of its own, Cardinal Leo
of Ostia and Peter
the Deacon (who also compiled the cartulary).
By the 13th century, the monastery's decline had set in. In 1239, the Emperor Frederick
II garrisoned troops in it during his war with the Papacy. In
1322, Pope John
XXII elevated the abbey into a bishopric but this was
suppressed in 1367. The buildings were destroyed by an earthquake in 1349, and
in 1369 Pope Urban
V demanded a contribution from all Benedictine monasteries to
fund the rebuilding. In 1454 the abbey was placed in
commendam and in 1504 was made subject to the Abbey
of Santa Giustina in Padua.
In 1799, Monte Cassino was sacked again by French troops during the French
Revolutionary Wars. The abbey was dissolved by the Italian government in
1866. The building became a national monument with the monks as custodians of
its treasures. In 1944 during World
War II it was the site of the Battle
of Monte Cassino and the building was destroyed by Allied
bombing. It was rebuilt after the war.
After the reforms of the Second
Vatican Council the monastery was one of the few remaining territorial
abbeys within the Catholic
Church. On 23 October 2014, Pope Francis applied
the norms of the motu
proprio Ecclesia Catholica of Paul
VI (1976)[1] to
the abbey, removing from its jurisdiction all 53 parishes and reducing its
spiritual jurisdiction to the abbey itself – while retaining its status as a
territorial abbey. The former territory of the Abbey, except the land on which
the abbey church and monastery sit, was transferred to the diocese
of Sora-Cassino-Aquino-Pontecorvo.[2][3] Pope Francis at
the same time appointed Father Donato Ogliari as the new Abbot who will serve as
the 192nd successor of Saint Benedict.[4] As
of 2015, the monastic community consists of thirteen monks.[5]
Ngày 17/11 - Thứ Tư
Audience with Our Holy Father in Vatican
Xin LTXC cho phái đoàn hành hương TĐCTT chúng con, như chúng con đã đệ trình
thỉnh nguyện thư cho phủ giáo hoàng,
được các vị chấp nhận và sắp xếp ở một chỗ nào nhất định (như các tấm hình trên
đây)
để ĐTC ghé đến ban phép lành cho chúng con trước buổi triều kiến chung Thứ Tư
17/11/2021
Santo Spirito in Sassia
Nhà Thờ Thánh Linh Saxony - The church of Santo Spirito in Sassia ở Roma gần
Quảng trường Thánh Phêrô. Nó chẳng những nổi tiếng vì vẻ đẹp của nó với phong
phú trang hoàng (với các bức họa, những bức tranh tường v.v.) mà còn có một
chiều dài lịch sử mang lòng thương xót đến cho tinh thần và thể xác của nhân
loại.
Ngay từ thế kỷ thứ 8 đã có một nhà thờ ở vị trí này, được gọi là Santa Maria ở
Sassia, cung hiến cho Đức Trinh Nữ. Tên của ngôi nhà thờ ấy xuất phát từ "ngôi
trường Saxon" - nơi khách hành hương từ Bắc Âu, từ quốc gia Saxon, được trợ giúp
về tinh thần cũng như vật chất. Vào năm 1198, theo yêu cầu của ĐTC Innocent III,
Nhà Thương Thánh Linh đầu tiên ở Âu Châu đã được xây dựng cạnh nhà thờ này. Vị
Giáo hoàng này ủy thác việc xây cất và trông coi công trình này cho Guido di
Montpellier, vị sáng lập Tình Huynh Đệ Bệnh Viện Thánh Linh Pháp quốc. Giáo Hội
và Bệnh Viện Thánh Linh này rất được khen tặng chẳng những nơi cư dân Roma mà
còn nơi khách hành hương nữa. Việc chăm sóc của bệnh viện này đã được thậm chí
cả Luther công nhận, cho dù nhân vật này bấy giờ, trong thời gian ở Roma, đã dữ
dội phản chống Tòa Thánh, ngoài trừ bệnh viện này.
Ngôi Nhà Thờ Thánh Linh này được tái thiết bơi ĐTC Sixtus IV để mừng Năm Thánh
1475, sau đó bởi ĐTC Phaolô III, vị đã ủy thác công trình này cho Antonio de
Sangallo. Bên trong nhà thờ còn có một số nhà nguyện cả ở bên phải lẫn bên trái,
tất cả đều được trang hoàng đẹp đẽ. Nhà nguyện thứ ba ở bên phải hiện nay được
cung hiến cho LTXC cũng như cho Thánh Faustina. Trong nhà nguyện này có tấm hình
Chúa Giêsu Thương Xót của P. Moskal năm 1994, bức tượng Thánh Faustina, và hộp
hài tích của ngài do ĐTC Gioan Phaolô ban tặng sau lễ phong hiển thánh cho ngài.
Trước kia, nguyện đường này được dâng kính Thánh Linh và Thánh Philiphê Neri.
Những bức họa thế kỷ 16 bao gồm 4 vị thánh ký, và ở trên các trụ cột có các hình
của 4 vị đại tiến sĩ Hội Thánh (Augustino, Athanasiô, Ambrosio và Gioan
Chrysostom). Ở cái vòm, được chia làm 3 phần, có các bức họa cho thấy tổ phụ
Abraham với các thiên thần, Tobia chữa mắt cho cha mình và Eshia chưa quan
Naaman khỏi bị phong cùi. Ở các bên của bàn thờ có những bức họa Chúa Giêsu phục
quang cho người mù và chữ lành một người bị liệt bại.
ĐTC Gioan Phaolô II đã chỉ định Nhà Thờ Thánh Linh Sassia là Trung Tâm Linh Đạo
Thương Xót từ ngày 1/1/1994. Cha Josef Bart đã làm Chánh Xứ của nhà thờ này từ
ngày 1/3/1993. Từ ngày phong chân phước cho nữ tu Faustina, nhà thờ này cũng
được phục vụ bởi các nữ tu cùng dòng với tân chân phước này, đó là các nữ tu
Dòng Đức Mẹ Thương Xót. Trước khi xẩy ra đại dịch 2020 thì dân chúng qui tụ lại
vào lúc 3 giờ chiều để lần Chuỗi Thương Xót, như lời tường thuật của vị chánh xứ
nay là đức ông trên đây: "Vào giờ của LTXC... nhà thờ này thực sự tràn đầy những
tâm hồn - giới trẻ, bệnh nhân, các cặp vợ chồng, và những ai gặp gian nan khốn
khó về vấn đề luân lý, đến van xin LTXC".
Vào dịp Lễ LTXC 1995, 1 năm sau khi nguyện đường của bệnh viện trở thành Trung
Tâm Linh Đạo LTXC, Thánh GH Gioan Phaolô II đã nói về Nhà Thờ Santo Spirito in
Sassia như sau: "Đặc biệt là hôm nay tôi đã có thể dâng lời cảm tạ Thiên Chúa ở
ngôi Nhà Thờ Santo Spirito in Sassia đây, một nhà thờ gắn liền với bệnh viện
cùng tên gọi, mà giờ đây trở thành một trung tâm chuyên môn cho việc chăm sóc
bệnh nhân, cũng như để cổ võ linh đạo LTXC... Các lời nguyện cầu cùng với
hoạt động được thực hiện nơi việc liên lỉ chăm sóc sức khỏe về cả thân xác lẫn
tâm linh thật là quan trọng và hợp thời ở chính nơi đây, sát ngay với một bệnh
viện cố xưa này".
Trong mùa đại dịch covid-19 toàn cầu kéo dài từ đầu năm 2020 cho tới nay, ĐTC
Phanxicô đã cử hành Lễ LTXC 2020 (ngày 19/4) và 2021 (ngày 11/4) tại nhà thờ
này. Trong bài giảng cho Lễ LTXC 2020, ĐTC Phanxicô đã kết thúc bài giảng của
mình như sau:
"Chúng ta hãy đón nhận thời điểm
thử thách này như là một dịp để sửa soạn cho tương lại chung của chúng ta, một
tương lai cho tất cả mọi người không loại trừ bất cứ một ai. Vì không có một cái
nhìn bao gồm tất cả thì cũng sẽ không có tương lai cho bất cứ một ai đâu. Hôm
nay, tình yêu thương chân thành và giải giới của Chúa Giêsu đã hồi sinh tấm lòng
người môn đệ của Người. Như tông đồ Toma, chúng ta hãy chấp nhận lòng
thương xót, ơn cứu độ của thế giới này. Chúng
ta hãy chứng tỏ lòng thương xót với những ai dễ bị tổn thương nhất; vì chỉ có
thể chúng ta mới xây dựng được một thế giới mới thôi".
Trong bài giảng năm 2021, ngài cũng kết thúc bài giảng của ngài như sau:
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy để cho mình được canh tân bởi thứ bình an,
ơn tha thứ và các thương tích của Chúa Giêsu xót thương nhân hậu. Chúng
ta hãy xin ơn trở thành các chứng nhân của lòng
thương xót. Chỉ có thể đức tin của chúng ta mới sống động và đời sống của chúng
ta mới được hiệp nhất nên một. Chỉ có thế chúng ta mới có thể công bố Phúc Âm
của Chúa, Phúc Âm của lòng thương xót vậy.
The Catacombs in Rome
A little history of the Catacombs
The Catacombs of Rome are underground galleries used for centuries as
cemeteries. The catacombs began to take place in the 2nd century and were not
finished until the 5th century. Here the pagan citizens, Jews and the first
Christians of Rome were buried.
The word catacombs means "next to the quarry", comes from the fact that the
first excavations made to be used as a burial site were carried out on the
outskirts of Rome, next to the ground of a quarry. Christians did not share the
heathen tradition of incinerating bodies and to solve the problems of lack of
space and the high cost of land, these enormous cemeteries were created
underground.
The Catacombs are made up of an infinity of underground tunnels that form
authentic labyrinths of kilometers along which several rows of rectangular
niches were excavated. The corpses were wrapped in a sheet and placed in these
niches that later were closed with tombstones of marble or cooked clay where the
name of the deceased was engraved with a Christian symbol.
What are the Catacombs nowadays?
In the city of Rome there are more than sixty catacombs composed of kilometers
of underground tunnels in which thousands of tombs are found. Currently only 5
of them are open to the public:
Catacombs of San Sebastiano are in Via Appia Antica, 136. They are 12 km long
and take the name of San Sebastiano a soldier who was martyred for having
converted to Christianity.
Catacombs of San Calixto are in Via Appia Antica, 110/126. They have a network
of 20 km of galleries and house the tombs of 16 pontiffs and dozens of Christian
martyrs.
Catacombs of Priscilla are located in Via Salaria, 430. In its interior are
conserved some frescoes of importance for the history of art as the first
representations of the Virgin Mary.
Catacombs of Domitilla are located in Via delle Sette Chiese, 280. These
catacombs of more than 15 km were discovered in 1593 and take their name from
the granddaughter of Vespasiano.
Catacombs of Saint Agnes are located in Via Nomentana, 349. Saint Agnes was
buried in these catacombs after having been tortured for her Christian faith,
hence her name.
Curiosities of the Catacombs
Did you know that the Catacombs were the ancient underground cemeteries used by
the Christian and Hebrew communities in the Rome area? The Christian catacombs
are the most numerous and had their beginnings in the 2nd century and were
extended until the first half of the 5th century.
Did you know that according to the Roman law of the time it was forbidden to
burial the dead in the interior of the city? For this reason all the catacombs
were located outside the walls of the city. These places were a shelter apart
and hidden underground where Christians could burial their own, using freely
Christian symbols.
Có nhiều người thắc mắc: Các hoàng đế Roma thay phiên nhau cấm đạo suốt 3 thế kỷ
cho đến hoàng đế Constantino, năm 312 mới ban hành sắc chỉ cho tự do giữ đạo và
truyền đạo. Vậy thì các giáo hữu ở 3 thế kỷ đầu giữ đạo như thế nào? Họ giữ đạo
một cách âm thầm kín đáo trong những hang toại đạo. Họ kiên cường tuyên xưng đức
tin trước khi bị phanh thây nơi hí trường. Họ tìm cách liên lạc và nhận ra nhau
qua những đấu hiệu Kitô hữu mà chúng ta còn lưu truyền và ngưỡng mộ cho đến ngày
nay
Dấu hiệu để Kitô hữu nhận ra nhau cũng như tìm đến nơi có thánh lễ hình con cá.
Con cá, tiếng Hy lạp là ICHTHUS, khi ghép các chữ đầu tiên lại chúng ta có câu:
“Iesùs Christos Theòu Uiòs Soter" có nghĩa "Ðức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa Ðấng
Cứu Thế” Kitô hữu chỉ cần theo hình con cá do ai vẽ đó và tìm đến hang toại đạo
hay nơi vắng vẻ có thánh lễ để rước lấy Mình Thánh Chúa. Na ná như vậy, ngày nay
người ta theo dấu chữ H để tìm đến bệnh viện (Hospital). Thời cấm cách, một lời
thốt ra vô ý có thể bị bắt và bị giết chết. Người ta không thể hỏi người khác
công khai: Có phải anh chị là người công giáo không? Muốn nhận ra nhau, người ta
vẽ hình con cá bằng tay quơ trên không hay bằng chân vẽ trên đất…. người kia nếu
là Công Giáo sẽ vẽ hình con cá đáp lại… thế là họ nhận ra nhau là Kitô hữu. Cũng
thế, thời cấm đạo ở Việt Nam, người Công Giáo miền Bắc và Miền Trung chạy vào
miền Nam và sống thật xa trong những vùng hẻo lánh. Họ tạo thành HỌ ĐẠO, những
người có đạo sống như họ hàng. Họ gọi nhau bằng anh bảy, Chị tám hay Cô
ba….Người trong họ dạo biết ai là anh bảy…. nhưng không ai ngoài họ biết anh bảy
là ai…. Nhờ vậy người còn sống và đạo còn tồn tại.
Toại đạo, hay "Catacombe" phát xuất từ tiếng Hy lạp "Kata cumbas" sát nghĩa là
“hầm” hay “hố”. Người ta đào hố chôn người chết… người chết càng nhiều… hố đào
càng sâu và nới rộng thành những hầm mộ dưới lòng đất. Sau cùng toại đạo là
những nghĩa trang của người Công Giáo đào sâu dưới lòng đất làm nơi “ngủ chung
với nhau” sau khi chết. Chúng ta biết người công giáo thời xưa, không thích gần
hay chung chạ với người ngoại giáo kể cả khi sống và khi chết. Nên vào cuối thế
kỷ II, họ quyết định xây các nghĩa trang riêng để chôn cất các tín hữu qua đời,
như trong một "nhà ngủ chung", và từ đó phát xuất ra từ "koimeteria", mà chúng
ta dịch là nghĩa trang. Nên đất thánh Công Giáo bắt nguồn từ kiểu hang toại đạo
nầy. Nghĩa trang thánh Callisto, là nghĩa trang, do Ðức Giáo Hoàng Zeferino cai
quản Giáo Hội giữa các năm 199-217, cho thành lập và giao cho Phó tế Callisto
trông coi. Sau này Phó tế Callisto được bầu làm Giáo Hoàng kế nhiệm Ðức Giáo
Hoàng Zeferino cai quản Giáo Hội giữa các năm 217-222, tức cho tới khi Ðức Giáo
Hoàng Callisto chịu tử đạo và chôn cất trong nghĩa trang này. Nên tôi xin giải
thích như thế nầy: Gần hai thế kỷ đầu, “catacombe” được gọi “hang toại đạo” theo
nghĩa để chỉ nơi người công giáo “toại đạo” tức “tỵ đạo”, như tỵ nạn… là nơi
trốn tránh để giữ đạo, có thể đây là nghĩa trang của người La Mã. Nhưng cuối thế
kỷ II “catacombe” là nghĩa trang công giáo. Người công giáo đào hố xây mộ phần
cho mình để những người có đạo ngủ chung, chờ phục sinh.
http://www.chadiepucchau.com/wp-content/uploads/2017/03/Nhu%CC%9B%CC%83ng-%C4%91ie%CC%82%CC%80u-tro%CC%82ng-tha%CC%82%CC%81y-so%CC%82%CC%81-9-T-docx.pdf
Di tích lịch sử quan trọng nhất nằm trên đường Appia Antica là những Hang Toại
Đạo, trong đó Hang toại đạo Thánh Callisto và Thánh Sebastianô đã trở thành địa
điểm hành hương sầm uất của những đoàn hành hương.
Danh từ Hang Toại Đạo được dịch từ chữ “Catacomb” có nghĩa là “Đất Thánh ở dưới
đất” hay “Mộ Huyệt” bởi chữ Hy lạp (Kata-Kumbo) cũng có nghĩa là gần một cái hố,
vì nghĩa trang này phát triển dần chung quanh một cái hố.
Hang Toại Đạo thật ra là những đường hầm Kitô hữu tiên khởi đào để chôn cất các
tín hữu qua đời, cho đến thế kỷ XV vẫn gọi là Coemeteria “nghĩa trang”. Tiếp đến
người ta gọi chúng là Catacumbas theo tên gọi của nghĩa trang Thánh Sebastiano
(Kata-Kumbos tiếng Hy lạp có nghĩa là một cái hố) vì nghĩa trang này phát xuất
dần, chung quanh một cái hố.
Cái nghĩa trang cổ xưa nhất thuộc thế kỷ I, các nghĩa trang sau cùng thuộc thế
kỷ IV. Trong các thời bắt đạo, anh chị em Kitô cũng thường trốn tránh và tụ họp
nhau tại đây, để tham sự các lễ nghi phụng vụ. Trong các thế kỷ tiếp theo các
tín hữu chôn cất người chết gần các nhà thờ và các Hang Toại Đạo có chứa hài cốt
nhiều vị thánh tử đạo trở thành nơi tín hữu tôn kính và đến hành hương. Khoảng
năm 537 các Hang Toại Đạo bị quân rợ Goths cướp phá. Năm 755 quân Lombradi cướp
phá lần nữa. Sau đó người ta đào bới để tìm các vật quý, đồ trang sức và hài cốt
các Thánh. Rất nhiều xương các Thánh đã được đem về giữ tại Pantheon. Trong một
thời gian rất lâu, người ta quên các Hang Toại Đạo trừ hang toại đạo Thánh
Sebastiano. Từ thế kỷ XV trở đi tín hữu lại bắt đầu đến hành hương thăm viếng
trở lại, và sau đó thăm dò có hệ thống.
Các hang toại đạo có hình thù các đường hầm rộng hẹp khác nhau, đào trong vùng
đá ong, nhiều khi cao đến 5 tầng. Loại đá ong này có đặc điểm là rất mềm, dễ đào
nhưng khi chạm với khí thì trở thành cứng. Hai bên đường hầm có đào các hộc
(Loculi) đặt xác người chết với y phục và cả đồ trang sức. Người ta lập các hộc
bằng một mảng đá cẩm thạch hay một mảng đất sét nung, bên ngoài có viết hay khắc
tên người chết. Những mộ xưa nhất bằng tiếng Hy lạp, sau này thì bằng tiếng La
Tinh, đôi khi có thêm các chữ “Trong an bình” và các hình khác nhau như chim bồ
câu, cành vạn tuế, hay chạm trổ các cảnh lấy hứng từ kinh thánh vv… mộ những
người giàu có thường chạm trổ và xem ra có vẻ sang trọng hơn.
Các đường hầm này cũng thường gặp nhau tại những phòng có chiều kính rộng lớn
khác nhau gọi là Cubicula, dùng để chôn cất nhiều người trong cùng một gia đình
hay để giữ hài cốt các vị tử đạo. Các học chôn cất hay giữ hài cốt các vị tử
đạo, bên trên có vòm thường được trang hoàng với các bức vẽ. Ngày nay phần lớn
các nghĩa trang này trống rỗng, vì đã bị các tay tìm kiếm đồ cổ, đồ trang sức và
xương Thánh, đào bới trong hàng bao thế kỷ nay.
Các đường hầm thường nằm sâu 7 hay 8m dưới lòng đất, sâu nhất là 22 hay 25m.
Tổng cộng tất cả có đến 876km đường hầm mộ. Cho đến nay các nhà khảo cổ đã khám
phá được hơn 40 hang Toại Đạo ở trong một khu vực rộng trên 12 cây số vuông. Các
bức vẽ và chạm trổ rất quý đối với ngành khảo cổ. Các bức vẽ và các bức chạm trổ
xưa nhất thuộc thế kỷ I, thường chúng là những biểu tượng lấy lại của dân ngoại
và thêm ý nghĩa Kitô. Sau này các bức vẽ trên tường lấy hứng từ kinh thánh cựu
ước và tân ước. Chẳng hạn như: Chuyên môn sứ Giona, cảnh Abraham tế lễ, Moshê
cho nước vọt ra từ đá, Noe trong tàu, ba trẻ em Do Thái trong lò lửa hồng,
Daniel trong hàm sư tử. Chúa Giêsu cho Ladarô sống lại. Chúa Chiên lành, các
hình tượng trưng cho Bí tích Thánh thể, bí tích rửa tội, linh hồn người chết
được liên kết hợp với các thánh, con cá vv…Con ca tiếng Hy lạp al Ikhtous, gồm
các mẫu tự đầu của các chữ Iêsous Kristous Thêou Huios Soter có nghĩa là Giê su
Kitô con Thiên chúa, đấng cứu thế. Đó là lời tuyên xưng lòng tín của tín hữu
Kitô. Trong thời bách đạo, tín hữu dùng con cá như dấu hiệu nhận ra nhau. Nếu
một người vẽ con cá, người kia trả lời cũng vẽ con cá thì có nghĩa là Kitô hữu.
Hang Toại Đạo Thánh Callistô (Catacambe Di.S Callisto)
Là hang toại đạo quan trọng nhất Roma. Thày sáu Callisto là người cộng sự thân
cận của Đức giáo hoàng Zeferino (199-217) năm 217, thày được chọn làm đấng kế vị
lèo lái con thuyền giáo hội dưới thời hoàng đế Antonio Heliogabale. Ngài đã cho
sửa sang lại các nghĩa trang đầu tiên của cộng đoàn tín hữu Roma. Ngài bị nhóm
lạc giáo bắt và hành hạ, sau cùng bị quăng xuống giếng cho chết, năm 222 dưới
thời vua Alexandre. Nghĩa trang này phát triển vào thế kỷ thứ I chung quanh phần
mộ của Thánh nữ Lucina và gia đình Cecilli nơi chôn cất Thánh nữ Cecillia. Đây
cũng là nơi chôn cất chính thức của các giáo hoàng, từ đức giáo hoàng Callisto
trở đi cho đến cuối thế kỷ III. Các phần mộ này được đức giáo hoàng Callisto nới
rộng, sau đó Đức giáo hoàng Damacos cho trang hoàng với các bức vẽ trên tường và
được tôn kính cho đến thế kỷ XV.
Từ nhà thờ Dominé Quo Vadis, bạn theo con đường chính giữa lên đồi đi qua giữa
các hàng cây trắc bá, rẽ phải để đến lối vào hàng Toại Đạo.
Bên trái là nhà nguyện kinh thánh giáo hoàng Sisto và thánh nữ Cecillia. Bên
trong có các bia mộ, các văn bản khắc trên đá và di tích phần mộ của đức giáo
hoàng Zerferinô.
Từ đây bạn đi xuống các hang qua cửa vào ngày xưa, có trang hoàng các bức vẽ rất
ý nghĩa. Hang Toại Đạo này gồm 4 tầng nhưng chỉ có thể thăm tầng 2.
Nhà nguyện các giáo hoàng: Nơi đây đã có 9 giáo hoàng được chôn cất trong số đó
có: Thành Sistô II, Thánh Anterô Thánh Fabianô, thánh Luciô I và Thánh
Eutichianô, với bia mộ nguyên ngữ Hy Lạp. Cuối nhà nguyện, gian bên cạnh là mộ
thánh nữ Cecillia, có các bức tranh Byzantin thuộc các thế kỷ VII và VIII.
Một đường hầm dẫn qua 5 phòng mộ trang hoàng các bức vẽ biểu tượng các Bí tích.
Xa hơn nữa là nhà nguyện Thánh giáo hoàng Eusebio, qua đời năm 311, có mọt bia
mộ do Đức giáo hoàng Damaso cho khắc hồi thế kỷ VI. Bên cạnh là phòng có hai
quan tài đá bên trong còn xác ướp của một người đàn bà và của một em bé. Chiếc
đầu em bé bị dẹp vì hồi trước có một du khách té, đè khủy tay lên trên.
Trong một phòng riêng có mộ Đức giáo hoàng Cornelius, qua đời năm 252 trên tường
trang hoàng các bức tranh theo kiểu Byzantin thuộc các thế kỷ VII hay thứ VIII.
Nhà nguyện Thánh nữ Lucina, trung tâm tiên khởi của nghĩa trang và nhà nguyện
Thánh giáo hoàng Milziade.
Nguyễn Ngọc Cường
http://www.conggiaoanbang.com/hang-toai-dao-catacombs/
Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt đã đi thăm hoang toại đạo và viết bài suy tư “con
đường hạt lúa” như sau: Thật kỳ diệu. Các vua chúa của đế quốc Rôma hùng mạnh đã
tìm cách tiêu diệt một nhóm người nghèo khổ yếu ớt không một tấc sắt tự vệ.
Không phải chỉ bắt bớ trong một chiến dịch ngắn hạn mà là một chủ trương kéo dài
suốt 300 năm. Vậy mà các vua chúa qua đi rồi, nhóm người nghèo khổ yếu ớt đó
không những chỉ tồn tại mà còn phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đi dưới lòng
hang toại đạo tôi mới thấm thía ý nghĩa của lời Chúa nói: “Nếu hạt lúa gieo vào
lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới
sinh được nhiều hạt khác”. Hạt giống Giáo hội đã bị chôn chặt dưới 3, 4 tầng
đất. Hạt giống đức tin đã bị vùi sâu đến 300 năm. Tất cả các thánh Tông đồ, các
tín hữu sơ khai đã bị mục nát. Và các ngài đã làm trổ sinh cả một mùa gặt dồi
dào phong phú. Cả châu Âu đã tin theo Chúa. Nhìn lại lịch sử Giáo hội Việt Nam,
ta cũng thấy có sự tương tự. Khi đạo Chúa mới được truyền vào Việt Nam, lập tức
bị các vua chúa phong kiến bắt bớ. Cuộc bắt bớ kéo dài khoảng 300 năm. Đủ mọi
hình thức để tiêu diệt đạo. Nào là cấm cách bắt bớ. Nào là đe dọa bạc đãi. Nào
là xua đuổi ra khỏi những vùng trù phú phồn vinh. Nào là phân sáp, tức là tách
ly cha mẹ anh chị em trong một gia đình bắt đi sống riêng rẽ trong các gia đình
ngoại đạo. Nào là lấy thép nung đỏ khắc chữ “tả đạo” trên má người có đạo. Và
nhất là lên án tử hình những người có đạo. Người tín hữu trung thành với đức tin
phải trốn chạy chết trên rừng thiêng nước độc. Nếu bị bắt có thể bị chết trong
tù. Nếu không cũng bị xử án tử hình. Có đấng bị chém đầu. Có đấng bị trói chân
tay vào chân ngựa. Bốn con ngựa kéo về bốn góc xé nát các vị tử đạo. Có đấng bị
kết án cho voi dày. Thê thảm nhất có lẽ là án bá đao. Cứ sau một hồi chiêng
trống, đao phủ xẻo một miếng thịt cho đến khi chết.Dù các vua chúa đã dùng đủ
mọi cách tiêu diệt nhóm người bé nhỏ yếu ớt trong 300 năm. Trong ba thế kỷ đó có
khoảng 100 ngàn người chịu chết vì đạo. Nhưng số người tin Chúa ngày càng gia
tăng. Từ một nhóm nhỏ người bị bắt bớ, nay số tín hữu tại Việt Nam đã hơn 6
triệu người. Hạt giống đức tin gieo trồng vào quê hương Việt Nam đã bị vùi sâu,
đã bị mục nát, và nay đã trổ sinh một mùa gặt phong phú. Một lần nữa chúng ta
lại xác tín lời Chúa dạy: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó
vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga
12,23-24).
Hình ảnh “Hạt lúa gieo vào lòng đất” diễn tả mầu nhiệm của Thiên Chúa tình yêu.
Hạt lúa được gieo trên ruộng đồng, nó mục nát rồi mới nẩy mầm, đâm bông và kết
hạt. Không mục nát, hạt lúa chỉ trơ trọi một mình. Sự mục nát làm trổ sinh sự
sống mới, hứa hẹn mùa gặt tương lai.Nhìn một cánh đồng lúa xanh tươi, uốn lượn
theo gió, trải dài trong nắng, căng tròn sức sống, ta nghĩ đến muôn vàn hạt lúa
đã mục nát để lên xanh đồng lúa bát ngát. Hạt lúa Giêsu được Chúa Cha gieo vào
lòng thế giới này và ngay từ giây phút đầu tiên nhập thể trong cung lòng thanh
khiết của Mẹ Maria, hạt lúa Giêsu đã bắt đầu đi vào trong hành trình hủy mình ra
không, chấp nhận thối rữa đi để có thể sinh nhiều bông hạt. Từ khi nhập thể,
Chúa Giêsu đã trở nên như hạt lúa gieo vào lòng đất nhân loại. Thánh Phaolô
trình bày mầu nhiệm tự huỷ: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ
phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn
trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người
trần thế”. Như hạt lúa bị mục nát: “Người đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng
lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”. Như hạt lúa nẩy mầm, lớn lên, đươm bông
sinh hạt: “Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và ban tặng danh hiệu trổi vượt trên
muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất,
và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi
loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2,6-11). Con
đường Chúa đi, quá nhục nhã ê chề nên các môn đệ không thể chấp nhận. “Phêrô
liền kéo riêng Chúa Giêsu ra và bắt đầu can trách Người. Nhưng khi Chúa Giêsu
quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người liền mắng ông Phêrô: Satan, hãy lui lại
đằng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Chúa, mà là của
loài người” (Mc 8,32-33). Chính bản thân Chúa sẽ như hạt lúa chịu nhiều đau
thương tơi tả. Mục nát là chặng đường phải đi qua để có mùa gặt trù phú. Con
đường Chúa đi thật quá hãi hùng: “Chúa Giêsu và các môn đệ đang trên đường đi
Giêrusalem…Người lại kéo riêng nhóm mười hai ra và bắt đầu nói với các ông về
những điều sắp xảy ra cho mình: Này, chúng ta lên Giêrusalem, và ở đó con Người
sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người
cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết
Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại” (Mc 10,32-34). Con đường mở mang Nước
Trời sao quá khổ đau “bị nhạo báng, bị khạc nhổ, bị đánh đập”. Hạt lúa Giêsu đã
đi hết chặng đường đau khổ, mục nát trong cõi chết để đạt tới sự sống vinh
quang.
Các môn đệ theo Chúa nên cùng đi trên con đường Chúa đã đi “Ai muốn theo Ta,
phải bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta” (Mc 8,34). Thánh Phaolô kể về con
đường đi của người môn đệ: “Giờ đây bị Thánh Thần trói buộc, tôi về Giêrusalem.
Không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành
nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ
đợi tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng gì, miễn sao tôi chạy hết
chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giêsu, là long trọng làm chứng
cho Tin mừng và ân sủng của Thiên Chúa” (CV 20,22-24). Người môn đệ của Chúa coi
vinh dự là “đựơc thông phần những đau khổ của Chúa, nên đồng hình đồng dạng với
Chúa trong cái chết của Người, với hy vọng cũng được sống lại từ trong cõi chết”
(Pl 3,10-11). Thánh Phaolô trở thành hạt lúa Tin mừng. Trải qua tiến trình đau
khổ mục nát, thánh nhân đã đứng ở vị trí đầu sóng ngọn gió trên cánh đồng truyền
giáo mênh mông.
Xuyên suốt dòng lịch sử Giáo hội, biết bao hạt lúa môn đệ đã chịu mục nát để
Giáo hội lớn mạnh không ngừng “Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín
hữu”. Từng thế hệ chứng nhân như những hạt giống tốt, chết đi trong lòng đất các
nền văn hoá, và đã trổ sinh rất nhiều hạt lúa mới. Tất cả làm nên cánh đồng lúa
thiêng liêng, mùa màng tươi tốt trong cuộc sống đạo và truyền giáo.
Đọc lại lịch sử giáo hội, chúng ta càng thêm tin tưởng vào Lời Chúa. Sẵn sàng
chấp nhận thân phận hạt lúa được gieo vào lòng đất như “hạt lúa Giêsu”, như “hạt
lúa các thánh tử đạo”. Nếu đang gặp khó khăn trong đời sống đạo, hãy an tâm. Như
Đức Giêsu đã chịu gian nan khốn khó, phải chịu bắt bớ, nhục mạ, phải chịu chết
tủi nhục trên thánh giá, các môn đệ không thể đi con đường nào khác ngoài con
đường thánh giá. Như các bậc tiền nhân xưa đã chịu vất vả khổ cực để xây dựng
một Giáo hội vững mạnh như ngày nay, chúng ta tin tưởng những gian nan khốn khó
rồi cũng sẽ qua. Nếu biết chịu đựng những đau đớn, khó khăn, vất vả vì Chúa. Nếu
trung thành với Chúa, với đức tin qua mọi gian nan thử thách, chúng ta sẽ đạt
tới hạnh phúc với Chúa Giêsu “Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy”; “Thầy ở đâu
thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó.”
http://www.vietcatholic.net/News/Html/85216.htm
The legendary Trevi Fountain in Roma
Trevi Fountain is the most beautiful fountain in Rome.
Measuring some 20 meters in width by 26 meters in height, Trevi Fountain is also the
largest fountain in the city.
The origins of the fountain go back to the year 19 B.C., in which period the
fountain formed
the end of the Aqua Virgo aqueduct. The first fountain was built during
the Renaissance, under the direction of Pope Nicholas V.
The final appearance of the Trevi Fountain dates from 1762, when after
many years of works at the hand of Nicola Salvi, it was finalized by Giuseppe
Pannini.
Interestingly enough, the
name of Trevi derives from Tre Vie (three ways), since the fountain was
the meeting point of three streets.
The myth of the Trevi Fountain
Why are there always people in the fountain throwing coins into the water and
taking photos of themselves?
The myth, originating in 1954 with the movie "Three
Coins in the Fountain," goes like this:
- If
you throw one
coin: you will return to Rome.
- If
you throw two
coins: you will fall in love with an attractive
Italian.
- If
you throw three
coins: you will marry the person that you met.
In order to achieve the desired effect, you should throw the coin with your
right hand over your left shoulder.
An interesting statistic is that approximately
a million euros worth of coins are taken from the fountain each year.
Since 2007 this money has been used to
support good causes.
The most beautiful fountain in the world
For us Trevi Fountain is the most beautiful fountain
in the world. Whether under daylight
or warmly lit up at night, the fountain is never lonely.
One thing that can dampen the mood is that the area is full of people trying to
sell roses in a pushy way, but simply ignoring them is enough to be able to
continue enjoying such a special place.
The mighty Colosseum in Rome
Its ivory-white and ochre walls lie under the dust and smog from the thriving
city of Rome around
it. This magnificent structure is a testament to Rome’s once-mighty empire,
showcasing the exceptional integrity of the building to this day.
Located at the very heart of Rome’s bustling streets, the Colosseum has become
one of the world’s most visited attractions, and for good reason. Not only is
this an incredible building to be in the presence of for sheer size alone, but
this oval-shaped structure is also nearing its 2000th birthday, making it one of
the world’s oldest amphitheatres.
History of the Colosseum
Built in the year 72 AD under the rule of Titus Flavius Vespasianus and
completed 8 years later under Titus Flavius Caesar Vespasianus Augustus, this
building is the symbol of a dynasty that has stood the test of time. This was
not, in fact, the end of construction on the great amphitheatre. Further
modifications were made by Titus Flavius Caesar Domitianus Augustus from the
year 81 to 96 AD, collectively having been built over 23 years. These 3 emperors
were known as the Flavian Dynasty, which lead to the local name of Anfiteatro
Flavio or Flavian Amphitheater. It is more commonly known as the Colosseum,
which was a name taken from a nearby statue named the Colossus of Nero. Though
the statue is no longer standing, having been torn down in the 9th century for
its bronze, the base can still be found near the Colosseum, marking the spot
where the Colossus of Nero once stood.
Unlike most ampitheatres, the Colosseum was built as a free-standing structure
whereas others were built into rocks for additional support. The building is
made of concrete and sand and is comprised of three stories of arches with 80
arches circling each level. This meant that there were 80 entrances and exits,
76 of which could be used by ordinary citizens. Around 70,000 spectators could
fit into the Colosseum, each sat according to their rank in society. Just like
with modern stadiums, there appear to be boxes which would have been reserved
for the wealthy. Senators would have sat in the lower levels whereas the
commoners, women, and children would have sat in the upper levels. On sunny
days, an awning would have stretched over the crowds to protect them from the
hot sun.
Many of the events held at the Colosseum were free to attend and occasionally
served free food. These events were used by Emperors to gain popularity amongst
the public, and it seemed to work! Vespasian ruled as Emperor for 10 years
following Nero’s death and a year which saw 4 different emperors attempt to take
control.
What was the Colosseum used for?
The Colosseum was built as a gift for the Roman people and was opened by Titus
in 80 AD. It was built as a site for entertainment and was christened with 100
days of games. The opening events included multiple gladiatorial battles, epic
chariot races, and wild animal fights.
Probably the most famous events showcased within the colosseum were the
gladiatorial fights. Death was a form of entertainment to crowds at the time and
audiences craved a lengthy battle between gladiators. Each combatant knew that
when he stepped into the amphitheatre he may not walk out. After a long fight
between the opponents, when one had become trapped or maimed, the other would
look to the crowd to decide the final fate of the loser. If the gladiator had
fought well, then the crowd may spare his life. But, if dissatisfied, they would
sentence him to death.
Whilst gladiators were mainly men, there were some women. One characteristic
most fighters had in common was that they were slaves, criminals or prisoners,
each kept for the entertainment of the masses. On a few rare occasions, citizens
would volunteer themselves for gladiatorial duties.
Amazingly, the colosseum could also play host to mock naval battles called
‘naumachia’. The arena was watertight and could be flooded on cue ready for
small boats to float out onto the stage. Then would commence a recreation of
famous encounters, with gladiators dressing as opposing sides and fighting until
only one side survived. However, the water had a damaging effect on the
amphitheatre and these events were stopped. Due to their immense popularity, the
naval battles were moved to a nearby lake and continued to thrill audiences.
The Colosseum Today
While it has remained in-tact for the most part, sections of the Colosseum have
fallen to ruin. Both earthquakes and stone robbers are responsible for this.
Fortunately, a large portion of it still stands, a great symbol of Imperial
Rome’s strength. The oval amphitheatre measures 190 by 155 meters and stands as
tall as a 12-story building. It was the largest of the ampitheatres built during
the Roman era and though it is not the best-preserved example in Italy, it is
certainly the most impressive in terms of size.
There is still much to explore at the ancient site including the hypogeum which
lies underneath the Colosseum. Here you will find a series of underground
tunnels used to house exotic animals such as lions before they were released
into the arena. Standing inside this iconic landmark and looking up at the
enclosing walls, you can just imagine the structure in its prime, holding
thousands of visitors in its stands.
Exploring the grounds of the Colosseum, both inside and out, is an experience
like no other. History and culture seep from every crack. Every step takes you
deeper into the past, the exciting atmosphere of the building enveloping each
visitor. A trip to Italy’s Rome would simply not be complete without exploring
the wonder that is the Colosseum.
Đấu trường hay hí trường Colosseum Tiếng Anh “The Colosseum or Coliseum” hay the
Flavian Amphitheatre; tiếng Latinh: Amphitheatrum Flavium; Tiếng Ý: Anfiteatro
Flavio or Colosseo. Những tên gọi cho chúng ta một định nghĩa chung: Colosseum
là một đại hí viện ngoài trời, được xây bằng vật liệu nặng là đá từ thế kỷ thứ
nhất. Gọi đại hí viện tương đối đúng hơn với việc xử dụng hí trường đa dạng lúc
đầu: (1) dùng làm đấu trường tức nơi dành cho vua chúa và dân chúng đến xem
những trận đấu kiếm hay đấu gươm ngày xưa, thường là một mất một còn, hay diễn
xuất một trận đánh giặc (2) nơi hành hình các Kitô hữu thời đế quốc La Mã cấm
đạo, người ta thả thú dữ cắn xé và giết chết những người công giáo thời bấy giờ;
(3) cũng là nơi người ta đến để thưởng thức tài hùng biện của những bậc trí thức
trứ danh…. Cách chung hí trường để giải trí, nhưng cách giải trí mua vui ngày
xưa thường đẫm máu và dã man.
Hí trường được bắt đầu xây dựng dưới thời Vespasian Flavius, được hoàn tất dưới
thời Titus Flavius và sau đó được trùng tu dưới thời Domitian Flavius. Cả ba
hoàng đế nầy đều có chung tên họ là Flavius, gọi là triều đại Flavius, nên hí
trường mang tên “the Flavian Amphitheatre; tiếng Latinh: Amphitheatrum Flavium;
Tiếng Ý: Anfiteatro Flavio” như chúng ta vừa đề cập. Nhưng làm sao từ tên Đại Hí
Trường Flavius lại gọi sang tên Colosseum? Thấy có hai cách cắt nghĩa: (1)
Colosseum bắt nguồn từ colossale, tiếng Ý, có nghĩa là colossal, là khổng lồ.
Rồi người ta viết chữ “C” hoa để diễn tả rằng hí trường lớn nhất Roma. (2) Lấy
tên bức tượng khổng lồ của hoàng đế Nero đứng sừng sững 30 thước cao trên quảng
trường nầy. Tượng đồng khổng lồ của Nero gọi là Colossus of Nero, tức tượng
hoàng đế Nerô khổng lồ. Từ chữ Colossus sang chữ Colosseum để nói lên chiều kích
vĩ đại của hí trường.
Để ca tụng bạo chúa Nero, nịnh thần nói: “Bao lâu Colossus đứng vững thì
Roma đứng vững. Khi Colossus suy sụp thì Roma suy sụp. Mà Roma suy sụp có nghĩa
là cả thế giới suy tàn” Lịch sử cho biết Nero kết thúc cuộc đời độc ác của mình
bằng liều thuốc độc sau khi đã giết mẹ, giết một số thân nhân ruột thịt, giết
hàng ngàn Kitô hữu và đốt thành Roma…..Ông đã tàn lụi, nhưng Roma vẫn đứng vững,
thế giới vẫn phát triển… để làm chứng cho một Nero chết yểu (sinh năm 37, chết
năm 68, lúc mới 31 tuổi) Tôi thấy ngay người Ý cũng không nói đúng hay viết đúng
tên Colosseum. Có những cách nói và viết khác nhau như: colisseum, colloseum,
collosseum, colisium, collesium, colusium….
Công trình Colosseum biểu lộ một kiệt tác kiến trúc. Hí trường được khởi công từ
năm 72 sau công nguyên và kết thúc chỉ 10 năm sau tức năm 82 sau công nguyên.
Cách nay 2000 năm, một hí trường được xây bằng hàng triệu tấn đá đẽo gắn khít
vào nhau và rất kiên cố. Hí trường cao có chiều dài 205 mét, chiều ngang 168 mét
và chiều cao 48 mét với 4 thang bậc (không phải 4 tầng) và chiếm một diện tích
mặt bằng là 3,357 mét vuông, chu vi đo được 527 mét, có sức chứa từ trên 50000
người. Người ta có thể đi vào và thoát ra trong một thời gian rất ngắn nhờ có
tất cả 76 cửa. Bên trong hí trường, có nhiều bậc cấp khác nhau dành cho các giai
cấp khác nhau trong xã hội như hoàng gia – chư thần, viên chức triều đình, quí
tộc …. Sau cùng và trên cùng là phụ nữ.
Để dễ hiểu hí trường colosseum, chúng ta cứ lấy một sân vận động ngày nay
để so sánh thì rõ hơn: Một toà nhà hình tròn, hay hình bầu dục, không mái, bên
trong là các tầng băng ghế ngồi, thượng hạng là bậc thấp nhất và hạng chót ở
hàng cao nhất và xa nhất. Khán đài, nơi giao đấu hay đánh vật ngày xưa hay chơi
thể thao ngày nay là mặt bằng thấp nhất…. Phải nói là những sân vận động ngày
nay được xây dựng mô phỏng theo hí trường Colosseum ngày xưa. Ngày xưa, không có
hệ thống âm thanh, vậy mà một người đứng ở khán đài thấp có thể nói cho 50000
người nghe rõ, nhờ “tiếng vọng từ thung lũng sâu” và dội lại do những tường chắn
chung quanh.
Chúa Giêsu cũng giảng dạy theo kiểu hí trường nầy. Chúng ta thấy dân chúng theo
Chúa, ngồi chung quanh triền đồi từ cao xuống thấp…. và Chúa giảng thường từ
thấp vọng lên cao…. Dân chúng vây quanh Chúa, Chúa xuống thuyền đánh cá Ông
Simon và chèo ra xa một chút… từ ngoài khơi… Chúa giảng vào trong bờ cho bà con
nghe..Ai đến Roma, ngày Chúa Nhật đi dự giờ đọc kinh Truyền Tin cũng vậy. Đức
Giáo Hoàng từ trên cao, dùng loa phóng thanh nói vọng xuống. Nhưng nếu có ai từ
quảng trường thánh Phêrô nói to vọng lên… ai cũng nghe, vì chung quanh là vòng
cột chắn ….
http://www.chadiepucchau.com/wp-content/uploads/2017/03/Nhu%CC%9B%CC%83ng-%C4%91ie%CC%82%CC%80u-tro%CC%82ng-tha%CC%82%CC%81y-so%CC%82%CC%81-9-T-docx.pdf
Đấu trường La Mã,
Colosseum trong tiếng Anh hay Colosseo trong tiếng Ý, được xây vào khoảng năm
70-72 sau công nguyên dưới lệnh của Hoàng đế Vespasian. Đấu trường được khánh
thành năm 80 SCN dưới thời hoàng đế Titus và có sức chứa tổng cộng 50.000
người.
Để ăn mừng dịp khánh thành, hoàng đế Titus đã cho mở các cuộc đấu kéo dài 100
ngày đêm, với 5000 động vật hoang dã bị giết. Đây là một trong những công trình
vĩ đại nhất của Đế chế La Mã và là nơi chứng kiến sự đổ máu cuả không biết bao
nhiêu nô lệ và thú dữ.
Colosseum có tên gốc là Đấu hí trường Flavian (Flavian Amphitheatre). Sau đó
được gọi là Colosseum, vì trước đây ngay chỗ đấu trường được xây dựng có bức
tượng khổng lồ của Bạo chúa Nero (Colossus Neronis). Ngoài các cuộc đấu của võ
sĩ và động vật hoang dã, đấu trường cũng được sử dụng để làm nơi giải trí, hành
quyết, tập trận giả trên biển, hoặc săn thú.
Kết cấu bên ngoài đấu trường Colosseum
Colosseum là ví dụ điển hình cho kĩ
thuật xây dựng tiến bộ vượt bậc của người La Mã.
-
Tổng cộng đấu trường có 80 cổng vào và được thiết
kế rất thông minh, đảm bảo người dân có thể lên xuống và tìm chỗ ngồi của
mình trong tích tắc. Trên mỗi cổng vào đều được đánh dấu bằng số La Mã. Hiện
giờ vẫn còn thấy được một vài số còn sót lại.
-
Trên cùng trước đây có một tấm bạt che nắng che mưa khi các trận đấu được
diễn ra.
-
Lớp tường ngoài cùng của đấu trường La Mã vốn
được phủ hơn 100.000m3 đá
vôi (travertine), còn bên trong là gạch nung.
-
Trước đây trong mỗi ô của tầng 2 và tầng 3 được trang trí bằng tượng cẩm
thạch rất công phu.
Vì sao Colosseum hiện giờ bị khuyết
mất một nửa vòng ngoài cùng? Sau khi Colosseum bị bỏ hoang vào thế kỉ
thứ 6 và sau một vài trận động đất làm hư hại bớt công trình, người dân Roma lấy
gạch đá từ Colosseum về xây các công trình quan trọng khác trong thành phố như
Piazza Venezia, Piazza Barberini, v.v.
Bên trong đấu trường Colosseum
Bên trong đấu trường được
chia làm 3 khu: arena, cavea và podium.
-
Arena là
sàn đấu bằng gỗ, ngày trước được phủ cát để chống trượt và thấm máu của
người và vật tham gia trận đấu. Dưới sàn đấu là tầng hầm nơi các con thú
được nhốt và đưa lên sàn bằng hệ thống ròng rọc, gần giống với thang máy
ngày nay.
-
Khu cavea, tức
là chỗ ngồi của người xem, được chia làm 3 loại: kị sĩ ngồi hàng thấp nhất,
giới quý tộc sang chảnh thì hàng giữa mà dân thường ở hàng trên cùng. Hiện
nay chỉ có thể thấy được một phần nhỏ ghế ngồi bằng đá còn sót lại bên trong
đấu trường.
-
Khu podium,
hay còn gọi là khu VIP, chỉ có vua chuá, quan chức cao cấp mới được ngồi.
Nói chung là cách phân chia chỗ ngồi cũng không khác mấy sân vận động ngày nay
lắm hen?
Mỗi lần vào trong, trước mắt Yến luôn hiện ra cảnh các võ sĩ giác đấu hùng hồn
tiến vào khu arena, rồi các động vật hoang dã được từ từ kéo lên sàn bằng ròng
rọc trong không khí hàng ngàn người hò reo vang dội. Lúc đó cảm giác mình cũng
là một trong những người dân La Mã đang háo hức ngồi xem ở khán đài vậy.
Đấu trường Colosseum và Thiên Chúa Giáo
Nếu để ý kĩ bạn sẽ thấy hình
thánh giá được khắc trên tường ngoài của Colosseum và cả tượng thánh
giá bên trong đấu trường. Đấu trường đặc biệt có mối liên hệ với Giáo hội Công
giáo.
Trước đây khi một số tín hữu phản đối nạn nô lệ của Đế chế La Mã, nơi đây chứng
kiến sự đổ máu của không biết bao nhiêu người theo Kitô giáo. Chính vì vậy hiện
nay vào ngày thứ 6 Tuần Thánh hàng năm, Giáo Hoàng vẫn đến đây để chủ sự buổi
ngắm Đàng Thánh Giá tại đấu trường.
Bây giờ tuy đấu trường không còn hoàn toàn nguyên vẹn, nhưng những gì còn sót
lại cũng đủ để ta cảm nhận được sự tài tình của người xây dựng và không khí hừng
hực ngày trước thế nào.
https://italyen.com/kham-pha-dau-truong-colosseum-va-la-ma-co-dai/
Ngày 18/11 - Thứ Năm
The Vatican Museum and Gallery
The Vatican Museums (Italian: Musei
Vaticani; Latin: Musea
Vaticana) are the public museums of the Vatican
City. They display works from the immense collection amassed by the Catholic
Church and the papacy throughout
the centuries, including several of the most renowned Roman
sculptures and most important masterpieces of Renaissance
art in the world. The museums contain roughly 70,000 works, of
which 20,000 are on display,[1] and
currently employ 640 people who work in 40 different administrative, scholarly,
and restoration departments.[4]
Pope Julius II founded
the museums in the early 16th century.[5] The Sistine
Chapel, with its
ceiling and altar
wall decorated by Michelangelo,
and the Stanze
di Raffaello (decorated by Raphael)
are on the visitor route through the Vatican Museums.
In 2020, due to the COVID-19 pandemic, the Vatican
Museums were visited by only 1,300,000 persons, a drop of 81 percent from the
number of visitors in 2019, but still enough to rank the museums fourth among
the most-visited
art museums in the world.[6]
There are 54 galleries, or sale,
in total,[citation
needed] with
the Sistine Chapel, notably, being the last sala within the Museum.
The Vatican Museums trace their origin to one marble sculpture, purchased in the
16th century: Laocoön
and His Sons was discovered on 14 January 1506, in a
vineyard near the basilica of Santa
Maria Maggiore in Rome. Pope Julius II sent Giuliano
da Sangallo and Michelangelo,
who were working at the Vatican, to examine the discovery. On their
recommendation, the Pope immediately purchased the sculpture from the vineyard
owner. The Pope put the sculpture, which represents the Trojan priest Laocoön and
his two sons being attacked by giant serpents, on public display at the Vatican
exactly one month after its discovery.
Benedict XIV founded
the Museum Christianum, and some of the Vatican collections
formed the Lateran
Museum, which Pius
IX founded by decree in 1854.[7]
The museums celebrated their 500th anniversary in
October 2006 by permanently opening the excavations of a Vatican
Hill necropolis to the public.[8]
On 1 January 2017, Barbara
Jatta became the Director of the Vatican Museums, replacing Antonio
Paolucci who had been director since 2007.[9][10]
Toạ
lạc tại Viale Vaticano – Rome, bảo tàng Vatican là một trong những bảo tàng lớn
nhất trên thế giới. Công trình kiến trúc vĩ đại này là tài sản quý giá của thủ
đô Roma và tòa thánh Vatican.
Nơi đây trưng bày nhiều tác phẩm nghệ thuật quý giá từ các bộ sưu tập lớn được
Giáo hội Công giáo La Mã tạo dựng trong suốt nhiều thế kỷ.
Toàn bộ khu Bảo tàng có 12 nhà trưng bày và 5 dãy hành lang lưu giữ và trưng bày
các kiệt tác của 2 danh họa Raphael, Michelangelo và bộ sưu tập các nền văn minh
La Mã, Hy Lạp, Ai Cập.
Bên ngoài bảo tàng
Trong khu vực bảo tàng, nổi tiếng nhất là công trình nguyện đường Sixtina được
xây dười thời Đức Giáo Hòang Sixtus IV Della Rovere, cuối thế kỷ 15. Ðây cũng là
nơi các Hồng Y họp bầu Giáo Hoàng mới và là địa điểm diễn ra những cuộc họp
thượng đỉnh giữa Ðức Giáo Hoàng với các vị nguyên thủ quốc gia. Nhưng trên hết
là nơi lưu giữ hai bức hoạ “Sáng thế kỷ” và “Sự phán xét cuối cùng” của
Michelangelo được vẽ trên trần và trên tường. Từ khi ra đời đến nay trải qua bốn
trăm năm hai bức họa vẫn khiến cho cả thế giới phải kinh ngạc và ngưỡng mộ.
Michelangelo đã để ra đúng 4 năm (1508 – 1512) để họa những cảnh trong sách
“Sáng thế kỷ” trên trần nguyện đường Sixtina và phải nằm trên giàn gỗ ngước mặt
lên trần để vẽ.
Bên trong bảo tàng
Khu trưng bày các tác phẩm điêu khắc
Ngoài những kiệt tác nghệ thuật hội họa, điêu khắc quý giá cách đây hàng trăm
năm, bảo tàng Vatincan còn thu hút du khách bởi cầu thang hình xoắn ốc và những
mái vòm cong kéo dài bất tận được trang trí bởi hàng trăm bức họa cầu kỳ.
Kiệt tác “Ngày phán xét cuối cùng của Chúa” được sáng tạo bởi bàn tay tài hoa
của Michelangelo.
Trần nhà cũng được tô điểm bởi hàng trăm bức
họa.
Cầu thang hình xoắn ốc
Hàng năm, bảo tàng Vatican thu hút hàng triệu lượt du khách đến thăm, chiêm
ngưỡng những kiệt tác kiến trúc, điêu khắc, hội họa đã tồn tại nguyên vẹn suốt
hàng thế kỷ qua.
https://kienviet.net/2012/03/18/bao-tang-vatican-niem-tu-hao-cua-thanh-rome/
Sau khi đóng cửa từ ngày 08/03 năm nay để phòng ngừa sự lây lan của virus
corona, như các viện bảo tàng trên toàn nước Ý, Bảo tàng viện Vatican cũng sẽ mở
cửa lại vào ngày 18/05 tới đây,
Trong thời gian qua, Bảo tàng Vatican đã tổ chức các tour “ảo”, nghĩa là các
chuyến tham quan viện bảo tàng trên mạng internet có hướng dẫn. Nhưng như Đức
cha Vergez Alzaga, Tổng Thư ký của Phủ Thống đốc thành Vatican khẳng định: “các
tour tham quan trên mạng được tăng cường, nhưng chúng ta có nhu cầu rất lớn về
thực tế, một nhu cầu tha thiết. Chúng ta đừng quên rằng người dân là những người
làm cho Bảo tàng sống động và chỉ có trải nghiệm thực sự của Bảo tàng làm cho
con người sinh động. Kinh nghiệm ‘ảo’ không bao giờ có thể thay thế thực tế vì
để thưởng thức nghệ thuật cần có đôi mắt và trái tim.”
Trong thời gian đóng cửa, vì ý thức rằng bảo vệ sức khỏe là ưu tiên hàng đầu,
Bảo tàng chỉ duy trì những hoạt động thiết yếu với khoảng 30 nhân viên làm việc
mỗi ngày. Đây là một tỷ lệ rất thấp nếu so với con số toàn thể các nhân viên và
cộng tác viên của Bảo tàng, khoảng 1.000 người, bao gồm những người bảo vệ, các
nhà sử học về nghệ thuật, nhân viên phục chế, nhân viên hành chính và các công
ty dịch vụ khác nhau.
Đức cha Alzaga nói rằng thời gian đại dịch là “những tháng im lặng” nhưng “đối
với những người đã muốn và vẫn muốn, trên trang web chính thức, chúng tôi cung
cấp nhiều chuyến tham quan ảo Bảo tàng, bao gồm cả Nhà nguyện Sistine. Ngoài ra,
một tài khoản Instagram chính thức @vaticanmuseums đã hoạt động được vài tháng,
tại đó mỗi ngày chúng tôi trình bày một tác phẩm từ các bộ sưu tập của Tòa
Thánh.”
Trong thời gian đầu, chỉ nhận khách đăng ký online
Đức cha Alzaga cho biết Bảo tàng Vatican đang chuẩn bị mở lại các sinh hoạt và
giải thích rằng Bảo tàng chỉ nhận khách tham quan đã đăng ký trước và phải đeo
khẩu trang. Bảo tàng sẽ gắn các máy đo thân nhiệt ở lối vào. Chắc chắn trong một
thời gian dài Bảo tàng sẽ không thể đón các nhóm đông người.
Một trong những nguồn thu nhập chính của Vatican là Bảo tàng Vatican, nơi đón
trung bình khoảng 20.000 lượt khách mỗi ngày. Bảo tàng này đã phải đóng cửa từ
ngày 08/03 do virus corona. Tòa Thánh đã mất khoảng hơn 20 triệu euro thu nhập
từ vé vào Bảo tàng, cộng với các chi phí về tiền lương và chi phí hoạt
động.(CSR_3461_2020)
https://www.vaticannews.va/vi/vatican-city/news/2020-05/bao-tang-vatican-chuan-bi-mo-cua-lai-vao-ngay-18-05.html
The Sistine Chapel with Michelangelo’s magnificent frescoes
Sistine Chapel,
papal chapel in
the Vatican Palace that was erected in 1473–81 by the architect Giovanni
dei Dolci for
Pope Sixtus
IV (hence
its name). It is famous for its Renaissance frescoes by Michelangelo.
The Sistine Chapel is a rectangular brick building with six arched windows on
each of the two main (or side) walls and a barrel-vaulted ceiling. The chapel’s
exterior is drab and unadorned, but its interior walls and ceiling are decorated
with frescoes by many Florentine Renaissance masters. The frescoes on the side
walls of the chapel were painted from 1481 to 1483. On the north wall are six
frescoes depicting events from the life of Christ as
painted by Perugino, Pinturicchio, Sandro
Botticelli, Domenico
Ghirlandaio,
and Cosimo Rosselli. On the south wall are six other frescoes depicting events
from the life of Moses by
Perugino, Pinturicchio, Botticelli, Domenico and
Benedetto Ghirlandaio, Rosselli, Luca
Signorelli,
and Bartolomeo della Gatta. Above these works, smaller frescoes between the
windows depict various popes. For great ceremonial occasions the lowest portions
of the side walls were covered with a series of tapestries depicting events from
the Gospels and the Acts of
the Apostles. These were designed by Raphael and
woven in 1515–19 at Brussels.
The most important artworks in the chapel are the frescoes by Michelangelo on
the ceiling and on the west wall behind the altar.
The frescoes on the ceiling, collectively known as the Sistine Ceiling, were
commissioned by Pope Julius
II in
1508 and were painted by Michelangelo in the years from 1508 to 1512. They
depict incidents and personages from the Old
Testament.
The Last
Judgment fresco
on the west wall was painted by Michelangelo for Pope Paul
III in
the period from 1534 to 1541. These two gigantic frescoes are among the greatest
achievements of Western
painting.
A 10-year-long cleaning and restoration of the Sistine Ceiling completed in 1989
removed several centuries’ accumulation of dirt, smoke, and varnish. Cleaning
and restoration of the Last
Judgment was
completed in 1994.
As the pope’s
own chapel, the Sistine Chapel is the site of the principal papal ceremonies and
is used by the Sacred College of Cardinals for their election of a new pope when
there is a vacancy.
First Day of Creation
The Creation of the Sun and the Moon
The Creation of Adam
The Creation of Eve
The Downfall of Adam and Eve and their Expulsion from the Garden of Eden
The Last Judgement
The frescoes on the ceiling, collectively known as the Sistine Ceiling, were
commissioned by Pope Julius II in 1508 and were painted by Michelangelo in the
years from 1508 to 1512. They depict
incidents and personages from the Old Testament.
Michelangelo‘s
inestimable frescoed Sistine
Chapel ceiling
is one of the greatest works of art in the world and an important landmark of High
Renaissance art.
He was commissioned to paint the ceiling decades after the chapel had been built
and didn’t paint his famous scene of The
Last Judgement until
25 years after the ceiling. Read on to learn some of the history and take a look
at his most famous frescoes.
The lofty Sistine
Chapel was built between 1477 and 1480 by
Pope Sixtus IV while the painting of the ceiling was commissioned by Pope Julius
II decades later. Michelangelo, a celebrated sculptor rather than painter, was
initially reluctant to take on the project but the Pope was insistent.
Eventually he worked on it over the course of four years, from 1508 to 1512.
Frescoes on the side of the chapel had already been carried out by other leading
painters of the time, including Botticelli, Ghirlandaio, Perugino and Raphael.
The various paintings illustrate the doctrine of the Catholic Church,
demonstrating humanity’s need for salvation through Christ, and depict many
stories within the Old and New Testaments.
The focal point of the chapel is the ceiling which represents the Old Testament
including the Creation, Fall of Man, Promise of Salvation through the prophets
and the life of Jesus. The nine central panels are the most famous and
specifically depict the Book of Genesis, from God’s creation of Earth and
mankind to the story of Noah and the Great Flood. In total the ceiling includes
343 figures, demonstrating Michelangelo’s sublime talent for painting the human
figure in various modes and postures, heavily influencing future artists.
Michelangelo worked his way backwards through the panels, commencing with the
Great Flood and Noah’s Ark and finishing with God’s creation of the world
because he believed his technique would be improved enough by then that he could
dare attempt to portray the divine. This was the first time God was portrayed as
a muscular, bearded, human man and would change the course of religious
painting.
For those not in Rome, the Vatican has created a marvelous 3D
rendition of the Sistine Chapel to
peruse from the comforts of your computer.
Các Sistine
Chapel ( ; tiếng
Latin : Sacellum
Sixtinum ; Ý : Cappella
Sistina [kapˈpɛlla
siˈstiːna] )
là một nhà
nguyện trong Cung
điện Tông Tòa , ở Thành
phố Vatican và là
nơi ở chính thức của Giáo
hoàng . Ban đầu
được gọi là Cappella
Magna ('Nhà
nguyện lớn'), nhà nguyện lấy tên từ Giáo
hoàng Sixtus IV ,
người đã xây dựng nó từ năm 1473 đến năm 1481. Kể từ thời điểm đó, nhà nguyện đã
đóng vai trò là nơi sinh hoạt tôn giáo và chức năng của giáo hoàng. Ngày nay, nó
là địa điểm của mật nghị
giáo hoàng , quá
trình mà giáo hoàng mới được chọn. Sự nổi tiếng của Nhà nguyện Sistine chủ yếu
nằm ở các bức
bích họa trang
trí nội thất, đặc biệt nhất là trần
nhà nguyện Sistine vàSự
phán xét cuối cùng của Michelangelo .
Trong thời kỳ trị vì của Sixtus IV, một
nhóm họa
sĩ thời Phục hưng bao
gồm Sandro
Botticelli , Pietro
Perugino , Pinturicchio , Domenico
Ghirlandaio và Cosimo
Rosselli , đã tạo
ra một loạt các bức bích họa mô tả Cuộc
đời của Moses và Cuộc
đời của Chúa Kitô ,
bù đắp bằng những bức chân dung của Giáo hoàng ở trên và xếp nếp trompe-l'œil bên
dưới. Những bức tranh được hoàn thành vào năm 1482, và vào ngày 15 tháng 8 năm
1483 Sixtus IV tổ chức lần đầu tiên khối
lượng trong nhà
nguyện Sistine cho Lễ Mông
Triệu , lúc này
buổi lễ nhà thờ đã được thánh hiến và dành riêng cho Đức
Trinh Nữ Maria. [3] [4]
Giữa năm 1508 và 1512, dưới sự bảo trợ
của Giáo
hoàng Julius II ,
Michelangelo đã vẽ trần nhà nguyện, một dự án đã thay đổi dòng chảy nghệ thuật
phương Tây và được coi là một trong những thành tựu nghệ thuật lớn của nền văn
minh nhân loại. [5] [6] Trong
một bầu không khí chính trị khác, sau Sự kiện Rô-ma ,
ông trở lại và trong khoảng thời gian từ 1535 đến 1541, vẽ Bản
án cuối cùng cho
Giáo hoàng Clement
VII và Paul
III . [7] Sự
nổi tiếng của các bức tranh của Michelangelo đã thu hút rất nhiều du khách đến
nhà nguyện kể từ khi chúng được tiết lộ cách đây năm trăm năm.
Mặc dù được biết đến là nơi đặt các mật nghị
của Giáo hoàng ,
chức năng chính của Nhà nguyện Sistine là nhà nguyện của Nhà
nguyện Giáo hoàng ( Cappella
Pontificia ), một
trong hai cơ quan của hộ
gia đình Giáo hoàng ,
được gọi là Tòa án Giáo
hoàng ( Pontificalis
Aula ) cho đến năm 1968 . Vào thời
của Giáo hoàng Sixtus IV vào cuối thế kỷ 15, Nhà nguyện Giáo hoàng có khoảng 200
người, bao gồm các giáo sĩ, quan chức của Vatican và
giáo dân nổi tiếng. Có 50 dịp trong năm mà Lịch Giáo hoàng quy định mà cả Nhà
nguyện Giáo hoàng phải họp. [số
8]Trong số 50 lần này,
35 lần là thánh lễ, trong đó 8 lần được tổ chức tại các vương cung thánh đường,
nói chung là Thánh
Phêrô , và có sự
tham dự của các giáo đoàn lớn. Những điều này bao gồm Lễ Giáng sinh và Lễ Phục
sinh, mà chính Đức Giáo hoàng là người chủ
tế . 27 thánh lễ
khác có thể được tổ chức trong một không gian công cộng nhỏ hơn, ít hơn, nơi Cappella
Maggiore đã được
sử dụng trước khi nó được xây dựng lại trên cùng địa điểm với Nhà nguyện
Sistine.
Các Cappella
Maggiore có nguồn
gốc tên gọi của nó, Chapel Greater, từ thực tế là đã có nhà nguyện khác cũng
được sử dụng bởi Đức Giáo Hoàng và đoàn tùy tùng của mình để thờ phượng hàng
ngày. Vào thời của Giáo hoàng Sixtus IV, đây là Nhà nguyện của Giáo
hoàng Nicholas V ,
đã được trang trí bởi Fra
Angelico . Các Cappella
Maggiore được ghi
nhận là tồn tại trong 1368. Theo một thông tin liên lạc từ Andreas của Trebizond
đến Đức Giáo Hoàng Sixtus IV, tính đến thời điểm phá hủy nó để nhường chỗ cho
nhà nguyện hiện tại, các Cappella
Maggiore là trong
tình trạng đổ nát với những bức tường của nó nghiêng. [9]
Nhà nguyện hiện nay, trên địa điểm của Cappella
Maggiore , được
thiết kế bởi Baccio
Pontelli cho Giáo
hoàng Sixtus IV, người được đặt tên cho nó, và được xây dựng dưới sự giám sát
của Giovannino de Dolci từ năm 1473 đến năm 1481. [1] Tỷ
lệ của hiện tại nhà nguyện dường như theo sát những gì của bản gốc. Sau
khi hoàn thành, nhà nguyện được trang trí bằng các bức bích họa của một số nghệ
sĩ nổi tiếng nhất của thời
kỳ Phục hưng Cao ,
bao gồm Sandro
Botticelli , Domenico
Ghirlandaio , Pietro
Perugino và Michelangelo . [9]
https://wiki2th.com/vi/Sistine_Chapel
Nhà nguyện Sistine (; tiếng
Latinh: Sacellum Sixtinum; tiếng
Ý: Cappella Sistina [kapˈpɛlla
siˈstiːna]; tiếng
Anh: Sistine Chapel) là một nhà nguyện trong Điện
Tông Tòa, ở Thành
Vatican và là nơi ở chính thức của Giáo
hoàng. Ban đầu được gọi là Cappella Magna ('Nhà
nguyện lớn'), nhà nguyện được đặt theo tên của Giáo
hoàng Xíttô IV, người đã xây dựng nó từ năm 1473 đến năm 1481. Kể từ thời
điểm đó, nhà nguyện đã đóng vai trò là nơi sinh hoạt tôn giáo và chức năng của
các Giáo hoàng. Ngày nay, đây là nơi diễn ra Mật
nghị Hồng y, bầu chọn ra Giáo hoàng mới. Sự nổi tiếng của Nhà nguyện Sistine
chủ yếu nằm ở các bức bích họa trang trí bên trong, đặc biệt nhất là 2 công
trình nghệ thuật: Trần
nhà nguyện Sistina và Sự
phán xét cuối cùng, đều được chấp bút bởi thiên tài nghệ thuật Michelangelo.
Trong thời kỳ trị vì của Giáo
hoàng Xíttô IV, một nhóm họa
sĩ thời Phục hưng Ý bao gồm Sandro
Botticelli, Pietro
Perugino, Pinturicchio, Domenico
Ghirlandaio và Cosimo
Rosselli, đã tạo ra một loạt các bức bích họa mô tả Cuộc đời
của Moses (Life of Moses) và Cuộc đời của Chúa
Kitô (Life of Christ), bù đắp bằng những bức chân dung của Giáo
hoàng ở trên và xếp nếp trompe-l'œil bên
dưới. Những bức tranh này được hoàn thành vào năm 1482, và vào ngày 15/08/1483,
Xíttô IV đã cử hành thánh
lễ đầu tiên tại nhà nguyện Sistine cho Lễ
Đức Mẹ Lên Trời, tại buổi lễ này nhà nguyện được thánh hiến và dành riêng
cho Đức
Trinh Nữ Maria.[4][5]
Giữa năm 1508 và 1512, dưới sự bảo trợ của Giáo
hoàng Giuliô II, Michelangelo đã
vẽ bích hoạ cho trần nhà nguyện, một dự án đã thay đổi dòng chảy nghệ thuật phương
Tây và được coi là một trong những thành tựu nghệ thuật lớn của
nền văn minh nhân loại.[6][7] Sau
sự kiện Bao
vây thành Roma (1527), Michelangelo trở
lại Vatican và trong khoảng thời gian từ 1535 đến 1541, ông đã vẽ bức bích hoạ Bản
án cuối cùng (The Last Judgment) cho Giáo
hoàng Clêmentê VII và Phaolô
III.[8] Sự
nổi tiếng của các bức tranh của Michelangelo đã thu hút rất nhiều du khách đến
nhà nguyện kể từ khi chúng được tiết lộ cách đây 500 năm.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0_nguy%E1%BB%87n_Sistina
The Basilica of St. Peter
A little history of St. Peter's Basilica
The history of the St. Peter's Basilica begins in the
4th century when the Emperor Constantine decides to build a basilica where the
apostle had been buried. In 329 the construction of the basilica was completed.
The church was used for the celebration of the cult, as a covered cemetery and
as a funeral banquet room. During the High Middle Ages it was the main
pilgrimage site in the West. The archaeological excavations carried out under
the present basilica, the descriptions, drawings and ancient paintings give us
an idea of what the first Vatican basilica was like.
In 1506 Julius II begins the construction of a new
basilica replacing the existing one, commissioning to the architect Donato
Bramante. Bramante proposes a plant in Greek cross (four equal arms), like the
Byzantine churches of 9th century. When Bramante passed away in 1514, the works
passed to Rafael Sanzio and several proposals were discussed until 1521. Rafael
died in 1520 and construction continues with Antonio da Sangallo the Younger,
who in 1538 concretizes his project for the basilica.
In 1546, at the death of Antonio da Sangallo, the
architect named was Michelangelo Buonarroti who will give the definitive shape
to the design, simplifying the plant by eliminating the sacristies with towers
of the corners of the square designed by Bramante; this transformed the outer
limits of the area into a continuous surrounding wall giving unity and coherence
to the volume of the building. Michelangelo reinforced the structure since the
axis of his idea was the erection of an imposing canted dome, on an important
drum, that would raise much more than the original proposal of Bramante.
Its construction was completed twenty-four years
after his death by Domingo Fontana and Jacobo della Porta. The latter was in
charge of concluding the project of Michelangelo and when dying in 1602 was only
to erect the facade and design the square. Pope Paul V decided to extend the
church to the front with the architect Carlo Maderno, transforming the plant of
Greek cross by Bramante in a plant in Latin cross, traditional of the churches
of the West.
Maderno prolongs the vault of the front arm placing
on both sides a series of chapels covered with oval domes and in the exterior
continues the wall designed by Michelangelo highlighting the front with great
attached columns. The front was built between 1607 and 1612. In 1624, Juan
Lorenzo Bernini, is called to realize the canopy that constitutes the major
altar and that by tradition should be located in the center of the cross, on the
tomb of the Apostle Peter, completed task in 1633. Since the death of Maderno in
1629, Bernini takes charge of the interior decoration of the whole church giving
it its present appearance.
Mời bạn bắt đầu cuộc chiêm ngưỡng bằng cách click vào trang web của Tòa Thánh:
vatican.va/various/basiliche/san_pietro/vr_tour/
Có 10 vị trí đứng chiêm ngưỡng: (Các bạn cũng có thể click vào các đường link
dưới đây)
1. Cung
Thánh
2. Bàn
Thờ
3. Cánh
phía Bắc
4. Cánh
phía Nam
5. Gian
chính giữa
6. Nhà
nguyện gần Ca đoàn
7. Tượng
Đức Mẹ Sầu Bi Pietà
8. Bàn
thờ Thánh Giêrônimô
9. Quảng
trường Thánh Phêrô - buổi tối (1)
10. Quảng
trường Thánh Phêrô - buổi tối (2)
https://tgpsaigon.net/bai-viet/chiem-nguong-den-tho-thanh-phero-tai-vatican-47759
Ðền Thờ Thánh Phêrô là thành quả công
trình tái thiết đầy công phu ngôi Ðền Thờ cổ kính do Hoàng Ðế Costantino kiến
thiết vào năm 320. Ðể xây Ðền Thờ mới, người ta đã mất khoảng 120 năm, tính từ
đầu thế kỷ 16, dưới sự điều khiển của 12 kiến trúc sư, trong đó có những người
nổi tiếng như Bramante, Michelangelo, Raffaello và Maderno. Cả Ðền Thờ cũ cũng
như Ðền Thờ mới đều được xây trên mộ của Thánh Phêrô tông đồ, được an táng trên
sườn đồi Vatican, trong khu vực nghĩa trang cạnh hí trường của Hoàng Ðế Nerone.
Mái vòm to lớn của Ðền Thờ Thánh Phêrô do Michelangelo vẽ kiểu nhìn xuống thành
Roma, trở thành điểm hội tụ lý tưởng nhắc nhớ ngôi mộ đơn sơ của Thánh Phêrô, là
Ðá Tảng trên đó Chúa Kitô đã xây dựng Giáo hội của Ngài.
Hàng cột vòng do kiến trúc sư Bernini
thiết kế giống vòng tay mở rộng như một dấu hiệu tiếp đón yêu thương, nhấn mạnh
ý tưởng Mẹ Giáo hội, trong Chúa Kitô, trở thành một cộng đoàn các anh chị em,
thuộc nhiều dân nước khác nhau.
Trong khu vực hí trường của Hoàng Ðế
Nerone, giữa sông Tevere, đồi Gianicolo và Vaticano - nơi mà Hoàng Ðế La Mã đã
ra lệnh hành hình các tín hữu Kitô, - theo truyền thống, cũng là nơi thánh Phêrô
chịu tử đạo, và thi hài ngài được an táng tại nghĩa trang đó cùng với các vị tử
đạo khác. Hí trường này do hoàng đế Caligola (37-41) khởi xướng và được Nerone
(54-68) hoàn tất. Ban đầu hí trường được dùng làm nơi đua xe ngựa, và về sau làm
nơi các giác đấu đánh nhau với các dã thú.
1. Ðền Thờ Thánh Phêrô thời Hoàng Ðế Costantino
Ðức Anacleto, vị Giáo Hoàng thứ 3 của Giáo
Hội, từ năm 77 đến 88, đã thiết lập một nhà nguyện nhỏ dâng kính Thánh Phêrô. Về
sau, Hoàng Ðế Costantino cho thiết lập tại nơi đó ngôi thánh đường vĩ đại gồm 5
gian và tồn tại cho đến cuối thế kỷ 15.
Các văn sĩ thời đó kể lại: năm 324, Hoàng
Ðế Costantino ngự xuống khu vực Vaticano với quân gia hùng hậu, và phủ phục
trước mộ Thánh Phêrô, cởi bỏ hoàng bào, cầm chiếc xẻng lớn và chính ngài bắt đầu
đào, xác định khu vực xây đại Vương Cung Thánh Ðường mới. Hoàng Ðế cũng đổ đầy
và vác trên vai 12 giỏ đất như một cử chỉ tôn kính 12 Tông Ðồ. Con của ngài là
Hoàng Ðế Costante đã được vinh dự hoàn tất công trình to lớn xây cất Ðền Thờ vào
năm 349, sau 25 năm kiến thiết.
Các bức họa và hình khắc cổ kính cho thấy
Ðền Thờ do Hoàng Ðế Costantino xây cất không khác lắm so với các Vương Cung
Thánh Ðường Kitô khác ở Roma, xét về cơ cấu kiến trúc. Nhưng qua các thế kỷ,
Thánh Ðường này càng trở nên phong phú nhờ sự quan tâm đặc biệt của các vị Giáo
Hoàng cũng như của các ông hoàng Ý và nước ngoài.
2. Xây Ðền Thờ Thánh Phêrô mới
Vaticano chỉ là nơi các vị Giáo Hoàng cư
ngụ từ năm 1377 và trước khi giáo triều được chuyển sang Avignon (1309-1377)
miền nam nước Pháp, dinh của các vị Giáo Hoàng tọa lạc tại Laterano.
Trong 73 năm Ðức Giáo Hoàng ở Avignon, Ðền
Thánh Phêrô bị bỏ hoang đến độ hầu như không thể trùng tu được. Thực vậy, sau
một ngàn năm huy hoàng, Ðền Thánh Phêrô do Hoàng Ðế Costantino xây bắt đầu có
những dấu hiệu tàn lụi, nhất là nơi các bức tường, đặc biệt là những tường phía
nam. Những tường này được xây trên những gạch vụn của hí trường và các dinh thực
cổ kính khác.
Vì thế, các vị Giáo Hoàng đã nảy ra ý
tưởng xây lại hoàn toàn một Ðền Thờ mới. Nói đúng ra, không phải chỉ vì nhu cầu
cần phòng ngừa nguy cơ Ðền Thờ cũ sụp đổ, nhưng còn vì tinh thần thời đó không
nhận ra nơi Thánh Ðường cũ kỹ ấy sự huy hoàng vĩ đại như thời Phục Hưng đòi hỏi.
Ðức Giáo Hoàng Nicolo V (1447-1455) là người đầu tiên đã đi tới quyết định tiến
hành việc xây Ðền Thánh Phêrô mới, và ủy thác cho kiến trúc sư Bernardo
Rossellino nhiệm vụ xúc tiến. Theo dự án của nhà kiến trúc này, Ðền Thờ mới có
một cổng phía trước và có hình thánh giá Latinh, với một mái vòm lớn ở giữa và
khu hậu cung có hình bán nguyệt.
Sau khi phá hủy một số phần của Ðền Thờ,
người ta bắt đầu xây khu hậu cung Ðền Thờ mới. Nhưng Ðức Giáo Hoàng Nicolo qua
đời vào tháng 3 năm 1455, nên công trình xây cất bị ngưng lại. Các vị kế nghiệp
dường như từ bỏ ý tưởng xây Ðền Thờ mới, và chỉ nghĩ tới việc trang trí và phong
phú hóa Ðền Thờ cũ. Mãi cho đến thời Ðức Giáo Hoàng Giulio II della Rovera
(1503-1513) mới tiếp tục công trình bị bỏ dỡ dang, do ý muốn tìm một chỗ xứng
đáng cho lăng tẩm của mình, và Michelangelo dã trình bày họa đồ cho ngài. Khi
Michelangelo tới Ðền Thánh Phêrô xem nơi nào có thể đặt mộ của ÐGH Giulio II,
ông thấy nơi thích hợp nhất chính là khu hậu cung mới do Ðức Nicolo V khởi công
xây cất và ông khuyên Ðức Giáo Hoàng tiếp tục xây cất. ÐGH hỏi phí tổn sẽ là bao
nhiêu, Michelangelo trả lời là 100 ngàn đồng vàng. Ðức Giulio đáp: "Hãy làm với
200 ngàn đồng", và ngài sai hai kiến trúc sư San Gallo và Donato Bramante đi xem
địa điểm, và ngài muốn xây lại Ðền Thờ hoàn toàn mới.
Khi Bramante nhận lệnh của ÐGH Giulio II
(1503-1513) phá bỏ Ðền Thờ cũ để xây Ðền thờ mới, tức là Ðền Thánh Phêrô ngày
nay. Dân Roma kinh ngạc theo dõi việc phá Ðền Thờ cũ và họ đặt tên cho ông
Bramante là "Kiến trúc sư phá nhà".
Trong những năm ấy, nhiều dự án nối tiếp
nhau, cho đến khi Michelangelo lúc đó đã gần 70 tuổi, bắt đầu xây mái vòm. Sau
khi Michelangelo qua đời (1564), 4 kiến trúc sư khác tiếp tục. Mặt tiền do Carlo
Maderno làm xong năm 1614.
Ngày 18-11-1626, Ðức Giáo Hoàng Urbano
VIII thánh hiến Ðền Thờ mới, nhân kỷ niệm 1300 năm thánh hiến Ðền Thờ do Hoàng
Ðế Costantino thiết lập.
Về sau, kiến trúc sư Giuseppe Valadier đã
thực hiện hai đồng hồ ở mặt tiền đền thờ vào năm 1822. Dưới đồng hồ bên trái có
quả chuông chu vi 7.2 mét, nặng 9.3 tấn.
Vài Ðặc Tính Của Ðền
Thờ
1. Ðền
Thánh Phêrô vẫn được coi là thánh đường có kích thước lớn nhất thế giới Kitô
giáo. Theo kiến trúc sư Giuseppe Valadier (1812): từ nền tầng hầm Ðền Thờ tới
mái vòm cao 136 mét, từ nền Ðền thờ là 133 mét. Nguyên diện tích đền thờ, không
kể nhà mặc áo, có diện tích hơn 2 hécta, tức là 22,067 mét vuông. Mặt tiền đền
thờ, giống như một sân bóng đá, cao 46 mét và chiều ngang 115 mét. Các coat cao
gần 29 mét, đường kính 2.65 mét. Tiền đường từ vòng cung Carlo Magno tới vòng
cung Costantino dài 140 mét. Chiều ngang đền thờ là 150 mét; chiều dài đền thờ
là 187 mét (Ðền thờ Thánh Phaolô của Anh Giáo ở London dài 152.20 mét, nhà thờ
Chính Tòa Milano dài 134.17 mét, nhà thờ Chính Tòa Cologne dài 132 mét, nhà thờ
thánh Petronio ở Bologna dài 131.73 mét, đền thánh Phaolô ngoại thành ở Roma dài
126.64 mét). Ðền Thánh Phêrô có thể chứa được 54 ngàn người nếu đứng chật hết
mọi chỗ kể cả các gian lối đi, nhưng thực tế, trong các đại lễ ÐTC cử hành,
thường chỉ có 10 ngàn người ngồi dự lễ.
2. Trong
Ðền Thờ có 46 bàn thờ, bàn thờ cuối cùng được Ðức Piô 9 (1846-1878) thánh hiến
ngày 16-1-1856. Có 9 bàn thờ dâng kính Ðức Mẹ dưới nhiều tước hiệu khác nhau.
Tầng hầm đền thờ: nền tương ứng với nền
nguyên thủy từ thời hoàng đế Costantino. Trong tầng hầm này có nhiều nhà nguyện
chung quanh mộ thánh Phêrô, với những bàn thờ để các linh mục cử hành thánh lễ.
Mộ của 147 trong tổng số 264 giáo hoàng cũng được đặt tại đây.
3. Cửa
Thánh. Trong số 5 cửa vào Ðền Thờ, có một cửa chỉ được mở ra vào Năm Thánh. Cửa
năm Thánh 2000 đã được ÐTC mở trong đêm vọng giáng sinh 24-12-1999. Cửa này được
đóng lại vào ngày 6-1-2001.
4. Mái
vòm Ðền Thờ có chu vi bên trong là 42.7 mét và chu vi bên ngoài là 58 mét, và
cao 50.35 mét. Tính từ nền tới đỉnh cao nhất của mái vòm với thánh giá là 135.2
mét. Thánh giá trên đỉnh cao 4.87 mét và thanh ngang rộng 2.65 mét. Trọng lượng
của mái vòm theo các nhà toán học Boscovich, Le-Leur và Lacquer, là
56,208,837.46 kílô.
Ngoài 2 cầu thang vòng mà các du khách leo
lên mái vòm, còn có 9 cầu thang khác, 7 cái lớn và 2 cái nhỏ, mặc dù đi từ bên
trong Ðền Thờ, nhưng đều dẫn tới cùng một đích điểm.
Bàn thờ chính của Ðền Thờ, được gọi là bàn
Thờ Tuyên Xưng đức tin, được xây ngay bên trên mộ Thánh Phêrô theo lệnh của Ðức
Clemente VIII (1592-1605). Bàn thờ có tán che và 4 cột vòng bằng đồng chống đỡ,
do Bernini thực hiện. Tượng các thiên thần ở trên mỗi góc cao 3.5 mét. Tán che
đền thờ được khánh thành ngày 29-6-1633.
Dưới bàn thờ này, có một bàn thờ khác của
Ðức Giáo Hoàng Callisto II (1119-1124), và bên dưới đó, lại có một bàn thờ khác
nữa của Ðức Gregorio Cả (590-604). Ði xuống sâu hơn, người ta gặp một khối hình
vuông, bọc cẩm thạch trắng và đá vân đỏ. Ðó là đài do Hoàng Ðế Costantino thực
hiện để kính nhớ Thánh Phêrô Tông Ðồ và có lẽ trong dịp lễ tưởng niệm chiến
thắng của ông tại Cầu Milvio ngày 28-10-312.
5. Tượng
thánh Phêrô bằng đồng, có từ thế kỷ 13, được tôn kính trong Ðền Thờ: chân phải
của ngài bị mòn nhiều vì sự hôn kính của hàng triệu tín hữu qua dòng thời gian,
kể từ khi Ðức Piô IX ban ân xá 50 ngày cho những ai hôn chân này sau khi đi xưng
tội.
Theo một truyền thống cổ kính, ngày 29-6
mỗi năm, lễ thánh Phêrô, người ta mặc phẩm phục giáo hoàng cho tượng thánh
Phêrô. Năm 1798-1799, lễ nghi mặc áo bị chính quyền cộng hòa cấm, tạo nên sự bất
mãn rất lớn nơi dân Roma, vốn rất trung thành với truyền thống, khiến cho bộ
trưởng tư pháp phải cho mặc áo, ngoại trừ chiếc mũ ba tầng.
6. Tượng
Ðức Mẹ Sầu Bi (Pietà) - ở bên tay phải, khi mới bước vào Ðền Thờ -, bằng cẩm
thạch trắng, diễn tả Mẹ Maria đang ẵm xác Chúa Giêsu từ trên thánh giá mới tháo
xuống, do Michelangelo thực hiện năm 1500 khi mới 25 tuổi và là tác phẩm duy
nhất mang chữ ký của ông. Tên ông được khắc vào vệt áo băng qua ngực Ðức Mẹ. Cho
đến năm 1972, du khách có thể đến gần ngắm tượng, nhưng một người điên Hungari,
quốc tịch Úc, đã leo qua rào dùng búa đập vào tượng nhiều lần trước khi bị cản
lại. Mũi Ðức Mẹ bị đập vỡ. Người ta thu thập các mảnh vở và gắn lại. Hiện nay
người ta đặt kính chắn đạn để bảo vệ kiệt tác nghệ thuật này, nhưng khách viếng
thăm cũng khó chiêm ngưỡng pho tượng này hơn so với trước kia.
7. Trong
số ngôi mộ của các nhân vật trong Ðền Thờ thánh Phêrô, có 3 phụ nữ là nữ bá tước
Matilde di Canossa, hoàng hậu Cristina Thụy Ðiển, và Maria Clementina, hoàng hậu
Anh Quốc. Hoàng Hậu Cristina thoái vị sau khi trở lại Công Giáo và được mời tới
sống trong triều đình Giáo Hoàng và qua đời tại Roma năm 1689. Tượng trình bày
cảnh bà chịu phép rửa lần thứ hai Innsbruck.
Quãng Trường Thánh Phêrô
Quãng trường Thánh Phêrô hình bầu dục, một
chiều dài 196 mét, và chiều rộng 148 mét, với diện tích khoảng 4 hécta và có
hàng cột vòng cung bao quanh như vòng tay chào đón tín hữu. Hàng cột này do kiến
trúc sư Bernini kiến thiết, tổng cộng có 284 cột, mỗi bên 142 cột, đường kính ở
vòng lớn nhất đường kính 1.45 mét. Các cột được xếp thánh hàng 4, với 3 lối đi,
lối giữa rộng nhất. Hàng cột cao 18.60 mét, bên trên có 140 pho tượng, cao 3.24
mét do các môn đệ của Bernini thực hiện trong khoảng thời gian từ 1656 đến 1667.
Từ cây tháp bút ở giữa quảng trường tới
mặt tiền Ðền Thờ có khoảng cách 191 mét, trong khi khoảng cách giữa hai tượng
thánh Phêrô và Phaolô là 76.73 mét.
Trên mặt tiền Ðền Thờ, có các pho tượng
cao 5.65 mét. Các tượng này nếu nhìn gần thì thấy rất là thô kệch và sơ sài.
Nhưng chúng được tạc để nhìn từ xa.
V. Tháp Bút
Tháp bút ở giữa quảng trường Thánh Phêrô
là một khối đá hình kim tự tháp bằng đá vân cương đỏ ở Ðông Phương, thoạt đầu
được Caio Cornelio Gallo, tổng trấn Ai Cập, dựng lên để tôn vinh bản thân. Về
sau được Eliopoli đưa về Roma theo ý muốn của hoàng đế Nerone, với mục đích
tuyên dương hí trường do ông khởi xướng. Tháp bị đổ và bỏ rơi trong nhiều thế
kỷ, cho đến khi được một vài vị Giáo Hoàng để ý tới (Nicolo V 1447-1455, Phaolô
II 1464-1471, Phaolô III 1534-1549). Các vị muốn cây tháp này được đặt trước Ðền
Thờ Thánh Phêrô, nhưng sự khó khăn trong việc di chuyển và dựng tháp khiến cho
nhiều kiến trúc sư nản chí, mãi cho đến đời ÐGH Sisto V (1585-1590), dự án đó
mới thành hình.
Tháp được khởi công di chuyển ngày
30-4-1585 và được dựng tại quảng trường ngày 10-9-1585. Công trình này đòi sự
hợp lực của hơn 900 người, với 140 con vật và dùng 47 cần trục cùng với 5 đòn
bẩy thật mạnh. Qui luật được ban hành trong công trình dựng tháp là các công
nhân phải tuyệt đối giữ im lặng và chỉ được nhận lệnh từ kiến trúc sư Domenico
Fontana mà thôi. Ngoài ra, dân chúng hiếu kỳ không được đến gần. Ðức Sisto V còn
ra lệnh phạt tử hình những người vượt quá ranh giới, và gây tiếng ồn ào.
Theo một lưu truyền từ năm 1770, trong khi
tiến hành công việc, thì những sợi dây thừng đỡ tháp bút bắt đầu giãn ra và có
nguy cơ bị đứt. Tình trạng thật nguy hiểm. Một trong những người thợ là ông
Bresca, vốn là một thủy thủ đã quen với các dây chão, ông ta hô lớn: "Hãy đổ
nước vào các dây thừng". Nhận thấy tình trạng nguy ngập, kiến trúc sư Domenico
Fontana vội ra lệnh thi hành ngay lời khuyên đó, và tai nạn được tránh thoát.
Sau khi hoàn thành công việc dựng tháp,
thủy thủ Bresca ấy đã được thưởng thay vì bị tử hình. Ông được triệu tới trước
mặt ÐGH và ngài yêu cầu ông hãy xin một ơn. Ông Bresca đã xin cho mình và dòng
dõi được đặc ân cung cấp lá dừa cho Tòa Thánh để làm lễ nghi Chúa Nhật Lễ Lá.
Lời thỉnh cầu được chấp nhận và ngày nay gia tộc Bresca ở miền Liguria vẫn cung
cấp lá dừa cho Vaticano.
Năm 1586, Ðức Sisto cho đặt trên tháp một
cây thánh giá lớn bằng sắt, trong có chứa mảnh thánh giá thật của Chúa Giêsu. Ở
bệ tháp có khắc chữ: "Ðây là thánh giá của Chúa. Các quyền lực đối nghịch hãy
trốn chạy. Sư tử của chi tộc Giuda đã chiến thắng". Ngoài ra còn có câu: "Chúa
Kitô chiến thắng. Chúa Kitô hiển trị. Chúa Kitô thống trị. Chúa Kitô bảo vệ dân
ngài khỏi mọi nghịch cảnh".
Tổng cộng từ bệ lên tới đỉnh tháp bút cao
41.23 mét và nặng 312 tấn.
Hai bên có hai bể nước (fontaine) khổng lồ
giống nhau, mỗi phút có 38,400 lít nước đổ vào. Vòi nước phun có thể lên cao 14
mét.
VI. Mộ Thánh Phêrô
Như đã nói trên, khu vực xây Ðền Thờ Thánh
Phêrô trước kia là một nghĩa trang thời La Mã, và được khám phá trong thập niên
1930, được khai quật trong hai đợt: từ 1939 đến 1949, rồi từ 1953 đến 1958. Hai
hàng nhà mồ với những hốc mộ được khám phá, với rất nhiều bích họa, tranh khảm,
cùng với một khu vực với những ngôi mộ đơn sơ hơn.
Các cuộc khai quật dưới Bàn Thờ tuyên xưng
Ðức Tin đưa tới sự khám phá mà Ðức Phaolô VI tuyên bố ngày 26-6-1968: "Hài cốt
thánh Phêrô được nhận diện đến độ chúng tôi coi là có lý".
Từ đó đến nay, công việc này vẫn được tiếp
tục và đồng thời cũng được mở cho các du khách thăm viếng kể từ năm 1975.
Cho đến nay, số người viếng thăm Nghĩa
Trang bên dưới Ðền Thờ Thánh Phêrô tương đối ít ỏi, và nhiều du khách không biết
là có khu vực này. Ðể viếng thăm, cần phải giữ chỗ trước tại Văn Phòng khai quật
của Vaticano, và có người hướng dẫn từng nhóm đi thăm.
Tuy số người viếng thăm ít ỏi, nhưng các
chuyên viên công ty ENEL cho rằng 250 người mỗi ngày kể là quá nhiều. Họ đề nghị
rằng trong tương lai, một hệ thống bằng máy điện toán các ngôi mộ trong nghĩa
trang dưới Ðền Thờ Thánh Phêrô sẽ được dùng để trình bày cho phần lớn các du
khách, thay vì họ đích thân đi thăm các ngôi mộ như hiện nay.
Vào cuối công cuộc tu bổ, kinh nghiệm về
các hoạt động này được trình bày trong 2 cuốn sách: một cuốn về mộ Thánh Phêrô
được tu bổ và chiếu sáng, cuốn thứ hai về toàn bộ Nghĩa Trang Vaticano.
Cũng nên nhắc lại rằng, trong ngày kỷ niệm
một năm lên ngôi Giáo Hoàng, 16-10-1979, chính Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã
cho mở một cổng cao 2.5 mét rộng 2.3 mét để các tín hữu có thể bước vào mộ Thánh
Phêrô dưới hầm Ðền Thờ.
Phúc Nhạc
(Trích dẫn từ Nguyệt San Trái Tim Ðức
Mẹ số 269, tháng 5 năm 2000)
http://vntaiwan.catholic.org.tw/vatican/dentho1.htm
http://vntaiwan.catholic.org.tw/vatican/dentho1.htm
The Basilica of St. Mary Major
The Patriarchal Basilica of St. Mary Major reigns as an authentic jewel in the
crown of Roman churches. Its beautiful treasures are of inestimable value, and
represent the Church's role as the cradle of Christian artistic civilization in
Rome. For nearly sixteen centuries, St. Mary Major has held its position as a
Marian shrine par excellence and has been a magnet for pilgrims from all over
the world who have come to the Eternal City to experience the beauty, grandeur
and holiness of the basilica.
Among the Patriarchal Basilicas of Rome, St. Mary Major is the only one to have
kept its original structure, though it has been enhanced over the course of
years. Special details within the church render it unique including the fifth
century mosaics of the central nave, the triumphal arch dating back to the
pontificate of Pope Sixtus III (432-440) and the apsidal mosaic executed by the
Franciscan friar Jacopo Torriti at the order of Pope Nicholas IV (1288-1292).
Other gems of the church include the Cosmatesque pavement donated by the Roman
nobleman Scoto Paparone and his son in 1288, Arnolfo di Cambio's Nativity scene
from the thirteenth century and the coffered ceiling in gilt wood designed by
Giuliano Sangallo in 1450. The numerous chapels, from the most ornate to the
most humble, constructed by popes, cardinals and pious confraternities, the high
altar begun by Ferdinando Fuga and later enriched by the genius of Valadier, the
Baptistery and finally the relic of the Holy Crib complete the array of
splendors contained within these walls. Every column, painting, sculpture and
ornament of this basilica resonates with history and pious sentiment.
From the devout pilgrim absorbed in prayer to the studious art-lover, every
visitor to St. Mary Major finds both spiritual and visual fulfillment in this
holy place. A visit to the Liberian basilica, as it is also called in honor of
Pope Liberius, enriches both the mind and soul. Indeed, it is not uncommon to
see visitors rapt in admiration before the spellbinding beauty of the artwork
nor, at the same time, to observe the devotion of all those engrossed in prayer
in search of comfort and assistance before the image of Mary, who is venerated
here under the beloved title of Salus Populi Romani.
Every August 5th, a solemn celebration recalls the Miracle of the Snows. Before
the amazed eyes of the congregation, a cascade of white petals descends from the
coffered ceiling, blanketing the hypogeum. From the very beginning of his
pontificate, Pope John Paul II requested that an oil lamp burn day and night
under the icon of the Salus Populi Romani, as witness to his great devotion to
the Madonna.
This same Pope, on the eighth of December 2001, inaugurated another precious
jewel of the basilica - the museum, where a modern structure would house ancient
masterpieces offering visitors a unique perspective of the history of the
Basilica.
The numerous treasures contained in the museum render St. Mary Major a place
where art and spirituality combine in a perfect union, offering visitors a
unique experience in contemplating the great works of man inspired by God.
Gọi là đền thờ Đức Bà Cả vì đây là đền thờ đầu
tiên lớn nhất dâng kính Đức Mẹ bên Tây Phương. Nhưng đền thờ còn có ba tên gọi
khác nữa: là đền thờ Liberio, đền thờ Đức Bà Xuống Tuyết và đền thờ Máng Cỏ.
Truyền thuyết kể rằng đêm ngày mùng 4 tháng 8
năm 352, Đức Mẹ hiện ra với ĐGH Liberio và nhà quyền quý Giovanni, và xin xây
một đền thờ dâng kính Đức Mẹ. Khi ĐGH hỏi Mẹ muốn xây đền thờ ở đâu, thì Đức Mẹ
trả lời: “Ngày mai, con thấy tuyết rơi ở đâu, thì xây đền thờ ở đó”. Sáng hôm
sau mùng 5 tháng 8 tuyết rơi trên đồi Esquilino. Tháng 8 là mùa hè trời Roma rất
nóng, nhưng tuyết đã rơi trên đồi Esquilino, là một trong 7 trái đồi của Roma.
Vì thế đền thờ còn có hai tên gọi khác nữa là đền thờ Liberio theo tên của ĐGH,
hay đền thờ Đức Bà xuống tuyết, để ghi nhớ phép lạ này. Ngày nay cứ tới ngày
mùng 5 tháng 8 biến cố tuyết rơi được nhắc lại bằng một trận mưa các cánh hoa
trắng, hay sau này bằng bột xà phòng giả làm tuyết được thổi từ bao lơn đền thờ.
Ngoài ra đền thờ còn có tên gọi thứ bốn là Đền thờ Máng Cỏ, vì bên dưới bàn thờ
tuyên xưng đức tin có giữ hai thanh gỗ lấy ở máng cỏ Bếtlêhem bên Thánh Địa, và
được đựng trong một hộp thuỷ tinh có viền trang hoàng bằng bạc rất đẹp, do ông
Valadier làm.
** Người ta đã không tìm thấy dấu vết nào của
ngôi nhà thờ đầu tiên này, ngoại trừ một câu trong Cuốn sách Giáo hoàng khẳng
định rằng Đức Giáo Hoàng Liberio “đã cho xây vương cung thánh đường của ngài
cạnh khu thương mại Macellum Liviae”. Khu thương mại này đã do hoàng đế Augusto
xây để ghi nhớ vợ ông là hoàng hậu Livia.
Sau khi Công Đồng Chung Êphêxô nhóm họp năm 431
và tuyên bố tín điều Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa Theotokos, Vương cung thánh đường
đã được ĐGH Sisto III cho xây lại giữa các năm 432-440. Vào thế kỷ XII, giữa các
năm 1145-1153, đền thờ được ĐGH Eugenio III cho sửa rộng ra, xây thêm khu vực
dành cho các dự tòng phiá trước có trang hoàng cột, và cho làm nền lát đá cẩm
thạch mầu kiểu Cosmati. Giữa các năm 1288-1292 ĐGH Nicolò IV cho xây cung thánh
mới, và giao cho ông Jacopo Torriti trang hoàng với các bức khảm đá mầu rất đẹp.
Vào năm 1377 khi từ Avignon trở về Roma ĐGH
Gregorio XI cho xây tháp chuông theo kiểu Roman. Tháp cao 75 mét và là
tháp chuông kiểu roman cuối cùng cao nhất Roma. Bên trên có 5 quả chuông, trong
đó có một quả tên là “quả chuông bị lạc”, được gióng lên vào lúc 9 giờ tối.
Người ta kể rằng chính nhờ nghe tiếng chuông kêu, mà một bé gái mục đồng chăn
chiên đi lạc đã định hướng và về được tới nhà bằng an.
Vương cung thánh đường vẫn duy trì hình dạng xưa
kia. Giữa các thế kỷ XVI-XVII hai Giáo Hoàng Sisto V và Phaolo V cho xây thêm
hai nhà nguyện mang tên các vị là nhà nguyện Sistina bên phải và nhà nguyện
Paolina bên trái. Vào thế kỷ XVII ĐGH Clemente X cho xây thang cấp mặt sau đền
thờ. Tiếp đến ĐGH Biển Đức XIV cho tu sửa lại hết, và xây thêm mặt tiền như hiện
nay.
Mặt tiền do kiến trúc sư Ferdinando Fuga xây năm
1743, gồm một hành lang tiền đường trang hoàng cột, trên có bao lơn phép lành
gồm 3 vòm, với hai dinh thự hai bên là nơi cư ngụ của các kinh sĩ đền thờ.
** Trên bao lơn còn có các bức khảm đá mầu của
mặt tiền cũ của đền thờ thuộc cuối thế kỷ XIII, do Filippo Rosuti làm. Bên trên
có hình Chúa Kitô ban phép lành giữa các biểu tượng của bốn thánh sử, Đức Trinh
Nữ, các thiên thần và các thánh. Bên dưới là các cảnh cuộc đời của ĐGH Liberio
bao gồm cả phép lạ tuyết rơi.
Tại quảng trường trước đền thờ là cây cột có
tượng Đức Mẹ được dựng lên năm 1854 kỷ niệm biến cố ĐGH Pio IX tuyên bố tín điều
Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Trong hành lang mặt tiền đền thờ bên phải có
tượng đồng của Philipphê IV, vua Tây Ban Nha, là quốc gia đỡ đầu đền thờ
Đức Bà Cả, do Giovanni Lucenti tạc năm 1692. Tây Ban Nha là nước bảo trợ Đền Thờ
Đức Bà Cả. Vì thế hàng năm triều đình Tây Ban Nha vẫn gửi tiền về Roma tài trợ
cho các Kinh Sĩ đền thờ để họ cầu nguyện cho hoàng gia và dân nước Tây Ban Nha.
Cửa đồng chính giữa do ông Ludovico Pogliaghi
tạc năm 1940 với các cảnh tả lại cuộc đời Đức Mẹ, các ngôn sứ, các thánh sử và 4
phụ nữ của Thánh Kinh Cựu Ước diễn tả trước vai trò của Đức Trinh Nữ Maria
trong lịch sử cứu độ.
Chính giữa là Chúa Kitô phục sinh giống hình in
trên tấm khăn liệm thành Torino, hiện ra với Mẹ Maria được diễn tả như là “Sự
cứu rỗi của dân thành Roma”, Trên cao bên trái là cảnh Truyền Tin gần giếng
nước, lấy từ Phúc Âm mạo thư; bên phải là Chúa Thánh Thần hiện xuống trong ngày
lễ Ngũ Tuần.
Bên dưới phía trái là Công Đồng Chung Êphêxô xác
định tín điều Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa Theotòkos; bên phải là Công Đồng Chung
Vaticăng II xưng tụng Đức Mẹ là Mẹ Giáo Hội. Trên cửa cũng có huy hiệu của Đức
Gioan Phaolô II và phiá dưới là huy hiệu của ĐHY Furno, Linh mục trưởng vương
cung thánh đường và huy hiệu của Hội Hiệp Sĩ Thánh Mộ.
Bên trái là Cửa Thánh được Đức Gioan Phaolô II
làm phép ngày mùng 8-12-2001 do nhà điêu khắc Luigi Mattei tạc, và do Hội Hiệp
Sĩ Thánh Mộ Giêrusalem dâng cúng.
** Bên trong đền thờ còn giữ được nguyên vẹn
hình thái của thế kỷ thứ V thời ĐGH Sisto III.
Đền thờ dài 86 mét có hai hàng gồm 36 cây cột
cẩm thạch và nham thạch lớn, đầu chạm trổ theo kiểu Ionic, chia đền thờ thành 3
gian dọc.
Nền đền thờ lát đá cẩm thạch mầu và trang hoàng theo kiểu Cosmati dưới thời ĐGH
Eugenio III, thuộc giữa thế kỷ XII, do hai nhà quyền quý Roma là ông Scoto
Paparoni và con là Giovanni dâng tặng ĐGH Eugenio III.
Gian giữa được soi sáng với 21 cửa sổ mỗi bên,
nhưng phân nửa đã bị xây kín lại. Trên các cửa sổ bị xây kín lại có các bức bích
họa kể lại cuộc đời Đức Mẹ.
Phiá dưới hai bên có các bức khảm đá mầu diễn tả
các cảnh Cựu Ước: bên trái là lịch sử cuộc đời các tổ phụ Abraham, Giacóp và
Igiaác; bên phải là cuộc đời của ông Môshê và ông Gioduê. Trên tổng số 42 bức
khảm đá mầu, trong đó nhiều bức diễn tả hai cảnh chồng lên nhau, chỉ còn lại 27
(12 bên trái và 15 bên phải), sau vụ sửa sang đền thờ hồi thế kỷ XVII.
Trần đền thờ bằng gỗ trang hoàng hình hộp, do
kiến trúc sư Giuliano da Sangallo và em là Antonio làm hồi thế kỷ XV. Một trăm
ký vàng mạ trần đền thờ do Cristoforo Colombo đem từ Perù về, và được hoàng hậu
Isabella và vua Ferdinando biếu ĐGH Alessandro VI.
Trên cùng là một dẫy các con bò mộng có các thiên thần nhỏ cỡi. Bò mộng là biểu
tượng của dòng tộc Borgia gốc Tây Ban Nha; và ở chính giữa trần nhà thờ có các
huy hiệu của ĐGH Callisto III và Alessandro VI, là hai vị Giáo Hoàng thuộc dòng
tộc Borgia.
Bên phải gian giữa gần cửa vào là đài kỷ niệm
ĐGH Clemente IX, do kiến trúc sư Carlo Rainaldi xây năm 1671. Bên trái là đài kỷ
niệm ĐGH Nicolò IV, do kiến trúc sư Domenico Fontana xây năm 1574.
Gian bên phải nhà nguyện đầu tiên có giếng rửa
tội do Flaminio Ponzio xây năm 1605. Bồn bằng đá vân ban thuộc năm 1852. Trên
bàn thờ có bức tranh “Đức Mẹ hồn xác lên trời” do Bernini hoàn thành năm 1611.
Bên phải nhà nguyện là phòng thánh có các tác phẩm của Mino del Reame. Bên trái
là nhà nguyện thánh Micae, trên trần có các tranh Bốn thánh sử của Lorenzo di
Viterbo.
Trong vương cung thánh đường Đức Bà Cả có mộ của
9 Giáo Hoàng được chôn cất tại đây, trong đó có Đức Sisto V và Đức Pio V, dòng
Đa Minh, là vị Giáo Hoàng của Kinh Mân Côi.
Đền thờ Đức Bà Cả được trang hoàng với các bức
khảm đá mầu rất đẹp thuộc thế kỷ thứ V. Bắt đầu từ bên trái Khải hoàn môn với
cảnh Melkisêđê là vua và là thầy cả tễ lễ cho Thiên Chúa.
Không kể các bức khảm đá mầu dọc gian giữa của đền thờ kể lại cuộc đời của các
tổ phụ Abraham, Giacóp, hai ông Môshê và Gioduê, trong số các bức khảm đá mầu
quý và cổ xưa có các bức khảm đá mầu của Khải hoàn môn.
Khải hoàn môn khảm đá mầu tả lại vài cảnh trong
cuộc đời thơ ấu của Chúa Giêsu, trong đó có vài cảnh lấy hứng từ các Phúc Âm mạo
thư. Bên trên từ trái là cảnh Truyền tin trong đó Đức Maria mặc như một công
chúa Roma tay cầm cái thoi đang dệt một khăn mầu đỏ dùng cho Đền Thờ, nơi Mẹ đã
phục vụ. Tiếp đến là cảnh báo tin cho Giuse, Ba Vua thờ lậy Chúa Hài Nhi, cảnh
tàn sát các hài nhi Bếtlêhem. Người đàn bà có áo choàng xanh da trời quay lưng
lại các phụ nữ khác là thánh Elidabét chạy trốn với Gioan Tẩy Giả trên tay. Bên
phải khải hoàn môn là cảnh dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ, chạy trốn sang Ai Cập,
Thánh gia gặp Afrodisio, quan tổng trấn thành Sotine bên Ai Cập.
** Theo một Phúc Âm mạo thư, khi Chúa Giêsu cùng
cha mẹ tới Sotine thì 365 bức tượng thần rơi bể, Quan Afrodisio kinh hoàng trước
phép lạ và nhớ tới ngày tàn của Pharao nên cùng quân binh đi gặp Thánh Gia và
thờ lậy Chúa Hài Nhi. Bức tranh cuối cùng là các Nhà đạo sĩ gặp vua Hêrôđê. Ở
chân khải hoàn môn bên trái là thành Bếtlêhem nơi Chúa giáng sinh và tự tỏ hiện
ra lần đầu tiên, và bên phải là thành Giêrusalem, nơi Ngài chết và sống lại.
Trên cùng của Khải hoàn môn có vòng tròn ở giữa
có hình một ngai vua, bên trên có áo hoàng bào và vương trượng. Bức khảm đá mầu
muốn nói rằng Chúa Giêsu Vua không ở trên trời nữa, vì Ngài đã xuống thế nhập
thể làm người trong lòng Trinh Nữ Maria để cứu chuộc nhân loại. Nó cũng nhắc lại
tín điều Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa như được khẳng định trong Công Đồng Chung
Êphêxô năm 431.
Xưa kia dân chúng mù chữ nên tất cả các bức bích
họa hay khảm đá mầu và các tranh ảnh vẽ trong các nhà thờ đều là sách giáo lý
sống động bằng hình.
Bàn thờ tuyên xưng đức tin do kiến trúc sư
Vespignani xây lại năm 1864. Bên dưới có bức tượng ĐGH Pio IX quỳ cầu nguyện, do
Ignazio Jacometti tạc năm 1880. và do ĐGH Leô XIII truyền đặt tại đây. Trước
tượng là bàn thờ với hộp thánh tích bằng kính hình bầu dục đựng hai thanh gỗ lấy
từ Bếtlehem về. Hộp do Valadier làm, và do nữ đại sứ Bồ Đào Nha dâng cúng.
Bên trên bàn thờ có tàn che dựng trên bốn cây
cột bằng đá vân ban do kiến trúc sư Ferdinando Fuga tạc hối thế kỷ XVIII. Hòm đá
vân ban dưới bàn thờ đựng xương thánh Matthia và các Thánh khác.
Bức khảm đá mầu tuyệt đẹp trong cung thánh do
Iacopo Torriti làm năm 1295, diễn tả cảnh Chúa Giêsu đội triều thiên cho Đức Mẹ
giữa triều thần thánh trên trời. Dưới chân Đức Mẹ và Chúa Giêsu có mặt trời, mặt
trăng và ca đoàn các thiên thần đang thờ lậy. Thêm vào đó là thánh Phêrô,
Phaolô, thánh Phanxicô thành Assisi và ĐGH Nicolò IV bên trái; Thánh Gioan Tẩy
Giả, thánh sử Gioan, thánh Anton và ĐHY Colonna là người trang trải chi
phí, bên phải.
** Phần còn lại của bức khảm đá mầu gồm các cành
nảy sinh từ hai gốc cây ở hai đầu ngoài cùng. Ở nền bức khảm đá mầu là cảnh Đức
Mẹ ngủ, theo các hình vẽ icone bisantin, được phổ biến bên Tây Phương sau các
cuộc thập tự chinh. Đức Mẹ nằm trên giường, trong khi các thiên thần chuẩn bị
lấy xác Đức Mẹ đi, trước cái nhìn kinh ngạc của các Tông Đồ. Chúa Kitô đang chờ
đợi trên trời, cầm trong vòng tay linh hồn trong trắng của Mẹ. Còn có hình của 2
tu sĩ Phanxicô và một giáo dân đầu đội mũ theo kiểu của thế kỷ XII.
Bên dưới là bức tranh Giáng Sinh của họa sĩ
Mancini, được ĐGH Biển Đức XIV cho đặt tại đây. Giữa các cây cột trang hoàng
kiểu ionicô là các bức chạm nổi của Mino del Reame trình bầy cảnh chúa
Giêsu sinh ra, phép lạ tuyết rơi, việc ĐGH Liberio thành lập vương cung thánh
đường, cảnh Đức Mẹ hồn xác lên trời và Ba Vua thờ lậy Chúa Hài Nhi.
Bên cạnh bàn thờ chính phiá bên phải là tấm bia
mộ rất đơn sơ của gia đình Bernini :”Gia đình quyền quý Bernini chờ đợi sự Phục
Sinh ở đây”. Chính ông Bernini là người đã xây hai cánh hành lang của đền thờ
thánh Phêrô giữa các năm 1656-1667.
Bên phải là nhà nguyện Sistina hay nhà nguyện
Thánh Thể do Domenico Fontana xây cho ĐGH Sisto V năm 1585. Nhà nguyện được
trang hoàng với rất nhiều tượng và các bức bích họa, với mộ của ĐGH Pio V, tượng
do Leonardo da Sarzama tạc, và mộ ĐGH Sisto V, tượng do Valsoldo tạc. Cả hai mộ
do Domenico Fontana xây. Chính giữa dưới bàn thờ có hình nhà thờ cũ bằng dồng là
nhà nguyện máng cỏ được Arnolfo di Cambio tu sửa hồi thế kỷ XIII. Ông cũng là
tác già của các bức tuợng nhỏ trên khải hoàn môn nhà nguyện Sistina và các tượng
trong vòm nhà nguyện. Cuối gian phải là mộ ĐHY Gonsalvo Rodriguez do
Giovanni Cosma tạc năm 1299.
** Bên trái đối diện với nhà nguyện Sistina và
nhà nguyện Paolina, do ĐGH Phaolo V truyền cho Flaminio Ponzio xây năm
1611. Ông cũng xây hai mộ của ĐGH Phaolô V bên trái, và ĐGH Clemente VIII bên
phải. Các bức bích họa kể lại cuộc đời Đức Mẹ, bốn Thánh Sử do các họa sĩ
Baglioni, Chevalier d’ Arpin, G. Reni và Lanfranco vẽ. Trên bàn thờ trang hoàng
ngọc lưu ly, có hình Đức Mẹ Sự cứu rỗi của dân Roma, thuộc thế kỷ XIII. Trong
một số dịp lễ lớn ảnh này được đem về để bên phải bàn thờ nới ĐGH cử hành thánh
lễ.
Tiếp đến là nhà nguyện Sforza do Giacomo della
Porta xây theo mẫu vẽ của Michelangelo. Trên bàn thờ có hình “Đức Mẹ hồn xác lên
trời “ của Girolamo da Sermoneta.
Tượng Nữ Vương Hoà Bình và Nữ vương vũ trụ, do
ĐGH Biển Đức XV cho làm để tạ ơn Đệ Nhất Thế Chiến chấm dứt. Tượng do Guido
Galli tạc. Gương mặt Đức Mẹ bồng Chúa Hài Đồng đượm nét buồn vì loài người bắn
giết nhau và gây ra bao nhiêu tàn phá đổ vỡ thương đau một cách vô lý và vô ích.
Nhà nguyện cuối cùng bên phải do Martino Longhi
xây năm 1559, bên trong có mộ ĐHY Bartolomeo Cesi, do Giacomo della Porta
xây. Trên bàn thờ có bức tranh “Thánh Catarina tử đạo” do Girolamo da Sermoneta
vẽ.
Bên trên Cửa Thánh là mộ các HY Philippe de
Levis và Eustache do Giovanni Dalmata xây năm 1489.
Linh Tiến Khải
http://www.archivioradiovaticana.va/storico/2017/06/11/%C4%91%E1%BB%81n_th%E1%BB%9D_%C4%91%E1%BB%A9c_b%C3%A0_c%E1%BA%A3/vi-1318346
The Basilica of St. John Lateran, Scala Sancta
Founded during the fourth century in honour of St.
John the Baptist and John the Evangelist,
St John Lateran (Basilica di San Giovanni in Laterano) is
the Cathedral of Rome and the most important of the four
major basilicas. It is known as St John Lateran Archbasilica, as is it
considered the mother church of the Roman Catholic faithful.
History
In the early part of the fourth century, the
Laterani family were stripped of their land as one of their members was accused
of conspiring against the Emperor. It was given to the Bishop of Rome
in order to build the first Roman basilica.
Throughout the centuries, St John Lateran has survived several fires and an
earthquake in 897. Nevertheless, it still maintains its first form even though it
has been reconstructed on several occasions. Near the Archbasilica
there was a monastery, which has completely disappeared now; the only part still
standing is its beautiful
cloister from the thirteenth century. The Basilica also houses a
baptistery, which for many years was the only baptistery in Rome.
The Basilica of St. John Lateran has played an important role throughout
history; it
was here that all popes were enthroned up until 1870. Nowadays,
Basilica di San Giovanni in Laterno is where the Pope, as Bishop of Rome,
celebrates Holy Thursday Mass.
Interior
The two-story portico on the Basilica’s main façade was constructed during the
eighteenth century, and it is where
the Pope blesses the congregation on Holy Thursday. On the top part of
the façade visitors will see imposing statues of the Apostles and Jesus, also
dating from the eighteenth century.
The central
doors made of bronze were previously used
at the Roman Senate House (the Curia Julia) within the Roman
Forum.
The Basilica’s interior is magnificent with colossal
statues, mosaics and frescoes from the ceiling to the
ground, with impressive
columns.
The Holy
Stairs (Scala Santa) are located near the Lateran
Basilica. These are renowned because it is believed that Jesus Christ stepped on
them during His Passion. They were relocated from Jerusalem to Rome in 326 by St
Helena.
One of the most beautiful basilicas of Rome
The Cathedral
of Rome is
among the most beautiful churches
in Rome and is a definite must-see. We also recommend visiting San
Clemente and Santa
Maria della Concezione dei Cappuccini.
Ðền Thờ Thánh Gioan tại Laterano, mẹ của
tất cả các nhờ thờ và là Nhà Thờ Chính Tòa của Giáo Phận Roma, nhắc nhớ cho các
tín hữu "Hồng Ân bí tích Rửa Tội" với tất cả ý nghĩa của ơn này, đồng thời mời
gọi các tín hữu cảm tạ bằng chính cuộc sống như con cái Thiên Chúa trong Ðức
Giêsu Kitô.
Cũng nên nhắc lại rằng, cho đến năm 1377,
dinh của Ðức Giáo Hoàng là Ðiện Laterano, cạnh đền thờ Thánh Gioan. Tại đây, vào
năm 1300, Ðức Bonifacio VIII đã ký sắc chỉ khai mạc Năm Thánh đầu tiên trong
lịch sử Giáo hội. Tuy nhiên, hồi đó, các tín hữu chỉ phải đi viếng Ðền Thánh
Phêrô, và mãi đến Năm Thánh lần thứ hai vào năm 1350, Ðền Thờ Thánh Gioan mới
được ghi vào số các nhà thờ cần kính viếng.
Ðể chuẩn bị cho Ðại Năm Thánh 2000, theo
lời yêu cầu của Ðức Hồng Y Ruini, vào năm 1999, Ðền Thờ Thánh Gioan đã có Cửa
Thánh mới, bằng đồng, công trình do điêu khắc gia Floriano Bodini thực hiện. Cửa
cao 3.60 mét, và chiều ngang rộng 1.90 mét. Cánh cửa diễn tả hình Ðức Mẹ bảo vệ
Chúa Hài Ðồng đang hướng lên bên trên có tượng Thánh Giá. Bên trên cửa có huy
hiệu Giáo Hoàng.
Vài chi tiết về Ðền Thờ Thánh Gioan
Latêranô hay còn gọi là Ðại Vương Cung Thánh Ðường Latêranô
Latêranô là thánh đường lâu đời nhất trong
bốn vương cung thánh đường ở Roma. Chính hoàng đế Constantine đã dâng hiến cho
Giáo Hội trước năm 311. Từ đó, thánh đường Latêranô luôn luôn là trung tâm của
đời sống Kitô hữu trong thành phố; dinh thự của các Ðức Giáo Hoàng và là nhà thờ
chánh tòa của Roma. Qua nhiều thế kỷ, năm Công Ðồng chung và nhiều nghị hội địa
phận đã nhóm họp tại Thánh Ðường Latêranô. Chính vì thế, thánh đường Latêranô
xứng đáng "Mẹ của các giáo đường khắp thế giới".
1. Ðại Vương Cung Thánh Ðường Thánh Gioan
Lateranô
a. Lịch sử
Vào cuối thế kỷ thứ III, Ðế quốc Roma theo
chế độ "Tứ đầu chế" tức là có 4 vị tiểu hoàng đế trị vì: tại vùng Nocomedia có
Hoàng đế Diocleziano, vùng Sirmium có Hoàng đến Galerio, vùng Milano có Hoàng đế
Massimio và vùng Trevi có Hoàng đế Costanzo Chlore. Ngày 28 tháng 10 năm 312,
tướng La Mã Constantino (306- 337) con của hoàng đế Costanzo Chlore chiến thắng
quân của hoàng đế Massenzio (306- 312) là con của Hoàng đế Massimio ở cầu
Milvio, và khải hoàn tiến vào Roma. Ngày nay chúng ta còn thấy Khải hoàn môn
Constantinô ở cạnh đấu trường Côlôseum ghi nhớ việc ông khải hoàn tiến vào thành
Roma. Sau đó ông trở thành hoàng đế Roma ở đế quốc Tây Phương. Nhờ vào dấu hiệu
Thánh giá trên bầu trời với hàng chữ latinh "cứ dấu hiệu này ngươi sẽ chiến
thắng". Tướng Constantinô đã cho đúc hình Thánh giá trên các khiên thuẫu của
binh sĩ ông và quả nhiên ông đã chiến thắng đạo quân của hoàng đế Massenzio
Năm 313, ông ra chiếu chỉ tại Milano,
ngưng bách hại các người Kitô hữu, cho tự do hành đạo, và ra lệnh trả lại tất cả
tài sản đã tịch thu của Giáo Hội trong thời kỳ bách hại của các hoàng đế tiền
nhiệm. Sau cùng, hoàng đế trở lại đạo Công Giáo và ấn định Chúa Nhật là ngày
nghỉ hằng tuần.
Vào khoảng năm 313-318, Hoàng đế
Constantinô đã ra lệnh xây Thờ Chúa Cứu Thế ở khu vực Laterano. Ðây là khu vực
của gia tộc Laterano giàu có đã bị hoàng đế La mã là Nero (54- 68) tịch thu tài
sản, sau khi ông ta đã giết người cuối cùng của gia tộc này là Plauzio Laterano
bằng cách gán cho ông này tội mưu phản.
Hoàng đế Constantino ra lệnh san bằng
doanh trại rộng lớn của đoàn quân cận vệ hoàng đế Massenzio để lấy đất xây Ðền
thờ Chúa Cứu Thế. Qua quyết định này, ông làm một công đôi việc, một đàng muốn
phá hủy dấu tích hùng vĩ của đối phương, đàng khác muốn tái khẳng định ý định
nâng đỡ Kitô giáo.
Theo các sử gia, sở dĩ Hoàng đế
Constantino chọn khu vực ngoại ô này của thành Roma hồi đó để xây Ðền thờ đầu
tiên của Kitô giáo, cạnh tường thành Aurelia, là để khỏi đụng chạm đến sự nhạy
cảm của nhiều người dân Roma hồi đó vẫn còn theo ngoại giáo.
Tương truyền kể lại rằng: Hoàng đế
Constantino bị bệnh phong cùi. Ðêm kia trong giấc mộng, ông được Thánh Phêrô và
Phaolô hiện ra và hứu chữa khỏi nếu ông lãnh nhận bí tích Rửa tội. Hoàng đế ra
lệnh tìm kiếm Ðức Giáo Hoàng Silvestro1 (314- 335) và Ngài rửa tội cho hoàng đế
năm 314 và chữa ông khỏi bệnh phong cùi. Ðể tỏ lòng biết ơn, hoàng đế ra lệnh
xây cất Ðền thờ này.
Năm 334, Ðền thờ được Ðức Giáo Hoàng
Silvestro I thánh hiến. Theo tương truyền có ảnh Chứa Cứu Thế "achiropita",
nghĩa là không do tay người phàm vẽ ra, xuất hiện cách lạ lùng trong lễ thánh
hiến Ðền thờ. Sau này, ảnh này được vẽ lại trên mặt tiền và được coi là phép lạ
suốt thời Trung Cổ.
Ðền thờ này là Thánh đường đầu tiên của
Giám Mục Rôma, và cũng là Nhà thờ Chính tòa Giáo phận Rôma. Thánh đường này được
gọi là "Mater et Caput", là Mẹ và là Ðầu của tất cả Nhà thờ khác trên thế giới.
Ðền thờ này cũng tượng trưng cho sự trỗi
dậy của Kitô giáo. Thật vậy, sau chiếu chỉ tha đạo của hoàng đế Constantino, một
cộng đoàn Kitô hữu đã xuất đầu lộ diện, công khai cử hành phụng vụ và biểu lộ
đời sống đức tin. Ðền thờ này tượng trưng cho chính Giáo Hội
Vì tầm quan trọng này, nên lễ Cung Hiến
Ðền Thờ Thánh Gioan Laterano hằng năm được cử hành với lễ kính bậc hai vào ngày
9 tháng 11, quan trọng hơn cả lễ Cung Hiến Ðền Thờ Thánh Phêrô và Phaolô, cử
hành với bậc lễ nhớ bậc ba vào ngày 18 tháng 11.
Ðền thờ này lúc đầu được dâng kính Chúa
Cứu Thế, sau đó dưới thời Ðức Giáo Hoàng Gregorio 1 (590- 601) thì lại được dâng
kính cả hai Thánh Gioan Tẩy Giả và Gioan Tông Ðồ. Dân chúng ở Roma có lòng kính
mến đặc biệt đối với thánh Gioan Tông Ðồ, vì theo tương truyền (có nhiều sử liệu
chứng minh, trong đó có cả Tertulliano), Thánh nhân đã thoát khỏi cuộc hành hình
cách lạ lùng tại thành Roma: tại đây ngài bị dìm vào một chảo dầu đun sôi (cách
cửa Latina vài mét, ngày nay có Ðền thờ nhỏ kính thánh Gioan ở trong chảo dầu -
mang tên San Giovanni in Oleo). Ðức Giáo Hoàng Ilaro (461- 468) đã thoát khỏi
cuộc bạo động của những người rối đạo, sau đó để ghi ơn, ngài đã cho xây một Nhà
nguyện cạnh giếng rửa tội hiện nay ở Laterano, và quyết định dâng kính Ðền thờ
này cho thánh nhân. Cho nên Ðền thờ hiện nay mang tên Gioan Latêranô do Ðức Giáo
Hoàng Lucio đặt tên vào năm 1144.
Ðền thờ chịu nhiều phá hủy qua dòng thời
gian: bị quân man di Genserico cướp bóc vào năm 455: bị động đất vào năm 896.
Tổng cộng có hơn 20 vị Giáo Hoàng xây cất, tái thiết, tu bổ và trang hoàng Ðền
thờ. Ðặc biệt vào giữa thế kỷ 17, Ðức Giáo Hoàng Innocentê 10 (1644- 1655) đã ủy
thác cho kiến trúc sư Francesco Borromini điều chỉnh sửa lại hoàn toàn ngôi Ðền
thờ. Năm 1735 mặt tiền Ðền thờ như ta thấy hiện nay với cổng vào do kiến trúc sư
Alexandro Galilei thiết kế. Năm 1885 Ðức Lêô 13 cho sửa lại hậu cung Ðền thờ.
Như thế, trong 10 thế kỷ, từ thế kỷ thứ IV
đến thế kỷ XIV, Ðền thờ này cũng như tòa nhà bên cạnh đây là trung tâm của Giáo
Hội Roma, là trụ sở và là biểu tượng của Ðức Giáo Hoàng. Cho nên các nhà nguyện,
đan viện, nhà trọ và khách sạn được thiết lập chung quanh Trung Tâm này.
Chính tại Ðền thờ này, Ðức Giáo Hoàng
Innocentê III (1198- 1216) đã bãi chức hoàng đế Otto, và phê chuẩn luật dòng của
Thánh Phanxico Assisi. Tại đây đã khởi xướng nhiều cuộc xuất quân của Thập tự
chinh để tái chiếm Thánh địa khỏi tay người Hồi giáo. Năm 1300, Năm Thánh đầu
tiên của Giáo Hội được củ hành tại đây.
Vào năm 1962, Ðức Giáo Hoàng Gioan XXIII
muốn đưa Tòa Giám Quản Roma đến Laterano và đặt trung tân hành chánh của Giáo
phận Roma trong Tòa giám quản này. Sau đó, Ðức Phaolô VI đã cho xây tại Vatican
các khu bảo tàng viện mới để lưu giữ các kỷ vật trước kia để ở Laterano như Bảo
tàng viện truyền giáo và nhân chủng học.
b. Kiến trúc
Mặt tiền Ðền thờ có từ thế kỷ XVIII trông
rất cân đối, và được coi là hùng vĩ uy nga nhất trong số các mặt tiền Ðền thờ ở
Roma. Kiến trúc sư Alessandro Galilei, người Florence đã thiết kế mặt tiền này
vào năm 1735 theo lời yêu cầu của Ðức Giáo Hoàng Clemente XII. Tất cả đều bằng
cẩm thạch, và rất phù hợp với quảng trường phía trước. Bên trên nóc tiền đường ở
giữa là tượng Chúa Cứu Thế, hai bên là tượng Thánh Gioan Tẩy Giả cầm Thánh giá,
và Gioan Tông Ðồ cầm chén lễ. Hai bên có 12 vị thánh Tiến sĩ Giáo Hội La tinh và
Ðông phương, mỗi tượng cao 7 mét, tượng trưng sự hiệp nhất giáo lý của Hội Thánh
Kitô. Tổng cộng là 15 tượng. Bốn Thánh tiến sĩ Giáo Hội Ðông phương là: Gregorio
Nazianzeno, Basillio, Gioan Kim Khẩu, và Anatasio. Bốn thánh tiến sĩ Giáo Hội
Tây phương là Ambroxio, Augustino, Giêronimo và Hilario.
Mặt tiền có ghi hàng chữ: "Sacrosancta
Lateranensis ecclesia omnium uthis et othis ecclesiarum mater et caput". Mẹ và
Ðầu của tất cả nhà thờ ở Roma và trên thế giới.
Ở giữa mặt tiền Ðền thờ, có ban công
chính, các Giáo Hoàng thường ban phép lành cho dân chúng trong dịp Năm Thánh.
Cũng tại đây Ðức Hồng Y Gaspani, nhân danh Ðức Piô XI ký hiệp định Laterano với
Italia, thành lập Nhà nước Vatican năm 1929, tái lập sự độc lập pháp lý và lãnh
thổ của Tòa Thánh. Từ lúc đó, Ðức Giáo Hoàng mới long trọng nhận Ðền thờ này là
Nhà thờ Chính tòa của mình, với tư cách là Giám Mục Roma.
Trong hành lang ở tiền đường Ðền thờ, ở
phía tay trái, có tượng Hoàng đế Constantino
Các hình nổi trên xà cửa Ðền thờ diễn tả
những biến cố trong cuộc đời thánh Gioan Tẩy Giả.
Từ thời đầu tiên cho đến ngày nay chỉ còn
lại sơ đồ 5 gian và Ðền thờ dài 130 mét, gian chính rộng 16 mét, và dài 87 mét.
Trong gian chính của Ðền thờ, có 30 cột
bằng cẩm thạch màu vàng, ở hai bên có tượng 12 thánh Tông Ðồ (cao khoảng 6 mét)
do Ðức Clemente IX (1700- 1721) cho tạc. Bên trên có hình nổi kể lại sự tích Cựu
ước và Tân ước.
Trần Ðền Thờ bằng gỗ thật huy hoàng do
kiến trúc sư Pirri Ligorio khởi sự theo lệnh của Ðức Giáo Hoàng Piô IV (1559-
1565), ngài thuộc gia tộc Medici nên có huy hiệu của ngài. Công trình này được
hoàn thành dưới thời Ðức Giáo Hoàng Piô V (1566- 1572). Gần tường lối vào là huy
hiệu của Ðức Piô VI (1775- 1799) là vị đã cho trùng tu trần đền thờ này.
Tranh khảm đá ở hậu cung Ðền thờ là của 2
nghệ nhân Jacopo Torriti và Jacopo da Camerino, thực hiện từ 1288 đến 1294 với
chủ đề tuyên dương Thánh Giá. Trên mây là Chúa Cứu Thế, có hình các thiên thần
xung quanh. Giữa là Thánh giá có hình chim bồ câu đậu trên. Thánh giá ở trên
ngọn đồi bao trùm Jêrusalem thiên quốc từ đó có 4 dòng sông chảy xuống là 4 Phúc
Âm, giải khát cho cho các con nai và chiên tượng trưng cho dân Chúa. Bên trái có
hình Ðức Mẹ và Ðức Giáo Hoàng Nicola IV đang quỳ, 2 thánh Phêrô và Phaolô. Bên
phải có Thánh Gioan và Anrê. Có hai hình nhỏ là Thánh Phanxico Assisi ở bên trái
và Thánh Antôn Padova ở bên phải được vẽ thêm vào theo lệnh của Ðức Giáo Hoàng
Nicola IV, vì ngài thuộc dòng Phanxicô.
Toàn bộ bức tranh khảm đá này được tháo gỡ
ra trong cuộc trùng tu hồi năm 1896, rồi được ghép trở lại, nhưng vì thế bị mất
đi phần lớn giá trị nguyên bản.
Ở cánh ngang Ðền thờ, gần cửa ra vào bên
phải, có đàn phong cầm vĩ đại với 2 ngàn ống, đây là một trong những đàn phong
cầm quan trọng nhất tại Italia, được 2 cột lớn bằng cẩm thạch màu vàng, trang
trí bằng gỗ mạ vàng, chống đỡ. Do kiến trúc sư Luca Blasi thiết kế năm 1599.
Có nhiều phần mộ trong Ðền thờ này, đặc
biệt là của các Hồng Y Rasponi (1670), Casati (1287), Antoni del Portogallo# Các
vị Giáo Hoàng Sergio IV (1012), Alexandro III.
Bàn thờ của Ðức Giáo Hoàng ở điểm chính
giữa Ðền thờ, được thiết kế lại vào năm 1851. Trước đây, chỉ có Ðức Giáo Hoàng
được làm lễ tại bàn thờ này mà thôi. Trên bàn thờ có lọng tán kiểu Gôtích, được
trang trí bằng những bức bích họa có từ thế kỷ 13. Bàn thờ hiện nay bao gồm bàn
thờ cũ bằng gỗ do 33 vị Giáo Hoàng đầu tiên sử dụng, từ thánh Phêro tới thánh
Silvestro (thế kỷ thứ I đến IV).
Phần dưới bàn thờ được thiết kế vào thế kỷ
thứ IX, ở bên dưới có mộ Ðức Giáo Hoàng Martino V Colouna (1484- 1492), là vị
Giáo Hoàng đầu tiên ở đây sau cuộc ly khai của anh em chính thống Ðông và Tây
phương. Ngài cũng là vị đã cho thực hiện lát nền đền Nhà thờ bằng nhiều đá cẩm
thạch màu sắc khác nhau.
Theo tương truyền phần trên của Nhà tạm do
Ðức Urbano V thiết lập năm 1367, với khung xám bằng sắt, có giữ đầu của Thánh
Phêrô và Phaolô Tông Ðồ. Trong thời quân Pháp xâm lăng vào năm 1799, hai Thánh
tích này bị cướp mất và phá hủy. Ngày nay, người ta có thể thấy vật sao lại do
nghệ nhân Valasier làm. Trong Mặt nhật đựng Thánh tích bên trên bàn thờ để Mình
Thánh Chúa (làm năm 1600) có giữ một mảnh gỗ bàn bằng gỗ rất cổ kính và đơn sơ,
theo tương truyền ở Roma, đây là bàn thờ, trên đó Thánh Phêrô đã cử hành thánh
lễ. Thánh tích này chỉ được trưng bày ngày lễ Phục Sinh.
Ngày nay, Ðền thờ này do một vị Hồng Y
thay mặt Ðức Giáo Hoàng làm Giám quản.
c. Giếng Rửa tội
Ở khu vực bên phải Ðền thờ, sau Tòa giám
quản có giếng rửa tội. Giếng này có từ thời hoàng đế Constantino (theo lưu
truyền vị hoàng đế này đã được Ðức Giáo Hoàng Silvestro rửa tội tại đây) và từ
năm 432 dưới thời Ðức Giáo Hoàng Sixto III (432- 440), giếng rửa tội có hình bát
giác, sau đó trở thành kiểu mẫu cho các giếng rửa tội trong toàn thể thế giới
Kitô giáo. Giếng này được trùng tu vào năm 1637 dưới thời Ðức Giáo Hoàng Urbano
VIII.
d. Tháp Bút
Ðây là tháp bút cao nhất và cổ kính nhất
Roma, cao 47 mét tính cả bệ (không có bệ thì cao 32 mét). Tháp bút này bằng đá
hoa cương màu đỏ của Ai cập cổ từ thế kỷ XIV trước Công nguyên, và được đưa từ
Thèbes bên Ai Cập (tại đền thờ thần Ammoni) về Roma hồi thế kỷ thứ 4, theo lệnh
hoàng đế Constanzo 2 trên một con tàu đặc biệt để chở tháp này về Roma. Tháp
được đặt tại Circo Massimo dưới chân dinh thự Palatino. Vậy là tháp này có độ
tuổi 3.500 tuổi.
Năm 1588 Ðức Giáo Hoàng Sixto V đã tái
thiết và cho chở từ Circo Massimo về Latêranô và dựng trước Ðền thờ. Trước mặt
bệ tháp có ghi hàng chữ: "Constantino, người chiến thắng nhờ sự chuyển cầu của
Thánh Giá, đã được Thánh Silvestro rửa tội tại nơi này, ông đã truyền bá vinh
quang của Thánh Giá".
Tiện đây cũng xin ghi nhận Roma là thành
phố cổ có nhiều tháp bút nhất thế giới, tổng cộng có chừng 13 tháp.
e. Khu vực cạnh Ðền thờ
Gần Ðền thờ có tường thành do Hoàng đế
Aurelio xây vào thế kỷ thứ III và có cổng San Giovanni. Phía trước Ðền thờ có
đài kỷ niệm với tượng thánh Phanxico Assisi, nhắc lại sự tích vào năm 1210,
thánh nhân cùng với các bạn đến Laterano để xin Ðức Giáo Hoàng Innocentê III phê
chuẩn luật dòng của mình.
2. Ðền Thờ Ðích Thực
Kỷ niệm ngày thánh hiến Vương cung thánh
đường Latêranô là dịp suy nghĩ về đền thờ đích thực, tức chính thân thể Ðức
Giêsu Kitô (Ga 2,21). Chính nơi đền thờ này, Thiên Chúa đã thi thố tất cả quyền
năng cứu độ nhân loại. Cũng chính nơi đền thờ này sự thờ phượng đích thực mới
được dâng lên Thiên Chúa. Quả thế, Thánh Linh đã phục sinh thân thể Ðức Giêsu.
Chúa Cha đã đặt Người làm Trung gian duy nhất để chuyển cầu cho nhân loại (x. 2
Tm 2,5; Dt 9,15; 12,24). Không thể cầu nguyện ở bất cứ nơi nào ngoài đền thờ
này. Người Do thái đã phá hủy đền thờ này. Nhưng nội trong ba ngày Ðức Giêsu đã
xây dựng lại nhờ quyền lực Thánh linh để chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa và
anh em đồng loại. Tất cả mọi giá trị và ý nghĩa của vương cung thánh đường
Latêranô cũng như các thánh đường khác đều phải bắt nguồn từ đền thờ này. Thật
vậy, "không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Ðức
Giêsu Kitô" (1Cr 3,11) Máu và nước từ cạnh sườn Ðức Giêsu tuôn chảy như giòng
sông. "Sông này chảy đến đâu, thì ở đó có sự sống" (Ed 47,9). Nếu Ðức Giêsu
không chết và sống lại, nhân loại không thể đón nhận được nguồn mạch sự sống lớn
lao như vậy.
Người được phúc đón nhận sự sống đó đầu
tiên phải là tín hữu. Vì họ là "thân thể Ðức Kitô" (2 Cr 12,27). Bởi đó, họ cũng
là "Ðền Thờ của Thiên Chúa" (1 Cr 3,16). Nếu thế, tất cả những gì diễn ra trong
thân xác Ðức Giêsu cũng sẽ tìm thấy nơi con người Kitô hữu. Thật là một vinh dự
vô cùng lớn lao khi biết Thiên Chúa cư ngự trong thân xác chúng ta. Tội lỗi đã
phá hủy đền thờ này nhiều lần. Nhưng Thánh linh đã lấy ân sủng tái thiết và
trang hoàng lộng lẫy cho Thiên Chúa Ba Ngôi ngự trị. Từ đó, con người có thể tìm
lại niềm hy vọng và sự sống mới. Chúa Thánh linh không bao giờ mỏi mệt phục hồi
"Ðền Thờ của Thiên Chúa". Cuối cùng Thánh linh sẽ phục sinh thân xác chúng ta
cũng như đã phục sinh Ðức Giêsu (x. 1 Cr 6,14).
Chính vì niêm tin lớn lao đó, Kitô hữu
luôn tràn đầy niềm hy vọng giữa bao nhiêu thăng trầm cuộc đời hôm nay. Trái lại,
chỉ những ai không tôn trọng Ðền Thờ Thiên Chúa, mới đánh mất niềm hi vọng đó.
Nhiều giá trị đảo lộn chỉ vì thân xác đã bị lạm dụng cho những mục tiêu văn hóa,
chính trị, kinh tế... Con người đã trở thành công cụ phục vụ chế độ. Người ta
sẵn sàng hy sinh con người. Nhưng nên nhớ "ai phá hủy Ðền Thờ Thiên Chúa, thì
Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ ấy. Vì Ðền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Ðền Thờ ấy
là chính anh em" (1 Cr 3,17).
Hôm nay, trong khi tôn vinh Thánh đường
Latêranô, thánh đường Mẹ ở Rôma, chúng ta tôn vinh chính thánh đường của giáo xứ
chúng ta, nơi chúng ta họp nhau lại cầu nguyện nhân danh Chúa. Chính Chúa đang
hiện diện ở giữa chúng ta khi chúng ta liên kết với Ngài trong tình yêu mến và
liên kết với nhau trong tình huynh đệ để xây dựng nên đền thờ của Thiên Chúa.
Xin Chúa cho chúng ta biết xây dựng chính
đền thờ tâm hồn mình và biết cùng nhau hiệp nhất xây dựng đền thờ Giáo Hội.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An (6/11/2014)
http://vntaiwan.catholic.org.tw/vatican/dentho3.htm
The Basilica of St. Paul's outside the Walls
Erected during the fourth century AD, the Basilica of St. Paul Outside the Walls
(Basilica di San Paolo Fuori le Mura) is
one of the four major basilicas of Rome,
and the second largest after St.
Peter's Basilica.
It was founded
on the burial ground of St. Paul.
Architecture
When Paul the Apostle was executed in the first
century AD in Rome, his
followers built a shrine over his grave. In
324 a small church was consecrated on the same grounds, which was later
demolished in 386 to make space for the construction of a larger and more
beautiful basilica, completed in 395.
The monastery’s striking cloister was built between 1220 and 1241. The cloister
is one of the few parts of the Basilica which survived the
fire of 1823.
After the fire, many countries made donations for the restoration of the church,
which was reopened in 1840. The
temple was later declared a national monument.
Interior
The interior of the Basilica of St. Paul is magnificent, with enormous
marble columns and beautiful gold mosaics. Unfortunately, because of
the fire of 1823, few
parts of the Medieval basilica remain intact. However, the church still
houses some
mosaics from the thirteenth century, a large twelfth-century
chandelier, or the marble tombstone under which the
remains of St. Paul lie.
On the basilica’s walls, visitors will be able to observe
the portraits of each of the popes, while a ray of sunlight lights up
the portrait of the current Pope, Pope Francis.
The atrium located
in the exterior is one of the most noteworthy parts of the church. It is made
up of 150 columns, and from here, visitors can see the façade of the
Basilica covered by an enormous golden mosaic built between 1854 and 1874,
which reflects the rays of sunlight. The centre of the portico houses a
colossal statue of St. Paul.
A little far away, but a must-see
Although the Basilica isn’t
in the heart of the city, we
recommend visiting this unique and astonishing church in
order to see its impressive mosaics, atrium and interior. It is one
of the most worthwhile of Rome.
Ðền Thánh Phaolô gọi là "ngoại thành" vì
tọa lạc bên ngoài tường thành do Hoàng Ðế Aureliano xây cất năm 271 để bảo vệ
thành Roma chống lại các cuộc tấn công của các lực lượng Man di. Thánh đường
hùng vĩ chúng ta thấy ngày nay thật ra là Ðền thờ được tái thiết hoàn toàn sau
khi trận hỏa hoạn dữ dội trong đêm 15 rạng ngày 16-7-1823 thiêu hủy toàn bộ Ðền
Thờ huy hoàng được kiến thiết 15 thế kỷ trức đó.
Khi đi tới Ðền Thờ này ở ngoại ô Roma, tín
hữu hành hương nhớ đến những thăng trầm của vị Ðại tông Ðồ dân ngoại (sinh năm
35 sau Chúa Kitô), các cuộc hành trình truyền giáo của ngài trong toàn vùng Ðịa
trung Hải, những lá thư đầy nhiệt huyết ngài gửi tới các cộng đoàn Kitô mới được
thành lập bấy giờ, đặc biệt là thư gửi giáo đoàn Roma được thánh nhân viết trong
khoảng năm 57-58, trong đó nổi bật các đề tài ơn cứu chuộc, sự tiền định và ơn
công chính hóa. Toàn thể đời sống Kitô giáo của chúng ta thấm đượm những tổng
hợp đạo lý quan trọng nhất của thánh nhân: cuộc sống của chúng ta trong Chúa
Kitô, hướng về Chúa Cha cùng với Thánh Thần của Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập
thể làm người, là Chúa Phục Sinh và là Ðấng Cứu Ðộ chúng ta.
Ngoài ra, người ta cũng không thể tách rời
hai thánh Phêrô và Phaolô, vì Roma được thiết lập trên hai Tông Ðồ cột trụ này.
Cả hai đều chịu tử đạo tại đây. Và các tài liệu cổ kính nhất đã nói đến những
cuộc hành hương của các tín hữu về Roma để kính viếng mộ của hai thánh nhân.
Lịch sử Ðền Thờ Thánh Phaolô Ngoại Thành, tuy không phức tạp như lịch sử đền thờ
Thánh Phêrô, nhưng cũng không kém thăng trầm, như hồi thế kỷ thứ 8, đền thờ bị
cướp phá, sau đó đến lượt những người Hồi Giáo Sarrasins hồi thế kỷ thứ 9 cướp
bóc, nhưng đền thờ được trùng tu ngay.
1. Thánh Phaolô đến
Roma
Thánh Phaolô thuộc một gia đình Do thái,
định cư tại đảo Tarso, và có quốc tịch Roma. Sau các cuộc hành trình truyền
giáo, ngài mang số tiền lạc quyên được tại các giáo đoàn về Jerusalem để trợ
giúp Roma tại đây. Thánh nhân bị những người Do thái bách hại, nên bị bắt và dẫn
giải tới Cesarea, trước quan tổng trấn Felice. Ông này giam thánh Phaolô 2 năm.
Ngài nại lên hoàng đế Cesar vì là công dân Roma.
Mãi đến năm 60, thánh Phaolô mới tới Roma
được, sau cuộc đắm tàu ở ngoài khơi đảo Malta. Từ năm 61 đến 63 ngài được tự do
tạm, và có thể rao giảng, viết nhiều thư từ (thư gửi tín hữu thành Colosê,
Ephêsô và gửi Philomene). Từ năm 63 đến 66, ngài có đi rao giảng tại Ðông phương
hay Tây Ban Nha, không có gì chắc chắn. Ðiều chắc chắn là năm 66, ngài lại bị
cầm tù ở Roma và bị xử trảm tại nơi gọi là Aquas Salvias, trên đường từ Roma tới
Ostia năm 67. Thánh nhân không bị đóng đanh như Chúa Giêsu hay thánh Phêrô vì
chém đầu là hình phạt "ưu tiên" dành cho công dân Roma.
Việc Thánh Phaolô đến Roma là do Thánh
Thần Chúa thúc đẩy, như lời sách Tông Ðồ Công Vụ ghi lại: "Sau khi những sự kiện
ấy xảy ra, Phaolô được Thánh Thần Chúa thúc đẩy, đi ngang qua miền Macedonia và
Acaia, và đi Jerusalem. Ông nói: "Về đó rồi, tôi còn phải đi thăm Roma nữa".
(TÐCV 19,21)
Thánh Luca trong sách này cũng ghi lại sự
tích thánh Phaolô từ đảo Malta đến Roma:
"Ba tháng sau, chúng tôi ra khơi trên một
chiếc tàu đã qua mùa đông tại đảo; tàu này của thành Alexandria và mang huy hiệu
hai thần Dioscuri. Chúng tôi ghé vào thành Syracura và ở lại đó ba ngày. Từ nơi
ấy chúng tôi đi men theo bở biển và tới thành Regio. Ngày hôm sau có gió nam nổi
lên, và sau hai ngày chúng tôi tới cảng Pozzuoli. Ở đây, chúng tôi gặp được
những người anh em, họ mời chúng tôi ở lại với họ bảy ngày. Chúng tôi đến Roma
như thế đó. Các anh em ở Roma nghe tin chúng tôi tới thì đến tận chợ Appio và Ba
Quán đón chúng tôi. Thấy họ, ông Phaolô tạ ơn Thiên Chúa và thêm can đảm. Khi
chúng tôi vào Roma, Ông Phaolô được phép ở nhà riêng cùng với người lính canh
giữ ông.
Ba ngày sau, Phaolô mời các thân hào Do
thái đến. Khi họ đã tới đông đủ, ông nói với họ: "Thưa anh em, tôi đây, mặc dầu
đã không làm gì chống lại dân ta, hay các tục lệ của tổ tiên, tôi đã bị bắt tại
Jerusalem và bị nộp vào tay người Roma. Sau khi điều tra, họ muốn thả tôi, vì
tôi không có tội gì đáng chết. Nhưng vì người Do thái chống đối, nên bó buộc tôi
phải kháng cáo lên hoàng đế Cesar; tuy vậy, không phải là tôi muốn tố cáo dân
tộc tôi. Ðó là lý do khiến tôi xin được gặp và nói chuyện với anh em, bởi chính
vì niềm hy vọng của Israel mà tôi phải mang xiềng xích này.
Họ nói với ông: "Về phía chúng tôi, chúng
tôi không nhận được thư nào từ Giuđêa nói về ông, cũng chẳng có ai trong các anh
em đến đây báo cáo hoặc nói gì xấu về ông. Chúng tôi muốn được nghe ông trình
bày ý nghĩ của ông, vì chúng tôi biết là phái của ông đến đâu cũng gặp chống
đối".
Họ hẹn ngày với ông, và hôm đó, đến gặp
ông tại nhà trọ đông hơn. Ông trình bày cho họ và long trọng đến làm chứng về
Nước Thiên Chúa; từ sáng đến chiều, ông dựa vào Luật Môisê và các ngôn sứ mà nói
về Ðức Giêsu, để cố thuyết phục họ. Nghe ông nói, người thì được thuyết phục,
người thì không chịu tin. Khi giải tán, họ vẫn không đồng ý với nhau; ông Phaolô
chỉ nói thêm một lời: "Thánh Thần đã nói rất đúng khi dùng ngôn sứ Isaia mà phán
với cha ông anh em rằng: "Họ đến gặp dân này và nói: Các ngươi có lắng tai nghe
cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy, vì lòng dân này đã ra đần độn,
chúng đã nặng tai, còn mắt thì chúng nhắm lại, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng
nghe và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành.
Vậy xin anh em biết cho rằng: ơn cứu độ
này của Thiên Chúa đã được gửi đến cho các dân ngoại; họ thì họ sẽ nghe. Ông nói
thế rồi thì người Do thái đi ra, tranh luận với nhau sôi nổi".
"Suốt hai năm tròn, ông Phaolô ở tại nhà
ông đã thuê và tiếp đón tất cả những ai đến với ông. Ông rao giảng Nước Thiên
Chúa và dạy về Chúa Giêsu Kitô một cách rất mạnh dạn, không gặp ngăn trở nào"
(TÐCV 29,11-20).
Trong dịp bạo chúa Nero đốt thành Roma vào
năm 64 và đổ tội cho các Kitô hữu, thánh Phaolô cũng bị tố cáo là thủ lãnh một
phong trào tập thể làm phương hại cho nhà nước. Ngài lại bị bắt và giam tại nhà
tù, rồi sau đó bị kết án xử trảm.
Theo chứng từ của Eusebio, thánh Phaolô tử
đạo giữa tháng 7 năm 67 tới tháng 6 năm 68. Truyền thống nói rằng đầu thánh nhân
nhảy lên 3 lầu trên sườn đồi và làm nảy sinh 3 giòng suối, đó là Tre Fontane
hiện nay. Huyền thoại này được thánh Gregorio Cả chấp nhận (năm 604).
2. Lịch sử Ðền Thờ
Thánh Phaolô
Thi hài Thánh Phaolô được đặt trong ngôi
mộ cạnh đường Ostiense, cũng như nhiều tội nhân bị kết án tử hình khác. Nhưng
chẳng bao lâu mộ thánh nhân trở thành nơi hành hương và tôn kính của các Kitô
hữu. Trên mộ ngài, người ta thiết lập một nhà tưởng niệm nhỏ (cella memoriae).
Theo sách Giáo Chủ (Liber Pontificalis),
chính hoàng đế Costantino đã khởi công xây dựng một thánh đường trên mộ thánh
Phaolô và được thánh hiến ngày 18-11-324 dưới thời Ðức Giáo Hoàng Silvestro I
(314-335). Kích thước của thánh đường nguyên thủy này tương đối nhỏ bé. Thánh
đường to lớn hơn được xây cất tại nơi đó vào năm 386, tức là nửa thế kỷ sau khi
hoàng đế Costantino qua đời. Các hoàng đế Valentiniano II, Teodosio và Arcadio
bấy giờ viết cho Ðô Trưởng Roma Sallustio để được sự phê chuẩn của Thượng Viện
và Nhân Dân Roma về dự án xây một đền thờ lớn, thay thế nhà thờ dâng kính thánh
Phaolô, trước tình trạng các tín hữu hành hương kéo tới ngày càng đông đảo.
Công trình bắt đầu năm 390 và được hoàn
thành dưới thời Hoàng Ðế Onorio vào năm 395. Thánh đường có 5 gian, có 4 hàng
cột phân ra, gồm 80 cột bằng cẩm thạch. Ðó là thánh đường lớn nhất của Kitô giáo
trước khi Ðền Thờ Thánh Phêrô được kiến thiết. Suốt trong 15 thế kỷ, Vương Cung
Thánh Ðường này không ngừng săn sóc cẩn thận. Chẳng hạn, vào giữa thế kỷ thứ 5,
thánh Giáo Hoàng Lêô Cả cho khởi sự một loạt các cuộc tu bổ và trang điểm đền
thờ.
Thời Phục Hưng, Ðền Thánh Phaolô vẫn được
để nguyên. Nhưng ngày 15 và 16-7-1823, do sự bất cẩn của một người thợ, Ðền Thờ
bị hỏa hoạn thiêu rụi hoàn toàn. Hai kiến trúc sư Bosio và Belli khuyên nên xây
lại hoàn toàn mới Ðền thờ, họa lại mô hình của Ðền Thờ cũ. Giới văn hóa, chính
trị ủng hộ Ðức Lêô XII để ngài khởi công xây cất lại và ngày 25-1-1825, ngài gửi
thư "Ad plurimas easque gravissimas" mời gọi các Giám Mục mở cuộc lạc quyên nơi
các tín hữu cho công trình tái thiết. Lời kêu gọi được các nơi hưởng ứng và
nhiều người đã gửi tiền về Roma. Phó vương xứ Ai Cập tặng các cột bằng đá trắng
và Nga Hoàng Nicola I tặng các khối đá làm hai bàn thờ ở hai gian bên.
Thánh đường mới được khánh thành năm 1854,
nhưng trong thực tế, công trình tái thiết kéo dài 100 năm, và chỉ vào năm 1928,
với việc xây cất 4 cổng 100 cột, kiến trúc sư do Guglielmo Calderini, Ðền Thờ
mới được hoàn thành như ta thấy hiện nay.
Khuôn viên bên ngoài nhà thờ có 150 cột,
tất cả đều là một khối duy nhất. Cửa đồng của Ðền Thờ là một kiệt tác của nghệ
thuật Bizantine do Giovanni VII đặt làm ở Constantinople.
Ðền Thờ dài 136 mét, rộng 65 mét, và cao
29.7 mét. Thánh đường có 5 gian, được chia bằng 24 cột, có chân dung 264 vị Giáo
Hoàng, từ thánh Phêrô cho đến Ðức Gioan Phaolô II, nhắc nhớ sự liên tục của Huấn
quyền Giáo Hoàng. Bức tranh khảm ở hậu cung Ðền Thờ do các nghệ sĩ miền Venezia
hồi thế kỷ 13 thực hiện, diễn tả Chúa Kitô đang ngồi trên một ngai, giữa thánh
Phêrô và Anrê ở bên phải, và thánh Phaolô và Luca ở bên trái.
Ở dưới chân ngài, ta thấy có hình nhỏ Ðức
Giáo Hoàng Onorio III đang quì, cùng với vị tiền nhiệm Innocenzo III và người kế
vị Gregorio IX, là những vị cho thực hiện bức tranh khảm ấy. Ðức Giáo Hoàng Piô
IX đã long trọng khánh thành Ðền Thánh Phaolô ngoại thành năm 1854, trước sự
hiện diện của 185 giám mục, đến Roma để dự lễ tuyên bố tín điều Ðức Mẹ Vô Nhiễm
nguyên tội.
Dưới bàn thờ chính hiện nay 1.37 mét, có
một tấm đá bằng cẩm thạch mỗi chiều 2.12x1.27 mét, có ghi hàng chữ: "Paolo
Apostolo Mart" (Dâng kính Tông Ðồ Phaolô Tử Ðạo). Theo một số người, bia này có
từ thế kỷ thứ I, một số khác cho là từ nửa sau của thế kỷ thứ IV. Nhưng tấm bia
này gồm nhiều miếng hợp thành. Ðây chính là mộ của thánh Phaolô Tông Ðồ.
Bên trên bàn thờ chính là một cái tán
(ciborio) do nghệ sĩ Arnolfo di Cambio ở Roma thực hiện năm 1282. Cái tán này
chỉ bị hư hại sơ trong trận hỏa hoạn năm 1823 và được trùng tu sau đó. Tại 4 góc
của cái tán có 4 tượng nhỏ diễn ta các thánh Phêrô, Phaolô, Luca và Biển Ðức.
Tóm lại, khi viếng Ðền Thờ Thánh Phaolô
được tái thiết, chúng ta hiểu hơn sự huy hoàng của phụng vụ Roma thời cổ xưa. Ở
cuối hậu cung, có Ðức Giám Mục Roma ngồi, chung quanh có tất cả hàng giáo sĩ,
các Giám Mục và Linh Mục, Phó Tế.
Trong gian dài, có 4 hàng cột bao quanh,
hướng cái nhìn của chúng ta về bàn thờ, dân Chúa, sau phụng vụ Lời Chúa với
những bài thánh ca, đi rước tiến đến trước mặt ÐGH và trao cho ngài với các cộng
sự viên bánh và rượu trong phần dâng lễ. Lễ vật ấy, theo thói quen cổ kính, được
dùng để nuôi hàng giáo sĩ và người nghèo. Sau đó, Dân Chúa lại tiến về Ðền Thờ
để rước Mình, Máu Thánh Chúa Kitô, trước bàn thờ được xây dựng trên mộ của thánh
Phaolô: một Chúa, một đức tin, một phép rửa, một Thiên Chúa là Cha.
Phúc Nhạc
(Trích dẫn từ Nguyệt San Trái Tim Ðức
Mẹ số 270, tháng 6 năm 2000)
http://vntaiwan.catholic.org.tw/vatican/dentho2.htm
Cảm Nhận Đúc Kết
Phái đoàn hành hương TĐCTT, trong đó có từng người hành hương chúng ta, có đến
kính viếng bất cứ một nơi nào chăng nữa, thường là các nơi thánh, như Đền thờ
hay Vương cung Thánh đường hoặc di tích lịch sử Kitô giáo nào ở Ý quốc nói chung
và ở Roma nói riêng chăng nữa, không phải chỉ để biết đến lịch sử của nơi ấy, có
từ hồi nào, kiểu kiến trúc ra sao, những ai đã thực hiện v.v., mà nhất là phải
làm sao cho đức tin của chúng ta cảm nhận được chứng tích phục sinh ở từng nơi
thánh ấy. Và đó là lý do chuyến hành hương chộp bắt 2021 của chúng ta mới được
gọi là "Hành Hương Đức Tin - Chứng Tích Phục Sinh".
Tại sao đức tin lại liên quan đến chứng tích phục sinh? Trước hết và trên hết,
là vì nếu Chúa Kitô chỉ có chịu khổ nạn thôi mà không sống lại thì kể như Người
không phải là Thiên Chúa toàn năng, chiến thắng tội lỗi và sự chết, và có thể
ban sự sống cho con người, nên Người không đáng tin. Chính vì thế mà Người đã
phải hiện ra với các tông đồ là thành phần chứng nhân tiên khởi của Người để
củng cố đức tin cho các vị, nhờ đó các vị tin vào Người hầu có thể làm chứng về
Người và cho Người, như Người đã sai các vị đi, sau biến cố Thánh Thần Hiện
Xuống vào Ngày Lễ Ngũ Tuần ở Thành Thánh Giêrusalem.
Bởi thế nên, trước mắt thế gian, cả dân Do Thái lẫn dân ngoại, chẳng ai thấy
được Chúa Kitô Phục Sinh, thậm chí ngay cả các tông đồ cũng thế, nhưng các ngài
đã đích thân thấy Chúa Kitô Vượt Qua, một Chúa Kitô thực sự đã chết và đã sống
lại, sống lại từ trong kẻ chết, vẫn còn 5 dấu thánh trên thân xác phục sinh vinh
quang của Người, và vì vậy đời sống của các ngài cùng với công cuộc tông đồ loan
truyền tin mừng sự sống cứu độ, thậm chí bằng chính máu chứng tử đạo hùng hồn
bất khuất của các ngài, đã trở thành chứng tích phục sinh của Chúa Kitô và cho
Chúa Kitô cho đến tận cùng trái đất.
Kitô hữu chúng ta, từ sau thời các tông đồ, trải suốt giòng lịch sử của Hội
Thánh cho tới khi Chúa Kitô lại đến trong vinh quang, tuy không phải là thành
phần được chính Chúa Kitô đích thân tuyển chọn, mạc khải và sai đi, chúng ta vẫn
phải tiếp tục là chứng nhân cho Chúa Kitô, vì chúng ta đã được lãnh nhận và thừa
hưởng một đức tin tông truyền, một đức tin của các tông đồ và như các tông đồ.
Và chính đức tin tông truyền nơi các thế hệ Kitô hữu chúng ta, trên khắp thế
giới, nhất là ở Ý quốc và Roma, đã tiếp tục trở thành chứng tích phục sinh của
Chúa Kitô, còn lưu vết lịch sử ở các nơi thánh chúng ta đến kính viếng.
Thật vậy, chuyến hành hương chộp bắt 2021 của chúng ta là một cơ hội hiếm quí để
từng tâm hồn Kitô hữu TĐCTT chúng ta gia tăng cảm nghiệm đức tin khi tận mắt
chứng kiến thấy những chứng tích phục sinh vẫn còn dấu tích lịch sử tại Ý quốc
và ở Roma, nhất là ở những nơi 3 sự thể: 1- Các Thánh Đường; 2- Các Thánh Tích
và 3- Các Sử Tích.
1- Các Thánh Đường: Đền Thờ Thánh Antôn Padua ở Padua, Đền Thờ Thánh Tông Sử
Marco ở Venice, Vương Cung Thánh Đường Milan, Thánh Đường Thánh Croce và Vương
Cung Thánh Đường Thánh Maria ở Florence, Vương Cung Thánh Đường Pisa, Thánh Đường Thánh Catarina
ở Sienna, Nhà Thờ Thánh Christina, Đền Thờ Thánh Phanxicô ở Assisi, Thánh Đường
Thánh Clara ở Assisi, Đền
Thờ Santa Maria degli Angeli, Nhà Thờ
Santo Spirito, Nguyện Đường Sistine, Đền Thờ Thánh Phêrô, Đền
Thờ Đức Bà Cả, Đền Thờ Gioan Laterano và Đền Thờ Thánh Phaolô Ngoài Thành, đều
chất chứa chứng tích phục sinh linh thiêng, phản ảnh vinh quang của Đấng Vượt
Qua trong lịch sử loài người, một vinh quang phục sinh được tỏ hiện ở nơi những
gì là nguy nga vĩ đại của từng địa điểm hình thành và vào thời điểm của nó, qua
những đường nét nghệ thuật cùng kỹ thuật kiến trúc độc đáo, do bởi thành phần
Kitô hữu thiên tài nhưng có một đức tin truyền thống sâu xa của Mẹ Giáo Hội!
2- Các Thánh Tích: Cái lưỡi và những thanh quản vẫn còn nguyên
của Thánh Antôn Padua, những xương của vị thánh sử Marco, Tấm Khăn Liệm thành
Turin, cái đầu của Thánh Catarina Sienna, miếng Bánh Thánh và tấm Khăn Thánh ở
Bolsena, Mộ Thánh Phanxicô và Thánh Clara ở Assisi, thi thể còn nguyên của Thánh
Rita Cascia và của Cha Thánh Piô Năm Dấu, Nhà Thánh Đức Mẹ ở Loreto v.v. đều là
những chứng tích phục sinh của Chúa Kitô vinh hiển nhưng thân xác phục sinh của
Người vẫn được Người sử dụng 5 dấu thánh khổ nạn và tử giá của Người để chứng tỏ
Người quả thật "là sự sống lại và là sự sống" (Gioan 11:25), Đấng đã chiến thắng
tội lỗi và sự chết của loài người và cho loài người, "để chúng được sự sống và
là sự sống viên mãn hơn" (Gioan 10:10).
3- Các Sử Tích: Cây Thánh giá ở Nguyện đường Thánh Damiano ở
Assisi, Hang Toại Đạo và Đấu Trường Colosseum ở Roma, Bảo tàng viện Vatican cũng
là chứng tích phục sinh về một Chúa Kitô Vượt Qua, một Đấng Thiên Sai tự tỏ vinh
quang của Người ra, trước hết và trên hết, trên Thánh Giá (xem Gioan 8:28), để
nhân loại nói chung và Giáo Hội nói riêng có thể nhận ra Cha là Đấng đã sai
Người, "đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con một của Ngài để ai tin vào Con thì
không phải chết nhưng được sự sống đời đời" (Gioan 3:16), cũng là Đấng "đã không
dung tha cho Con mình, một phó nộp Người vì tất cả chúng ta" (Roma 8:32).
TĐCTT Đaminh Maria cao tấn tĩnh, BVL
Chúa Nhật XXXI Thường Niên 31/10/2021