SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 


Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XII Thường Niên

Năm C (Chúa nhật) Năm Lẻ (Trong tuần)

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

Chúa Nhật 12 Quanh Năm Năm C

 

(Chúa Nhật Thường Niên 12 này vào chu kỳ Phụng vụ Năm C: 2019, 2022 và 2025,

 đều bị át đi bởi Lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu)

 

Chúa Nhật Lễ Mình Máu Thánh Chúa Giêsu Năm C

 

 

Phép Lạ Thánh Thể ở Bolsena liên quan đến Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô

 

 

Nhà thờ Thánh Christina / Santa Cristina là một đền thờ Công giáo Roma ở Bolsena, giáo tỉnh Viterbo, miền Lazio Ý quốc.

Nhà thờ này trở thành nổi tiếng là vì đó là nơi xẩy ra Phép Lạ Thánh Thể năm 1263, và trở thành bất hủ bởi bức danh họa Mass of Bolsena của Raphael trong dinh Vatican,

đồng thời cũng là nơi chôn táng vị thánh nữ tử đạo Christina thành Bolsena.

Bên trái của Nhà Thờ Thánh Christina là ngôi Nhà Thờ cũ, nơi có bàn thờ xẩy ra Phép Lạ Thánh Thể

 

3 tấm mầu trắng hình chữ nhật ở phía sau và 1 tấm cũng trắng gần như vuông ở chính giữa, đều có những vết Máu Thánh, được trưng ở bàn thờ trong gian nhà thờ cũ.

Phép lạ Thánh Thể này xẩy ra khi vị linh mục người Đức là Cha Phêrô ở Prague thuộc cộng hòa Czech, trên đường hành hương tới Roma đã ghé nhà Thờ Thánh Christina này dâng lễ,

nhưng bấy giờ ngài bị ảnh hưởng thời đại đã mang tâm trạng hoài nghi về sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, nên sau khi ngài truyền phép thì 5 giọt máu đã chảy ra từ Bánh Thánh!

 

 

Đây mới là bàn thờ đã xẩy ra Phép Lạ Thánh Thể, ở gian bên phải bàn thờ lưu giữ 4 Vết Máu Thánh vừa rồi.

Ngay bên dưới lòng Bàn Thờ xẩy ra Phép Lạ Thánh Thể này có một tảng đá còn in 2 dấu chân lạ lùng của Thánh nữ tử đạo Christina, vị còn ngôi mộ ở ngay bên phải bàn thờ.

(Các tấm hình trên đây bé tĩnh đã chụp ngày 13/11/2021, trong chuyến Hành Hương Đức Tin - Chứng Tích Phục Sinh 2021 ở Ý quốc và Roma với Nhóm Tông Đồ Chúa Tình Thương)

 

 

 

 

Thứ Hai


Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 12, 1-9

"Abram ra đi như Chúa đã truyền dạy".

Trích sách Sáng Thế.

Khi ấy, Chúa phán cùng Abram rằng: "Ngươi hãy từ bỏ quê hương, họ hàng và nhà cửa cha ngươi mà đi đến xứ Ta chỉ cho. Ta sẽ cho ngươi thành một dân lớn; Ta sẽ chúc lành cho ngươi, và Ta sẽ cho danh ngươi nên lớn lao, ngươi sẽ là một mối chúc lành. Ta sẽ chúc lành cho những ai chúc lành cho ngươi, và sẽ chúc dữ cho ai chúc dữ cho ngươi. Nơi ngươi mọi dân nước sẽ được chúc phúc".

Abram ra đi như Chúa đã truyền dạy, và có ông Lót đi theo. Khi bỏ đất Haran, Abram được bảy mươi lăm tuổi. Ông đem Sarai, vợ ông, và Lót là cháu, cùng với tất cả tài sản và gia nhân mà họ có ở Haran. Họ ra đi đến đất Canaan. Khi họ tới nơi, Abram rảo qua các xứ cho đến Sikem, thung lũng thời danh. Bấy giờ người Canaan đang ở xứ này.

Chúa đã hiện ra với Abram và phán rằng: "Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi". Ông đã dựng ở đó một bàn thờ kính Thiên Chúa, Ðấng đã hiện ra với ông. Rồi từ nơi ấy, ông đi đến núi ở phía đông Bêthel mà cắm trại: phía tây của trại là Bêthel và phía đông là Hai. Ông cũng dựng ở đó một bàn thờ kính Chúa, và khấn cầu danh Chúa. Abram cứ tiến dần mãi về (Nageb ở) phía nam.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 32, 12-13. 18-19. 20 và 22

Ðáp: Phúc thay dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (c. 12b).

Xướng: 1) Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình. Tự trời cao Chúa nhìn xuống, Người xem thấy hết thảy con cái người ta. - Ðáp.

2) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn. - Ðáp.

3) Linh hồn chúng con mong đợi Chúa, chính Ngài là Ðấng phù trợ và che chở chúng con. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 7, 1-5

"Hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét. Các con đoán xét thể nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy. Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy. Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt ngươi? Hoặc sao ngươi bảo anh em: "Ðể tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh", và này: cái đà đang ở trong mắt ngươi. Ðồ giả hình, hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em ngươi".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Mt 7, 1-5

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

 

Cái nạn mù quáng tâm linh như một thứ hiệp sĩ mù là ở chỗ tỏ ra biết người hơn biết mình

 

 

Chủ đề "sự sống" của Mùa Phục Sinh vẫn tiếp tục sang Mùa Thường Niên hậu Phục Sinh, như trong phần phụng vụ Lời Chúa cho ngày Thứ Hai Tuần XII Thường Niên hôm nay cho thấy.


"Sự sống" đây là sự sống công chính, như giáo huấn Chúa Kitô dạy cho các môn đệ của Người trong bài Phúc Âm hôm nay (Mathêu 7:1-5), một bài phúc âm tiếp tục về Bài Giảng Trên Núi của Người cho các môn đệ của Người liên quan đến các Phúc Đức Trọn Lành mà các vị cần phải cảm nghiệm và theo đuổi mới xứng đáng làm môn đệ của Người và nhờ đó mới có thể làm chứng nhân cho Người. 

 

Căn cứ vào sự sắp xếp khéo léo của Giáo Hội cho các bài Phúc Âm trong tuần thì từ tuần X, XI và XII thường niên, Giáo Hội muốn sử dụng Bài Giảng Trên Núi (Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 5, 6 và 7) của Chúa Giêsu về Các Phúc Đức Trọn Lành của Kitô hữu để nhắc nhở con cái mình: ở tuần X và XI hãy sống đức ái trọn hảo như Cha trên trời (Phúc Âm Thánh Mathêu nguyên đoạn 5); ở hai ngày cuối của Tuần XI (Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 6) về đời sống nội tâm (hoàn toàn chỉ vì Chúa và chỉ có tâm tư thần hiệp với Ngài như Kinh Lạy Cha) mà Kitô hữu cần phải có thì họ mới có thể sống đức ái trọn hảo như Cha; ở cả tuần XII, về tác hành của Kitô hữu phản ảnh đời sống nội tâm của họ, chẳng hạn biết mình trước nhan Chúa và đối với tha nhân, như giáo huấn của Chúa Kitô trong Bài Phúc Âm hôm nay.


Vấn đề được đặt ra ở đây là, với cương vị lãnh đạo sau này của mình trong Giáo Hội, các vị không thể nào không đoán xét để bảo vệ Giáo Hội cũng như để phân xử công minh, thế mà ở đây, Chúa Giêsu lại dạy các vị rằng: 
"Các con đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét". 


Tuy nhiên, lời khuyên của Chúa Giêsu ở đây không áp dụng vào việc quản trị Giáo Hội của các vị mà chỉ nhắm đến đời sống đức ái trọn hảo của bản thân các vị thôi. Đó là lý do Chúa Giêsu đã đề cập đến luật nhân quả, gieo gió gặt bão: "Các con đoán xét thể nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy. Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy". 


Trên thế gian này đã xẩy ra đầy giẫy những chứng cớ về định luật "ác giả ác báo" này. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng ở đây là phạm nhân có nhận ra lỗi lầm cũ của mình để mà ăn năn thống hối và cải thiện đời sống hay chăng mới là những gì đáng quan tâm. Trong đường tu đức cũng thế, Thiên Chúa hay để cho những tâm hồn sốt sắng đạo đức mà lại hay khinh thường những người khô khan hơn mình, xa tránh những người tội lỗi xấu xa ở chung quanh mình, bị sa ngã phạm tội, cho dù cố gắng, nhờ đó họ biết cảm thương những người họ vốn khinh bỉ và xa tránh.

 

Một khi chúng ta xét đoán xấu cho người khác, chấp nhất người khác và chê trách người khác về những gì tiêu cực của họ, hay những gì vô tội nơi họ (tính tình hay tâm tưởng hoặc lối sống v.v.) những gì chướng tai gai mắt chúng ta, chúng ta như thể ở trong trạng thái mù lòa không biết mình, đúng như lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người, khi Người đi từ chất vấn đến trách móc thành phần này trong bài Phúc Âm hôm nay:

 

"Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt ngươi? Hoặc sao ngươi bảo anh em: 'Để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh', và này: cái đà đang ở trong mắt ngươi. Đồ giả hình, hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em ngươi".

 

Tóm lại, lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay dạy Kitô hữu chúng ta 2 điều then chốt:

 

1- Đừng biết người hơn là biết mình, mà hãy "tri kỷ tri bỉ", bằng không, không biết mình thì chẳng khác gì như kẻ mù lòa không thể nào biết người khác để giúp họ, trái lại, con người không biết mình sẽ có những tâm tưởng, ngôn từ, tác hành và phản ứng sai lầm về người khác, thậm chí chụp mũ và lên án người khác một cách vô cùng trắng trợn và oan ức, trong khi chính họ không muốn bị như họ đối xử với nạn nhân của họ;

 

2- Kitô hữu chúng ta là môn đệ của Chúa Kitô và là con cái của Cha Trên Trời không có quyền phán xét ai, lên án ai và ném đá ai, quyền này hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, trái lại, chúng ta chỉ có bổn phận thông cảm, tha thứ và yêu thương anh chị em của mình, nhất là những người anh chị em đối phương với mình và thù địch của mình, tác hại mình, thậm chí coi là đại ân nhân đã giúp mình nên thánh hơn, là huấn luyện viên giúp mình sống Lòng Thương Xót Chúa trọn hảo hơn.

 

Thật vậy, đối với tha nhân, con người không được mù quáng đoán xét nhau, vì họ chẳng những không biết được thâm tâm của nhau, mà nhất là không có quyền đoán xét nhau nữa. Thế nhưng, đối với Thiên Chúa, Đấng vô cùng khôn ngoan và nhân hậu, con người cần phải tỏ ra mù quáng hơn ai hết và hơn bao giờ hết, ở chỗ hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Ngài ở mọi nơi, trong mọi lúc và hết mọi sự. 

 

Nhờ đó, Thiên Chúa có thể thực hiện tất cả những gì Ngài muốn nơi họ và qua họ cho tha nhân, như trường hợp của tổ phụ Abram, trong bài đọc 1 hôm nay (Khởi Nguyên 12:1-9), đã đáp ứng lời Chúa kêu gọi mà đi đến một nơi xa lạ, không biết mình đi đâu và đến đâu, cho đến nơi Ngài ấn định: 


"Ngươi hãy từ bỏ quê hương, họ hàng và nhà cửa cha ngươi mà đi đến xứ Ta chỉ cho. Ta sẽ cho ngươi thành một dân lớn; Ta sẽ chúc lành cho ngươi, và Ta sẽ cho danh ngươi nên lớn lao, ngươi sẽ là một mối chúc lành. Ta sẽ chúc lành cho những ai chúc lành cho ngươi, và sẽ chúc dữ cho ai chúc dữ cho ngươi. Nơi ngươi mọi dân nước sẽ được chúc phúc. Abram ra đi như Chúa đã truyền dạy". 


Và nơi được ấn định cho tổ phụ Abram cũng như cho giòng dõi của ông sau này đó là xứ Canaan, nhưng lại là một nơi đã có một dân tộc khác cư ngụ và sinh sống, hoàn toàn không thuộc chủ quyền của ông, nhưng Chúa lại lấy ban cho ông và giòng dõi của ông


"Họ ra đi đến đất Canaan. Khi họ tới nơi, Abram rảo qua các xứ cho đến Sikem, thung lũng thời danh. Bấy giờ người Canaan đang ở xứ này. 
Chúa đã hiện ra với Abram và phán rằng: 'Ta sẽ ban đất này cho dòng dõi ngươi'". 


Hành động tin tưởng một cách mù quáng của tổ phụ Abram đã thật sự đẹp lòng Chúa, Đấng đã tuyển chọn ông để ông làm cha của một dân tộc sẽ trở thành gia nghiệp của Chúa và là mầm mống cho một dân tộc duy nhất dưới quyền lãnh đạo tối cao của Con Ngài là Chúa Giêsu Kitô Thiên Sai.

 

Bài Thánh Vịnh 32 (12-13,18-19,20 và 22) được Giáo Hội chọn đọc ở Bài Đáp Ca hôm nay đã cảm nhận được cái phúc của dân tộc cho mọi dân tộc ấy nói chung và của những ai biết kính sợ vào Ngài nói riêng, thành phần chỉ biết cậy trông vào một mình Ngài mà thôi.  


1) Phúc thay quốc gia mà Chúa là Chúa tể, dân tộc mà Chúa chọn làm cơ nghiệp riêng mình (tức dân tộc Do Thái - người viết biệt chú riêng). Tự trời cao Chúa nhìn xuống, Người xem thấy hết thảy con cái người ta (ám chỉ các dân tộc khác trên thế giới - biệt chú riêng của người viết)

 

2) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Người, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Người, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn. 

 

3) Linh hồn chúng con mong đợi Chúa, chính Ngài là Đấng phù trợ và che chở chúng con. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài.  

 

 

 

 

Thứ Ba 24/6

 

Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả

Lễ Trọng

 

Bài Ðọc I: Gr 1, 4-10

"Trước khi tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi".

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Có lời Chúa phán cùng tôi rằng: "Trước khi tạo thành ngươi trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, và trước khi ngươi ra khỏi lòng mẹ, Ta đã hiến thánh ngươi, Ta đã đặt ngươi làm tiên tri cho các dân tộc". Và tôi đã thưa lại: "A, a, a, lạy Chúa là Thiên Chúa, con đâu có biết ăn nói, vì con còn con nít".

Nhưng Chúa phán cùng tôi rằng: "Ngươi đừng nói: "Con là con nít", vì ngươi sẽ đi đến với những kẻ Ta sẽ sai ngươi đi, ngươi sẽ nói mọi điều Ta sẽ truyền dạy ngươi nói. Ngươi đừng sợ họ, vì Ta sẽ ở với ngươi để bảo vệ ngươi". Chúa phán như thế.

Và Chúa giơ tay sờ miệng tôi mà nói với tôi rằng: "Ðây Ta đặt lời Ta vào miệng ngươi. Ðây hôm nay Ta ban quyền cho ngươi trên các dân tộc và trên các vương quốc, để ngươi lật đổ và đập phá, phân tán và tiêu diệt, xây dựng và vun trồng".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 70, 1-2. 3-4a. 5-6ab. 15 và 17

Ðáp: Từ trong thai mẫu, Chúa là Ðấng bảo vệ con (c. 6b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, con tìm đến nương nhờ Ngài, xin đừng để con tủi hổ muôn đời. Theo đức công minh Chúa, xin cứu nguy và giải thoát con; xin ghé tai về bên con và giải cứu. - Ðáp.

2) Xin trở nên thạch động để con dung thân, và chiến luỹ vững bền hầu cứu độ con: vì Chúa là Ðá tảng, là chiến luỹ của con. Lạy Chúa con, xin cứu con khỏi tay đứa ác. - Ðáp.

3) Bởi Ngài là Ðấng con mong đợi, thân lạy Chúa; lạy Chúa, Ngài là hy vọng của con từ hồi thanh xuân. Ngay từ trong bụng mẹ, con đã nép mình vào Chúa; từ trong thai mẫu con, Chúa là Ðấng bảo vệ con; con đã luôn luôn trông cậy vào Chúa. - Ðáp.

4) Miệng con sẽ loan truyền sự Chúa công minh, và suốt ngày kể ra ơn Ngài giúp đỡ, thực con không sao mà kể cho cùng. Lạy Chúa, Chúa đã dạy con từ hồi niên thiếu, và tới bây giờ con còn kể những sự lạ của Ngài. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Pr 1, 8-12

"Chính ơn cứu rỗi này là đối tượng các tiên tri đã nghiên cứu và tìm hiểu".

Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.

Anh em thân mến, anh em yêu mến Chúa Giêsu Kitô, dù không thấy Người, và anh em tin Ngài, dù bây giờ anh em cũng không thấy Người, bởi anh em tin, anh em sẽ được vui mừng vinh quang khôn tả, vì chắc rằng anh em đạt tới cứu cánh của đức tin là phần rỗi linh hồn.

Chính ơn cứu rỗi này là đối tượng các tiên tri đã nghiên cứu và tìm hiểu, khi các ngài tiên báo về ân sủng dành cho anh em: các ngài đã tìm xem coi trong thời gian nào, hoặc hoàn cảnh nào Thần Trí của Ðức Kitô chỉ cho các ngài biết phải tiên báo những khổ nạn và những vinh quang kế tiếp dành cho Ðức Kitô. Các ngài được mạc khải cho biết rằng các ngài không phải phục vụ chính mình, mà là cho anh em, trong những gì đã được loan truyền cho anh em hiện nay, do những kẻ rao giảng Tin Mừng với sự trợ giúp của Thánh Thần từ trời được sai xuống, Ðấng mà các thiên thần cũng ước ao nghiêng mình chiêm bái.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 1, 7; Lc 1, 17

Alleluia, alleluia! - Ông đến để chứng minh về sự sáng; để chuẩn bị cho Chúa một dân tộc hoàn hảo. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 1, 5-17

"Vợ ngươi sẽ sinh hạ cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên con trẻ là Gioan".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Vào thời Hêrôđê làm vua xứ Giuđêa, có một tư tế tên là Dacaria, thuộc phiên ban Abia, và vợ ông bởi dòng dõi Aaron, tên là Elisabéth. Cả hai là người công chính trước mặt Thiên Chúa, ăn ở theo mọi giới răn và lề luật của Chúa, không ai trách được điều gì. Nhưng họ lại không con, vì Elisabéth son sẻ, và cả hai đã đến tuổi già.

Xảy ra khi Giacaria chu toàn chức vụ tư tế trước mặt Thiên Chúa, theo lượt của phiên mình như tục lệ hàng tư tế, ông bắt thăm và trúng việc vào cung thánh Chúa mà dâng hương, đang lúc toàn thể đám đông dân chúng cầu nguyện bên ngoài, trong giờ dâng hương. Bấy giờ thiên thần Chúa hiện ra cùng ông, đứng bên phải hương án. Giacaria thấy vậy thì hoảng hốt, sự kinh hoàng đột nhập vào ông.

Nhưng thiên thần nói với ông rằng: "Dacaria, đừng sợ, vì lời ngươi cầu nguyện đã được nhậm rồi. Elisabéth vợ ngươi sẽ sinh hạ cho ngươi một con trai, và ngươi sẽ gọi tên con trẻ là Gioan. Ngươi sẽ được vui mừng hân hoan, và nhiều người cũng sẽ vui mừng, vì việc con trẻ sinh ra. Vì trẻ này sẽ nên cao trọng trước mặt Chúa, sẽ không uống rượu và thức có men; sẽ được tràn đầy Thánh Thần ngay từ lòng mẹ, sẽ đem nhiều con cái Israel trở về cùng Chúa là Thiên Chúa. Trẻ này sẽ đi trước Người, trong thần trí và quyền lực của Êlia, để đổi lòng dạ cha ông về với con cháu, kẻ ngỗ nghịch về lại với lương tri của những người công chính, dọn cho Chúa một đoàn dân chuẩn bị sẵn sàng".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Lc 1, 5-17

 

Suy niệm

 

 

Chúa Giêsu đã khen tặng Vị Tiền Hô được sai đến trước Người là Đấng cao trọng hơn ông để dọn đường cho Người là Đấng đến sau ông:

 

"Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: 'Ta bảo thật các ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả, nhưng người nhỏ nhất trong nước trời lại cao trọng hơn ông. Từ thời ông Gioan Tẩy Giả đến giờ, nước trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy, và những kẻ mạnh mẽ can đảm mới chiếm được. Tất cả các tiên tri và lề luật đã tuyên sấm cho đến Gioan và nếu các ngươi muốn hiểu, thì chính Gioan là Elia, kẻ phải đến. Ai có tai, thì hãy nghe!'" (Mathêu 11:11-15).

 

Trước hết, Chúa Giêsu đã minh định Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là con người cao cả nhất loài người, không một ai cao trọng hơn ngài, thậm chí có thể nói bao gồm cả Mẹ Maria. Phải chăng chính vì thế mà trong tất cả các thánh (ngoài trừ Mẹ Maria), chỉ có một mình Thánh Gioan Tẩy Giả mới được Giáo Hội mừng lễ sinh nhật trần gian của ngài, 24/6 (trước Lễ Giáng sinh 6 tháng) ở bậc Lễ Trọng (solemnity), hơn cả lễ sinh nhật Mẹ Maria ngày 8/9, chỉ ở bậc lễ kính (feast)? 

 

Dầu sao nhân vật Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này, về cấp độ ân sủng, ngài không thể nào "Đầy Ơn Phúc" (Luca 1:28) như Mẹ Maria, và phải chăng đó là lý do Chúa Giêsu đã ám chỉ về Mẹ Maria ngay sau khi khen tặng vị tiền hô của Người: "người nhỏ nhất trong nước trời lại cao trọng hơn ông"? 

 

Đúng thế, nếu càng khiêm hạ nhỏ bé thì càng lớn lao cao trọng trên nước trời thì ai bé nhỏ bằng Mẹ Maria nên nhờ đó Mẹ Maria mới càng lớn lao cao trọng nhất trên Nước Trời, nghĩa là vì Mẹ càng nhỏ, càng trở thành hư không, thành zero, Mẹ mới càng đầy Thiên Chúa là sự hữu, là tất cả, mới càng giống Chúa Kitô, đến độ phản ảnh Người là mặt trời công chính, như Mẹ được Thánh ký Gioan thị kiến thấy và mô tả trong Sách Khải Huyền của ngài như "mặc mặt trời" (12:1), hay như Diễm Tình Ca cho biết là "rực rỡ như mặt trời" (6:10). Trong khi đó Thánh Gioan Tẩy Giả chỉ là cái đèn soi mà thôi (xem Gioan 1:6-8;5:35).

 

Sở dĩ Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này là một con người cao cả nhất loài người, tất nhiên không phải về lãnh vực ân sủng so với Mẹ Maria, như trên đã cảm nhận và phân tích, cho dù ngài có được cho rằng khỏi nguyên tội khi còn là thai nhi 6 tháng khi còn ở trong lòng thai mẫu, vào chính lúc ngài nhẩy mừng khi nghe thấy lời Mẹ Maria chào mẹ của ngài (xem Luca 1:44), mà là về vai trò của ngài, một vai trò không ai trên trần gian này có thể hơn được ngài. Giống như trường hợp các vị linh mục, cho dù không đầy ân phúc như Mẹ Maria trong cấp trật ân sủng, nhưng vẫn hơn Mẹ trong vai trò linh mục của các vị, bởi các vị được đồng hóa với Chúa Kitô và là Chúa Kitô (Alter Christus) khi các vị thi hành thừa tác vụ thánh.

 

Sứ vụ cao trọng vô tiền khoáng hậu của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này là ở chỗ ngài là vị trung gian giữa Cựu Ước và Tân Ước. Thật vậy, nếu nền tảng của Nhà Thiên Chúa được xây trên "nền tảng các tông đồ và tiên tri" (Êphêsô 2:20), thì Thánh Gioan Tẩy Giả chẳng những là vị tiên tri của các vị tiên tri, "tiên tri của Đấng Tối Cao" (Luca 1:46) được tiên báo bởi chính một vị tiên tri trong Cựu Ước (xem Isaia 40:3), mà còn là "chàng phù rể" (Gioan 3:29) ở sát ngay bên với Chàng Rể Kitô hơn hết mọi ngườiđã nhận biết Chúa Kitô trước để rồi sau đó đã giới thiệu Người cho các tông đồ tiên khởi của Chúa Kitô (xem Gioan 1:35-51). 

 

Chưa hết, sứ vụ cao trọng của ngài còn lên đến tột đỉnh ở chỗ ngài đã làm phép rửa cho chính Đấng Thiên Sai Cứu Thế, như thể ngài đã trở thành người cha thiêng liêng của Con Thiên Chúa làm người. Không một vị tiên tri nào trong Cựu Ước đã được tận mắt nhìn thấy Chúa Kitô và gặp Chúa Kitô, ngoài trừ Thánh Gioan Tẩy Giả. Và cũng không một tông đồ nào đã nhận biết Chúa Kitô như ngài, cho dù các vị đã sống với Chúa Kitô 3 năm, trong khi ngài chưa hề gặp Người mà vẫn có thể nhận ra Người để giới thiệu Người cho các vị (xem Gioan 1:33-34). Nếu các tông đồ là thành phần chứng nhân tiên khởi của Chúa Kitô trên thế giới nói chung thì Thánh Gioan Tẩy Giả là chứng nhân tiên khởi cho Chúa Kitô trước dân Do Thái cũng như trước các tông đồ của Chúa Kitô nói riêng. 

 

Phải chăng Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả cũng được lời Chúa qua miệng Tiên Tri Isaia (41:19) tiên báo và ám chỉ ở các câu sau đây: "Nơi hoang địa, Ta sẽ cho mọc lên cây hương nam, cây keo, cây sim và cây dầu; nơi sa mạc, Ta sẽ trồng cây tùng, cây du, cây bách, để mọi người thấy, biết, lưu tâm và hiểu rằng chính tay Chúa đã làm nên sự nghiệp đó, và Ðấng Thánh của Israel đã tạo nên cơ đồ này"? Phải chăng Thánh Gioan Tẩy Giả, với sứ vụ cao trọng đệ nhất thiên hạ của ngài chính là "cây hương nam trong hoang địa",  "cây tùng trong sa mạc"?

 

Việc "Lời đã hóa thành nhục thể", một mầu nhiệm vô cùng mầu nhiệm, rất khó có thể chấp nhận với tâm thức tự nhiên của con người, trái lại, còn có thể "trở thành cớ vấp phạm cho nhiều người trong Israel" (Luca 2:34), nên còn được Thiên Chúa vô cùng khôn ngoan đã cẩn thận sửa soạn cho việc Người xuất hiện trước dân Do Thái của Ngài, ở chỗ sai "vị tiên tri của Đấng Tối Cao" là Tiền Hô Gioan Tẩy Giả này đến trước để dọn đường cho "Người tỏ mình ra" (Gioan 1:31), nhờ đó dân của Ngài mới có thể nhận biết Người mà được cứu độ. 


Thật vậy, vai trò của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả thật là quan trọng và cần thiết, ở chỗ, theo ý định thần linh cứu độ của Thiên Chúa, ngài cần phải được sai đến trước để dọn đường cho Người là Đấng đến sau, nên chính bản thân của vị tiền hô này cũng đã được thụ thai cách lạ trước Người 6 tháng (xem Luca 1:36), và là vị "còn hơn một tiên tri nữa", như Chúa Kitô đã minh định ngay trong bài Phúc Âm hôm nay, bởi vì ngài còn là "sứ thần" của Thiên Chúa, một vai trò tương đương với vai trò của sứ thần Gabiên từ trời xuống truyền tin cho thân phụ của ngài (xem Luca 1:19), hay cho thân mẫu của Chúa Giêsu (xem Luca 1:26), vị sứ thần đã được Trời Cao sai đến với dân Do Thái nên đã được chính Thánh Kinh Cựu Ước của dân này tiên báo, như Chúa Giêsu đã trích lại trong lời Người nói về vị tiền hô của mình: "Này đây Ta sai sứ thần Ta đi trước con, và sẽ dọn đường cho con",  là vị được Chúa Kitô đã hết lời khen tặng, khen tặng hết lời: "Ta nói cho các ngươi biết, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một người nào cao trọng hơn Gioan, nhưng người nhỏ nhất trong nước Thiên Chúa lại cao trọng hơn ông" (Mathêu 11:11).

 

 

 

Thứ Ba

 

(Nếu không bị Lễ trọng Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả át đi như Năm 2025)

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 13, 2. 5-18

"Bác không muốn có sự bất bình giữa bác và cháu: vì chúng ta là anh em với nhau".

Trích sách Sáng Thế.

Bấy giờ Abram rất giàu, có nhiều vàng bạc. Ông Lót, người đi với Abram, cũng có nhiều đàn chiên, bò và lều trại. Miền đó không đủ chỗ cho cả hai cùng ở, vì họ có nhiều tài sản, nên không thể ở chung với nhau. Bởi thế các người chăn chiên của Abram và của Lót hay xảy ra cãi lẫy nhau. Khi ấy dân Canaan và dân Phêrêzê ở miền này.

Vậy Abram nói cùng Lót rằng: "Bác không muốn có sự bất bình giữa bác và cháu, giữa các người chăn chiên của chúng ta, vì chúng ta là anh em với nhau. Trước mặt cháu có cả một miền rộng rãi, xin cháu hãy lìa khỏi bác: nếu cháu đi bên tả, thì bác sẽ đi bên hữu; nếu cháu chọn phía tay phải, thì bác sẽ đi về phía tay trái". Vậy Lót ngước mắt lên trông thấy cả miền đồng bằng sông Giođan, có nước dồi dào. (Trước khi Chúa huỷ diệt thành Sôđôma và Gômôra, cả miền ấy và phía Segor như vườn địa đàng của Chúa và như đất Ai-cập). Lót chọn miền đồng bằng sông Giođan và đi về phía đông. Thế là hai bác cháu lìa xa nhau. Abram ở lại đất Canaan, còn Lót ở các đô thị gần sông Giođan, và cư ngụ tại Sôđôma. Dân thành Sôđôma rất xấu xa, vì quá tội lỗi trước mặt Chúa.

Sau khi Lót đi rồi, Chúa phán cùng Abram rằng: "Hãy ngước mặt lên và từ nơi ngươi đang ở, hãy nhìn tứ phía: đông tây nam bắc. Tất cả đất mà ngươi trông thấy, Ta sẽ ban vĩnh viễn cho ngươi và dòng dõi ngươi. Ta sẽ làm cho con cháu ngươi đông như bụi đất. Nếu ai có thể đếm được bụi đất thì mới có thể đếm được con cháu ngươi. Hãy chỗi dậy và đi khắp miền này, vì chưng Ta sẽ ban miền này cho ngươi". Bởi vậy Abram di chuyển lều trại đến ở thung lũng Mambrê, thuộc miền Hebron, và dựng bàn thờ kính Chúa ở đó.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 14, 2-3ab. 3cd-4ab. 5

Ðáp: Lạy Chúa, ai sẽ được ở trong đền tạm Chúa? (c. 1a)

Xướng: 1) Người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống. - Ðáp.

2) Người không làm ác hại đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận. Người coi rẻ đứa bất nhân, nhưng kính yêu những ai tôn sợ Chúa. - Ðáp.

3) Người không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương. Người thực thi những điều kể đó, thì muôn đời chẳng có lung lay. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 118, 27

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa cho con hiểu đường lối những huấn lệnh của Chúa, và con suy gẫm các điều lạ lùng của Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 7, 6. 12-14

"Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì hãy làm cho người ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Ðừng lấy của thánh mà cho chó, và đừng vất ngọc trai trước mặt heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé các con.

"Vậy tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế! Ðấy là điều mà lề luật và các tiên tri dạy.

"Các con hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy; cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp, và ít kẻ tìm thấy".

Ðó là lời Chúa.

Related image

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

 4 Nhân Đức Trụ về 3 Nguyên Tắc Sống Khôn Ngoan


 

Bài Phúc Âm cho Thứ Ba Tuần XII Thường Niên hôm nay vẫn tiếp tục Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu được Thánh ký Mathêu (7:6,12-14) chất chứa 4 luân đức của Kitô giáo hay cũng được gọi là 4 nhân đức trụ, những nhân đức cho thấy 3 nguyên tắc sống khôn ngoan sau đây:

 

Trước hết là 4 nhân đức trụ. Tu đức Kitô giáo liệt kê 7 nhân đức rõ ràng, đó là 3 thần đức và 4 luân đức. Ba thần đức tức là 3 nhân đức đối thần, 3 nhân đức hướng về Thiên Chúa là đối tượng của 3 nhân đức này. Đó là Đức Tin, Đức Cậy và Đức Mến, 3 thần đức được phú bẩm vào tâm hồn Kitô hữu ngay từ khi họ lãnh nhận Phép Rửa, nhờ đó họ có thể tác hành xứng đáng là một người con Thiên Chúa, người con được thông phần với bản tính thần linh của Thiên Chúa và sống sự sống thần linh với Thiên Chúa và như Thiên Chúa. Còn 4 luân đức là 4 nhân đức trụ của con người, lấy con người làm đối tượng và về tư cách làm người cần phải có của con người để họ có thể nên người trước khi nên thánh. Đó là nhân đức khôn ngoan, công bằng, can đảm và tiết độ.

 

Trong Bài Giảng Trên Núi về Phúc Đức Trọn Lành, Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ của Người là thành phần phải công chính thánh thiện hơn thành phần biệt phái và luật sĩ, là muối đất và là ánh sáng thế gian, ở đoạn 5, sống đức ái trọn hảo và ở đoạn 6 sống đức tin chân thực và đức cậy trông vững vàng. Thế nhưng, ở đoạn 7 của Phúc Âm Thánh Mathêu là Phúc Âm thuật lại Bài Giảng Trên Núi của Người ở 3 đoạn 5-7, Người cũng không quên huấn dụ các vị về những gì là cơ bản nhất liên quan trực tiếp đến bản thân làm người của các vị, như thế Người muốn nói rằng các nhân đức về con người là điều kiện bất khả thiếu để sống 3 thần đức hợp với tư cách và thân phận làm con cái của Thiên Chúa và là môn đệ của Người.

 

4 luân đức cũng là 4 nhân đức trụ này được Chúa dạy trong bài Phúc Âm hôm nay thứ tự như sau:

 

Nhân đức khôn ngoan: "Ðừng lấy của thánh mà cho chó, và đừng vất ngọc trai trước mặt heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé các con".

 

Nhân đức công bằng: "Tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế! Ðấy là điều mà lề luật và các tiên tri dạy".

 

Nhân đức can đảm: "Hãy vào qua cửa hẹp... cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp, và ít kẻ tìm thấy".

 

Nhân đức tiết độ: "Hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy"

 

Tuy nhiên, nếu trong 4 luân đức này nhân đức đầu tiên được liệt kê thì quan trọng nhất cùng cần thiết nhất đó là nhân đức khôn ngoan, như đèn soi chiếu cả thân thể, bất khả thiếu, bằng không, không thể thực hành được 3 nhân đức trụ còn lại. Sau đây là 3 nguyên tắc sống khôn ngoan để có được hay để thực hành trọn vẹn 4 nhân đức trụ của con người, như sau:

 

Nguyên tắc thứ nhất: "Đừng lấy của thánh mà đem cho chó, và đừng vất ngọc trai trước mặt loài heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé các con". 

 

Tại sao vậy? Tại vì chó hay heo là loài thú vật chẳng biết giá trị của những gì loài người vốn trân quí. Bởi thế, "lấy của thánh mà đem cho chó, và vất ngọc trai trước mặt loài heo" là một hành động hoàn toàn ngu xuẩn, phí của và vô ích, thậm chí còn nguy hiểm đến bản thân nữa là đàng khác, ở chỗ chúng cứ tưởng là chúng bị tấn công bằng các viên ngọc trai chẳng khác gì những cục đá vậy, nên chúng có thể "quay lại cắn xé các con".

 

Ở đây, nếu chú ý chúng ta thấy được hai con thú tiêu biểu được Chúa Giêsu sử dụng trong bài Phúc Âm, đó là con chó và con heo: "chó" có vẻ tinh khôn hơn nên liên quan đến "của thánh" linh thiêng và đến động từ "cho" có vẻ trân trọng chứ không phải là động từ "quẳng" có vẻ khinh bỉ; còn "heo" có vẻ xác thịt hơn nên liên quan đến "ngọc trai" là những gì thuần vật chất và đến động từ "quẳng"


Nhưng dù tinh khôn như "chó" cũng chẳng biết "của thánh" là gì, cũng chẳng nhờ đó mà được linh thiêng hơn, và cho dù xác thịt như "heo" cũng chẳng cần trang điểm bằng "ngọc trai" cho đẹp hơn và hãnh diện hơn. Phải chăng ở đây Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ rằng giáo huấn của Người là những gì "thánh hảo" vô giá và quí báu hơn cả vàng bạc và "ngọc trai", được ban cho các vị để các vị mặc lấy và trang sức cho xứng với vai trò là môn đệ của Người?

 

Nguyên tắc thứ hai: "Vậy tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế! Đấy là điều mà lề luật và các tiên tri dạy". 

 

Nguyên tắc thứ hai này là nguyên tắc "tri kỷ tri bỉ - biết mình biết người", có vẻ tích cực hơn nguyên tắc của Khổng giáo: "đừng làm cho người khác những gì mình không muốn họ làm cho mình". 

 

Nguyên tắc thứ hai này thường được gọi là luật vàng - golden rule, vì nó chất chứa trong tất cả "lề luật và các tiên tri dạy", vì nó phản ảnh giới luật bác ái "yêu người như thể thương thân - ái nhân như kỷ": yêu nhau như bản thân mình. 

 

Nguyên tắc này thật sự là "của thánh", là viên "ngọc trai" quí báu đối với những ai kính sợ Chúa, nhưng lại là những gì quái gở đối với những kẻ gian ác bất chấp thủ đoạn trong mưu đồ thỏa mãn ý riêng và đam mê nhục dục của họ, dù giá phải trả cho những gì họ muốn chiếm đoạt chính là tha nhân.

 

Tổ phụ Abram trong bài đọc 1 hôm nay (Khởi Nguyên 13:2,5-18) đã áp dụng nguyên tắc "ái nhân như kỷ" này khi để cho Lot cháu của ông chọn trước phần đất nó thích, hơn là chính ông chọn trước để cho cháu phần ông không thích: 

 

"Bác không muốn có sự bất bình giữa bác và cháu, giữa các người chăn chiên của chúng ta, vì chúng ta là anh em với nhau. Trước mặt cháu có cả một miền rộng rãi, xin cháu hãy lìa khỏi bác: nếu cháu đi bên tả, thì bác sẽ đi bên hữu; nếu cháu chọn phía tay phải, thì bác sẽ đi về phía tay trái".

 

Nguyên tắc thứ ba: "Các con hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy; cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp, và ít kẻ tìm thấy".

 

Đúng thế, muốn sống nguyên tắc thứ hai là yêu nhau như chính bản thân mình, con người cần phải bỏ mình đi, thậm chí cần phải coi người khác hơn mình. Như vậy thì chẳng khác nào con người cần phải "vào qua cửa hẹp", hoàn toàn đi ngược chiều với đa số phàm nhân luôn coi mình hơn tha nhân, không bao giờ chịu thua thiệt, nếu bị thua thiệt thì tìm cách triệt hạ đối phương hay lấy lại. 

 

Có thể nói, giáo huấn Phúc Đức Trọn Lành trong Bài Giảng Trên Núi của Chúa Kitô trong Phúc Âm Thánh ký Mathêu, nhất là ở đoạn 5, liên quan đến Đức Ái Trọn Hảo, là "cửa và đường đưa tới sự sống", nhưng "chật hẹp" , phải có ơn Chúa mới có thể theo đuổi, phải sống đức tin mới có thể đi trọn, phải sống nội tâm mới có thể làm chủ bản thân mình và theo đúng đường lối của Thiên Chúa, bằng không, Kitô hữu cũng thuộc về đám đông, thành phần sống theo tự nhiên, chỉ tìm cầu những gì là dễ chịu nhất và thoải mái mất, nhưng lại là những gì dễ trở thành dịp tội khiến con người hư đi: "cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy".

 

Bởi thế nên Kitô hữu môn đệ đích thật của Chúa Kitô phải là những con người "hãy qua cửa hẹp mà vào", phải thuộc về thành phần thiểu số, "ít người đi" - "ít kẻ tìm thấy", thành phần dám sống dị chúng nhân, không theo đám đông, thậm chí bất chấp đám đông, bất chấp ý thức hệ hay áp lực của đám đông, bất chấp chống đối và chống phá của họ, xuất phát từ thành kiến và ác cảm của họ trước những tâm tưởng, ngôn từ, tác hành và phản ứng phúc đức trọn lành phản thế gian và vượt trên thế gian để soi chiếu thế gian của mình.

 

Thật vậy, về phương diện siêu nhiên, chính vì "cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp" như thế mà những ai hiên ngang tiến bước mới gặp "sự sống", mới trở nên dồi dào, như trường hợp tổ phụ Abram nhờ nhường cho cháu mà được Chúa chúc phúc: 

 

"Sau khi Lót đi rồi, Chúa phán cùng Abram rằng: 'Hãy ngước mặt lên và từ nơi ngươi đang ở, hãy nhìn tứ phía: đông tây nam bắc. Tất cả đất mà ngươi trông thấy, Ta sẽ ban vĩnh viễn cho ngươi và dòng dõi ngươi. Ta sẽ làm cho con cháu ngươi đông như bụi đất. Nếu ai có thể đếm được bụi đất thì mới có thể đếm được con cháu ngươi. Hãy chỗi dậy và đi khắp miền này, vì chưng Ta sẽ ban miền này cho ngươi'".  

 

Thánh Vịnh 14 (2-3ab,3cd-4ab,5) ở Bài Đáp Ca hôm nay đã diễn tả về con người sống luật vàng như tổ phụ Abram này như sau: 

 

1) Người sống thanh liêm và thực thi công chính, và trong lòng suy nghĩ điều ngay, và lưỡi không bịa lời vu khống.  

 

2) Người không làm ác hại đồng liêu, cũng không làm nhục cho ai lân cận. Người coi rẻ đứa bất nhân, nhưng kính yêu những ai tôn sợ Chúa. 

 

3) Người không xuất tiền đặt nợ thu lời, cũng không ăn hối lộ hại người hiền lương. Người thực thi những điều kể đó, thì muôn đời chẳng có lung lay. 

 

 

 

 

 

Thứ Tư

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 15, 1-12. 17-18

"Abram tin vào Thiên Chúa và vì đó, ông được công chính".

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, có lời Chúa phán cùng Abram trong thị kiến rằng: "Hỡi Abram, ngươi chớ sợ, Ta là Ðấng phù trợ và là phần thưởng rất bội hậu cho ngươi". Abram thưa rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa, Ngài sẽ ban cho con điều gì? Con sẽ qua đi mà không có con; chỉ có Eliêzer này, người Ðamas, con của người giúp việc gia đình con". Abram nói tiếp rằng: "Chúa không cho con sinh con; đây con của người giúp việc sẽ là kẻ nối nghiệp con". Tức thì có lời Chúa phán cùng ông rằng: "Chẳng phải người này sẽ là kẻ nối nghiệp ngươi, nhưng là chính người con ngươi sinh ra, sẽ là kẻ nối nghiệp ngươi". Thiên Chúa dẫn Abram ra ngoài và nói với ông: "Ngươi hãy ngước mắt lên trời, và nếu có thể được, hãy đếm các ngôi sao". Rồi Chúa nói tiếp: "Miêu duệ của ngươi sẽ đông đảo như thế". Abram tin vào Thiên Chúa và vì đó, ông được công chính.

Và Chúa lại nói: "Ta là Chúa, Ðấng dẫn dắt ngươi ra khỏi thành Ur của dân Calđê, để ban cho ngươi xứ này làm gia nghiệp". Abram thưa rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa, làm sao con có thể biết con sẽ được xứ đó làm gia nghiệp?" Chúa đáp: "Ngươi hãy bắt một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một con chim gáy mái và một con bồ câu non". Abram bắt tất cả những con vật ấy, chặt ra làm đôi, đặt phân nửa này đối diện với phân nửa kia: nhưng ông không chặt đôi các con chim. Các mãnh cầm lao xuống trên những con vật vừa bị giết, song ông Abram đuổi chúng đi.

Lúc mặt trời lặn, Abram ngủ mê; một cơn sợ hãi khủng khiếp và u tối bao trùm lấy ông. Khi mặt trời đã lặn rồi, bóng tối mù mịt phủ xuống, có một chiếc lò bốc khói và một khối lửa băng qua giữa những phần con vật chia đôi. Trong ngày đó, Chúa đã thiết lập giao ước với Abram mà nói rằng: "Ta ban xứ này cho miêu duệ ngươi, từ sông Ai-cập cho đến sông Euphrát".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 104, 1-2. 3-4. 6-7. 8-9

Ðáp: Tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước (c. 8a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa, hãy hoan hô danh Ngài, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa. - Ðáp.

2) Hãy tự hào vì danh thánh của Người, tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn. - Ðáp.

3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn. Chính chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu. - Ðáp.

4) Tới muôn đời Người vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Người đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Người đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Người đã thề với Isaac. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 14, 23

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Nếu ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 7, 15-20

"Hãy xem quả thì các con sẽ biết chúng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy coi chừng các tiên tri giả. Họ mặc lốt chiên đến cùng các con, nhưng bên trong, họ là sói dữ hay cắn xé. Hãy xem quả thì các con sẽ biết được chúng. Nào ai hái được trái nho nơi bụi gai, hoặc trái vả nơi bụi găng sao? Cũng thế, cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể sinh trái tốt. Các cây không sinh trái tốt sẽ bị chặt đi và ném vào lửa. Vậy coi trái thì các con sẽ nhận biết được chúng".

Ðó là lời Chúa.

Image result for Mt 7, 15-20

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

 

Chân dung của những "con sói... cắn xé"

Suy Niệm

 

Chủ đề "sự sống" từ Mùa Phục Sinh vẫn được tiếp tục ở bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư Tuần XII Thường Niên, ở chỗ hoa trái của sự sống này, một thứ hoa trái cho biết là sự sống đó thật hay giả, siêu nhiên hay tự nhiên, dồi dào hay cằn cỗi. Chúa Giêsu đã sử dụng ngay định luật tự nhiên về sự sống để áp dụng vào sự sống siêu nhiên, ở chỗ căn cứ vào hoa trái của nó, như Người phán dạy như sau:

"Hãy coi chừng các tiên tri giả. Họ mặc lốt chiên đến cùng các con, nhưng bên trong, họ là sói dữ hay cắn xé. Hãy xem quả thì các con sẽ biết được chúng. Nào ai hái được trái nho nơi bụi gai, hoặc trái vả nơi bụi găng sao? Cũng thế, cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể sinh trái tốt. Các cây không sinh trái tốt sẽ bị chặt đi và ném vào lửa. Vậy coi trái thì các con sẽ nhận biết được chúng".

Căn cứ vào lời Chúa khẳng định trên đây thì thành phần "tiên tri giả", được Người nhắc đến ngay ở đầu bài Phúc Âm hôm nay, cho dù "mặc lốt chiên", "nhưng bên trong là sói dữ" nên không thể sinh hoa trái tốt lành:
"cây xấu không thể sinh trái tốt", trái lại, "cây xấu thì sinh trái xấu" là thứ hoa trái "cắn xé", sát hại, chia rẽ, phá hoại, tiêu diệt, hung tàn, bạo loạn v.v. những thứ hoa trái hiểm độc không thể nào tồn tại như hoa trái của sự sống, những thứ hoa trái cuối cùng "sẽ bị chặt đi và ném vào lửa" xứng với số phận bóng tối không thể nào át được ánh sáng, mà còn bị ánh sáng xua tan nữa.

Thành phần "tiên tri giả" được Chúa Giêsu đề cập đến ở đây, ở vào phần cuối của Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành Trên Núi mà Người trực tiếp ngỏ cùng các tông đồ và gián tiếp cho dân chúng, chắc Người không ám chỉ thành phần biệt phái và luật sĩ sau này bị Người công khai và thậm tệ quở trách là "đồ giả hình" ở đoạn 23 của cùng Phúc Âm Thánh Mathêu, mà là chính các tông đồ hằng được nghe Người giảng dạy và thấy gương sống của Người mà vẫn sống ngược lại với Người.

Một trường hợp điển hình cho thấy có thể Người ám chỉ thành phần "tiên tri giả" là các tông đồ hay môn đệ của Người, bề ngoài có vẻ hiền lành dễ thương như "chiên" nhưng bề trong vốn còn tính chất "sói dữ... cắn xé", đó là trường hợp của chính tông đồ Gioan, vị tông đồ đã có lần ngăn cản người khác không được lấy danh Thày mà trừ quỉ bởi họ không thuộc về nhóm của ngài (xem Luca 9:49), và ngay sau đó ngài còn cùng tông đồ Giacôbê anh mình đã ngỏ ý xin Thày sai lửa trời xuống thiêu rụi một thành Samaritano vì họ không tiếp rước Người (xem Luca 9:54).

Sở dĩ có bài Phúc Âm hôm nay ở phần cuối của Bài Giảng Trên Núi, là Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến việc thực hành giáo huấn phúc đức trọn lành của Người vừa giảng dạy cách riêng cho các tông đồ. Những ai thực hành lời của Người thì sẽ sinh hoa trái tốt đẹp nhờ lời của Người, bằng không sẽ chẳng sinh hoa trái gì, thậm chí còn sinh hoa trái xấu theo bản tính và xu hướng tự nhiên hướng hạ của mình.


Cảm Nghiệm

Như thế, bất kỳ ai, không phải chỉ ở nơi dân ngoại không biết Chúa hay chưa biết Chúa, hoặc ở nơi những kẻ được coi là tội lỗi gian ác, mà là chính thành phần mang danh môn đệ của Chúa Kitô, Đấng "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Mathêu 11:29), cũng có thể là thành phần "tiên tri giả", ở vào một lúc nào đó hay ở một nơi nào đó, nếu họ không sống trọn lành theo giáo huấn của Bài Giảng Trên Núi được Chúa Giêsu truyền dạy suốt trong gần 3 tuần vừa qua ở Tuần X, XI và XII Mùa Thường Niên này.

Thực tế quả thực cho thấy đúng như vậy. Như lịch sử Giáo Hội và đời thường cho thấy, thành phần Kitô hữu nói chung và Công giáo nói riêng đã có những thái độ "sói ... cắn xé" còn gian dối hơn cả lương dân, còn dữ dằn độc ác hơn cả dân ngoại, thậm chí lấy chính chân lý hay nhân danh chân lý để sát hại nhau chứ không phải để giải thoát nhau, để cứu giúp nhau như chính bản chất của chân lý là soi sáng và giải phóng (xem Gioan 8:32), còn chia rẻ nhau trong nội bộ Kitô giáo của mình, gây gương mù và tai hại trầm trọng cho công cuộc truyền giáo là bản tính của Giáo Hội Chứng Nhân của Chúa Kitô và cho Chúa Kitô.

Những trường hợp điển hình cho thấy thành phần "tiên tri giả" là thành phần, như Chúa Kitô diễn tả, có 3 đặc tính: "mặc lốt chiên", nhưng bên trong lại là "sói dữ" nên đời sống của họ mang lại những hậu "cắn xé" tai hại. Chẳng hạn các vị linh mục lạm dụng tình dục trẻ em, "mặc lốt chiên" là cha cụ, nhưng lại thèm muốn hèn hạ đến độ như "sói dữ" dám lén lút ăn thịt con chiên của mình, và vì thế các vị quả thực đã "cắn xé" chẳng những biết bao nhiêu là giới trẻ đã bỏ đạo bởi gương mù của các vị bị phanh phui mà còn "cắn xé" cả tài sản của giáo hội địa phương là nơi các vị thuộc về liên quan đến việc bồi thường cái hậu quả "cắn xé" như một con "sói dữ".

Hay trường hợp cha mẹ Kitô hữu đạo đức tốt lành, đọc kinh "xem" lễ và rước lễ hằng ngày, nhưng con cái vẫn cứ hư đi, vẫn bỏ đạo, bởi vì bên trong cái vỏ đạo đức như "mặc lốt chiên" ấy, họ vẫn chất chứa tâm tưởng của loài "sói dữ" đầy những thành kiến xấu, những ác cảm, những hận thù ghen ghét, những chấp nhất lặt vặt, những ý nghĩ bậy bạ về nhau, được bộc lộ qua những lời nói hành nói xấu, phê bình chỉ trích chủ quan, chửi rủa và nguyền rủa nhau v.v., khiến con cái bị "cắn xé" bởi gương mù gương xấu của họ, đến nỗi có những đứa bỏ đạo, không đi thờ đi lễ như cha mẹ mong muốn và thúc giục nữa, bởi theo chúng, việc đi thờ đi lễ của cha mẹ và như cha mẹ chúng đã chẳng những không mang lại lợi ích gì, trái lại, còn gây hại nữa... thì theo gương các vị mà làm gì, chẳng có lợi thì chớ mà lại còn mất giờ và bị mang tiếng là giả hình nữa.


Tuy nhiên, cho dù trong lòng Giáo Hội tự bản chất "thánh thiện" hằng liên lỉ có những đứa con "sói dữ... cắn xé", dù vô tình hay chủ ý, bằng cách này hay cách khác, ở thời này hay thời kia, Giáo Hội của Chúa vẫn không thể bị hủy hoại, bởi Giáo Hội chính là công việc của Chúa, chứ không phải là việc làm của con người thuần túy. Chúa sẽ ở với Giáo Hội và qua những gian nan khốn khó thử thách cả trong lẫn ngoài như thể bị nội công ngoại kích ấy, Giáo Hội lại càng trở thành dấu chứng cho thấy Giáo Hội là Nhiệm Thể của Chúa Kitô có Chúa Kitô là Đầu và càng hiệp nhất nên một với Người ở chỗ giống Người trong những lúc bị bách hại và sát hại.

Đúng thế, không ai có thể phá hủy được Giáo Hội, cho dù là quyền lực kinh khủng của hỏa ngục đi nữa, vì Chúa ở cùng Giáo Hội như Thiên Chúa ở cùng dân Do Thái xưa, ngay từ ban đầu, qua tổ phụ Abram của họ, như Bài Đọc 1 hôm nay cho thấy, một vị tổ phụ đã già mà vẫn còn son sẻ: "Con sẽ qua đi mà không có con; chỉ có Eliêzer này, người Ðamas, con của người giúp việc gia đình con", thế nhưng, theo sự quan phòng thần linh vô cùng khôn ngoan của Thiên Chúa thì: "chính người con ngươi sinh ra sẽ là kẻ nối nghiệp ngươi", một sự nghiệp ngoài đất hứa mà chính yếu bao gồm muôn vàn con cháu: "Ngươi hãy ngước mắt lên trời, và nếu có thể được, hãy đếm các ngôi sao... Miêu duệ của ngươi sẽ đông đảo như thế".

Chính vì tin tưởng mọi sự vào Thiên Chúa, vào ý định vô cùng huyền diệu của Ngài, một ý định được Ngài tỏ hiện và bày tỏ qua giao ước Ngài đã tự động lập ra và ký kết với dân của Ngài qua các vị tổ phụ của họ, Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất bất biến dù con người có qua đi hay bất trung với Ngài: "Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, Thiên Chúa của Giacóp" (Xuất Hành 3:15) - "Tới muôn đời Chúa vẫn nhớ lời minh ước", mà Thánh Vịnh gia trong Bài Đáp Ca hôm nay dường như đã âm vang tâm tình ngợi khen chúc tụng của tổ phụ Abram, Vị được Bài Đọc 1 hôm nay khẳng định: "Abram tin vào Thiên Chúa và vì đó, ông được công chính".

 

1) Hãy ca tụng Chúa, hãy hoan hô danh Ngài, hãy kể ra sự nghiệp Chúa ở giữa chư dân. Hãy xướng ca, đàn hát mừng Người, hãy tường thuật mọi điều kỳ diệu của Chúa.

2) Hãy tự hào vì danh thánh của Người, tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Chúa, hãy tìm kiếm thiên nhan Chúa luôn luôn.

3) Hỡi miêu duệ Abraham là tôi tớ của Người, hỡi con cháu Giacóp, những kẻ được Người kén chọn. Chính chúa là Thiên Chúa chúng ta, quyền cai trị của Người bao trùm khắp cả địa cầu.

4) Tới muôn đời Người vẫn nhớ lời minh ước, lời hứa mà Người đã an bài tới muôn thế hệ, lời minh ước Người đã ký cùng Abraham, lời thề hứa Người đã thề với Isaac.  

 

 

Thứ Năm 

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 16, 1-12. 15-16

"Agar đã sinh cho Abraham một con trai và ông gọi nó là Ismael".

Trích sách Sáng Thế.

Bà Sarai vợ ông Abram không sinh con, nhưng bà có một nữ tỳ người Ai-cập, tên là Agar, bà đã nói cùng ông rằng: "Này, Chúa không cho tôi sinh con, ông hãy ăn ở với nữ tỳ của tôi, may ra nhờ nó, tôi có con cháu". Và Abram nghe theo lời bà Sarai. Ðã mười năm trời, từ ngày ông bà đến ở đất Canaan, bà Sarai chọn Agar, người Ai-cập làm nữ tỳ, rồi trao cho chồng làm nàng hầu: ông đã ăn ở với nàng. Nhưng khi nàng thấy mình thụ thai thì khinh dể bà chủ. Sarai nói cùng Abram rằng: "Ông đối xử bất công với tôi. Tôi đã trao đứa nữ tỳ tôi vào tay ông, từ khi nó thấy mình thụ thai, liền khinh dể tôi. Xin Chúa xét xử giữa tôi và ông". Abram trả lời rằng: "Này, nữ tỳ của bà vẫn ở dưới quyền bà, bà muốn xử với nó thế nào mặc ý". Sarai hành hạ Agar cho đến nỗi nàng trốn đi.

Thiên thần Chúa gặp nàng trong rừng vắng gần suối nước, dọc đường đi về đất Sur trong hoang địa. Thiên thần hỏi nàng rằng: "Agar, nữ tỳ của Sarai, ngươi từ đâu đến và toan đi đâu?" Nàng đáp: "Tôi trốn Sarai, bà chủ tôi". Thiên thần Chúa bảo nàng rằng: "Hãy trở về với bà chủ ngươi, và tùng phục bà". Thiên thần Chúa nói tiếp: "Ta sẽ tăng số con cháu ngươi nhiều không thể đếm được". Và nói thêm rằng: "Này ngươi đã thụ thai và sẽ sinh một con trai, ngươi sẽ đặt tên cho nó là Ismael, vì Chúa đã nghe biết sự khốn khó của ngươi. Trẻ này sẽ là đứa hung dữ: nó đưa tay chống đối mọi người và mọi người sẽ chống lại nó. Nó sẽ cắm lều đối diện với các anh em". Agar đã sinh con trai, Abram đặt tên nó là Ismael. Abram được tám mươi sáu tuổi khi Agar sinh Ismael.

Ðó là lời Chúa.

 

Hoặc bài vắn này: St 16, 6-12. 15-16

Abram trả lời Sarai rằng: "Này, nữ tỳ của bà vẫn ở dưới quyền bà, bà muốn xử với nó thế nào mặc ý". Sarai hành hạ Agar cho đến nỗi nàng trốn đi. Thiên thần Chúa gặp nàng trong rừng vắng gần suối nước, dọc đường đi về đất Sur trong hoang địa. Thiên thần hỏi nàng rằng: "Agar, nữ tỳ của Sarai, ngươi từ đâu đến và toan đi đâu?" Nàng đáp: "Tôi trốn Sarai, bà chủ tôi". Thiên thần Chúa bảo nàng rằng: "Hãy trở về với bà chủ ngươi, và tùng phục bà". Thiên thần Chúa nói tiếp: "Ta sẽ tăng số con cháu ngươi nhiều không thể đếm được". Và nói thêm rằng: "Này ngươi đã thụ thai và sẽ sinh một con trai, ngươi sẽ đặt tên cho nó là Ismael, vì Chúa đã nghe biết sự khốn khó của ngươi. Trẻ này sẽ là đứa hung dữ: nó đưa tay chống đối mọi người và mọi người sẽ chống lại nó. Nó sẽ cắm lều đối diện với các anh em". Agar đã sinh con trai, Abram đặt tên nó là Ismael. Abram được tám mươi sáu tuổi khi Agar sinh Ismael.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 105, 1-2. 3-4a. 4b-5

Ðáp: Hãy ca tụng Chúa, vì Người nhân hậu (c. 1a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Hãy ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu, vì đức từ bi Người tồn tại muôn đời. Ai nói hết được những hành động quyền năng của Chúa, ai kể cho xiết mọi lời ngợi khen Người? - Ðáp.

2) Phúc cho những ai tuân giữ những lời huấn lệnh, và luôn luôn thực thi điều công chính. Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài. - Ðáp.

3) Xin mang ơn cứu độ đến thăm viếng chúng con, để chúng con hân hoan vì hạnh phúc những người Chúa chọn, được chung vui bởi niềm vui của dân Ngài, và được hãnh diện cùng phần gia nghiệp của Ngài. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 1, 14 và 12b

Alleluia, alleluia! - Ngôi lời đã làm người và đã ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 7, 21-29

"Nhà xây trên nền đá và nhà xây trên cát".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không phải tất cả những ai nói với Thầy: "Lạy Chúa, Lạy Chúa", là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời. Trong ngày đó, nhiều người sẽ nói với Thầy rằng: "Lạy Chúa, Lạy Chúa, nào chúng con đã không nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, và nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó ư?" Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với chúng rằng: "Ta chẳng hề biết các ngươi, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta".

"Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá. Và hễ ai nghe những lời Thầy nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn".

Khi Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì Người dạy dỗ họ như Ðấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của họ.

Ðó là lời Chúa. 

 

Related image

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm 

 

 

Nữ tỳ Agar... cuộc đời cát đá


Bài Phúc Âm cho Thứ Năm Tuần XII Thường Niên hôm nay là bài phúc âm (Mathêu 7:21-29) kết thúc Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giêsu. Qua bài phúc âm kết thúc Bài Giảng Trên Núi này, Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ của Người rằng: 


1- Chỉ có ý Chúa được thể hiện qua việc con người tin tưởng chấp nhận, đáp ứng và tuân hành mới mang lại ơn cứu độ cho họ: 
"Không phải tất cả những ai nói với Thầy: 'Lạy Chúa, Lạy Chúa', là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời" 

 

2- Chứ không phải là những việc làm gì khác, cho dù là việc thu hút thế gian nhất, như nói tiên tri có vẻ thông biết mọi sự, hay trừ quỉ hoặc làm phép lạ với đầy quyền năng: "Trong ngày đó, nhiều người sẽ nói với Thầy rằng: 'Lạy Chúa, Lạy Chúa, nào chúng con đã không nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, và nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó ư?' Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với chúng rằng: 'Ta chẳng hề biết các ngươi, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta'"..  

 

3Đời sống thiêng liêng cũng chỉ vững chắc khi được căn cứ vào lời của Người, vào giáo huấn vô cùng chân thật và trọn hảo của Người, vào tất cả những gì Người đã truyền dạy mà thôi: "Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá. Và hễ ai nghe những lời Thầy nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn".  

 

Ở đầu Bài Giảng Trên Núi, Thánh ký Mathêu cho biết là "thấy đoàn lũ dân chúng thì Chúa Giêsu lên núi; khi Người ngồi xuống thì các môn đệ đến cùng Người". Có nghĩa là giáo huấn về phúc đức trọn lành của Người trực tiếp ngỏ cùng thành phần được Người kêu gọi theo Người, nhờ đó họ có thể trở thành "muối đất", thành "ánh sáng thế gian". 


Thế nhưng, kết thúc Bài Giảng Trên Núi này, Thánh ký Mathêu lại cho thấy là chính dân chúng cũng được nghe "ké" giáo huấn phúc đức trọn lành 
này của Chúa Giêsu nữa, hay cũng có thể tiếng của Người nói với các môn đệ càng lúc càng vang to hơn khi Người thấy dân chúng tiếp tục kéo đến gần ngay chỗ qui tụ của Người và các môn đệ bấy giờ: "Khi Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì Người dạy dỗ họ như Đấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của họ". 

 

Qua lời diễn tả ngay sau Bài Giảng Trên Núi này của Thánh ký Mathêu, chúng ta thấy 2 điều: 1- về phía dân chúng, cho dù ở tầm mức bình dân, không thông thái như thành phần luật sĩ và biệt phái, cũng có thể cảm nhận được giáo huấn cao siêu của Chúa Giêsu; 2- về phía Chúa Giêsu, giáo huấn phúc đức trọn lành của Người tuy cao siêu "chật hẹp" nhưng hoàn toàn hợp với lòng người, hợp với nhân bản, và nếu được mang ra áp dụng thực hành con người sẽ được biến đổi và thăng hóa theo đúng ơn gọi cùng thân phận làm người của h.


Trong bài đọc 1 hôm nay, được Giáo Hội trích từ Sách Khởi Nguyên (16:1-12,15-16 hay 16:6-12,15-16), cho thấy nữ tỳ Agar của tổ phụ Abram tỏ ra lên mặt "khinh dể bà chủ" Sarai của mình, sau khi được bà chủ hiến nàng cho chồng để chồng có con với nàng thay cho bà là vợ nhưng lại bị son sẻ, nên nàng đã bị bà chủ ra tay "hành hạ... đến nỗi nàng phải trốn đi", nhưng nàng được "Thiên thần Chúa bảo nàng rằng: 'Hãy trở về với bà chủ ngươi, và tùng phục bà'". 

 

Hành động khinh bỉ bà chủ của nữ tỳ Agar là hành động tự nhiên theo thế gian xác thịt, như xây nhà trên cát, sẽ bị sụp đổ khi bão tố nổi lên, đến độ nàng không chịu được tình trạng bị bà chủ hành hạ đến phải bỏ đi. Hành động trở về tùng phục bà chủ theo như lời thiên thần dạy là hành động xây nhà trên đá của người tỳ nữ này, nên đứa con do nàng sinh ra cho tổ phụ Abram không mồ côi cha (nếu nàng bỏ đi không trở về) và nó được thân phụ của nó đặt tên cho là Ismael khi ông vừa đúng 80 tuổi. 


Tuy nhiên, tự bản chất là đứa con sinh ra bởi một người tỳ nữ, chứ không bởi người vợ chính thức, nhất là không bởi lời hứa như Isaac sau này, mà Ismael tiêu biểu cho những gì là xác thịt đầy ngỗ nghịch phản chống, như thể thừa hưởng giòng máu và khuynh hướng xác thịt của người mẹ nữ tỳ của nó, đúng như lời thiên thần đã tiên báo: "Trẻ này sẽ là đứa hung dữ: nó đưa tay chống đối mọi người và mọi người sẽ chống lại nó. Nó sẽ cắm lều đối diện với các anh em". 


Phải chăng li tiên báo cách đây hơn cả 4 ngàn năm này đang được hiện thực hơn bao giờ hết nơi hiện tượng Ả Rập Hồi giáo quá khích, khủng bố và tàn sát, như của nhóm Al Queda tấn công vào đệ nhất cường quốc Hoa Kỳ ngày 11/9/2001 cũng như vào Pháp 1/2015, và của tổ chức ISIS sau đó từ miền bắc Iraq và Syria, một tổ chức cũng đã khủng bố tấn công Pháp 11/2025


Thế nhưng, tất cả mọi sự xẩy ra đều ở trong sự quan phòng thần linh vô cùng khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa là chủ tể lịch sử loài người, Đấng làm gì cũng chỉ nhắm đến lợi ích thiêng liêng bất diệt cho chung loài người cũng như cho từng người, cho dù trong ruộng của Ngài đầy những cỏ lùng (xem Mathêu 13:24-30). 


Bởi thế, Thánh Vịnh 105 (1-2,3-4a,4b-5) ở Bài Đáp Ca hôm nay đã cảm nhận được tình yêu nhân hậu của Ngài đối với chung nhân loại (câu 1) cũng như đ
ối với thành phần tuân giữ huấn lệnh của Ngài (câu 2) và với dân của Ngài (câu 3):


1) Hãy ca tụng Chúa, bởi Người nhân hậu, vì đức từ bi Người tồn tại muôn đời. Ai nói hết được những hành động quyền năng của Chúa, ai kể cho xiết mọi lời ngợi khen Người? 
 

2) Phúc cho những ai tuân giữ những lời huấn lệnh, và luôn luôn thực thi điều công chính. Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Ngài. 

 

3) Xin mang ơn cứu độ đến thăm viếng chúng con, để chúng con hân hoan vì hạnh phúc những người Chúa chọn, được chung vui bởi niềm vui của dân Ngài, và được hãnh diện cùng phần gia nghiệp của Ngài.  

 

 

 

 

 

Thứ Sáu sau Chúa Nhật II sau Lễ Hiện Xuống

Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu Năm C

 

Bài Ðọc I: Ed 34, 11-16

"Ta sẽ săn sóc đoàn chiên Ta và sẽ kiểm soát chúng".

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Ðây Chúa là Thiên Chúa phán: "Này chính Ta săn sóc đoàn chiên Ta và Ta sẽ kiểm soát chúng. Như một mục tử kiểm điểm đoàn chiên trong ngày chúng bị tản mát, thì Ta cũng kiểm điểm đoàn chiên Ta như vậy. Ta sẽ giải thoát chúng khỏi mọi nơi mà chúng đã bị phân tán. Ta sẽ dẫn chúng ra khỏi các dân tộc, sẽ tụ họp chúng từ khắp mặt đất, và đưa chúng vào đất của chúng. Ta sẽ chăn dắt chúng trên các miền núi Israel, dọc theo các bờ suối, và trong những miền có dân cư. Ta sẽ thả chúng ăn trên những ngọn núi cao Israel, chúng nghỉ ngơi trong những đồng cỏ xanh tươi, và chúng ăn trong đồng cỏ màu mỡ trên miền núi Israel. Chính Ta sẽ chăn dắt các chiên Ta; chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ, Chúa là Thiên Chúa phán như thế. Ta sẽ tìm con chiên đã mất, sẽ đem về con chiên lạc, sẽ băng bó con chiên bị thương tích, sẽ lo chữa con chiên bị ốm đau, con nào mập béo, Ta sẽ chăm sóc, và sẽ chăn dắt nó trong sự công chính".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 22, 1-3. 4. 5. 6

Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).

Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. - Ðáp.

2) (Lạy Chúa,) dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương: đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Rm 5, 5-11

"Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người Ðối với chúng ta ".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tình yêu của Thiên Chúa tuôn đổ trong tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Thần đã ban cho chúng ta. Chúa Kitô theo kỳ hẹn mà chịu chết vì chúng ta là kẻ tội lỗi. Ít có ai chết thay cho người công chính, hoạ chăng mới có người dám chết vì kẻ lành. Nhưng Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta.

Vậy phương chi bây giờ, chúng ta đã nên công chính trong máu của Người, và nhờ Người chúng ta sẽ được cứu khỏi cơn thịnh nộ. Bởi chưng nếu khi chúng ta còn là thù nghịch, mà chúng ta đã được giao hoà cùng Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Ngài, thì huống chi khi đã được giao hoà, ắt chúng ta sẽ được cứu độ trong sự sống của chính Chúa Kitô. Và không những thế, chúng ta còn được vinh hiển trong Thiên Chúa nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người mà bây giờ chúng ta được lãnh ơn giao hoà.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: GA 10,14

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 15, 3-7

"Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các người biệt phái và luật sĩ dụ ngôn này rằng: "Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: 'Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!' Cũng vậy, Tôi bảo các ông: Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải".

Ðó là lời Chúa.

Image result for Lc 15, 3-7

 

Thánh Tâm Chúa Giêsu là tiêu biểu cho cả Tình yêu của Thiên Chúa lẫn tình yêu của nhân loại


Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay về Thánh Tâm Chúa Giêsu. Bài Phúc Âm cho Phụng Vụ Chu Kỳ Năm B được lấy từ Phúc Âm Thánh Gioan (19:31-37), chứ không phải Thánh Marco, trong khi bài Phúc Âm Năm A vẫn Thánh Mathêu và Năm C vẫn Thánh Luca, vì Năm A và C có hai bài Phúc Âm thích hợp về Thánh Tâm Chúa Giêsu, một bài của Phúc Âm của Thánh Mathêu (11:25-30) về một Thánh Tâm "hiền lành và khiêm nhượng trong lòng" (Năm A) và một bài Phúc Âm của Thánh Luca (15:3-7) về một Thánh Tâm yêu thương "con chiên lạc".

Còn bài Phúc Âm của Thánh Gioan cho Năm B là bài phúc âm về biến cố Chúa Giêsu tử giá bị lưỡi đòng đâm vào cạnh sườn khiến máu cùng nước chảy ra: "Khi đến gần Chúa Giêsu, chúng thấy Người đã chết, nên không đánh giập ống chân Người; nhưng một tên lính lấy ngọn giáo đâm thủng cạnh sườn Người, và lập tức máu cùng nước chảy ra". 

Sự kiện cho dù đã chết mà thân xác tử giá của Chúa Kitô vẫn còn bị lưỡi đòng đâm vào như thế chứng tỏ là "Người đã yêu thương những ai thuộc về Người thì Người muốn chứng tỏ rằng Người yêu thương họ cho đến cùng" (Gioan 13:1), đến giọt máu cuối cùng, đến giọt nước cuối cùng, cả hai "máu" và "nước" đều biểu hiệu cho sự sống nơi thân thể của Người, đã hoàn toàn tiết ra hết không còn gì trong thân thể của Người nữa.

Sự kiện "máu và nước chảy ra" ở đây cũng tiêu biểu cho việc Giáo Hội được hạ sinh từ cạnh sườn của Chúa Kitô như nguyên tổ Evà từ cạnh sườn của Adong trong vườn địa đường vậy, một sự kiện có thể đã được cảm nghiệm bởi Vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô trong Thư ngài gửi cho Giáo đoàn Epheso: "... Chúa Kitô đã yêu thương Giáo Hội. Người đã hiến mình cho Giáo Hội, để làm cho Giáo Hội nên thánh hảo, thanh tẩy Giáo Hội trong nước bằng quyền năng lời của Người, để hiện lên trước nhan Người một Giáo Hội hiển vinh, thánh hảo và tinh tuyền, không nhăn nheo hay bất cứ sự gì như thế" (5:25-27).

Sự kiện "máu và nước chảy ra" đây còn tiêu biểu cho chính cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô, "máu" (tiểu biểu cho cuộc tử nạn) chảy ra trước "nước" (tiêu biểu cho sự sống hay Thánh Linh) chảy ra sau. Nhưng cả hai đều tiêu biểu cho tình Ngài yêu thương Giáo Hội: "máu Thày sẽ đổ ra vì các con" (Luca 22:20), "các con hãy nhận lấy Thánh Linh" (Gioan 20:22).

Thánh Tâm Chúa Giêsu quả thực là biểu hiệu cho tình yêu thương của Chúa Giêsu đối với chung nhân loại và riêng Giáo Hội Nhiệm Thể của Người, và chính bản thân của Người nói chung và Thánh Tâm của Người nói riêng là hiện thân của tình yêu vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa, một tình yêu tuyệt vời đã được mạc khải trong suốt Lịch Sử Cứu Độ của Dân Do Thái, như được Tiên Tri Hosêa (11:1b,3-4,8c-9) thuật lại tất cả tâm can của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất này hết sức cảm động như sau:

"Lúc Israel còn niên thiếu, Ta đã yêu thương nó, và Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập.... Ta đã dưỡng nuôi Ephraim, Ta đã bồng chúng trên cánh tay Ta mà chúng không biết Ta chăm sóc chúng. Ta đã dùng dây êm ái và mối yêu thương mà tập (cho) chúng đi; Ta đối xử với chúng như người dưỡng nuôi trẻ thơ, Ta đã ấp yêu chúng vào má. Ta nghiêng mình trên chúng và đút cho chúng ăn... Quả tim Ta thổn thức trong Ta và ruột gan Ta bồi hồi. Ta sẽ không buông thả theo cơn giận của Ta. Ta sẽ không huỷ diệt Ephraim, vì Ta là Thiên Chúa chứ không phải người phàm; Ta là Ðấng Thánh ở giữa ngươi, Ta không thích tiêu diệt".

Ở trong Thư Epheso (3:8-12,14-19), vị tông đồ Phaolô, một "kẻ hèn nhất trong các thánh" đã bày tỏ niềm nguyện cầu của mình cho Kitô hữu Thành Êphêsô được nhờ tình yêu của Thiên Chúa nơi Đức Kitô mà trở nên "con người thiêng liêng" đầy những kiến thức thần linh về mọi chiều kích của tình yêu Chúa Kitô: 

"Tôi quỳ gối trước mặt Cha Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Ngài là nguồn gốc mọi danh phận làm cha trên trời dưới đất. Xin Ngài chiếu theo sự giàu có vinh quang của Ngài và nhờ Thánh Thần của Ngài, thêm sức mạnh cho anh em được nên người thiêng liêng, và nhờ đức tin, anh em được Ðức Kitô ngự trong lòng anh em, làm cho anh em đâm rễ sâu và lập nền kiên cố trong đức mến, để anh em được hiệp cùng các thánh mà hiểu biết chiều rộng, dài, cao, sâu, và cũng được biết lòng mến của Ðức Kitô vượt quá trí hiểu loài người, để anh em được sung mãn trong mọi sự viên mãn của Thiên Chúa".

Tuy nhiên, vì Chúa Giêsu là một Ngôi Vị Thần Linh có hai bản tính: Thiên tính và nhân tính, là Thiên Chúa thật và là người thật, mà Trái Tim Người chẳng những là biểu hiệu cho tình yêu vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa ở nơi Người mà còn là biểu hiệu của tình yêu của con người đối với Thiên Chúa nữa. Tức là con người đáp trả tình yêu vô cùng nhân hậu của Thiên Chúa bằng chính Trái Tim của Chúa Kitô, và chỉ có nhờ Trái Tim Chúa Kitô, với Trái Tim Chúa Kitô và trong Trái Tim Chúa Kitô con người mới xứng đáng và có khả năng đáp trả "Thiên Chúa là tình yêu" (1Gioan 4:8,16) mà thôi.

Bài Phúc Âm theo Thánh Mathêu (11:25-30) cho Năm A bao gồm 2 chiều kích hay hai mặt của cùng một đồng tiền nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu. Trước hết là chiều kích thiên tính liên quan đến Chúa Cha, đến Vị "Thiên Chúa là Thần Linh" (Gioan 4:24), vị Thiên Chúa đã tỏ hết mình ra nơi Con của Ngài là chính Nhân Vật Lịch Sử Nazarét Thiên Sai, Đấng đã đến để "tỏ Cha ra" (Gioan 1:18), đến độ "ai thấy Thày là thấy Cha" (Gioan 14:9).

"Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ mà Con muốn mạc khải cho".

Sau nữa là chiều kích nhân tính liên quan đến con người trần gian, mà chính Người là mô phạm và là lý tưởng, chính Người, nơi thân phận làm người của mình, cũng chẳng những đã cảm thấy "khó nhọc và gánh nặng" của con người, mà còn chịu "khó nhọc và gánh nặng" với con người và thay con người, như hình ảnh người Samaritanô Nhân Lành đối với nạn nhân đang quằn quại nguy tử dọc đường (xem Luca 10:25-37). Đó là lý do Người mới thông cảm và kêu gọi loài người nói chung và những ai cần đến Người nói riêng như sau:

"Tất cả hãy đến cùng Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".

Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, xin hoán cải con trở nên như những trẻ nhỏ của Lòng Thương Xót Chúa, để con biết nhìn hết mọi anh chị em con bằng ánh mắt của tình yêu vô cùng nhân hậu Chúa như Mẹ Maria, cho tất cả được hiệp nhất nên một trong Cha và Con và Thánh Thần. Amen.

 

 

 

 

Thứ Sáu theo Ngày trong Tuần XII Thường Niên

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Gen 17,1.9-10.15-22

"Mọi đứa con sẽ chịu cắt bì để làm dấu giao ước. Sara sẽ sinh cho ngươi đứa con trai".

Bài trích sách Sáng Thế.

Khi Abram vừa được chín mươi chín tuổi, Chúa hiện ra với ông và phán bảo ông rằng: "Ta là Chúa toàn năng, hãy đi trước mặt Ta và hãy nên trọn lành".

Chúa lại phán bảo Abram rằng: "Vậy ngươivà dòng dõi ngươi qua muôn thế hệ, hãy giữ giao ước của Ta. Ðây là giao ước phải giữ giữa Ta với ngươi, nghĩa là dòng dõi ngươi sau này: Tất cả con trai của các ngươi sẽ chịu cắt bì".

Chúa lại bảo Abraham rằng: "Ngươi sẽ không còn gọi Sarai vợ ngươi là Sarai nữa, nhưng gọi là Sara. Ta sẽ chúc phúc cho Sara; và Sara sẽ sinh một con trai; Ta sẽ chúc phúc đứa con đó, nó sẽ làm đầu nhiều dân, và do nó sẽ sinh ra nhiều vua nhiều nước".

Abraham cúi mặt cười, nghĩ trong lòng rằng: "Già đã trăm tuổi mà còn có con được sao? Sara đã chín mươi tuổi sẽ sinh con ư?"

Rồi ông thưa cùng Chúa: "Xin Chúa cho Ismael được sống trước mặt Chúa!"

Chúa phán bảo Abraham rằng: "Sara vợ ngươi sẽ sinh cho ngươi một con trai, ngươi đặt tên nó là Asaac. Ta sẽ lập giao ước muôn đời với nó, và dòng dõi nó. Ta cũng nghe lời ngươi cầu cho Ismael: này Ta sẽ chúc phúc cho nó sinh sản nhiều. Nó sẽ sinh ra mười hai tướng quân, và Ta sẽ làm cho nó nên một dân tộc lớn. Còn lời giao ước của Ta chỉ ký kết với Isaac, do Sara sẽ sinh ra cho ngươi mùa này sang năm".

Sau khi nói hết lời cùng Abraham, Thiên Chúa biến đi.

Ðó là Lời Chúa.

 

Ðáp Ca: 127,1-2,3,4-5

Ðáp: Ðó là ơn phúc dành cho người kính sợ Chúa. (4)

Xướng 1) Phúc cho ai biết kính sợ Chúa, và bước đi trong đường lối Người. Ngươi sẽ hưởng công khó của tay ngươi, ngươi có phúc và sẽ được may mắn. - Ðáp.

2) Vợ ngươi như cây nho sai trái, trong nội cung gia thất nhà ngươi. Con cái ngươi như chồi non cây dầu ở chung quanh bàn ăn của ngươi. - Ðáp.

3) Ðó là ơn phúc dành cho người kính sợ Chúa. Từ Sion xin Chúa chúc lành cho ngươi. Chúc ngươi thấy Giêrusalem thịnh đạt suốt mọi ngày trong đời sống của ngươi. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 8, 12

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 8, 1-4

"Nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi Chúa Giêsu ở trên núi xuống, đám đông dân chúng theo Người. Có một người cùi đến lạy Người mà thưa rằng: "Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch". Chúa Giêsu giơ tay ra chạm đến anh ta và phán: "Ta muốn. Anh hãy lành bệnh". Tức thì anh ta liền lành khỏi bệnh phong cùi. Chúa Giêsu phán bảo anh ta: "Hãy ý tứ, đừng nói với ai. Hãy đi trình diện với tư tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng cho họ biết".

Ðó là lời Chúa. 

 

 

 

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm


Hình ảnh Thiên Chúa... bị phong cùi

 

 

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XII Thường Niên, Thánh ký Mathêu (8:1-4) đã cho biết ở ngay câu đầu của đoạn 8 là: "Khi Chúa Giêsu ở trên núi xuống, đám đông dân chúng theo Người". Tức là, sau Bài Giảng Trên Núi của Người, một bài giảng đã gây một tác dụng mãnh liệt nơi dân chúng như câu kết của đoạn 7 sau bài Giảng Trên Núi ở bài Phúc Âm hôm qua cho thấy: "Khi Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì Người dạy dỗ họ như Đấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của họ".


Nhưng có một cái lạ là hình như trong đám đông dân chúng ấy có một người cùi, không biết nặng hay nhẹ, chắc là nhẹ thôi nên không ai chú ý lắm, bằng không anh ta đâu có thể lẻn vào đám đông như vậy được mà đến xin Chúa Giêsu chữa lành cho một cách dễ dàng như thế: "Có một người cùi đến lạy Người mà thưa rằng: 'Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch'". 


Còn một cái lạ hơn nữa, đó là, sau khi chữa cho người cùi được lành rồi, Chúa Giêsu chẳng những bảo anh ta đi trình diện các vị tư tế theo đúng luật định mà trước hết căn dặn anh ta phải giữ kín chuyện được chữa lành nữa: "Chúa Giêsu giơ tay ra chạm đến anh ta và phán: 'Ta muốn. Anh hãy lành bệnh'. Tức thì anh ta liền lành khỏi bệnh phong cùi. Chúa Giêsu phán bảo anh ta: 'Hãy ý tứ, đừng nói với ai. Hãy đi trình diện với tư tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng cho họ biết'".

 

Nếu Chúa Giêsu đã chữa cho người cùi này lành mạnh ngay giữa đám đông dân chúng theo Người bấy giờ thì Người còn căn dặn "'Hãy ý tứ, đừng nói với ai" đây nghĩa là gì, trong khi đó bao nhiêu người bấy giờ đã biết chuyện anh ta được chữa lành và sẽ đồn ra khắp nơi, cho dù anh ta không nói. Hay là Chúa Giêsu đã gặp riêng người cùi này khi dân chúng đã tự động giải tán vào một lúc nào đó, vì Người cùng với các môn đệ đi vào một nơi hoang vắng nào đó, nơi ẩn náu của thành phần bị cùi hủi sống xa tránh dân chúng?


Thật ra, ngay trước Bài Giảng Trên Núi, theo Thánh ký Mathêu (4:23-25), Chúa Giêsu đã nổi tiếng tới tận Syria về các phép lạ Người chữa lành cho các thứ bệnh nạn tật nguyền rồi. Nhưng ngay sau Bài Giảng Trên Núi thì người cùi này là trường hợp cá nhân đầu tiên được kể đến bởi quyền năng chữa lành của Người.

 

Thái độ khiêm cung ("đến lạy Người") và hoàn toàn tin tưởng phó thác tùy ý Chúa muốn ("Lạy Ngài nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch") của nạn nhân phong cùi đã được Chúa Giêsu đáp ứng, bằng cách Người "giơ tay chạm đến anh ta và phán: 'Ta muốn. Anh hãy lành bệnh'".


Bệnh phong cùi là chứng bệnh làm hư hoại hình dạng của con người, một chứng bệnh tiêu biểu cho tác dụng của nguyên tội đã làm cho con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa (xem Khởi Nguyên 1:26-27) không còn nguyên vẹn hình hài tốt lành như thuở ban đầu nữa. 


Thế nhưng, Thiên Chúa đã hứa cứu độ con người ngay sau khi nguyên tổ của họ sa ngã (xem Khởi Nguyên 3:15), để họ có thể lấy lại dung nhan hình hài thần linh của mình, bằng cách được trở nên giống Chúa Giêsu Kitô Con của Ngài "là hình ảnh Thiên Chúa vô hình" (Colose 3:15). 


Để thực hiện dự án cứu độ thần linh này, Ngài đã tuyển chọn một dân tộc và lập giao ước với họ qua tổ phụ Abram của họ, một giao ước liên quan đến sự trọn lành của họ, như Chúa phán trong bài đọc 1 (Khởi Nguyên 17:1,9-10,15-22) hôm nay: "
Ta là Chúa toàn năng, hãy đi trước mặt Ta và hãy nên trọn lành". 


Sự trọn lành về phía con người này, một sự trọn lành tương ứng với giao ước của Thiên Chúa Cứu Độ, là ở chỗ, như Ngài đã phán với vị tổ phụ này trong cùng bài đọc 1 hôm nay rằng: "Vậy ngươi và dòng dõi ngươi qua muôn thế hệ, hãy giữ giao ước của Ta. Đây là giao ước phải giữ giữa Ta với ngươi, nghĩa là dòng dõi ngươi sau này: Tất cả con trai của các ngươi sẽ chịu cắt bì".


Giao ước liên quan đến sự trọn lành của dân được Thiên Chúa tuyển chọn bởi thế không xuất phát từ xác thịt, được tiêu biểu nơi Ismael, đứa con sinh ra bởi người tỳ nữ Ai Cập Agar, mà phát xuất từ thần linh, được tiêu biểu nơi Isaac, đứa con của Lời Hứa: 

 

"Ngươi sẽ không còn gọi Sarai vợ ngươi là Sarai nữa, nhưng gọi là Sara. Ta sẽ chúc phúc cho Sara; và Sara sẽ sinh một con trai; Ta sẽ chúc phúc đứa con đó, nó sẽ làm đầu nhiều dân, và do nó sẽ sinh ra nhiều vua nhiều nước... Sara vợ ngươi sẽ sinh cho ngươi một con trai, ngươi đặt tên nó là Asaac. Ta sẽ lập giao ước muôn đời với nó, và dòng dõi nó".

 

Tuy Ismael là đứa con sinh bởi xác thịt chứ không phải do Lời Hứa nhưng vẫn không bị Thiên Chúa bỏ rơi, trái lại, còn được Thiên Chúa ban cho khả năng phát triển theo bản chất bẩm sinh thiên về xác thịt của nó: "Ta cũng nghe lời ngươi cầu cho Ismael: này Ta sẽ chúc phúc cho nó sinh sản nhiều. Nó sẽ sinh ra mười hai tướng quân, và Ta sẽ làm cho nó nên một dân tộc lớn". 


Bài Đáp Ca hôm nay, được Giáo Hội trích từ Thánh Vịnh 127 (1-2,3,4-5), chất chứa ý nghĩa liên quan đến vị tổ phụ công chính Abram, một vị tổ phụ đã được Chúa chúc phúc cho làm cha của dân Do Thái nói riêng và các dân tộc trên thế giới nói chung, qua người con được vợ ông sinh ra theo Lời Hứa:  

 

1) Phúc cho ai biết kính sợ Chúa, và bước đi trong đường lối Người. Ngươi sẽ hưởng công khó của tay ngươi, ngươi có phúc và sẽ được may mắn. 

2) Vợ ngươi như cây nho sai trái, trong nội cung gia thất nhà ngươi. Con cái ngươi như chồi non cây dầu ở chung quanh bàn ăn của ngươi. 

 

3) Đó là ơn phúc dành cho người kính sợ Chúa. Từ Sion xin Chúa chúc lành cho ngươi. Chúc ngươi thấy Giêrusalem thịnh đạt suốt mọi ngày trong đời sống của ngươi.  




Thứ Bảy

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) St 18, 1-15

"Ðối với Thiên Chúa có gì khó đâu. Ta trở lại thăm ông và Sara được một đứa con trai".

Trích sách Sáng Thế.

Trong những ngày ấy, Chúa hiện ra cùng Abraham dưới chòm cây ở Mambrê, đang lúc ông ngồi ở cửa lều giữa trưa nóng bức. Ông ngước mặt lên thấy ba người nam xuất hiện, đứng gần ông. Vừa trông thấy, từ cửa lều, ông chạy ra đón các vị ấy, rồi sấp mình lạy và thưa rằng: "Lạy Chúa, nếu con được đẹp lòng Chúa, xin đừng bỏ đi qua. Con xin lấy ít nước để các Ðấng rửa chân, và nghỉ mát. Con xin đem ít bánh mời các Ðấng dùng để lấy sức lại rồi sẽ đi: chính vì thế mà các Ðấng đã ghé vào nhà con". Các Ðấng ấy nói: "Như ông đã ngỏ, xin cứ làm".

Abraham liền vào lều và bảo Sara rằng: "Hãy mau mau trộn ba đấu bột làm bánh nướng". Còn ông, ông chạy đến đàn bò bắt một con bê non hảo hạng, trao cho đầy tớ đem đi nấu. Ông lấy bơ sữa và thịt bê đã chín, dọn ra trước mặt các Ðấng. Chính ông đứng hầu các Ðấng dưới bóng cây.

Ăn xong, các Ðấng hỏi Abraham rằng: "Sara bạn ông đâu?" Ông trả lời: "Kìa, bạn con ở trong lều". Một Ðấng nói tiếp: "Ðộ này sang năm, khi Ta trở lại thăm ông, thì cả hai vẫn còn mạnh khoẻ, và Sara bạn ông sẽ được một con trai". Sara đứng sau cửa lều nghe vậy thì bật cười, vì cả hai đã già nua tuổi tác: Sara đã qua thời kỳ sinh nở. Bà cười thầm rằng: "Tôi đã già, ông nhà tôi đã lão, nào tôi còn tìm lạc thú nữa sao!" Chúa phán cùng Abraham rằng: "Sao Sara lại cười mà rằng: "Nào tôi đã già mà còn sinh nở được sao?" Ðối với Chúa, có gì khó đâu? Theo đúng kỳ hẹn, độ này sang năm, Ta sẽ trở lại thăm ông, cả hai vẫn còn khoẻ mạnh, và Sara sẽ được một con trai". Sara chối mà rằng: "Con không có cười", bởi vì bà khiếp sợ. Nhưng Chúa đáp lại: "Không đúng, bà có cười".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Lc 1, 46-47. 48-49. 50 và 53. 54-55

Ðáp: Chúa đã nhớ lại lòng từ bi của Chúa (c. 54b).

Xướng: 1) Ðức Maria đã nói: Linh hồn tôi ca ngợi Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ vui mừng trong Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ tôi. - Ðáp.

2) Bởi Người đã nhìn đến phận hèn tôi tớ; thực từ đây, thiên hạ muôn đời sẽ khen rằng tôi phước đức, vì Ðấng đã làm cho tôi những điều trọng đại, Người quyền năng và danh Người là Thánh. - Ðáp.

3) Ðức từ bi Người từ đời nọ tới đời kia dành cho những ai kính sợ Người. Kẻ đói khát, Người cho đầy thiện hảo; bọn giàu sang, Người đuổi về tay không. - Ðáp.

4) Chúa đã nhận săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng từ bi của Người. Như Người đã hứa cùng tổ phụ chúng tôi, dành cho Abraham và miêu duệ ông tới muôn đời. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 8, 5-17

"Những người từ phương đông và phương tây sẽ đến trong nước trời".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu vào thành Capharnaum, thì có một đại đội trưởng đến thưa Chúa rằng: "Lạy Thầy, thằng nhỏ nhà tôi đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt đau đớn lắm!" Chúa Giêsu phán bảo ông rằng: "Tôi sẽ đến chữa nó". Nhưng viên đại đội trưởng thưa Người rằng: "Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ của tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng, cũng như tôi chỉ là người ở dưới quyền, nhưng tôi cũng có những người lính thuộc hạ, tôi bảo người này đi thì anh đi, tôi bảo người kia đến thì anh đến, tôi bảo gia nhân làm cái này thì nó làm!" Nghe vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng". Ðoạn Chúa nói với viên sĩ quan rằng: "Ông cứ về, ông được như ông đã tin". Và ngay giờ ấy, gia nhân ông đã được lành mạnh.

Khi Chúa Giêsu vào nhà ông Phêrô, thấy bà mẹ vợ ông đang sốt rét liệt giường. Chúa chạm đến tay bà và cơn sốt biến đi. Bà chỗi dậy tiếp đãi các ngài.

Ðến chiều, họ đưa đến cho Chúa nhiều người bị quỷ ám: Chúa dùng lời đuổi quỷ, và chữa lành tất cả các bệnh nhân, để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói rằng: "Người đã gánh lấy các bệnh tật của chúng ta, và đã mang lấy những nỗi đau thương của chúng ta".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm


Từ phương đông và phương tây  


Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu (8:5-17) cho Thứ Bảy Tuần XII Thường Niên hôm nay tiếp tục bài phúc âm hôm qua, cả hai bài đều được vị thánh ký này ghi lại về 2 trường hợp chữa lành khác nhau, nhưng bài phúc âm hôm qua việc chữa lành của Người liên quan đến một người Do Thái, còn bài phúc âm hôm nay việc chữa lành của Người liên quan đến một người dân ngoại, đó là "một đại đội trưởng".

 

Thế nhưng, phải công nhận là viên đại đội trưởng Roma này có lòng bác ái yêu thương nên vừa nghe ông yêu cầu: "Lạy Thầy, thằng nhỏ giúp việc cho nhà tôi - my serving boy - đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt đau đớn lắm!" nên đã được Chúa Giêsu đáp ứng liền: "Tôi sẽ đến chữa nó". 


Đúng thế, viên đại đội trưởng Roma này đã tỏ ra chăm sóc cho cả thằng nhỏ đầy tớ giúp việc nhà cho ông, chứ không phải là con của ông. Nếu có máu đế quốc thì ông chẳng để ý đến nó làm gì, có thể đã bảo nó về nhà của nó để nghỉ ngơi cho đến khi nào khỏi bệnh thì trở lại. 


Ngoài ra, có thể 
ông cũng biết nói cả tiếng Do Thái để sống với họ là thành phần sống dưới quyền đô hộ của đế quốc Rôma. Do đó, không thấy Thánh ký Mathêu nói có người thông dịch hay ông bảo ai nói thay ông. Thánh ký Luca, trong cùng câu chuyện, lại thuật rằng ông "sai một số vị trưởng lão Do Thái đến với Người" (7:3), chứ ông không đích thân đến như trong bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu hôm nay. 


Ở Phúc Âm Thánh ký Luca, chúng ta còn thấy 1 chi tiết nữa cho thấy viên đại đội trưởng này sống bác ái yêu thương dân chúng bị đô
 hộ của mình nên được họ thương mến, đó là chi tiết được chính các vị trưởng lão do ông sai đến với Chúa Giêsu bày tỏ cho Người biết rằng: "Ông ta yêu thương dân chúng tôi, thậm chí xây dựng hội đường cho chúng tôi nữa" (Luca 3:5).

 

Tuy nhiên, không thể bác ái yêu thương nếu không có lòng khiêm nhượng. Viên đại đội trưởng này quả thực có cả một tấm lòng khiêm nhượng trong vai trò làm đại đội trưởng khá nhiều quyền lực trong vùng trách nhiệm của ông. Trước hết, theo Thánh ký Mathêu, chính ông có thể đã biết tiếng Do Thái (nhờ học hỏi giao tiếp) để sống hòa đồng với thành phần dân bị đế quốc ông đô hộ, chứ không cần nhờ người phụng dịch cho ông. Sau nữa, chính ông đích thân đến xin Chúa Giêsu chữa lành cho thằng nhỏ đầy tớ Do Thái của ông, chứ không sai bảo ai dưới quyền ông. Sau hết, chính ông đích thân bày tỏ cái cảm giác bất xứng trong việc được diễm phúc đón rước vào nhà của ông một vị ông rất coi trọng, ngưỡng phục và đầy lòng tin tưởng là Chúa Giêsu

 

"Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ đầy tớ của tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng, cũng như tôi chỉ là người ở dưới quyền, nhưng tôi cũng có những người lính thuộc hạ, tôi bảo người này đi thì anh đi, tôi bảo người kia đến thì anh đến, tôi bảo gia nhân làm cái này thì nó làm!"

 

Đó là lý do, không lạ gì, sau khi đối diện với viên đại đội trưởng này, nhất là sau khi nghe ông bày tỏ cả lòng bác ái lẫn khiên nhượng như vậy, Chúa Giêsu đã không ngớt lời khen tặng ông, như Thánh ký Mathêu đã ghi lại trong bài Phúc Âm hôm nay:


"Nghe vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: 'Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng". 

 

Lòng bác ái yêu thương và khiêm nhượng của viên đại đội trưởng dân ngoại Rôma này phát xuất từ một đức tin hữu thần, dù sống trong một thế giới vô thần, một đức tin còn mãnh liệt hơn cả dân Do Thái của Người, một đức tin được bày tỏ với chính vị Thiên Chúa Làm Người, Đấng đã "nói với viên sĩ quan rằng: 'Ông cứ về, ông được như ông đã tin'. Và ngay giờ ấy, gia nhân ông đã được lành mạnh".

 

Việc Chúa Giêsu chữa lành cho thằng nhỏ đầy tớ của viên đại đội trưởng dân ngoại Rôma cho thấy rằng Người đến không phải chỉ cứu dân Do Thái mà là để cứu chuộc cả loài người nói chung và những ai tin vào Người nói riêng. Bởi vì, Người tuy mang giòng máu Do Thái nhưng lại mặc lấy bản tính chung của loài người, một bản tính đã bị hư hoại bởi nguyên tội, và vì thế, đúng như câu cuối của bài Phúc Âm hôm nay trích lại lời tiên tri Isaia: "Người đã gánh lấy các bệnh tật của chúng ta, và đã mang lấy những nỗi đau thương của chúng ta".

 

"Chúng ta" đây nơi lời Tiên Tri Isaia trước hết ám chỉ riêng dân Do Thái, một dân tộc dầu sao cũng đã được Thiên Chúa tuyển chọn để chẳng những tỏ mình ra cho họ và qua họ cho cả dân ngoại nữa. Bởi thế, ngay trong giao ước với tổ phụ Abraham về đất hứa và về một dân tộc đông như sao trời như cát biển đã bao gồm cả dân ngoại rồi (xem Khởi Nguyên 22:17), một dân tộc xuất phát từ một người con sinh ra bởi lời hứa là Isaac chứ không phải theo xác thịt như Ismael từ người tỳ nữ Ai Cập Agar. 

 

Bài đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Khởi Nguyên (18:1-15), đã cho thấy người con giao ước được hứa ban cho vị tổ phụ này trong lúc người vợ của ông là Sara đã hết thời sinh nở, như chính bà nghiệm thực như vậy, khi nghe 3 vị thiên sứ nói về việc bà thụ thai và sinh con: 

 

"Sara đứng sau cửa lều nghe vậy thì bật cười, vì cả hai đã già nua tuổi tác: Sara đã qua thời kỳ sinh nở. Bà cười thầm rằng: 'Tôi đã già, ông nhà tôi đã lão, nào tôi còn tìm lạc thú nữa sao!'" 

 

Thế nhưng, những gì con người không làm được thì không thành vấn đề với Thiên Chúa, và chính vì thế mới là việc của Ngài, và người con sinh ra ngoài khả năng tự nhiên của con người mới quả thực là người con thực sự của giao ước để thực hiện những gì Ngài hứa phải thành hiện thực:

 

"Chúa phán cùng Abraham rằng: 'Sao Sara lại cười mà rằng: Nào tôi đã già mà còn sinh nở được sao?' Đối với Chúa, có gì khó đâu? Theo đúng kỳ hẹn, độ này sang năm, Ta sẽ trở lại thăm ông, cả hai vẫn còn khoẻ mạnh, và Sara sẽ được một con trai". 


Bài Đáp Ca hôm nay, được Giáo Hội lấy từ một số câu tiêu biểu trong Ca Vịnh Ngợi Khen của Mẹ Maria (Luca 1: 46-47,48-49,50 và 53,54-55), chẳng những liên quan đến vợ tổ phụ Abraham là bà Sara mà còn đến cả viên đại đội trưởng dân ngoại Rôma nữa:  

 

1) Đức Maria đã nói: Linh hồn tôi ca ngợi Chúa, và thần trí tôi hoan hỉ vui mừng trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi.  

 

2) Bởi Người đã nhìn đến phận hèn tôi tớ; thực từ đây, thiên hạ muôn đời sẽ khen rằng tôi phước đức, vì Đấng đã làm cho tôi những điều trọng đại, Người quyền năng và danh Người là Thánh.

 

3) Đức từ bi Người từ đời nọ tới đời kia dành cho những ai kính sợ Người. Kẻ đói khát, Người cho đầy thiện hảo; bọn giàu sang, Người đuổi về tay không.

 

4) Chúa đã nhận săn sóc Israel tôi tớ Chúa, bởi nhớ lại lòng từ bi của Người. Như Người đã hứa cùng tổ phụ chúng tôi, dành cho Abraham và miêu duệ ông tới muôn đời. 

 

 

 

 

 

LỄ TRÁI TIM VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI MẸ MARIA

 

(VÌ LÀ LỄ NHỚ KHÔNG BUỘC LÀM LỄ MÀ CHỈ BUỘC PHỤNG VỤ GIỜ KINH, NHƯNG CÓ THỂ ĐỌC CÁC BÀI SUY NIỆM VỀ TRÁI TIM MẸ SAU ĐÂY:)

 

 

Maria Giữ Tất Cả những Sự Ấy Trong Lòng Mình

(Thánh Lawrence Justinian, Giám Mục: sermo 8, in festo purifications B.M.V.: Opera, 2, Venetiis 1751: 38-39)

 

Trong khi Maria chiêm ngưỡng tất cả những gì Người đã nhận ra qua việc đọc sách, lắng nghe và quan sát, thì Người đều lớn lên trong đức tin, tăng tiến nơi công nghiệp, càng được khôn ngoan soi sáng và càng được nung nấu bởi lửa đức ái. Những mầu nhiệm trên trời được mở ra cho Người thấy, làm cho Người được tràn đầy niềm vui; Người đã trở nên phong phú bởi Thần Linh, được dẫn hướng về Thiên Chúa, cũng như được coi sóc một cách an toàn trên trần gian này. Những ân huệ thần linh nổi vượt đến nỗi đã nâng một con người từ vực tối thẳm sâu lên tới tuyệt đỉnh cao ngất, và đã biến đổi con người này được nên thánh thiện cao cả hơn nữa. Thật là phúc đức biết bao tâm trí của Đức Trinh Nữ, một tâm trí, nhờ Thần Linh ngự trị và hướng dẫn, đã luôn luôn và hết sức hướng về quyền năng của Lời Thiên Chúa. Người không được hướng dẫn bởi cảm quan của Người, hay bởi ý riêng của Người; nhờ thế, Người đã thực hiện bề ngoài, nơi thân xác của mình, những gì đức khôn ngoan nội tâm chỉ dẫn cho đức tin của Người. Thật là xứng hợp khi Đức Khôn Ngoan thần linh, một đức khôn ngoan lập cư nơi Giáo Hội, dùng Đức Maria rất thánh để nhúng tay vào việc canh chừng lề luật, thanh tẩy tâm trí, nêu gương khiêm nhượng và tỏ ra cho thấy một sự hy sinh thiêng liêng.

Hãy bắt chước Người, Ôi linh hồn trung tín. Hãy vào sâu trong những tầng sâu thẳm của trái tim Người, để anh chị em được thanh tẩy thiêng liêng cũng như được sạch khỏi tội lỗi của mình. Thiên Chúa đặt nặng vấn đề thiện chí nơi tất cả những gì chúng ta làm, hơn là nơi chính những việc làm của chúng ta. Bởi thế, dù chúng ta có hiến thân cho Thiên Chúa nơi việc chiêm niệm hay trong việc chúng ta phục vụ nhu cầu của tha nhân bằng những việc lành phúc đức, chúng ta cũng thực hiện những việc ấy vì tình yêu Chúa Kitô thúc đẩy chúng ta. Của hiến dâng đáng chấp nhận của việc thanh tẩy linh thiêng được thực hiện không phải ở nơi một thứ đền thờ do bàn tay nhân loại làm nên, mà là nơi những tầng sâu thẳm của tâm hồn, nơi Chúa Giêsu tự do tiến vào.



(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ The Office of Readings, Saint Paul Editions, 1983, trang 1427-1428)

 


Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ với Biến Cố Fatima



Vẫn biết Lễ Trọng Kính Thánh Tâm Chúa Giêsu được Giáo Hội chính thức thiết lập đầu tiên ở Balan từ năm 1765, và sau đó cho toàn thể Giáo Hội vào năm 1856, tuy nhiên, Thánh Lễ này lại được gợi ý từ mạc khải tư vào hạ bán thế kỷ 17. Thật vậy, Thánh Nữ Magarita Alacoc, nữ tu Dòng Thăm Viếng người Pháp đã được nhiều lần thị kiến thấy trái tim Chúa Giêsu trong khoảng thời gian từ năm 1673 đến 1675, Đấng đã kêu gọi rước lễ các Ngày Thứ Sáu Đầu Tháng, Làm Giờ Thánh vào các Ngày Thứ Năm và việc cử hành Lễ Thánh Tâm hằng năm. Tuy nhiên, không phải chỉ vì mạc khải tư mà Giáo Hội thiết lập Lễ Thánh Tâm Chúa, mà chính vì Thánh Tâm Chúa cũng như lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa có một nền tảng mạc khải trong Thánh Kinh. Trước hết, Thánh Tâm Chúa bắt nguồn từ mạc khải Thánh Kinh ở chỗ, nếu trái tim là biểu hiệu cho yêu thương, thì tình yêu Thiên Chúa được bộc lộ hết cỡ nơi việc Chúa Kitô tự hiến mạng sống mình làm giá chuộc chung nhân loại và thánh hóa riêng Giáo Hội trên thập giá của Người, bởi thế, mạc khải tình yêu vô cùng tuyệt hảo xót thương của Thiên Chúa đã được tỏ ra cho loài người thấy, khi máu cùng nước chảy ra từ cạnh sườn mở ra theo lưỡi đòng đâm vào thi thể của Chúa Giêsu tử giá (xem Jn 19:34). Thứ đến, lòng tôn sùng Thánh Tâm cũng được bắt nguồn từ Thánh Kinh nữa, ở chỗ Thánh Gioan Tông Đồ, người môn đệ được Chúa Giêsu yêu, dựa đầu vào ngực Chúa Giêsu trong Bữa Tiệc Ly để có thể nghe được những gì sâu kín nơi Người liên quan đến người môn đệ bội phản Thày (xem Jn 13:23). Giáo Hội đã tiếp tục lòng tôn sùng Thánh Tâm này, điển hình nhất là việc Đức Thánh Cha Lêô XIII đã hiến dâng toàn thể loài người cho Thánh Tâm Chúa Giêsu lần đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội năm 1899.

Sở dĩ Giáo Hội sắp xếp Lễ Kính Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria ngay sau Lễ Thánh Tâm Chúa là vì vai trò Đồng Công Cứu Chuộc của Mẹ. Đó là lý do chúng ta thấy Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại sự kiện “đừng kề bên thập giá Chúa Giêsu có mẹ Người” (19:25). Như Thánh Tâm Chúa và lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa được bắt nguồn từ Mạc Khải Thần Linh thế nào, thì Trái Tim Mẹ và lòng sùng kính Trái Tim Mẹ cũng có nền tảng trong Thánh Kinh Tân Ước như vậy. Trước hết, nếu trái tim liên quan đến Chúa Giêsu là biểu hiệu cho tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại thế nào, thì trái tim liên quan đến Mẹ Maria cũng biểu hiệu cho lòng tin của Mẹ đối với Thiên Chúa như vậy, một lòng tin có tác dụng cứu giúp loài ngưòi. Đúng thế, Thánh Luca đã hai lần nhắc đến trái tim Mẹ Maria liên quan đến lòng tin của Mẹ, một ở biến cố mục đồng đến viếng thăm hài nhi Giêsu trong máng cỏ, và một ở biến cố Mẹ tìm được thiếu nhi Giêsu Con Mẹ trong đền thờ như sau: “Maria giữ tất cả những điều ấy mà suy niệm trong lòng” (2:19, 51). Và lòng tin của Mẹ đối với Thiên Chúa đã có tác dụng cứu giúp loài người, như Thánh Gioan thuật lại biến cố nước lã hóa thành rượu ngon ở tiệc cưới Cana, qua lời Mẹ hết sức tin tưởng cầu thay nguyện giúp (2:3, 5). Về lòng tôn sùng Trái Tim Mẹ, hay việc noi gương bắt chước lòng tin của Mẹ cũng thế, chúng ta thấy gương của nhóm phục dịch trong tiệc cưới Cana, dù không biết Mẹ là ai, song đã tỏ lòng tin tưởng nơi Mẹ, ở chỗ, tin tưởng vào Chúa, bằng cách ngoan ngoãn nghe lời Mẹ nhắn nhủ để làm theo ý Chúa (2:7). Có thể nói, Chúa Kitô đã tỏ mình ra cho các môn đệ, chẳng những do lòng Mẹ tin tưởng cầu thay nguyện giúp mà còn do cả lòng tin tưởng tôn sùng của nhóm người này đối với Mẹ của Người nữa.

Đó là về nguồn gốc Trái Tim Mẹ và lòng sùng kính Trái Tim Mẹ theo Thánh Kinh. Còn về Lễ Trái Tim Mẹ, trước Công Đồng Chung Vaticanô II, lễ này được Giáo Hội kính vào ngày 22/8 hằng năm, nhưng sau Công Đồng, lễ này được chuyển vào ngay sau Lễ Thánh Tâm. Theo lịch sử phụng vụ, Lễ Trái Tim Mẹ được Thánh Gioan Êuđê từ năm 1646 đã vận động Giáo Hội để thiết lập. Tuy nhiên, sau khi hiến dâng cả loài người cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria lần đầu tiên vào ngày 31/10/1942, tức sau 25 năm Mẹ hiện ra ở Fatima, để kỷ niệm biến cố này, Đức Thánh Cha Piô XII mới thiết lập Lễ Kính Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria ngày 4/5/1944. Như thế, tuy Trái Tim Mẹ Maria cũng có nền tảng trong Thánh Kinh như trên vừa đề cập đến, Lễ Kính Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, như Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu, cũng được gợi ý từ mạc khải tư, mạc khải Mẹ hiện ra ở Fatima năm 1917.

Thật vậy, Đức Mẹ đã tỏ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ ra cho 3 Thiếu Nhi Fatima thấy lần đầu tiên trong lịch sử loài người vào ngày 13/6/1917, một Trái Tim bị quấn quanh bằng một vòng gai. Thế rồi, vào ngày 13/7/1917, Đức Mẹ đã tiết lộ Bí Mật Fatima phần thứ hai cho các em biết rằng: “Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới”, và “Mẹ sẽ đến để xin hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ”. Đức Mẹ đã thực sự trở lại với chị Lucia ngày 13/6/1929, với lời lẽ như sau: “Đã đến lúc Thiên Chúa muốn Đức Thánh Cha hợp cùng với tất cả các giám mục trên thế giới để hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, Ngài hứa sẽ cứu Nước Nga bằng cách này”. Chính vì việc hiến dâng Nước Nga liên quan đến Đức Thánh Cha và vận mệnh thế giới, do đó, ngày 24/10/1940, chị Lucia đã phải viết một bức thư đệ trình lên Đức Thánh Cha Piô XII về ý muốn và cách thức Thiên Chúa muốn Đức Thánh Cha hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Thế rồi, như lịch sử cho chúng ta thấy, ý định và cách thức Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria trên thế giới vào thế kỷ 20, bằng việc Giáo Hội hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, đã hoàn toàn được thực hiện, đúng như lời Mẹ tiên báo ở đoạn kết phần thứ hai của Bí Mật Fatima, đó là “Đức Thánh Cha sẽ hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, Nước Nga sẽ trở lại, và thế giới sẽ có một thời gian hòa bình”.

Ngày 18/5/1939, chị Lucia đã viết cho Cha Ganzalvez thế này: “Cách đây không bao lâu, con có hỏi Chúa Giêsu là tại sao Người không làm cho Nước Nga trở lại mà không cần Đức Thánh Cha phải hiến dâng như thế?”, rồi chị tiết lộ, Chúa đã thầm cho chị biết là “Vì Cha muốn toàn thể Giáo Hội nhận biết rằng việc hiến dâng này là một cuộc vinh thắng của Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, nhờ đó, Giáo Hội đặt việc tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria bên cạnh lòng tôn sùng Thánh Tâm của Cha”. Như thế, việc Giáo Hội cử hành Lễ Trọng Kính Thánh Tâm Chúa và Lễ Kính Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria vào hai ngày liền nhau, Thứ Sáu và Thứ Bảy tới đây, rất hợp với cả Mạc Khải Thần Linh và mạc khải thời đại vậy.
 

Tóm lại, kể từ sau Công Đồng Chung Vaticanô II, theo chiều hướng canh tân phụng vụ, Giáo Hội đã đặt hai lễ Thánh Tâm Chúa và Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sát nhau, trong tuần sau Lễ Mình Máu Thánh Chúa. Lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, một lễ được Chị Lucia đệ trình với Đức Thánh Cha Piô XII trong thư đề ngày 24/10/1940 xin ngài cho cả Giáo Hội hoàn vũ mừng kính và đã được chấp nhận và được kính vào ngày nhất định trong năm là 22/8. Đúng thế, sắc lệnh của thánh bộ Lễ Nghi ban hành ngày 4/5/1944 cho biết như sau: “để ghi nhớ cuộc hiến dâng này, (ở đây sắc lệnh muốn nói tới cuộc hiến dâng Giáo Hội hoàn vũ và cả loài người cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ được Đức Thánh Cha Piô XII đã thực hiện ngày 31/10/1942 theo cùng thư đệ trình của Chị Lucia), Ngài đã quyết định cho Giáo Hội hoàn vũ mừng lễ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ. Lễ này sẽ được cử hành mỗi năm vào ngày 22 tháng 8, thay ngày bát nhật lễ Đức Mẹ Mông Triệu, với bậc lễ hạng nhì...”.

 

Vấn đề được đặt ra ở đây không phải là tại sao Giáo Hội mừng hai Lễ Thánh Tâm Chúa và Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ ngay sát nhau, vì tín hữu Công Giáo chúng ta quá hiểu là hai Trái Tim này không thể nào tách biệt nhau, mà là ở chỗ hai Trái Tim Chúa Mẹ này liên hệ mật thiết với nhau như thế nào hay ở chỗ nào. Mối liên hệ sâu xa bất khả phân ly giữa hai Trái Tim Chúa Giêsu và Mẹ Maria là ở chỗ, nếu Thánh Tâm Chúa Giêsu là biệu hiện cho Mạc Khải Thần Linh, mạc khải về Tình Yêu Thương vô cùng nhân hậu của Cha trên trời đối với loài người tạo vật tội nhân vô cùng khốn nạn đáng thương, thì Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ là biểu hiện cho Đức Tin Tuân Phục của nhân loại trước Mạc Khải Thần Linh ấy, một đức tin tuân phục được thể hiện trong việc mau mắn đáp ứng một cách trọn vẹn và trọn hảo Tình Yêu của Thiên Chúa. Đó là lý do tinh thần tuân phục của Mẹ trong biến cố Truyền Tin khi Mẹ thưa Fiat và ca vịnh Magnificat Mẹ Ngợi Khen Long Thương Xót Chúa trong biến cố viếng thăm bao giờ cũng đi với nhau. Xin Mẹ Maria luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình trần thế bằng tinh thần tôi tớ Xin Vâng và tâm tình Ngợi Khen cảm tạ Chúa của Mẹ.


(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
 

 

 

Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ là tất cả Bí Mật Fatima

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

     Cho đến nay vẫn còn có một số người tuyên truyền rằng Tòa Thánh còn giấu diếm và chưa tiết lộ tất cả Bí Mật Fatima, dù Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin, theo ý Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, đã công bố Bí Mật Fatima phần thứ ba này vào ngày 26/6 trong Đại Năm Thánh 2000, và dù chính chị Lucia đã công nhận, với vị đại diện Đức Thánh Cha đến gặp riêng chị, những gì chị viết về phần bí mật còn lại được Tòa Thánh giữ mật đều xác thực do chính chị viết.  Họ đã phổ biến những tài liệu về Bí Mật Fatima phần thứ ba hoàn toàn ngụy tạo, khác hẳn với những gì được Tòa Thánh phổ biến và được chị Lucia công nhận là chị đã viết ra. Sở dĩ những người này vẫn không chịu công nhận phần Bí Mật Fatima Thứ Ba chính thức ấy là vì những gì được tiết lộ trong đó không được đúng như ý muốn của họ. 

    Việc họ phổ biến phần Bí Mật Fatima Thứ Ba theo như ý của họ nghĩ và cho đó là của Mẹ Maria tiết lộ là việc họ trực tiếp chẳng những cho rằng Tòa Thánh Vatican không phải chỉ giấu diếm mà còn phổ biến sai lạc những gì Đức Mẹ muốn tỏ cho loài người biết, và cũng cho rằng chị Lucia cũng gian trá, không trung thực, chỉ có họ mới là thành phần chính thức được thụ khải trực tiếp bởi Mẹ Maria năm 1917. Ai muốn tìm hiểu tất cả nội dung chân thực về Bí Mật Fatima, xin vào mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh: http://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/documents/rc_con_cfaith_doc_20000626_message-fatima_en.html. 

    Căn cứ vào nội dung Bí Mật Fatima phần thứ ba được Tòa Thánh chính thức phổ biến và được Chị Lucia công nhận thì những thứ bí mật Fatima thứ ba nào nói tới thế chiến thứ ba hay tới những tai họa trong ngày tận thế, như người viết đã từng được đọc và cố gắng ngăn chặn bao nhiêu có thể, đều là ngụy tạo, đều là lừa đảo, gây hoang mang hoảng sợ hơn là kêu gọi thống hối và dấn thân sống thánh chứng nhân, cần phải được bỏ đi ngay và đừng tiếp tay tuyên truyền thêm. Thật ra, nếu nghiên cứu kỹ lưỡng toàn bộ Biến Cố Fatima và Sứ Điệp Fatima 1917, người ta có thể khẳng định rằng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria là tất cả Bí Mật Fatima và là cốt lõi của Bí Mật Fatima. 

    Cách đây đúng 91 năm, cũng vào tháng 6, vào ngày 13 năm 1917, tức vào lần  thứ hai trong 6 lần hiện ra ở Fatima vào cùng ngày trong tháng (trừ Tháng 8), Mẹ Maria đã tỏ cho loài người thấy lần đầu tiên, qua 3 Thiếu Nhi Fatima Lucia, Phanxicô và Giaxinta, Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, một trái tim bị quấn chung quanh bởi một vòng gai, (khác với Trái Tim Mẹ Sầu Bi với lưỡi gươm đâm thâu qua), và sau đó Mẹ đã nói với chung 3 em nhất là với riêng em lớn nhất là Lucia vì em này chịu khổ bởi Biến Cố Fatima nhất trong 3 em rằng: “Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ là nơi cho con nương náu và là đường đưa con đến cùng Thiên Chúa”. Hình ảnh vòng gai quấn chung quanh Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ này, vào ngày 10/12/1925, trong một thị kiến, Mẹ đã tỏ cho Lucia bấy giờ đã là nữ tu của Dòng Đôrôthêu ở Pontevedra bên Tây Ban Nha rằng những gai ấy là biểu hiệu cho những tội vô ơn và lộng ngôn của thành phần vô ơn bội nghĩa hằng liên lỉ đâm vào, cần phải được rút ra bằng việc đền tạ vào các Ngày Thứ Bảy Đầu Tháng. 

    Cũng chính Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội này, vào lần  hiện ra có thể nói là quan trọng nhất trong 6 lần, đó là lần hiện ra thứ ba ngày 13/7/1917, Mẹ Maria đã tiết lộ cho 3 em Thiếu Nhi Fatima toàn bộ 3 phần Bí Mật Fatima, hai phần đầu đã được chị Lucia viết lại trong tập Hồi Niệm của chị và được phổ biến từ thập niên 1930. Còn phần bí mật thứ ba mãi cho tới ngày 26/6/2000 mới được công bố bởi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vị Giáo Hoàng đã bị ám sát chết hụt vào ngày 13/5/1981, ngày kỷ niệm Mẹ Maria hiện ra ở Fatima lần đầu tiên 13/5/1917, và là vị Giáo Hoàng vào ngày 25/3/1984 đã hoàn tất lời Mẹ Maria kêu gọi qua chị Lucia ngày 13/6/1929 trong việc hiệp cùng với toàn thể các vị giám mục trên thế giới hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, vì ngài cảm thấy rằng mình chính là vị giám mục mặc áo trắng bị bắn trong thị kiến của phần Bí Mật Fatima thứ ba. Trong tác phẩm “Hồi Niệm Và Căn Tính” cuối đời của mình, ở phần phụ trương, ngài cũng cho biết là người anh em Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ Ali Agca vẫn thắc mắc về Bí Mật Fatima phần thứ ba này và không hiểu tại sao ngài lại có thể thoát chết trong bàn tay chuyên nghiệp của anh ta ở Quảng Trường Thánh Phêrô. Bí Mật Fatima quả thực là một bí mật chẳng những với con người ám sát ngài mà còn bí mật đối với cả những ai đang tuyên tuyền những gì giả tạo đối với sự thật về Bí Mật Fatima ấy nữa.  

    Đúng thế, Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria là tất cả Bí Mật Fatima và là cốt lõi của Bí Mật Fatima được tỏ hiện ngay ở câu chuyển tiếp giữa phần thứ nhất và phần thứ hai của bí mật này, đó là câu: “Các con vừa thấy hỏa ngục, nơi có nhiều linh hồn phải sa vào. Để cứu họ (tức để cứu các linh hồn cho “khỏi sa hỏa ngục”) Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên  thế giới. Nếu những gì Mẹ nói với các con ấy được thực hiện (tức Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ được loài người nhận biết và yêu mến), thì nhiều linh hồn sẽ được cứu rỗi và thế giới sẽ có hòa bình…” Có thể nói, tất cả Dự Án Fatima là ở chỗ này, là ở chỗ đã đến thời điểm Thiên Chúa muốn cứu độ các linh hồn (về lãnh vực thiêng liêng và cá nhân), và ban hòa bình cho thế giới (liên quan tới lãnh vực trần thế và chung cộng đồng nhân loại), qua Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria, hay nói ngược lại, Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria chính là phương tiện cứu độ Thiên Chúa muốn dùng như chiếc tầu sống sót trong trận Đại Hồng Thủy thời Noe vậy. Chính vì “Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria trên thế giới”, chứ không phải chỉ trong Giáo Hội hay ở Bồ Đào Nha mà Ngài đã muốn Giáo Hội Hoàn Vũ, qua toàn thể hàng giáo phẩm, kể từ Đức Thánh Cha trở xuống, phải hiệp nhau để hiến dâng Nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, và Ngài đã thực sự làm cho Nước Nga trở lại qua việc họ từ bỏ chủ nghĩa và chế độ cộng sản vào chính gày Lễ Giáng Sinh 25/12/1991.  

    Vấn đề được đặt ra ở đây là nếu phần thứ nhất và phần thứ hai của Bí Mật Fatima được liên kết với nhau bằng Dự Án Fatima, bằng ý “Thiên Chúa muốn thiết lập lòng tôn sùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ trên thế giới” cho “nhiều linh hồn được cứu độ và thế giới sẽ có hòa bình”, thì Dự Án Fatima này, hay Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria ấy, có liên quan gì tới Bí Mật Fatima phần thứ ba hay chăng? Nếu có thì liên quan như thế nào? 

    Có thể nói, kết cấu của toàn bộ Bí Mật Fatima như sau: phần thứ nhất liên quan tới phần rỗi của các linh hồn (với thị kiến hỏa ngục), phần thứ hai liên quan tới hòa bình thế giới (với những chi tiết về hai Thế Chiến I và II nói chung và Nước Nga nói riêng), và phần thứ ba liên quan tới thân phận của Giáo Hội Công Giáo (với thị kiến tử đạo của đủ mọi thành phần Kitô hữu, từ Giáo Hoàng trở xuống). Nếu Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria là tất cả Dự Án Fatima, là những gì liên kết giữa phần nhất và phần hai của Bí Mật Fatima, thì Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ cũng bao gồm cả phần thứ ba của bí mật này và càng tỏ hiện hơn nữa ở phần bí mật này. Ở chỗ, nhờ Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, tiêu biểu cho đức tin tuân phục hết sức đẹp lòng Chúa và có tác dụng Đồng Công Cứu Chuộc của Mẹ, Mẹ đã ra tay can thiệp một cách hiệu nghiệm dự tính trừng phạt thế giới tội lỗi của Thiên  Chúa. Thay vào đó, để đền bù tội lỗi của một thế giới tội lỗi đến độ và đến lúc không thể không trừng phạt như thế, Mẹ đã phải đào luyện một Đạo Binh Dàn Trận (xem Thành Thực Sùng Kính Mẹ Maria số 50.7 và 54) theo gương đức tin tuân phục của Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ, một đạo binh, như thị kiến ở phần thứ ba Bí Mật Fatima cho thấy, đã leo tới đỉnh của một ngọn núi dốc đứng (tiêu biểu đức tin mãnh liệt bất khuất của họ) và họ đã đến dưới chân thập tự giá (như Mẹ Maria đứng dưới chân  thập giá Chúa Giêsu Con Mẹ trên  Đồi Canve xưa). Chính máu của các vị bị ám sát chết ngay dưới chân Thập Tự Giá ấy đã được hai thiên thần vẩy lên thành phần tiến đến cùng Thiên Chúa, như thị kiến của Bí Mật Fatima phần thứ ba kết thúc. 

    Như thế, Bí Mật Fatima đã được mở màn (phần 1) và diễn tiến (phần 2) với đầy những bi quan là hỏa ngục (phần 1) và chiến tranh (phần 2), nhưng được kết thúc (phần 3) đầy lạc quan với máu đức tin chiến thắng thế gian của Giáo Hội Chúa Kitô nơi thành phần Kitô hữu Sống Thánh Chứng Nhân theo gương Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria Đồng Công Cứu Chuộc để có thể mang lại phần rỗi đến cho những ai thành tâm tìm kiếm chân lý tối hậu là Thiên Chúa. Nếu ngay trước khi kết thúc Biến Cố Fatima 1917 vào lần hiện ra cuối cùng 13/10, Mẹ Maria, với Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội bị vòng gai tội lỗi đâm thâu, đã thảm thiết và tha thiết kêu gọi loài người là “Đừng xúc phạm đến Chúa là Thiên Chúa của chúng ta nữa, vì Người đã bị xúc phạm đến  nhiều lắm rồi”, thì quả thực ngay trước khi kết thúc Bí Mật Fatima phần hai và tiến sang phần ba, lời Mẹ Maria quả quyết: “Cuối cùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng” đã được hoàn toàn ứng nghiệm ở phần thứ ba Bí Mật Fatima. Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ sẽ thắng không phải ở chỗ Mẹ đã làm cho Nước Nga trở lại (liên quan tới hòa bình thế giới) mà nhất là còn làm cho “nhiều linh hồn được cứu rỗi” nữa, đúng như Dự Án Fatima. Quả thực Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ Maria là tất cả Dự Án Fatima và là cốt lõi của Bí Mật Fatima vậy!