SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XI Thường Niên C và Năm Lẻ


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL


Chúa Nhật

(Năm 2019 trùng với Lễ Chúa Ba Ngôi 16/6 và 2025 ngày 15/6)

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: 2 Sm 12, 7-10. 13

"Chúa cũng đã tha tội cho vua rồi và vua sẽ không phải chết".

Trích sách Samuel quyển thứ hai.

Trong những ngày ấy, Nathan thưa cùng Ðavít rằng: "Ngài chính là người đó". Chúa là Thiên Chúa Israel phán rằng: "Ta đã xức dầu phong cho ngươi làm vua Israel và đã cứu ngươi khỏi tay Saolê. Ta đã ban cho ngươi nhà của chủ ngươi, trao cả cung phi của chủ ngươi vào lòng ngươi. Và tặng cho ngươi nhà Israel và Giuđa. Nếu bấy nhiêu đó còn ít, Ta cho ngươi thêm nhiều nữa. Vậy tại sao ngươi khinh thường lời Chúa mà làm điều gian ác trước mặt Ta? Ngươi đã dùng gươm giết Uria người Hêthê và bắt vợ y làm vợ mình, ngươi còn dùng gươm con cái Ammon mà giết y nữa. Do đó, lưỡi gươm sẽ không rời khỏi dòng dõi ngươi cho đến muôn đời, vì ngươi đã khinh dể Ta, và cướp vợ của Uria người Hêthê làm vợ mình". Ðavít liền nói với Nathan rằng: "Trẫm đã phạm tội cùng Chúa". Nathan thưa lại Ðavít rằng: "Chúa cũng đã tha tội cho vua rồi, và vua sẽ không phải chết".

Ðó là lời Chúa.

 

 

Ðáp Ca: Tv 31, 1-2. 5. 7. 11

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa đã tha thứ tội lỗi cho con (c. 5c).

Xướng: 1) Phúc thay người được tha thứ lỗi lầm, và tội phạm của người được ơn che đậy! Phúc thay người mà Chúa không trách cứ lỗi lầm, và trong lòng người đó chẳng có mưu gian. - Ðáp.

2) Tôi xưng ra cùng Chúa tội phạm của tôi, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu. Tôi nói: Tôi thú thực cùng Chúa điều gian ác của tôi, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho tôi. - Ðáp.

3) Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ, Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn cứu độ. - Ðáp.

4) Chư vị hiền nhân, hãy vui mừng hân hoan trong Chúa, và mọi người lòng ngay hãy hớn hở reo mừng! - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Gl 2, 16. 19-21

"Không phải tôi sống, mà là chính Ðức Kitô sống trong tôi".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.

Anh em thân mến, anh em biết rằng con người được công chính hoá không phải do các việc làm của lề luật dạy, nhưng chỉ là nhờ lòng tin vào Ðức Giêsu Kitô. Nên chúng ta đã tin vào Ðức Giêsu Kitô để được công chính hoá do lòng tin vào Ðức Kitô, chớ không phải do các việc làm của lề luật dạy. Do đó, không một ai được công chính hoá do các việc làm của lề luật dạy. Quả vậy, phần tôi, chính do lề luật mà tôi đã chết cho lề luật, để được sống cho Thiên Chúa. Tôi đã chịu đóng đinh vào thập giá làm một với Ðức Kitô. Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Ðức Kitô sống trong tôi. Hiện giờ tôi sống trong thân xác, là tôi sống trong lòng tin vào Con Thiên Chúa, Ðấng đã yêu mến tôi và đã phó mình vì tôi. Tôi không loại bỏ ơn Thiên Chúa. Nhưng nếu có sự công chính nào bởi lề luật, thì quả thực Ðức Kitô đã chết cách luống công.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Lc 19, 38

Alleluia, alleluia! - Chúc tụng Ðức Vua, Ðấng nhân danh Chúa mà đến, bình an trên trời, và vinh quang trên các tầng trời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 7, 36-50 {hoặc Lc 7, 36 - 8, 3}

"Tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có một người biệt phái kia mời Chúa Giêsu đến dùng bữa với mình; Người vào nhà người biệt phái và vào bàn ăn. Chợt có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Bấy giờ bà đứng phía chân Người khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm. Thấy thế, người biệt phái đã mời Người nghĩ thầm rằng: "Nếu ông này là tiên tri thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai và thuộc hạng người nào: là một người tội lỗi". Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng: "Hỡi Simon, Tôi có điều muốn nói với ông". Simon thưa: "Xin Thầy cứ nói".

 

 

- "Một người chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi. Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?" Simon đáp: "Tôi nghĩ là kẻ đã được tha nhiều hơn". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông đã xét đoán đúng". Và quay lại phía người đàn bà, Người bảo Simon: "Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi; còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít".

Rồi Người bảo người đàn bà: "Tội con đã được tha rồi". Những người đồng bàn liền nghĩ trong lòng rằng: "Ông này là ai mà lại tha tội được?" Và Người nói với người đàn bà: "Ðức tin con đã cứu con, con hãy về bình an".

{Sau đó Người rảo qua các thành thị và xóm làng, giảng dạy và loan báo Nước Thiên Chúa. Có nhóm Mười Hai cùng đi với Người, cũng có cả mấy người phụ nữ đã được chữa khỏi tà thần và bệnh tật: Maria gọi là Mađalêna, đã được chữa khỏi bảy quỷ ám, Gioanna vợ của Cusa viên quản lý của Hêrôđê, Susanna và nhiều bà khác: họ đã lấy của cải mình mà giúp Người.}

Ðó là lời Chúa.

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm 

Suy Niệm  

Phụng vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật XI Thường Niên hôm nay được Giáo Hội chọn đọc nhấn mạnh đến nguyên tắc công chính hóa bởi đức tin vào Thiên Chúa (tức bởi ân sủng của Thiên Chúa) chứ không bởi việc mình làm như Thánh Phaolô xác tín và giảng dạy trong Bài Đọc 2, đó là "con người được công chính hoá không phải do các việc làm của lề luật dạy, nhưng chỉ là nhờ lòng tin vào Ðức Giêsu Kitô. Nên chúng ta đã tin vào Ðức Giêsu Kitô để được công chính hoá do lòng tin vào Ðức Kitô, chớ không phải do các việc làm của lề luật dạy. Do đó, không một ai được công chính hoá do các việc làm của lề luật dạy".

Đó là lý do Giáo Hội có ý chọn đọc 2 câu chuyện liên quan đến lòng ăn năn thống hối của con người yếu đuối sa ngã phạm tội và đã được tha thứ bởi Lòng Thương Xót Chúa, một lòng thương xót chỉ thật sự được tỏ ra một cách rạng ngời nhất nơi việc tha thứ và chấp nhận những con người sa ngã phạm tội, miễn là họ để cho họ được thương xót, như Vua Đavít trong Bài Đọc 1 và người phụ nữ tội lỗi trong thành (mà dường như được Thánh ký Luca ám chỉ nhân vật "Maria gọi là Mađalêna, đã được chữa khỏi bảy quỷ ám") trong Bài Phúc Âm hôm nay.

Trước hết, về trường hợp của Vua Đavít, Giáo Hội không chọn đọc đoạn vị vua thứ hai của dân Do Thái này phạm tội mà là đoạn vua được tiên tri Nathan vạch trần tội lỗi của vua ra, khiến vua nhận biết tội lỗi của mình, nhờ đó vua đã được Thiên Chúa tha thứ:

"Chúa là Thiên Chúa Israel phán rằng: 'Ta đã xức dầu phong cho ngươi làm vua Israel và đã cứu ngươi khỏi tay Saolê. Ta đã ban cho ngươi nhà của chủ ngươi, trao cả cung phi của chủ ngươi vào lòng ngươi. Và tặng cho ngươi nhà Israel và Giuđa. Nếu bấy nhiêu đó còn ít, Ta cho ngươi thêm nhiều nữa. Vậy tại sao ngươi khinh thường lời Chúa mà làm điều gian ác trước mặt Ta? Ngươi đã dùng gươm giết Uria người Hêthê và bắt vợ y làm vợ mình, ngươi còn dùng gươm con cái Ammon mà giết y nữa. Do đó, lưỡi gươm sẽ không rời khỏi dòng dõi ngươi cho đến muôn đời, vì ngươi đã khinh dể Ta, và cướp vợ của Uria người Hêthê làm vợ mình'. Ðavít liền nói với Nathan rằng: 'Trẫm đã phạm tội cùng Chúa'. Nathan thưa lại Ðavít rằng: 'Chúa cũng đã tha tội cho vua rồi, và vua sẽ không phải chết'".

Tuy trong Bài Đọc 1 chỉ nói rất đơn giản về lời nhận lỗi mau chóng của vua Đavít, chứ không diễn tả thêm hành vi cử chỉ cùng thái độ thống hối như thế nào của vua, như người phụ nữ tội lỗi trong bài Phúc Âm cho thấy, nhưng trong Thánh Vịnh 22 vốn được gọi là Thánh Vịnh thống hối của Vua Đavít, đã gói ghém tất cả tấm lòng thống hối xót xa thảm thiết của vua. Bài Đáp Ca được Giáo Hội chọn đọc hôm nay cũng thật sự phản ảnh chẳng những lòng thống hối của vua (câu 2) mà còn cả lòng tin tưởng của vua nơi lòng từ bi cứu độ của Chúa nữa (câu 3):

"2- Tôi xưng ra cùng Chúa tội phạm của tôi, và lỗi lầm của tôi, tôi đã không che giấu. Tôi nói: Tôi thú thực cùng Chúa điều gian ác của tôi, và Chúa đã tha thứ tội lỗi cho tôi. 3- Chúa là chỗ dung thân, Chúa giữ tôi khỏi điều nguy khổ, Chúa đùm bọc tôi trong niềm vui ơn cứu độ".

Sau nữa, ở trường hợp của "người phụ nữ tội lỗi có tiếng trong thành" (Luca 7:37) trong bài Phúc Âm hôm nay, Giáo Hội không chọn đọc những câu Phúc Âm trước đó liên quan đến chính những hành vi cử chỉ ăn năn thống hối của chị, mà chỉ từ những câu liên quan đến lòng thương xót Chúa đối với chị mà thôi, một lòng thương xót được bộc lộ qua những lời được chính Chúa Giêsu là hiện thân của lòng thương xót Chúa và là dung nhan thương xót cảm nhận về chị và cảm thương chị nói với vị gia chủ biệt phái, thành phần tự coi mình là kẻ công chính và khinh bỉ tội nhân:

"'Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi đã vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi; còn bà này đã lấy nước mắt rửa chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi, vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít'. Rồi Người bảo người đàn bà: 'Tội con đã được tha rồi'".

Cảm Nghiệm 

Thật vậy, là tạo vật, loài người tự bản chất là loài bất toàn, không thể toàn hảo như chính Thiên Chúa Hóa Công, bởi thế, chắc chắn sẽ không thể nào không có những khiếm khuyết, sơ sót, lỡ lầm và tội lỗi theo khuynh hướng tự nhiên của mình. Biết trước như vậy nhưng Thiên Chúa vẫn tạo dựng nên loài người, đến độ Ngài không thể nào không dựng nên họ, bởi Ngài "là Tình Yêu" (1Gioan 4:8,16), là Tình Yêu Thương Xót (Merciful Love), một Tình Yêu với ưu phẩm Thương Xót là phẩm tính hướng về những gì là bất toàn, hèn kém, xấu xa, tội lỗi, bất xứng với mình.

Có thể nói và phải nói rằng loài người là của lòng thương xót Chúa và cho lòng thương xót Chúa. Nghĩa là loài người xuất phát từ lòng thương xót Chúa để Thiên Chúa có thể tỏ lòng thương xót của Ngài ra nơi họ và cho họ. Chính bản tính là Tình Yêu Thương Xót của Thiên Chúa thúc đẩy Ngài dựng nên loài người, một sản phẩm thần linh của Ngài và cho Ngài.

Bởi thế, loài người tạo vật càng tội lỗi xấu xa khốn nạn càng là cơ hội để Thiên Chúa tỏ hết bản tính là Tình Yêu Thương Xót của Ngài ra, nhờ đó những ai không trốn tránh, xa lánh, chống cự hay chối bỏ Tình Yêu Thương Xót của Ngài mới là những con người được cứu độ. Tức những ai chấp nhận Tình Yêu Thương Xót của Ngài, để cho Thiên Chúa mạc khải bản tính là Tình Yêu Thương Xót của Ngài ra nơi họ và qua họ, nhất là khi họ sa ngã phạm đến Ngài, khi họ chịu đựng hậu quả vô cùng nghiệt ngã do tội lỗi của họ gây ra v.v., sẽ được Tình Yêu Thương Xót Thiên Chúa chiếm đoạt và sống động nơi họ. 

Điển hình là trường hợp của một tên Saulê biệt phái hết sức trung thành với Do Thái giáo theo lề luật Moisen đã từng tự động và chủ động hung hăng bách hại đạo Chúa ngay từ ban đầu, nhưng sau đó, nhờ Tình Yêu Thương Xót của Thiên Chúa và nhận biết Tình yêu Thương Xót này, đã trở thành một tông đồ dân ngoại Phaolô, đến độ được trở thành "ánh sáng chư dân cho đến tận cùng trái đất" (Tông Vụ 13:47), nghĩa là thành phương tiện làm sáng tỏ Tình Yêu Thương Xót của Thiên Chúa nơi bản thân ngài, như ngài đã tự thú trong Bài Đọc 2 hôm nay:

"Quả vậy, phần tôi, chính do lề luật mà tôi đã chết cho lề luật, để được sống cho Thiên Chúa. Tôi đã chịu đóng đinh vào thập giá làm một với Ðức Kitô. Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Ðức Kitô sống trong tôi. Hiện giờ tôi sống trong thân xác, là tôi sống trong lòng tin vào Con Thiên Chúa, Ðấng đã yêu mến tôi và đã phó mình vì tôi".

 

 

Thứ Hai sau Chúa Nhật 11 Quanh Năm

 

Bài Ðọc I: (Năm I) 2 Cr 6, 1-10

"Chúng tôi chứng tỏ mình là những người phục vụ Thiên Chúa".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, với tư cách là những người cộng sự với Chúa Giêsu, chúng tôi khuyên anh em đừng nhận lấy ơn của Thiên Chúa một cách vô ích. Quả thật Chúa phán: "Dịp thuận tiện đến, Ta đã nhậm lời ngươi, vào ngày cứu thoát, Ta đã cứu vớt ngươi". Bây giờ là cơ hội thuận tiện, giờ đây là ngày cứu thoát. Chúng tôi không hề làm cớ cho ai phải vấp phạm, để công việc phục vụ của chúng tôi khỏi bị đàm tiếu. Nhưng trong mọi sự, chúng tôi chứng tỏ mình là những người phục vụ Thiên Chúa, với hết lòng kiên nhẫn: trong gian truân thiếu thốn, nguy khốn, đòn vọt, tù đày, biến loạn, khó nhọc, nhịn ăn, nhịn ngủ với lòng thanh khiết, am hiểu, đại lượng, dịu dàng, bằng sức mạnh Thánh Thần, bằng lòng yêu thương không giả dối, bằng lời chân thật, và bằng quyền năng Thiên Chúa; nhờ khí giới công chính bên tả bên hữu; trải qua vinh quang cũng như tủi nhục, tiếng xấu cũng như tiếng tốt, bị coi là phường bịp bợm, mặc dầu là chân thành; bị coi là vô danh, nhưng hằng được biết đến; bị coi là đang giẫy chết, nhưng này chúng tôi vẫn sống; bị coi như bị gia hình, mà nào đã chết đâu; bị coi như phải ưu sầu, nhưng chúng tôi vẫn luôn an vui; bị coi là kẻ nghèo túng, nhưng chúng tôi lại làm cho nhiều người được giàu có; bị coi như không có gì, nhưng chúng tôi làm chủ tất cả.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4

Ðáp: Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người (c. 2a).

Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.

2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành, để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.

3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. - Ðáp.

 

Alleluia: 1 Sm 3, 9

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe. Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 5, 38-42

"Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe bảo: "Mắt đền mắt, răng đền răng". Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác; trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa. Và ai muốn kiện con để đoạt áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai bắt con đi một dặm, thì con hãy đi với nó hai dặm. Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Mt 5, 38-42

 

Đức ái trọn hảo mới có thể thắng vượt kẻ hung ác và ngăn chặn sự ác

 

Chủ đề sự sống thần linh của Mùa Phục Sinh tiếp tục với bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu về một sự sống Phúc Đức Trọn Lành cho Thứ Hai Tuần XI Thường Niên hôm nay. 

Bài Giảng Trên Núi của Chúa Kitô về Phúc Đức Trọn Lành được Phúc Âm Thánh ký Mathêu thuật lại đây, tiếp theo Tuần X Thường Niên, không còn liên quan đến các điều răn nữa, như điều răn thứ 5 "chớ giết người" (Thứ Năm tuần trước), điều răn thứ 6 và 9 "chớ làm sự dâm dục" (Thứ Sáu tuần trước), và điều răn thứ 8 "chớ làm chứng dối" (Thứ Bảy tuần trước). 

Hôm nay (và cả ngày mai nữa), Bài Giảng Trên Núi bắt đầu sang đến chính đức bác ái trọn lành, cốt lõi của Bài Giảng về Phúc Đức Trọn Lành. Tuy nhiên, không phải vì không còn liên quan đến những điều răn trong Thập Giới nữa, như tuần trước cho thấy, mà Chúa Kitô không còn so sánh giữa những gì là cũ, liên quan đến ý hệ hay văn hóa hoặc tâm thức tự nhiên của Dân Do Thái trong Cựu Ước, những gì bất toàn (tuy đúng lý, hoàn toàn hợp lý theo phép công bằng), hay đúng hơn những gì chưa thực sự trọn lành như những gì mới được Người chỉ dạy cho thành phần môn đệ ở Bài Giảng Trên Núi về Phúc Đức Trọn Lành để nhờ đó sau này các vị mới có thể trở thành "muối đất... (và) ánh sáng thế gian" (Mathêu 5:13-14) theo đúng bản chất và ơn gọi là môn đệ Chúa Kitô của các vị.

Một trong hai điều liên quan đến đức bác ái trọn lành được Chúa Kitô nhắc đến ở bài Phúc Âm (Mathêu 5:38-42) riêng cho ngày hôm nay đó là: 

"Các con đã nghe bảo: 'Mắt đền mắt, răng đền răng'. Còn Thầy, Thầy bảo các con: đừng chống cự lại với kẻ hung ác; trái lại, nếu ai vả má bên phải của con, thì hãy đưa má bên kia cho nó nữa. Và ai muốn kiện con để đoạt áo trong của con, thì hãy trao cho nó cả áo choàng nữa. Và ai bắt con đi một dặm, thì con hãy đi với nó hai dặm. Ai xin, thì con hãy cho. Ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ".

Trong những lời khuyên dạy trọn lành này của Chúa Kitô, có một số chi tiết cần phải lưu ý như sau:

Trước hết, về mặt tiêu cực, Chúa Kitô bảo chúng ta "đừng chống cự lại với kẻ hung ác", nghĩa là cho dù chúng ta có là nạn nhân của họ, chúng ta vẫn phải tôn trọng con người phạm nhân, không được hận thù ghen ghét chính con người của họ, tìm cách trả thù họ theo luật công bình, hơn là chống lại việc làm gian ác của họ mà không phải vì hận thù họ v.v.

Sau nữa, về mặt tích cực, Chúa Kitô dạy chúng ta lấy lành thắng dữ, phản ứng của chúng ta cần phải làm sao để sự dữ bị tiêu tan như bóng tối gian ác tan biến trước ánh sáng chân thật. Ở chỗ, như Người dạy: "ai muốn vay mượn, thì con đừng khước từ". 

Ý nghĩa của vấn đề "vay mượn" trong lời Chúa Giêsu dạy đây đó là những gì tha nhân phạm đến chúng ta, như chúng ta đã phạm đến Chúa nên chúng ta xin Ngài "tha nợ" cho chúng ta. Một khi chúng ta bị anh chị em chúng ta xúc phạm, thì chúng ta không có quyền lên án và trừng phạt họ, cho bằng có quyền tha cho họ, hơn là chấp nhất. Nghĩa là sẵn sàng chấp nhận bị tha nhân phạm đến - "đừng từ khước" cho tha nhân "vay mượn" là như thế.

Đúng thế, nếu so sánh nguyên tắc công bằng ăn thua đủ - nợ máu phải trả bằng máu: 'Mắt đền mắt, răng đền răng', như tình hình giữa nước Do Thái và dân tộc Palestine ở Trung Đông gần 3/4 thế kỷ cho tới nay, bên khủng bố (Palestine) bên tấn công (Do Thái), liên tục hầu như bất tận và bất khả giải quyết. 

Thế nhưng, để có thể giải quyết một cách tốt đẹp, họ không còn cách nào khác ngoài những gì được Chúa Kitô khuyên dạy trong bài Phúc Âm hôm nay, ở chỗ thắng vượt nguyên tắc công bình bằng tinh thần bác ái vị tha, lấy lành thắng dữ, một tinh thần chắc chắn họ sẽ không thể nào làm được nếu không có Vị Thánh Linh của Đấng Phục Sinh đã thông ban cho các tông đồ để các vị có thể tha tội cho tha nhân (xem Gioan 20:22-23). 

Bởi vậy, huấn dụ bác ái trọn lành của Chúa Kitô ở Bài Giảng Trên Núi không phải chỉ là đích điểm hay tầm vóc viên trọn cho cuộc sống và ơn gọi làm người nói chung và làm môn đệ của Người nói riêng, mà còn là chính đường lối để còn người có thể sống an vui hạnh phúc cho chính bản thân mình cũng như cho xã hội loài người, một đường lối phản ảnh nơi giáo huấn tổng hợp như một học thuyết nhân bản đích thực về xã hội của Giáo Hội Chúa Kitô từ cuối thể kỷ 19 cho tới nay.

Tinh thần Phúc Âm Phúc Đức Trọn Lành của Chúa Kitô liên quan đến đức ái trọn hảo thật sự đã thấm nhuần nơi thành phần môn đệ của Người trong suốt giòng lịch sử của Giáo Hội, nhất là qua các thánh nhân được Thiên Chúa sai đến vào từng thời điểm của các vị, kể từ các vị tông đồ, điển hình nhất là vị Tông đồ Dân Ngoại Phaolô, như chính thánh nhân đã vừa bày tỏ vừa huấn dụ Kitô hữu Giáo Đoàn Côrintô (2Corinto 6:1-10) trong bài đọc 1 Năm Lẻ hôm nay như sau:  

"Trong mọi sự, chúng tôi chứng tỏ mình là những người phục vụ Thiên Chúa, với hết lòng kiên nhẫn: trong gian truân thiếu thốn, nguy khốn, đòn vọt, tù đày, biến loạn, khó nhọc, nhịn ăn, nhịn ngủ với lòng thanh khiết, am hiểu, đại lượng, dịu dàng, bằng sức mạnh Thánh Thần, bằng lòng yêu thương không giả dối, bằng lời chân thật, và bằng quyền năng Thiên Chúa; nhờ khí giới công chính bên tả bên hữu; trải qua vinh quang cũng như tủi nhục, tiếng xấu cũng như tiếng tốt, bị coi là phường bịp bợm, mặc dầu là chân thành; bị coi là vô danh, nhưng hằng được biết đến; bị coi là đang giẫy chết, nhưng này chúng tôi vẫn sống; bị coi như bị gia hình, mà nào đã chết đâu; bị coi như phải ưu sầu, nhưng chúng tôi vẫn luôn an vui; bị coi là kẻ nghèo túng, nhưng chúng tôi lại làm cho nhiều người được giàu có; bị coi như không có gì, nhưng chúng tôi làm chủ tất cả".

Đời sống chứng nhân của Giáo Hội qua các phần thể sống đức ái trọn hảo như Thánh Phaolô ở bài đọc 1 hôm nay quả thực là tác động thần linh kỳ diệu của Thiên Chúa biến đổi con người để một số con người nào đó "được tiền định nên giống hình ảnh Con của Ngài" (Roma 8:28), họ trở thành "phương tiện" (Tông Vụ 9:15) cho phần rỗi của chung nhân loại, đúng như những gì được bài Đáp Ca (Thánh Vịnh 97:1,2-3ab,3cd-4) cảm nhận:

1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. 

2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành, để sủng ái nhà Israel. 

 

3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. 

 

 

Thứ Ba sau Chúa Nhật 11 Quanh Năm

 

Bài Ðọc I: (Năm I) 2 Cr 8, 1-9

"Vì anh em, Ðức Kitô đã nên thân phận nghèo khó".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, chúng tôi tỏ cho anh em biết về ân huệ Thiên Chúa đã ban cho giáo đoàn xứ Macêđônia. Trong nhiều nỗi gian truân thử thách, họ được tràn đầy vui mừng, và cảnh cùng cực thẳm sâu của họ lại trở nên kho tàng phúc hậu. Tôi làm chứng rằng: họ đã tự động nài ép tôi cho họ được ân huệ tham dự vào việc phục vụ các thánh, tuỳ sức họ và quá sức họ nữa. Không phải như chúng tôi hy vọng mà thôi, họ còn đã hiến mình, trước tiên là cho Chúa, sau là cho chúng tôi, chiếu theo ý muốn của Thiên Chúa. Vì thế, chúng tôi cũng đã xin Titô hoàn thành việc nghĩa đó cả nơi anh em nữa, như Titô đã khởi sự trước kia. Nhưng cũng như anh em vượt trổi về mọi mặt: về lòng tin, về hùng biện, về sự hiểu biết, về mọi hình thức nhiệt thành, cũng như về lòng bác ái của anh em, thì anh em cũng phải vượt trổi trong việc phúc đức này.

Tôi nói thế, không phải có ý truyền lệnh đâu, nhưng để nhờ lòng sốt mến của kẻ khác, thử lòng chân thành bác ái của anh em. Vì anh em biết lòng quảng đại của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mặc dù giàu sang, Người đã nên thân phận nghèo khó, để nhờ việc nghèo khó của Người, anh em nên giàu có.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 145, 2. 5-6. 7. 8-9a

Ðáp: Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa (c. 2a).

Xướng: 1) Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa, tôi sẽ ngợi khen Chúa trong cả cuộc đời, bao lâu còn có thân tôi, tôi còn ca ngợi Chúa. - Ðáp.

2) Phúc thay người được Thiên Chúa nhà Giacóp phù trợ, người đặt hy vọng vào Chúa là Thiên Chúa của mình: Ngài là Ðấng đã tạo thành trời đất, biển khơi và muôn vật chúng đang chứa đựng, Ngài là Ðấng giữ lòng trung tín muôn đời. - Ðáp.

3) Ðấng trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. - Ðáp.

4) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù. Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quí các bậc hiền nhân. Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 24, 4c và 5a

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin dạy bảo con về lối bước của Chúa, và xin hướng dẫn con trong chân lý của Ngài. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 5, 43-48

"Các ngươi hãy yêu thương thù địch".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đã nghe dạy: "Ngươi hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch thù". Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con: để như vậy các con nên con cái Cha các con, Ðấng ngự trên trời: Người khiến mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương. Vì nếu các con yêu thương những ai mến trọng các con, thì các con được công phúc gì? Các người thu thuế không làm thế ư? Nếu các con chỉ chào hỏi anh em các con thôi, thì các con đâu có làm chi hơn? Những người ngoại giáo không làm như thế ư? Vậy các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Ðấng hoàn hảo".

Ðó là lời Chúa.

Related image

 

Đức ái trọn hảo như Cha trên trời

 

Bài Phúc Âm hôm nay (Mathêu 5:43-48) đúng là tột đỉnh của Bài Giảng Trên Núi của Chúa Kitô, ở ngay câu kết: "Vậy các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo". 

Qua câu chính yếu nhất của Bài Giảng Trên Núi này và là câu làm nên tất cả Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành của Chúa Kitô ấy, chúng ta có thể kết luận một cách suy diễn như thế này: Vì các con là môn đệ của Thày nên các con phải nên trọn lành như Cha của các con trên trời là Đấng trọn lành, theo như những gì Thày truyền dạy các con trong việc sống tinh thần của lề luật là chính đức ái trọn hảo vậy.

Ở chỗ, nếu theo tâm lý và lý lẽ tự nhiên "Ngươi hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch thù", thì sống bác ái trọn lành theo Chúa Kitô để có thể nên trọn lành như Cha trên trời, thành phần môn đệ của Chúa Kitô cần phải: "yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con", chứ không thể sống ở tầm mức tự nhiên như hai thành phần vốn bị dân Do Thái khinh bỉ, đó là thành phần "thu thuế" vốn bị họ coi là hạng người tội lỗi, hay như thành phần "ngoại giáo" vốn bị họ coi là thành phần ô uế nhơ nhớp, đáng xa tránh. 

Trong lời Chúa Giêsu dạy các môn đệ của Người sống bác ái trọn hảo: "các con hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con", chúng ta thấy, trước hết, về đối tượng, tinh thần bác ái trọn lành ở chỗ "yêu thương (cả) thù địch" nữa chứ không phải chỉ những ai yêu thương chúng ta hay những ai chúng ta thích hoặc thành thần thân nhân ruột thịt của chúng ta mà thôi. 

Sau nữa, về hành động, tinh thần bác ái trọn lành là ở chỗ "làm ơn cho những kẻ ghét các con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con". Tức là "làm ơn" và "cầu nguyện" cho những đối tượng "thù địch" của mình, vì họ là những người "thù ghét" mình, "bắt bớ" mình và "nguyền rủa" mình, chứ không phải là thành phần thương yêu mình hay được mình thương yêu. 

Riêng về vấn đề "làm ơn", Thánh Phaolô, trong bài đọc 1 hôm nay (2Corinto 8:1-9) đã đề cập đến mẫu gương của "giáo đoàn xứ Macêđônia", một giáo đoàn cho dù trải qua "gian nan thử thách" nhưng vẫn "trở thành kho tàng phúc hậu" một cách lạ lùng cho tha nhân, như ngài đã viết về họ như sau:

"Trong nhiều nỗi gian truân thử thách, họ được tràn đầy vui mừng, và cảnh cùng cực thẳm sâu của họ lại trở nên kho tàng phúc hậu. Tôi làm chứng rằng: họ đã tự động nài ép tôi cho họ được ân huệ tham dự vào việc phục vụ các thánh, tùy sức họ và quá sức họ nữa. Không phải như chúng tôi hy vọng mà thôi, họ còn đã hiến mình, trước tiên là cho Chúa, sau là cho chúng tôi, chiếu theo ý muốn của Thiên Chúa".

Như thế, giáo đoàn này đã thực sự phản ảnh, như Thánh Phaolô nói trong cùng bài đọc 1 cho Năm lẻ hôm nay: "lòng quảng đại của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mặc dù giàu sang, Người đã nên thân phận nghèo khó, để nhờ việc nghèo khó của Người, anh em nên giàu có".

Vì đức ái trọn hảo xuất phát từ Thiên Chúa và là chính bản tính của Thiên Chúa mà Ngài yêu thương hết mọi người, nhất là những ai hèn yếu đáng thương, như Bài Đáp Ca (nhất là câu 3 và 4) được trích từ Thánh Vịnh 145 (2,5-6,7,8-9a) đã cảm nhận và cho thấy:

3) Đấng trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. 

 

4) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù. Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quí các bậc hiền nhân. Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. 

 



  

Thứ Tư sau Chúa Nhật 11 Quanh Năm

 

Bài Ðọc I: (Năm I) 2 Cr 9, 6-11

"Thiên Chúa yêu thương kẻ cho cách vui lòng".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, ai gieo ít, thì gặt ít. Ai gieo nhiều thì gặt nhiều. Mỗi người hãy cho theo như lòng đã định, không phải cách buồn rầu, hoặc miễn cưỡng: Thiên Chúa yêu thương kẻ cho cách vui lòng. Thiên Chúa có quyền cho anh em được dư tràn mọi ân phúc: để anh em vừa luôn luôn sung túc mọi mặt, vừa còn được dư dật để làm các thứ việc phúc đức, như đã chép rằng: "Người đã rộng tay bố thí cho kẻ nghèo khó, đức công chính của Người sẽ tồn tại muôn đời". Ðấng đã cung cấp hạt giống cho kẻ gieo, và bánh để nuôi mình, thì cũng sẽ cung cấp cho anh em hạt giống dư đầy, và sẽ làm phát triển hoa quả sự công chính của anh em. Như thế, anh em được giàu có mọi bề, để thi hành mọi việc bác ái; qua tay chúng tôi, phúc đức đó sẽ làm phát sinh lời cảm tạ Thiên Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 111, 1-2. 3-4. 9

Ðáp: Phúc đức thay người tôn sợ Chúa (c. 1a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Phúc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng ham mộ luật pháp của Ngài. Con cháu ngươi sẽ hùng cường trong Ðất Nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân. - Ðáp.

2) Trong nhà người có tài sản phú quý, và lòng quảng đại người còn mãi muôn đời. Trong u tối người xuất hiện như ánh sáng soi kẻ lòng ngay, người nhân hậu, từ bi và công chính. - Ðáp.

3) Người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được ngẩng lên trong vinh quang. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 94, 8ab

Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 6, 1-6. 16-18

"Cha ngươi Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không, các con mất công phúc nơi Cha các con là Ðấng ở trên trời. Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con có bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín, và Cha con, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.

"Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Ðấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.

"Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con Ðấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".

Ðó là lời Chúa.

 

Image result for Mt 6, 1-6. 16-18

 

 

Sống nội tâm là sống trước nhan Chúa 

 



Bài Phúc Âm hôm nay, vẫn là bài Phúc Âm thuộc loạt bài về Bài Giảng Phúc Đức Trọn Lành Trên Núi được Chúa Giêsu huấn dụ riêng cho các tông đồ là thành phần chứng nhân tiên khởi của Người và là nền tảng cho Giáo Hội tương lai của Người, nhưng không còn theo công thức so sánh giữa lề luật cũ hay tâm thức tự nhiên với giáo huấn trọn lành của Người liên quan đến đức ái trọn hảo. 

 

Bài Phúc Âm hôm nay bắt đầu sang đoạn 6 (Mathêu 6:1-6,16-18) và liên quan đến các việc thiện, như "bố thí", "cầu nguyện" và "chay tịnh", một bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho Thứ Tư Lễ Tro mở màn cho Mùa Chay hằng năm. Căn cứ vào thứ tự 3 việc lành này thì ưu tiên nhất là bố thí liên quan đến đức bác ái, sau đó mới đến việc cầu nguyện liên quan đến Thiên Chúa, và sau cùng mới đến việc chay tịnh liên quan đến bản thân.

 

Có thể nói bố thí là hoa trái của cầu nguyện, thậm chí có thể bỏ cầu nguyện để làm việc bác ái khi khẩn cấp, và muốn cầu nguyện sốt sắng và tác hiệu cần phải chay tịnh (làm chủ mình, khổ chế), nhưng khổ chế chay tịnh mà thiếu đức bác ái cũng không tốt. Kể cả các việc lành này nữa, các tông đồ cũng cần phải thực hiện một cách trọn lành, khác với thái độ giả hình của thành phần đạo đức phô trương làm vì danh tiếng hơn là vinh hiển của Thiên Chúa. 

 

Qua vấn đề thực hành các việc thiện bề ngoài này, Chúa Giêsu muốn dạy các tông đồ phải sống nội tâm, sống như là một thứ "muối đất", theo nguyên tắc chung như Người truyền dạy, đó là: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không, các con mất công phúc nơi Cha các con là Đấng ở trên trời".

 

Căn cứ vào nguyên tắc "đừng phô trương công đức" này, Người dạy các môn đệ trước hết về cách thức thực hành việc bố thí như thế này: "Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con có bố thí, thì làm saođừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con."

 

Nguyên tắc "đừng phô trương công đức" như Chúa dạy được áp dụng, sau nữa, vào việc cầu nguyện ở cách thức cũng như việc bố thí ở chỗ tránh hành vi tiêu cực mà thể hiện các cử chỉ tích cực như sau: "Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".

 

Sau hết, về cách thức chay tịnh, theo nguyên tắc "đừng phô trương công đức", Chúa dạy các tông đồ thực hiện vừa tránh tiêu cực vừa làm tích cực như sau: "Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".

 

Muốn tránh khỏi khuynh hướng tự nhiên thích "phô trương công đức" về các việc lành mình làm, con người phải hoàn toàn tin vào Chúa, phải có một đức tin mãnh liệt, luôn sống trước nhan Chúa, "Đấng thấu suốt mọi bí ẩn" và là "Đấng ngự nơi bí ẩn", như gương sáng của bà góa bỏ tiền vào đền thờ vậy (xem Luca 21:2-3). Nghĩa là hãy làm việc lành với tất cả tấm lòng chân thành của mình, ở chỗ hoàn toàn vì Chúa và cho Chúa mà thôi.


Đó là lý do, theo nguyên tắc vì Chúa và cho Chúa, Thánh Phaolô đã khuyên tín hữu Côrintô trong Thư Thứ 2 của ngài trong bài đọc 1 năm lẻ hôm nay rằng: "
Mỗi người hãy cho theo như lòng đã định, không phải cách buồn rầu, hoặc miễn cưỡng: Thiên Chúa yêu thương kẻ cho cách vui lòng. Thiên Chúa có quyền cho anh em được dư tràn mọi ân phúc: để anh em vừa luôn luôn sung túc mọi mặt, vừa còn được dư dật để làm các thứ việc phúc đức, như đã chép rằng: 'Người đã rộng tay bố thí cho kẻ nghèo khó, đức công chính của Người sẽ tồn tại muôn đời'".


Một con người làm mọi sự vì Chúa và cho Chúa quả thực là một con người sống đức tin, biết kính sợ Chúa, nhờ đó họ có thể sống quảng đại như Ngài, đúng như cảm nhận của Thánh Vịnh 111 (1-2,3-4,9) ở trong bài Đáp Ca hôm nay: 

 

1) Phúc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng ham mộ luật pháp của Ngài. Con cháu ngươi sẽ hùng cường trong Đất Nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân.  

 

2) Trong nhà người có tài sản phú quý, và lòng quảng đại người còn mãi muôn đời. Trong u tối người xuất hiện như ánh sáng soi kẻ lòng ngay, người nhân hậu, từ bi và công chính. 

 

3) Người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được ngẩng lên trong vinh quang. 

 

 

Thứ Năm sau Chúa Nhật 11 Quanh Năm

 

Bài Ðọc I: (Năm I) 2 Cr 11, 1-11

"Tôi đã rao giảng không công cho anh em Tin Mừng của Thiên Chúa".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, phải chi anh em chịu đựng một phần nào sự ngu dại của tôi, chắc là anh em đành chịu đựng: vì tôi yêu mến anh em như Chúa có lòng yêu mến. Tôi đã đính hôn anh em cho một người, như dâng một trinh nữ trong trắng cho Ðức Kitô. Nhưng tôi lại sợ rằng như con rắn đã dùng mưu chước mà cám dỗ bà Evà thế nào thì lòng anh em cũng ra hư đốn, không còn chân thành đối với Ðức Kitô như vậy. Vì nếu có ai đến rao giảng một Ðấng Kitô nào khác mà chúng tôi không hề rao giảng, hay anh em nhận lãnh một Thánh Thần nào khác hoặc một Phúc Âm nào khác không phải như anh em đã nghe, thì chắc là anh em chịu theo ngay. Nhưng tôi nghĩ rằng tôi đã làm việc không thua kém gì các vị tông đồ cả kia đâu. Bởi vì dầu tôi có ăn nói không thanh lịch, nhưng về sự thông biết thì không phải thế đâu, vì trong mọi mặt, chúng tôi đã tỏ cho anh em thấy rõ rồi.

Hay là tôi đã phạm tội gì khi hạ mình không để anh em được nhắc lên? Hoặc vì đã rao giảng không công cho anh em Tin Mừng của Thiên Chúa. Tôi đã bóc lột các giáo đoàn khác, khi lãnh trợ cấp nơi họ, để phục vụ anh em. Khi tôi ở giữa anh em, mà phải lâm cảnh túng thiếu, tôi đã không làm phiền lòng ai: vì tôi có thiếu thốn điều gì, thì các anh em ở Macêđônia đến giúp đỡ cho. Trong mọi sự, tôi đã giữ mình không làm phiền lòng ai, sau này, tôi vẫn giữ mình như thế. Ðã có sự thật của Ðức Kitô trong tôi, nên tôi không để ai giựt khỏi tôi được sự tôi khoe như thế trong khắp miền Akaia. Vì sao thế? Có phải vì tôi không yêu mến anh em chăng? Ðã có Thiên Chúa biết.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 110, 1-2. 3-4. 7-8

Ðáp: Lạy Chúa, công cuộc tay Chúa làm ra đều chân thật và công chính (c. 7a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi! - Ðáp.

2) Công cuộc của Chúa là sự hùng vĩ oai nghiêm, và đức công minh của Ngài muôn đời tồn tại. Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thực là Ðấng nhân hậu từ bi. - Ðáp.

3) Công cuộc tay Chúa làm ra đều chân thật và công chính, mọi giới răn của Người đều đáng cậy tin. Những giới răn đó được lập ra cho tới muôn ngàn đời, được ban hành một cách chân thành và đoan chánh. - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 144, 13bc

Alleluia, alleluia! - Chúa trung thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 6, 7-15

"Vậy các ngươi hãy cầu nguyện như thế này".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Khi cầu nguyện, các con đừng nhiều lời như dân ngoại: họ nghĩ là phải nói nhiều mới được chấp nhận. Ðừng làm như họ, vì Cha các con biết rõ điều các con cần, ngay cả trước khi các con xin. Vậy các con hãy cầu nguyện như thế này:

"Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen.

"Vì nếu các con có tha thứ cho người ta những lầm lỗi của họ, thì Cha các con, Ðấng ngự trên trời, mới tha thứ cho các con. Nếu các con không tha thứ cho người ta, thì Cha các con cũng chẳng tha thứ lỗi lầm cho các con".

Ðó là lời Chúa.

 

Related image


cốt lõi của Kinh Lạy Cha là ở ngay tâm điểm của kinh này,
tức ở lời nguyện thứ 3 (thuộc phần đầu) và lời cầu thứ 1 (thuộc phần sau).


Bài Phúc Âm (Mathêu 6:7-15) cho Thứ Năm Tuần XI Thường Niên hôm nay liên quan đặc biệt đến việc cầu nguyện nói chung và Kinh Lạy Cha nói riêng, hay nói cách khác, liên quan đến cách thức cầu nguyện và mẫu thức cầu nguyện. 

Trước hết, về cách thức cầu nguyện, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ cầu nguyện một cách đơn sơ nhưng đầy lòng tin tưởng vào Đấng thấu suốt mọi sự như thế này: 
"Khi cầu nguyện, các con đừng nhiều lời như dân ngoại: họ nghĩ là phải nói nhiều mới được chấp nhận. Đừng làm như họ, vì Cha các con biết rõ điều các con cần, ngay cả trước khi các con xin". 

Sau n
ữa, về mẫu thức cầu nguyện, Chúa Giêsu đã tóm gọn những gì cần thiết nhất và đáng cầu nhất vào một lời nguyện vẫn được chúng ta gọi là Kinh Lạy Cha: "Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen".

Kinh Lạy Cha là mẫu thức cầu nguyện này 
bao gồm tất cả đời sống vì Chúa và cho Chúa của chung loài người và của riêng Kitô hữu môn đệ Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Kinh Lạy Cha được cấu tạo nên bởi 2 phần rõ ràng: phần nguyện và phần xin. Phần nguyện trực tiếp đến Chúa là đối tượng chính của kinh nguyện này, và phần xin trực tiếp đến chủ thể đọc lên kinh nguyện này, nhưng vẫn nhắm đến đối tượng chính yếu là Chúa.

Thật vậy, phần nguyện bao gồm 3 ước nguyện thứ tự là: 1ước 
nguyện cho danh Cha cả sáng, 2- ước nguyện cho nước Cha được trị đến, và 3- ước nguyện cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Tâm hồn nào quả thực chỉ ước nguyện và thật lòng ước nguyện như thế thì đúng là người con ngoan của Thiên Chúa là "Cha trên trời". 

Th
ế nhưng muốn có một tấm lòng chỉ ước nguyện 3 điều chính yếu trên liên quan đến Sự Sống của Ba Ngôi Thiên Chúa là Cha (Danh Cha - Sự Sống Hằng Hữu), và Con (Nước Cha - Sự Sống Thần Linh) và Thánh Thần (Ý Cha - Sự Sống Thông Ban), con người cần phải cầu xin cho được 3 điều tương xứng với 3 ước nguyện ở phần đầu, thứ tự như sau: 

"Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày": 
đó là xin Cha tỏ cho chúng con biết được những gì Cha muốn, để nhờ đó chúng con có thể chu toàn tất cả những gì Cha muốn nơi chúng con cho "Danh Cha cả sáng", như Chúa Giêsu đã sử dụng lương thực của Người như thế: "Lương thực của Thày là làm theo ý Đấng đã sai Thày và hoàn tất công việc của Ngài" (Gioan 4:34); 

"Xin Cha tha nợ chúng con, như chúng tôi cũng tha kẻ có nợ chúng con": 
đó là xin Cha cho chúng con biết sống bác ái yêu thương cho "Nước Cha trị đến", như chúng con đã được chính Cha "đã chứng tỏ lòng yêu thương đối với chúng con khi chúng con đang còn là tội nhân" (Rôma 5:8), nơi Con Một của Cha là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã "đến không phải để được hầu hạ mà là hầu hạ và hiến mạng sống mình cho nhiều người" (Mathêu 20:28), trong đó có chúng con.

"Xin Cha chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ": 
đó là xin Cha cho chúng con luôn luôn biết tuyệt đối trung thành với Ý Muốn vô cùng khôn ngoan và nhân hậu của Cha ở mọi nơi, trong mọi lúc và hết mọi sự, bất chấp mọi chước cám dỗ và thắng vượt tất cả mọi xu hướng bất trung và phản bội, nhờ "Đấng Phù Trợ" được sai đến để "chứng tỏ cho thế gian biết họ sai lầm về tội lỗi, về sự công chính và về án phạt" (xem Gioan 16:8).

Có thể nói cốt lõi của Kinh Lạy Cha là ở ngay tâm điểm của kinh này, tức ở lời nguyện thứ 3 (thuộc phần đầu) và lời cầu thứ 1 (thuộc phần sau). Thật vậy, "danh Cha" không thể "cả sáng" (ước nguyện 1) và "Nước Cha" không thể "trị đến" (ước nguyện 2), nơi chúng ta nếu chúng ta không "ước nguyện cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời" (ước nguyện 3).

Và cũng chính vì "ước nguyện cho ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời" mới "xin Cha tha nợ chúng con" (lời cầu 2), tức tha cho những gì chúng ta đã không làm theo ý của Cha, hay làm trái ý Cha, làm phật ý của Cha, và mới "xin Cha đừng để chúng con sa chước cám dỗ nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ" (lời cầu 3), nghĩa là xin Cha đừng để cho chúng con bao giờ làm mất lòng cha là sự dữ trên hết mà chúng con cần phải tránh.

M
ột mẫu gương sống vì Chúa và cho Chúa, sống Kinh Lạy Cha đó là Thánh Tông Đồ Phaolô, như trong bài đọc 1 hôm nay cho thấy (2Corintô 11:1-11), như chính ngài đã bày tỏ: "Trong mọi sự, tôi đã giữ mình không làm phiền lòng ai, sau này, tôi vẫn giữ mình như thế. Đã có sự thật của Đức Kitô trong tôi, nên tôi không để ai giựt khỏi tôi được sự tôi khoe như thế trong khắp miền Akaia. Vì sao thế? Có phải vì tôi không yêu mến anh em chăng? Đã có Thiên Chúa biết".

M
ột con người sống Kinh Lạy Cha, sống chỉ vì và hoàn toàn cho Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất là Cha của mình, như Mẹ Maria, như Thánh Tông Đồ Phaolô và như các Thánh Tông Đồ, cũng như các Thánh Nhân trong giòng lịch sử Giáo Hội, quả là những kỳ công do Chúa thực hiện chứ không ai có thể tự mình sống được như vậy. 

Thánh Vịnh 110 (1-2,3-4,7-8) hôm nay đã ám chỉ ý nghĩa này qua câu 
Đáp Ca chính "Lạy Chúa, công cuộc tay Chúa làm ra đều chân thật và công chính", cũng như ở 3 câu xướng Đáp Ca như sau:

 

 

1) Tôi sẽ ca tụng Chúa hết lòng, trong nhóm hiền nhân và trong Công hội. Vĩ đại thay công cuộc của Chúa tôi, thực đáng cho những người mến yêu quan tâm học hỏi!  

 

2) Công cuộc của Chúa là sự hùng vĩ oai nghiêm, và đức công minh của Ngài muôn đời tồn tại. Chúa đã làm những điều lạ lùng đáng nhớ, Người thực là Đấng nhân hậu từ bi. 

 

3) Công cuộc tay Chúa làm ra đều chân thật và công chính, mọi giới răn của Người đều đáng cậy tin. Những giới răn đó được lập ra cho tới muôn ngàn đời, được ban hành một cách chân thành và đoan chánh. 

  

 

Ngày 19/06: Thánh Rômualđô (951-1027)

Thánh Rômualđô là một nhà quý tộc người Ý, được sinh khoảng năm 951 tại Ravenna, nước Ý. Khi lên 20 tuổi, Rômualđô bị sốc mạnh khi thấy thân phụ ngài giết chết một người đàn ông trong một cuộc đọ kiếm tay đôi. Rồi thánh Rômualđô vào tu trong đan viện Bênêđictô. Ngài quyết tâm sống cuộc đời ngay chính. Thánh Rômualđô cũng muốn sám hối thay cho hành vi bệ rạc của người cha. Đối với Rômualđô, môi trường và lối sống của đan viện thật mới lạ vì ngài đã quen với nếp sống sang trọng, xa hoa và vô công rỗi nghề ở gia đình. Nhưng dần dần, chàng quý tộc bị ảnh hưởng sâu sắc bởi gương sáng của nhiều đan sĩ. Rômualđô quyết tâm trở nên một đan sĩ. Ngài đã xin một ẩn sĩ tốt lành tên là Marinô dạy cho cách thức nên thánh. Cả Marinô và Rômualđô đã cố gắng dùng thời giờ mỗi ngày để ca ngợi, tôn vinh và yêu mến Thiên Chúa. Thân phụ của Rômualđô là ông Sêgiô đến quan sát lối sống của con trai mình. Ông bị đánh động bởi sự đơn sơ và tinh thần bỏ mình của người con. Sêgiô nhận thức rằng chắc chắn phải có một thứ hạnh phúc đặc biệt nào đó trong đan viện – bởi vì con trai ông đã tự tình chấp nhận sống ở đó. Và đó là mọi điều Sêgiô đang cần. Ông đã từ bỏ mọi thứ của cải mình có và cũng bắt chước người con sống phần đời còn lại như một đan sĩ.

Sau cùng, thánh Rômualđô thiết lập hội dòng Camalđôlêsêô Bênêđictô. Thánh nhân đi khắp nước Ý lập thêm các ẩn viện và các đan viện. Ở bất cứ nơi đâu, thánh Rômualđô cũng đều làm gương sáng cho các đan sĩ về lòng sám hối. Suốt một năm trời, mỗi ngày Rômualđô chỉ ăn chút ít đậu luộc. Rồi cả ba năm tiếp theo, thánh nhân chỉ dùng một ít thức ăn hầu nuôi sống mình. Nhờ những hy sinh này, thánh Rômualđô sống kết hợp mật thiết hơn với Thiên Chúa.

Thánh Rômualđô về trời ngày 19 tháng Sáu năm 1027, tại đan viện Valđi Castrô. Ngài ở một mình trong đan phòng của ngài và qua đời cách lặng lẽ âm thầm. Chắc hẳn thánh Rômualđô đã thầm thĩ lời nguyện rất được ưa chuộng này: “Ôi, lạy Đức Chúa Giêsu dịu hiền! Chúa đáng yêu mến của lòng con! Chúa là niềm khoái cảm vui thích của các linh hồn thanh khiết! Chúa là đối tượng của mọi sự con ước ao!”

Chúng ta hãy nài xin thánh Rômualđô giúp chúng ta biết quý trọng sự cầu nguyện và sự sống của Chúa Giêsu trong ta. Chúng ta cũng hãy nài xin thánh nhân ban ơn để chúng ta đủ sức thực hiện những việc thiêng liêng cách liên lỉ. Thánh nhân biết khó khăn thách đố là làm sao mà!

tinmung.net

https://ungsinhdongten.net/ngay-1906-thanh-romualdo-951-1027/

 

THÁNH RÔMUALĐÔ, VIỆN PHỤ (956-1027)


Thánh Rômualdô sinh tại Ravenna năm 956, trong một gia đình danh giá nước Ý. Bá tước Sergiô, cha ngài đã phụng dưỡng ngài trong một nếp sống xa hoa. Rômualdô đã chỉ tìm vui chơi mà không nghĩ gì tới bổn phận phải nên thánh. Dầu vậy, đôi lần đi săn thú, ngài thấy mình đơn độc giữa rừng vắng và phải suy nghĩ... Ngài đặt mình vào một ngày nào đó phải chết và bỗng thấy lo âu. Ngài cũng thấy rằng các ẩn sĩ chọn đời sống cô tịch, hãm mình để hiến thân phụng sự Chúa thật là đúng đắn. Những giấc mơ như vậy thanh luyện hồn ngài và cảm kích bởi ơn thánh, ngài tự hứa với mình là sẽ cải thiện đời sống nhưng rồi trở lại với những thú vui ngày thường ngài lại lùi bước trước nỗ lực và lao mình theo các thị hiếu.

Một biến cố đau thương đã thành phương tiện Thiên Chúa dùng để gỡ Rômualđô khỏi những ràng buộc với thế gian. Sergiô cha ngài gây lộn với một người bà con về việc sở hữu một cánh đồng đã thách đấu kiếm, ông còn bắt con mình dự vào cuộc đấu. Sergiô giết chết đối thủ, coi mình là đồng loã với tội phạm này và thấy phải đền trả. Rômuadô đã vào tu viện để thống hối suốt 40 ngày. Bị đánh động bởi thực tế trái ngược hẳn với lối sống phân tán của thế gian, ngài chỉ còn nghĩ tới việc bắt chước những khắc khổ mà ngài được chứng kiến.

Bá tước Sergiô cảm kích vì mẫu gương của con mình đã vào dòng. Khi bị cám dỗ trở về đường xưa, ông lại dẫn con mình kịp thời can thiệp và tiếp tục trung thành với đời sống đền bồi cầu nguyện.

Sau 7 năm sống trong dòng, Rômuado dấn mình vào sa mạc, sống gần vị ẩn sĩ già là Marinô. Đây là bậc thầy nghiêm ngặt mà ngài đã chọn, Marinô thường lấy roi đánh trên đầu môn đệ của mình để xua đuổi sự chia trí lo ra hay để phạt một lầm lỗi khi đọc thánh vịnh, hay hơn nữa để giúp họ quen chịu khổ. Ông lại hay đánh có một phía. Rômuado không hề phàn nàn kêu trách.

Một ngày kia Ngài nói với thầy: Thưa thầy, từ nay xin thầy đánh về phía mặt vì tai trái con hầu như điếc rồi. Rômuado thầm cảm phục và kính trọng môn đệ mình.

Rômuado nuôi chí hứơng canh tân dòng Biển Đức đang thời sa sút, ngài thiết lập một tu viện. Ngài làm cho các môn đệ nhiệt tình nên hoàn hảo trong việc hãm mình, khi phải chống lại sự dữ và phạt tội lỗi, thánh nhân đã tỏ ra cương nghị, chẳng hạn khi vua Othen III đến tu viện để đền bù tội lường gạt và sát hại một thủ lãnh loạn luân, ông được truyền dạy phải đi chân không tới Nhà thờ Thánh Micae và suốt Mùa Chay, phải ở trong đồng mà ăn chay, ngủ trên rơm cỏ.

Rômuado chống gậy rảo khắp nước Ý sang cả Pháp và Đức. Ngài xây nhiều nhà thờ, thiết lập nhiều tu viện, và các trung tâm ẩn tu trong sa mạc. Ngày kia, ngài tìm được một nơi thanh vắng trong dãy Apennins. Ngài mơ thấy một cái thang bắc lên trời, có các tu sĩ lên xuống. Vị lãnh chúa miền này cho ngài cánh đồng Malđôli. Thánh nhân lập dòng Camaldules sống đời liên lỉ.

Vào tuổi 120, Thánh Rômuado từ trần, ngày 19-06-1076.

Sau 439 năm, xác ngài còn nguyên vẹn và được đặt trong nhà thờ của dòng ở Fabrianô.

https://giaophanvinhlong.net/thanh-romualdo.html

http://nhipcautamgiao.net/nhan-tam/hien-nhan/thanh-romualdo-vien-phu-19-6/

https://www.giaophanbaria.org/phung-vu/hanh-cac-thanh/2013/06/20/ngay-198-thanh-romualdo-vien-phu.html

Ngày 19/6: Thánh Romualđô, (St.Romuald) viện phụ

Chúa nói:” Thầy bảo thật anh em: Anh em là những người đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, anh em sẽ được gấp bội và được hưởng sự sống đời đời làm gia nghiệp”( Mt 19, 27-29 ). Thánh Romualđô đã từ bỏ mọi vinh hoa, phú quí, đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu, Ngài đáng được hưởng phần thưởng nước trời.

CÁI THƯỜNG TÌNH ĐÃ TRỞ NÊN CÁI ÍCH LỢI CHO THÁNH NHÂN:

Thánh Romualđô được sinh ra trong một gia đình quyền uy thế giá. Cha mẹ Ngài là dòng dõi quí tộc bên nước Ý. Từ tuổi trưởng thành, Romualđô đã thích săn bắn thú rừng, đã thích gần gũi thiên nhiên,núi đồi, cây cỏ. Chính những cuộc săn đuổi thú rừng hết núi này qua đồi nọ, hết suối này qua bờ khe khác, đã giúp thánh nhân gần gũi thiên nhiên và cho Ngài cảm nghiệm sự thinh lặng, im lìm, tịch liêu của tâm hồn. Thiên Chúa có đường lối của Ngài: ý Ngài không ai dò thấu, dự định của Ngài chẳng ai thấy trước, không ai hiểu được. Đường của Chúa hoàn toàn kỳ diệu vì thế nhân buồn cảnh gia đình, thánh nhân đã trốn vào tu  viện Bênêđitô ở Classa. Với thời gian tu tập tốt đẹp, các Bề Trên cho Ngài được mặc áo dòng. Thánh Romualđô mau chóng trở thành tu sĩ rất nhân đức và tiến triển trên đường thánh thiện. Ngài nên gương mẫu cho anh em trong tu viện noi theo, bắt chước. Thánh nhân càng lúc càng muốn sống giống Chúa Giêsu khónghèo, nên sau ba năm sống trong tu viện Bênêđitô, thánh nhân muốn tìm kiếm con đường nhiệm nhặt, khổ hạnh hơn nữa bên cạnh bậc thầy khả kính là Marinô. Thánh nhân và thầy Marinô mỗi tuần chỉ ăn có ba ngày:lương thực là một miếng bánh mì và một nắm đậu. Mỗi ngày hai thầy trò sánh bước dưới các lùm cây, tán lá, hát thánh vịnh và ca ngợi Chúa. Nhưng ý Chúa lại thúc đẩy Ngài trở về để cải tổ các tu viện Bênêđitô đang sa sút trầm trọng sau ba năm Ngài sống xa các tu viện với Thầy khả kính Marinô. Thánh nhân đã sửa đổi các tu viện và xây cất thêm cả trăm tu viện khác nữa. Nhiều người bỏ tu ra đời, nay lại theo Ngài sống đời khổ tu, chiêm niệm. Ma quỉ vì thấy Ngài sống thánh thiện, nhiệm nhặt với lề luật, nên tìm cách phá ngài, nhưng thánh nhân đã luôn chiến thắng chúng bằng lời cầu nguyện của mình. Một số anh em trong Dòng cũng khó chịu với Ngài vì Ngài yêu thương và sống bác ái đối với các người nghèo khó, neo đơn, cô quả...Theo lời yêu cầu của Hoàng Đế Othon III và của các Thầy trong Dòng, Ngài đã nhận làm Bề Trên tu viện Classa. Nhiều bậc vị vọng, nhiều ông hoàng đã xin đi tu vì cảm mến, khâm phục cách sống và các nhân đức của thánh nhân.

Ý CHÚA NHIỆM MẦU:

Thánh nhân ước ao được đi truyền giáo cho dân tộc Hung Gia Lợi, nhưng ý Chúa nhiệm mầu lại hướng Ngài đi một lối khác. Ngài tìm đến một nơi thanh vắng trong hoang địa để sống những ngày còn lại hết mình cho Thiên Chúa. Tại nơi thanh vắng mới này, thánh nhân hoàn toàn sống chiêm niệm, cầu nguyện, ăn chay và đánh tội. Biết được ý Chúa, thánh nhân đã xin một bá tước mảnh đất ở Apennin để thiết lập một tu viện. Apennin, nơi tu viện mới của thánh nhân  bỗng trở nên trung tâm những tu viện của thánh Romualđô. Các Đức Thánh Cha kính nể, dành cho Ngài, các tu viện của Ngài nhiều đặc ân và bảo vệ, tán thành bộ luật Dòng của Ngài.

CHÚA THƯỞNG CÔNG THÁNH NHÂN và GIÁO HỘI TÔN VINH NGÀI:

Với  nhiều công đức, với sự thánh thiện, khôn ngoan của thánh nhân. Chúa đã ban cho thánh Romualđô sống tới 120 tuổi. Tuổi đời cao là một hồng ân của Chúa như thánh vịnh 15, 5-6 đã viết:” Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con chính Ngài nắm giữ. Phần tuyệt hảo may mắn đã về con. Vâng, gia nghiệp ấy làm con thỏa mãn”. Thánh Romualđô đã ra đi về với Chúa trong an bình vào mùa hè năm 1027.  Chúa đã đội mũ triều thiên cho Ngài và Giáo Hội đã mừng lễ Ngài vào ngày 19 tháng 6 mỗi năm.

Lạy Chúa, Chúa đã dùng thánh Romualđô để canh tân đời sống ẩn tu trong Hội Thánh. Xin cho chúng con biết từ bỏ chính mình mà theo chân Đức Kitô, hầu đạt tới hạnh phúc nước trời ( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Romualđô, viện phụ ).

Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT

http://www.giaophanthaibinh.org/a5035/Ngay-19-6-Thanh-Romualdo-St-Romuald-vien-phu.aspx

https://123docz.net/document/4466878-thanh-romualdo-vien-phu.htm

LINH ĐẠO XITÔ - Hội Dòng XITÔ Thánh Gia

 

 

 

Thứ Sáu

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) 2 Cr 11, 18. 21b-30

"Không kể những việc bên ngoài, lại còn những việc thúc bách hằng ngày và mối lo lắng đến các Giáo hội".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, vì có nhiều kẻ khoe khoang về xác thịt, thì tôi đây, tôi cũng sẽ tự khoe khoang. Tôi xin nói như điên dại rằng: ai tự phụ về điều gì, thì tôi cũng tự phụ như vậy. Họ là những người Do-thái, thì tôi cũng vậy; họ là những người Israel, thì tôi cũng vậy; họ là dòng dõi Abraham, thì tôi cũng vậy; họ là tôi tớ Ðức Kitô, tôi xin nói như mê sảng rằng: tôi còn hơn họ nữa, tôi đã chịu khó nhọc hơn, năng bị tù hơn, chịu đòn vọt quá mức, liều mình chết nhiều lần, bị người Do-thái đánh đòn năm lần, mỗi lần kém một roi đầy bốn chục. Ba lần bị tra tấn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, và một ngày một đêm chơi vơi ngoài biển khơi. Hành trình thường xuyên, gặp nhiều nguy hiểm vì sông ngòi, nguy hiểm vì trộm cướp, nguy hiểm vì người đồng chủng, nguy hiểm vì người dân ngoại, nguy hiểm trong thành phố, nguy hiểm trên rừng, nguy hiểm ngoài biển cả, nguy hiểm bởi những anh em giả; chịu lao đao vất vả, hay phải thức khuya, đói khát, hay phải nhịn ăn, chịu lạnh rét, mình trần. Không kể những việc bên ngoài, lại còn những việc thúc bách hằng ngày, và mối lo lắng đến các giáo hội. Nào ai yếu đuối mà tôi không yếu đuối? Nào ai vấp phạm mà tôi chẳng xót xa? Nếu phải khoe khoang, thì tôi sẽ khoe khoang những yếu đuối của tôi.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 4-5. 6-7

Ðáp: Thiên Chúa cứu người hiền đức khỏi mọi nỗi lo âu (x. c. 18b).

Xướng: 1) Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui. - Ðáp.

2) Các bạn hãy cùng tôi ca ngợi Chúa, cùng nhau ta hãy tán tạ danh Người. Tôi cầu khẩn Chúa, Chúa đã nhậm lời, và Người đã cứu tôi khỏi mọi điều lo sợ. - Ðáp.

3) Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi, và các bạn khỏi hổ ngươi bẽ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe, và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 8, 12

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 6, 19-23

"Kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất: là nơi ten sét mối mọt sẽ làm hư nát, và trộm cướp sẽ đào ngạch lấy mất, nhưng các con hãy tích trữ cho mình kho tàng trên trời: là nơi không có ten sét, mối mọt không làm hư nát, trộm cướp không đào ngạch lấy mất: Vì kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó. Con mắt là đèn soi cho thân xác con. Nếu mắt con trong sáng, thì toàn thân con được sáng. Nhưng nếu mắt con xấu kém, thì toàn thân con phải tối tăm. Vậy nếu sự sáng trong con tối tăm, thì chính sự tối tăm, sẽ ra tối tăm biết chừng nào?"

Ðó là lời Chúa. 

Related image

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Kho tàng sự sống

 

Suy Niệm

Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XI Thường Niên, Giáo Hội tiếp tục với bài Giảng Trên Núi của Thánh Ký Mathêu (6:19-23), một bài Phúc Âm ngay sau Kinh Lạy Cha của bài Phúc Âm hôm qua, như thể ý nghĩa của hai bài Phúc Âm có liên hệ mật thiết với nhau, ở chỗ, nếu sống Kinh Lạy Cha thì phải sống như lời Chúa Giêsu dạy trong bài Phúc Âm hôm nay về một tấm lòng không còn dính bén với bất cứ sự gì trên trần gian này nữa, trái lại, chỉ tìm kiếm những gì siêu nhiên cao cả chân thật nhất thuộc về trời, vĩnh viễn, bất diệt:

"Các con đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất là nơi ten sét mối mọt sẽ làm hư nát, và trộm cướp sẽ đào ngạch lấy mất, nhưng các con hãy tích trữ cho mình kho tàng trên trời là nơi không có ten sét, mối mọt không làm hư nát, trộm cướp không đào ngạch lấy mất".

Tuy nhiên, để được như vậy, theo lời Chúa Giêsu phán dạy, con người môn đệ của Người cần phải có một tấm "lòng thanh sạch" (Mathêu 5:8) mới thấy được "tất cả sự thật" (Gioan 16:13) mà chọn lựa, theo đuổi và chiếm hưởng, và phải chăng Chúa Giêsu muốn ám chỉ tấm "lòng thanh sạch" đây chính là "con mắt" như "đèn soi" cho bản thân cùng cuộc đời của con người:

"Con mắt là đèn soi cho thân xác con. Nếu mắt con trong sáng, thì toàn thân con được sáng. Nhưng nếu mắt con xấu kém, thì toàn thân con phải tối tăm. Vậy nếu sự sáng trong con tối tăm, thì chính sự tối tăm, sẽ ra tối tăm biết chừng nào?"

Cảm Nghiệm

Thực tế sống đạo cũng cho thấy tỏ tường là tất cả mọi ý nghĩ, lời nói, việc làm và phản ứng hay đáp ứng của con người đều lệ thuộc vào hay phát xuất từ tấm lòng của con người. Nếu ai có tấm lòng tốt thì họ nhìn mọi sự đều tốt, họ làm điều tốt, ngược lại, ai có một tấm lòng không tốt thì họ xu hướng về những ý nghĩ xấu, nói năng những điều không hay và tác hành những chuyện không lành v.v. "Lòng đầy mới tràn ra ngoài miệng" (Mathêu 12:34) là thế, và đó cũng là lý do Chúa Giêsu đã khẳng định trong bài Phúc Âm hôm nay: "kho tàng con ở đâu, thì lòng con cũng ở đó". 

Theo tu đức Kitô giáo cũng thế, để một số tâm hồn nào đó được siêu thoát khỏi trần thế, sống ở thế gian mà không thuộc về thế gian, Thiên Chúa thường hay thanh tẩy lòng họ cho khỏi tất cả mọi vương vấn, quyến luyến, dính bén với bất cứ một tạo vật nào, dù thánh hảo và tốt lành mấy chăng nữa, ngoài chính Thiên Chúa.

Trường hợp điển hình của bà hoàng thái hậu "Athalia, mẹ vua Ocosia" trong Bài Đọc 1 hôm nay đã chứng thực những gì Chúa Giêsu nói trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Các con đừng tích trữ cho mình kho tàng dưới đất là nơi ten sét mối mọt sẽ làm hư nát, và trộm cướp sẽ đào ngạch lấy mất, nhưng các con hãy tích trữ cho mình kho tàng trên trời là nơi không có ten sét, mối mọt không làm hư nát, trộm cướp không đào ngạch lấy mất".

Bà đã chiếm ngôi vua của con sau khi con bà là Vua Ocosia chết, bằng cách "giết tất cả dòng dõi nhà vua". Thế nhưng, cũng căn cứ vào lời Chúa Giêsu dạy trong Bài Phúc Âm hôm nay, "Con mắt là đèn soi cho thân xác con. Nếu mắt con trong sáng, thì toàn thân con được sáng. Nhưng nếu mắt con xấu kém, thì toàn thân con phải tối tăm. Vậy nếu sự sáng trong con tối tăm, thì chính sự tối tăm, sẽ ra tối tăm biết chừng nào?", người đàn bà tham lam độc ác này đã chỉ tìm kiếm và tích lũy cho mình kho tàng ở đời này, mà lại chiếm đoạt một cách bất chính nữa, bởi thế, kho tàng bị bà chiếm đoạt là ngai vua của con bà ấy đã bị hư nát sau đó 6 năm, cùng với chính mạng sống của bà, vào chính lúc mà bà không ngờ, như Bài Đọc 1 thuật lại:

"Nghe tiếng dân chúng chạy đến, thì đi với dân vào đền thờ Chúa. Bà Athalia thấy vua Gioas (một trong số các con của vua Ocôsia được cứu sống đã bí mật ở trong đền thờ 6 năm) đứng trên toà như thói thường, có ca sĩ và đội kèn đứng kề bên, và toàn dân trong xứ hân hoan kèn hát, bà liền xé áo mình, kêu lên rằng: 'Mưu phản! Mưu phản!' Nhưng Gioiađa (tư tế) truyền cho các sĩ quan đang cầm đầu toán binh lính rằng: 'Các ngươi hãy đuổi bà ấy ra khỏi đền thờ, và hễ ai theo bà, thì chém luôn'. Vị tư tế nói: 'Ðừng giết bà trong đền thờ Chúa'. Họ ra tay bắt và lôi bà đi theo đường ngựa vào đến gần cung điện và giết bà tại đó".

Đúng thế, không có một cái gì, dù quí báu đến đâu chăng nữa, có thể tồn tại ngoài Thiên Chúa và như Thiên Chúa, ngoại trừ chính Thiên Chúa và ý muốn vô cùng khôn ngoan và toàn năng của Ngài, một ý muốn bất diệt không ai có thể làm thay đổi hay trái ý Ngài, trái lại, cho dù họ có tự do, khôn ngoan và quyền năng đến đâu, cũng chỉ là một con rối quay cuồng theo những gì họ tưởng rằng chỉ có họ là chúa, ngoài họ ra không hề có Đấng Tối Cao, Đấng hiện thực tất cả những dự án thần linh của Ngài vào thời điểm Ngài ấn định và bằng cách thức huyền diệu riêng của Ngài, như Ngài đã thực hiện cho nhà Đavít được Bài Đáp Ca hôm nay nhắc lại:

1) Chúa đã thề hứa cùng Ðavít một lời hứa quả quyết mà Người sẽ chẳng rút lời. Rằng: "Ta sẽ đặt lên ngai báu của ngươi một người con cháu thuộc dòng giống của ngươi".

2) Nếu các con ngươi tuân giữ điều ước của Ta, và những luật lệ mà Ta ban ra dạy chúng, thì cả con cháu chúng cũng được muôn đời ngồi cai trị trên ngai báu của ngươi.

3) Bởi chưng Chúa đã kén chọn Sion, đã thích lựa Sion làm nơi cư ngụ cho mình. Người phán: "Ðây là nơi nghỉ ngơi của Ta tới muôn đời, Ta sẽ cư ngụ nơi đây, vì Ta ưa thích".

4) Tại đó, Ta sẽ gầy dựng một uy quyền cho Ðavít, sẽ chuẩn bị ngọn đèn sáng cho người được Ta xức dầu. Ta sẽ bắt những kẻ thù ghét người tủi hổ, nhưng triều thiên của Ta chiếu sáng rực rỡ trên mình người.

 

 

 



Thứ Bảy

 

Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: (Năm I) 2 Cr 12, 1-10

"Tôi sẽ khoe khoang những yếu đuối của tôi".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, nếu phải khoe mình, - thật chẳng có ích gì, - thì tôi sẽ nói đến những thị kiến và những mạc khải Chúa tỏ ra. Tôi biết có người kia trong Ðức Kitô, cách đây mười bốn năm, lúc bấy giờ có ở trong thể xác, tôi không biết, hoặc ở ngoài thân xác, tôi cũng không biết, có Chúa biết, người ấy được đem lên tầng trời thứ ba. Và tôi biết rằng: lúc bấy giờ, người ấy có ở trong thân xác hay ở ngoài thân xác, tôi không biết, có Thiên Chúa biết, đã được đem lên Thiên Ðàng, và được nghe những lời mầu nhiệm không được nói với loài người. Vì người ấy, tôi sẽ khoe mình: nhưng tôi sẽ không khoe mình vì tôi về một điều gì, ngoài những sự yếu đuối của tôi. Vì nếu tôi muốn khoe mình, tôi sẽ không ngu dại, bởi tôi sẽ nói sự thật, nhưng tôi xin miễn, kẻo có người đánh giá tôi cao hơn điều họ thấy hoặc nghe về tôi. Và để những mạc khải cao siêu không làm cho tôi tự cao tự đại, thì một cái dằm đâm vào thịt tôi, một thần sứ của Satan vả mặt tôi. Vì thế, đã ba lần tôi van nài Chúa để nó rời khỏi tôi. Nhưng Người phán cùng tôi rằng: "Ơn Ta đủ cho ngươi, vì sức mạnh của Ta được tỏ bày trong sự yếu đuối".

Vậy tôi rất vui sướng về những sự yếu hèn của tôi, để sức mạnh của Ðức Kitô ngự trong tôi. Vì thế, tôi vui thoả trong sự yếu hèn của tôi, trong sự lăng nhục, quẫn bách, bắt bớ, khốn khó vì Ðức Kitô: bởi khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 33, 8-9. 10-11. 12-13

Ðáp: Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao (c. 9a).

Xướng: 1) Thiên Thần Chúa hạ trại đồn binh, chung quanh những người sợ Chúa và bênh chữa họ. Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao, phúc đức ai tìm nương tựa ở nơi Người. - Ðáp.

2) Các thánh nhân của Chúa, hãy tôn sợ Chúa, vì người tôn sợ Chúa chẳng thiếu thốn chi. Bọn sang giàu đã sa cơ nghèo đói, nhưng người tìm Chúa chẳng thiếu chi thiện hảo. - Ðáp.

3) Các đệ tử ơi, hãy lại đây, hãy nghe ta, ta sẽ dạy cho các con biết tôn sợ Chúa. Ai là người yêu quý cuộc đời, mong sống lâu để hưởng nhiều phúc lộc. - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 4, 4b

Alleluia, alleluia! - Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Mt 6, 24-34

"Các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó sẽ ghét người này, và yêu mến người kia, hoặc nó chuộng chủ này, và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được. Vì thế, Thầy bảo các con: Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn; hay cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao?

"Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không gặt, không thu vào lẫm, thế mà Cha các con trên trời vẫn nuôi chúng. Nào các con không hơn chúng sao? Nào có ai trong các con lo lắng áy náy mà có thể làm cho mình cao thêm một gang được ư? Còn về áo mặc, các con lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng coi chúng mọc lên thế nào? Chúng không làm lụng, không canh cửi. Nhưng Thầy nói với các con rằng: Ngay cả Salomon trong tất cả vinh quang của ông, cũng không phục sức được bằng một trong những đoá hoa đó. Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin. Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: "Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì hoặc sẽ lấy gì mà mặc? Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó. Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai. Vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".

Ðó là lời Chúa. 

 

Related image

 

Suy Niệm Cảm Nghiệm

 

Ký Thác Sự Sống

 

Suy Niệm

Bài Giảng Trên Núi về Phúc Đức Trọn Lành của Chúa Kitô trong Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XI hôm nay là đoạn cuối cùng của chương 6 (24-34), đoạn Chúa Kitô huấn dụ các tông đồ về lòng tin tưởng phó thác vào sự quan phòng thần linh của Thiên Chúa bằng việc ưu tiên hóa những gì chính yếu liên quan đến phần rỗi và sự thánh hóa của con người. 

"Thầy bảo các con: Chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình: lấy gì mà ăn; hay cho thân xác các con: lấy gì mà mặc. Nào mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao?"

Để rồi, sau khi chứng minh cho các môn đệ biết các vị còn quí hơn loài động vật (như "chim trời"và thực vật (như "hoa huệ ngoài đồng") là những loài vô tri thua kém con người, "không gieo vãi, gặt hái, thu hoạch" hay "không lam lũ, không canh cửi", mà còn được Thiên Chúa chăm sóc cho, đến độ Salomon sang trọng cũng "không phục sức được bằng một trong những đoá hoa đó", Người đã khuyên các môn đệ rằng:

"Vậy nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn, mai bị ném vào lò lửa, mà còn được Thiên Chúa mặc cho như thế, huống chi là các con, hỡi những kẻ kém lòng tin. Vậy các con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: 'Chúng ta sẽ ăn gì, uống gì hoặc sẽ lấy gì mà mặc? Vì chưng, dân ngoại tìm kiếm những điều đó. Nhưng Cha các con biết rõ các con cần đến những điều đó". 

Sau cùng Người đã kết luận"Tiên vàn các con hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn các điều đó Người sẽ ban thêm cho các con. Vậy các con chớ áy náy lo lắng về ngày mai. Vì ngày mai sẽ lo cho ngày mai. Ngày nào có sự khốn khổ của ngày ấy".

Cảm Nghiệm

Giáo huấn của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay về tinh thần tin tưởng phó thác cho Đấng Quan Phòng Thần Linh, bằng một đời sống khao khát thần linh và công chính trước nhan Ngài, bằng không, một khi lãng quên Thiên Chúa, từ bỏ Thiên Chúa hay coi thường Thiên Chúa, Đấng là nguyên thủy và là cùng đích của họ, con người sẽ chỉ gặp toàn là bất hạnh, bất mãn và bất an.

Điển hình là vua Gioas thuộc giòng dõi Đavít trong Bài Đọc 1 hôm nay, vị đã nghe theo "các thủ lãnh Giuđa" "xua nịnh" đến độ "bỏ phế đền thờ Chúa là Thiên Chúa tổ phụ họ, để tôn thờ những cây cọc thiêng và các tượng thần". Thậm chí đã sát hại cả tiên tri của Thiên Chúa là Giacaria, vị ngôn sứ đã nhắc nhở họ: "Tại sao các ngươi lỗi phạm giới răn Chúa? Ðó là điều bất lợi cho các ngươi. Các ngươi đã bỏ Chúa thì Chúa sẽ bỏ các ngươi", bất chấp vị tiên trị là con của tư tế Gioiada, vị tư tế đã giúp phục hồi ngai vàng cho vị vua đã được cứu sống khỏi bị sát hại bởi bà nội hoàng thái hậu của vua: "Họ liền họp nhau chống lại người, và theo lệnh vua, họ ném đá người ở hành lang đền thờ Chúa".

Tình trạng vua Giuđa là Gioas và dân Giuđa theo đó đã từ bỏ Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình, lại còn chống lại Ngài bằng cách sát hại sứ giả được Ngài sai đến nhắc nhở họ quay về với Ngài, cuối cùng đã phải lãnh nhận hậu quả tất yếu của mình, chung dân chúng cũng như riêng vua Gioas, như được Bài Đọc 1 hôm nay thuật lại:

"Hết năm ấy, quân đội Syria tiến lên đánh vua Gioas: họ đến xứ Giuđa và thành Giêrusalem, giết hết các thủ lãnh trong dân, và cướp lấy của cải đem về cho vua ở Ðamas. Dù số người Syria chẳng bao nhiêu, nhưng Chúa đã trao vào tay họ dân đông vô số, vì chúng đã bỏ Chúa là Thiên Chúa tổ phụ mình. Quân Syria cũng làm sỉ nhục vua Gioas. Khi họ bỏ vua mà đi, thì vua lâm trọng bệnh. Thần dân nổi dậy chống lại vua, để báo thù giòng máu của con tư tế Gioiađa. Họ giết vua ngay trên giường, và ông đã chết. Họ mai táng ông trong thành Ðavít, nhưng không chôn ông trong mồ các vua".

Tuy nhiên, không phải vì thế mà Thiên Chúa quên lời hứa của Ngài với vương tổ của vua Gioas là Đavít trong việc làm cho ngai báu của vua Đavít tồn tại vĩnh viễn, bất chấp những yếu hèn và vấp phạm của các vị vua kế vị vua, bởi Ngài là Đấng bất biến, "không rút lại tình thương đối với người, vì Ta cũng không phản bội lòng trung tín của Ta", đúng như nội dung của Bài Đáp Ca hôm nay cho thấy: 

1) Ta đã ký minh ước cùng người Ta tuyển lựa, Ta đã thề cùng Ðavít là tôi tớ của Ta rằng: "Cho tới muôn đời Ta bảo tồn miêu duệ của ngươi, và Ta thiết lập ngai báu ngươi qua muôn thế hệ".

2) Ðời đời Ta sẽ dành cho người lòng sủng ái, và lời ước Ta ký với người sẽ được mãi mãi duy trì. Ta sẽ gìn giữ miêu duệ người tới muôn đời, và ngai báu người như những ngày của cõi cao xanh.

3) Nếu con cháu người bỏ không tuân luật pháp, và không ăn ở theo huấn lệnh của Ta, nếu chúng vi phạm những thánh chỉ, và không vâng giữ các chỉ thị của Ta.

4) Ta sẽ dùng roi để phạt tội chúng, và Ta sẽ đánh đòn để sửa lỗi, nhưng Ta sẽ không rút lại tình thương đối với người, vì Ta cũng không phản bội lòng trung tín của Ta.

 

Ngày 21 tháng 6

Thánh Lu-y Gon-da-ga, tu sĩ

lễ nhớ bắt buộc

Sinh năm 1568, gần Man-tu-a miền Lom-bác-đi-a, trong một gia đình Cát-ti-di-ô-nê quyền quý, hấp thụ lòng đạo đức của thân mẫu, Lu-y sớm có khuynh hướng sống đời tu. Sau khi trao lại cho anh (em) phần đất người được tổ tiên giao cho để cai quản, người gia nhập dòng Chúa Giê-su. Trong khi phục vụ bệnh nhân đang kỳ dịch, thánh nhân bị lây và qua đời lúc mới hai mươi ba tuổi (năm 1591).

Bài đọc 2

Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng

Trích thư thánh Lu-y Gon-da-ga gửi cho thân mẫu.

Thưa mẹ khả kính, con cầu xin Chúa Thánh Thần luôn ban xuống cho mẹ ân sủng và niềm an ủi của Người. Khi nhận được thư của mẹ thì con vẫn còn ở trên chốn tử vong này. Nhưng đã đến lúc phải hướng về trời, nơi chúng ta sẽ ca ngợi Thiên Chúa hằng hữu trong cõi đất dành cho kẻ sống. Con cứ tưởng mình đã hoàn tất được cuộc hành trình này trước đây rồi. Nếu bác ái là vui với người vui, khóc với người khóc như thánh Phao-lô nói, thì thưa mẹ khả kính, hẳn là mẹ phải hết sức vui mừng vì Chúa đã tỏ cho con thấy niềm hoan lạc đích thực và sự bảo đảm không bao giờ sợ mất Người nữa ; sở dĩ con được ơn này cũng là vì tình thương và ân sủng Chúa dành cho mẹ.

Thưa mẹ khả kính, con thú thật với mẹ là khi suy nghĩ về lòng nhân hậu của Thiên Chúa, bao la như biển cả không đáy không bờ, thì tâm trí con bàng hoàng, hầu như lạc lõng, không sao hiểu nổi. Quả thật, dù con chẳng vất vả bao nhiêu trong một thời gian vắn vỏi, thế mà Chúa cũng mời con đến nghỉ yên muôn đời. Từ trời cao, Người gọi con đến hưởng hạnh phúc vô biên, hạnh phúc mà con đã không mấy thiết tha tìm kiếm, và Người hứa ban thưởng cho con vì những giọt nước mắt ít ỏi con đã đổ ra.

Thưa mẹ khả kính, xin mẹ hết sức cẩn thận, đừng khóc thương con như khóc thương người chết, kẻo xúc phạm đến lòng nhân từ vô biên của Chúa. Thật ra, con vẫn sống trước nhan Thiên Chúa và những khi cần thiết, con có thể dùng lời cầu nguyện mà giúp đỡ mẹ hữu hiệu hơn cả lúc con còn sống ở trần gian. Cuộc chia ly này sẽ không lâu, vì trên trời chúng ta sẽ gặp lại nhau, và một khi cùng kết hợp với Đấng cứu độ chúng ta, chúng ta sẽ được hưởng niềm vui bất diệt mà hết lòng ngợi khen Chúa và ca tụng tình thương Chúa đến muôn đời. Chúa lấy lại cái Người đã ký thác nơi chúng ta không ngoài ý định là đặt nó vào nơi an toàn chắc chắn hơn và dùng chính những thứ mà chúng ta ước mong có được để làm cho chúng ta nên phong phú.

Thưa mẹ khả kính, sở dĩ con nói những điều đó là vì lòng những ước mong mẹ và toàn thể gia đình coi cuộc ra đi của con như một ân huệ đáng mừng. Xin mẹ lấy tình mẫu tử mà chúc lành cho cuộc hành trình này của con cho đến khi đạt tới bến bờ con vẫn hằng hy vọng. Con đã tự ý viết thư này vì không còn cách nào khác để bày tỏ lòng kính yêu mà một người con phải có đối với mẹ mình.

Lạy Chúa là Đấng ban phát mọi ơn thiêng, Chúa đã cho thánh Lu-y Gon-da-ga vừa sống một cuộc đời trong trắng, lại vừa biết hy sinh hãm mình. Vì công đức và lời chuyển cầu của thánh nhân, xin Chúa rủ lòng thương nâng đỡ, để chúng con, dầu không được trong trắng như người, thì cũng biết noi gương người mà hãm mình đền tội. Chúng con cầu xin

 

 

Thánh Luy Gonzaga

(1568-1591)

 

Thánh Lu-y là một người nổi tiếng thời bấy giờ vì ngài sinh trong một gia đình quý tộc, nhưng đời sống như thiên thần, và cái chết thật thánh thiện. Lu-y là con cả của Hầu Tước Ferrante ở Castiglione nước Ý, phục vụ dưới triều Philip II của Tây Ban Nha. Cha ngài mong cho con mình trở nên một nhà lãnh đạo quân sự tài ba, do đó ngay từ khi bốn tuổi Lu-y đã được tự do tung tăng trong trại lính, làm quen với các vũ khí. Nhưng khi lên bảy, đời sống tâm linh Lu-y thay đổi lạ lùng và hàng ngày cậu đã đọc kinh sách, thánh vịnh và đặc biệt kính mến Ðức Maria. Lúc 13 tuổi, cùng với người em, Lu-y theo cha mẹ lên triều đình và cả hai giữ nhiệm vụ phục dịch cho Don Diego, thái tử người Asturias ở Tây Ban Nha. Càng nhìn thấy sinh hoạt triều đình bao nhiêu, Lu-y càng chán ngán bấy nhiêu và tìm cách khuây khỏa qua hạnh các thánh.

Chính trong thời gian này, khi nghe biết về công cuộc truyền giáo của các cha dòng Tên ở Ấn Ðộ, Lu-y đã có ý định đi tu và tập sống kham khổ cũng như tụ tập các trẻ em nghèo để dạy giáo lý cho chúng. Mơ ước đi tu của Lu-y phải trải qua bốn năm tranh đấu với chính người cha của mình cũng như sự dụ dỗ của rất nhiều chức sắc trong triều. Sau cùng, Lu-y đã chinh phục được tất cả và được nhận vào đệ tử viện dòng Tên lúc 17 tuổi.

Vì nhận thấy sức khỏe yếu kém của Lu-y, các cha giám đốc đã buộc Lu-y phải chấm dứt sự kham khổ, phải ăn nhiều hơn, phải sinh hoạt với các đệ tử khác và không được cầu nguyện ngoài những giờ ấn định. Lu-y được gửi lên Milan đi học, nhưng vì sức khỏe yếu kém nên đã phải trở về Rôma.

Vào năm 1587, Lu-y tuyên khấn. Ðược vài năm sau, trận dịch hạch tấn công Rôma. Các tu sĩ dòng Tên mở một bệnh viện của nhà dòng. Chính cha bề trên cũng như nhiều linh mục đích thân chăm sóc bệnh nhân. Dù sức khỏe yếu kém, Lu-y cũng tận tình phục vụ bệnh nhân và bị lây bệnh. Sau ba tháng bệnh hoạn, Lu-y đã từ trần ngày 21 tháng Sáu 1591, lúc ấy mới 23 tuổi.

Ðời sống thánh thiện của Lu-y được cha linh hướng Robert Bellarmine (sau này là thánh) minh xác. Và ngài được Ðức Giáo Hoàng Bênêđíctô XIII phong thánh năm 1726 và được đặt làm quan thầy các học sinh Công Giáo.

Lời Bàn
Thánh Lu-y dường như không thích hợp là quan thầy của các người trẻ trong một xã hội mà sự khổ hạnh chỉ tìm thấy trong các đội thể thao hay võ thuật. Có thể nào một xã hội luôn dư thừa và đầy tiện nghi lại tự ý khép mình vào kỷ luật? Ðiều đó chỉ có thể xảy ra nếu nó tìm thấy một lý do, cũng như Thánh Lu-y trước đây. Ðộng lực để Thiên Chúa thanh luyện chúng ta là phải cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa qua sự cầu nguyện.

Lời Trích
“Anh em thân mến, khi cầu nguyện chúng ta phải tỉnh thức và tha thiết với tất cả tâm hồn, sốt sắng cầu nguyện. Hãy gạt bỏ tất cả những ý tưởng trần tục, cũng như đừng để linh hồn chúng ta lo lắng về bất cứ điều gì ngoại trừ đối tượng của sự cầu nguyện là Thiên Chúa” (Về Kinh Lạy Cha, Thánh Cyprian).

 

https://dongten.net/2019/06/20/hanh-cac-thanh-21-06-thanh-luy-gonzaga/

 

Lu-y Gonzaga sinh ngày 9 tháng 3 năm 1568, là con trưởng của hầu tước xứ Castiglione, miền bắc nước Ý. Danh tiếng gia đình và kỳ vọng của hầu tước đều được đặt cả vào Lu-y. Lên bốn tuổi, Lu-y đã bắt đầu cùng bố sống trong quân đội, cậu mặc đồ lính, đeo súng và học hỏi nghiệp binh đao. 

 

Ông hầu tước ắt hẳn hài lòng về những gì cậu quý tử đang theo đuổi và hy vọng cậu sẽ làm rạng danh dòng họ Gonzaga hơn nữa. Lên 9 tuổi, Lu-y và cậu em Rudolpho được gởi đến cung điện của hầu tước Francesco de’Medici ở Firenze để học hỏi những nghi lễ của lối sống vương giả. Cũng ở nơi ấy, Lu-y nhìn ra mặt trái của lối sống xa hoa và phóng khoáng; nơi mà người ta luôn có những âm mưu và sẵn sàng lừa gạt nhau, họ giải quyết vấn đề bằng dao và thuốc độc. Nhưng ngay trong môi trường nhiều cạm bẫy đe dọa, bàn tay Chúa bắt đầu hướng dẫn Lu-y theo con đường yêu thương của Ngài.

 

Mặc dù cuộc sống bên ngoài của Lu-y mang nhiều vẻ khác nhau, nội tâm của cậu vẫn hướng về điều thiện bằng việc cầu nguyện và thích thú đọc Thánh vịnh. Nhờ vậy, Lu-y khám phá ra rằng chỉ còn cách rút lui khỏi những cuộc vui và bàn tiệc để tránh phạm tội. Sau thời gian ở Firenze, Lu-y được gởi tới Mantua sống với những người họ hàng. Tại đây, cậu tình cờ đọc được cuốn Tóm lược Giáo lý của Cha Phêrô Canisiô, trong đó có cả phần suy niệm. Lu-y liền dùng tập sách này làm đề tài cầu nguyện hàng ngày và cảm nếm những an ủi lớn lao. Cậu ăn chay 3 ngày mỗi tuần, suy niệm cả ban sáng lẫn ban tối, tham dự thánh lễ hành ngày.

 

Trong một chuyến đi với gia đình đến Tây Ban Nha, Lu-y gặp một cha giải tội dòng Tên ở Madrid và cậu ngày càng muốn trở thành Giêsu hữu. Ngày 15 tháng 8 năm 1583, đang khi cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ trong nhà thờ, từ nội tâm, Lu-y cảm thấy mình được Chúa gọi theo bậc sống tu trì và mong ước gia nhập dòng Tên. Ý đã quyết, Lu-y nguyện theo đuổi đến cùng ơn gọi của mình.

 

Tin này đến tai vị hầu tước và ngay lập tức ông nổi trận lôi đình khiển trách Lu-y nặng lời và tìm đủ mọi cách ngăn cản với hy vọng cậu đổi ý. Nhưng tất cả mọi cách ông hầu tước áp dụng chẳng đem lại thay đổi gì bởi Lu-y một mực xin được từ bỏ tất cả để gia nhập dòng Tên. Ông hầu tước, mặc dù đặt mọi kỳ vọng vào cậu quý tử sẽ là người thừa kế mình trong gia tộc, đành phải để Lu-y ra đi. Tròng lòng hầu tước chẳng hề muốn điều này, nhưng vì thương con, ông đành chiều ý cậu. Đối với ông, Lu-y là “kho tàng quý báu nhất trên cõi đời này”.

 

Tháng 11 năm 1585, Lu-y nhường lại ngôi thế tử cho em trai và lên đường hướng về nhà Tập thánh Anrê ở Rôma. Cùng đi với anh là cả một đoàn tuỳ tùng: cha tuyên uý của gia đình, viên thái sư, một tu sĩ, những người hầu cận. Trên đường, nhắc đến chuyện nhường ngôi thế tử, một người trong đoàn tuỳ tùng nói với anh: “Chắc công tử Rudolpho vui lắm”, Lu-y trả lời:“Tôi còn vui hơn”.

 

Khi vào nhà Tập, Lu-y tâm niệm rằng: “Tôi là thanh sắt cong, phải vào nhà Dòng để được uốn lại cho thẳng”. Trong thực tế, Lu-y nhận thấy rằng nếp sống nhà Tập lại ít đòi hỏi hơn những gì cậu tự đặt ra cho mình khi còn ở nhà. Thực vậy, theo sự hướng dẫn của Cha giám tập, Lu-y không được tiếp tục việc đánh tội như đã quen làm, cậu cũng không được ăn chay thường xuyên như đã thực hành trước đây. Trên hết, Lu-y từ bỏ chính mình để tuân thủ cách tỉ mỉ tiến trình đào luyện trở thành Giêsu hữu. Lu-y bắt đầu tập làm những việc nhỏ nhặt trong nhà như rửa chén, lau nhà, quét mạng nhện… những việc mà trước đây anh chưa từng đụng đến. Hết thời gian nhà Tập, Lu-y tuyên khấn lần đầu ngày 25 tháng 11 năm 1587 và chuyển đến Đại học Rôma để tiếp tục chương trình thần học.

 

Đầu năm 1591, nước Ý lâm nạn đói kém và dịch bệnh hoành hành. Cùng với các anh em khác, Lu-y đi quyên góp thực phẩm, quần áo giúp những bệnh nhân. Lu-y đưa những người bệnh đang hấp hối ngoài đường phố đến bệnh viện, tắm rửa và cho họ ăn, sau đó chuẩn bị cho họ lãnh nhận các bí tích sau cùng. Một lần sau khi trở về từ bệnh viện, Lu-y nói với Cha linh hướng Roberto Bellarmino rằng: “Con tin rằng mình chẳng sống thêm bao lâu nữa. Con cảm thấy nơi mình một khao khát mãnh liệt để làm việc và phục vụ Chúa nơi các bệnh nhân. Con nghĩ rằng Chúa đã không cho con cơ hội này nếu Ngài không muốn đưa con về với Ngài.”

 

Những ngày sau đó, nhiều anh em trẻ bị ngã bệnh, Cha bề trên buộc phải yêu cầu các học viên hạn chế tiếp xúc với người bệnh và chỉ cho phép anh em đến giúp ở bệnh viện Đức Mẹ An Ủi, nơi có những người bệnh nhẹ và ít lây. Một hôm, Lu-y đến bệnh viện, bế một người bệnh và chăm sóc cẩn thận. Về nhà anh ngã bệnh ngay và nằm liệt giường từ ngày 3 tháng 3 năm 1591.

 

Những ngày sau đó, Lu-y đón nhận tất cả những khó chịu thể xác với tâm hồn phó thác kiên vững. Qua cầu nguyện, anh được biết mình sẽ được đưa về với Chúa vào ngày cuối của tuần bát nhật kính Mình Thánh Chúa. Thời gian ấy đến, ngày 21 tháng 6 năm 1591, Lu-y xin được lãnh các bí tích sau cùng. Vào khoảng 11 giờ, Lu-y, tay nắm chặt tượng thánh giá, mắt nhìn thẳng vào Chúa Giêsu chịu đóng đinh và môi miệng anh cố gắng thốt lên Danh Thánh Giêsu lần cuối cùng. Anh ra đi trong bình an khi chỉ mới 23 tuổi.

 

Ngài được Đức Phaolô V tuyên phong chân phước vào ngày 19.10.1605 và được Đức Bênêđictô XIII nâng lên hàng hiển thánh vào ngày 31.12.1726. Anh em Dòng Tên kính nhớ ngài vào ngày 21 tháng 6 hàng năm. Ngài được nhiều người chọn làm đấng cầu bầu cho giới trẻ, sinh viên, những người chăm sóc các bệnh nhân. Anh em Dòng Tên chọn ngài làm đấng cầu bầu cho các học viên thần học.

 

Thánh Lu-y Gonzaga là một tấm gương cho chúng ta, nhất là các bạn trẻ, về sự quảng đại từ bỏ vinh hoa phú quý để bước theo Đức Giêsu Kitô nghèo khó, chịu sỉ nhục, khiêm hạ và hiến thân phục vụ cho anh chị em mình.

 

Cầu nguyện: Lạy Cha, xin giúp chúng con biết noi gương thánh Lu-y Gonzaga, người anh em của chúng con đã từ bỏ vinh hoa phú quý để nên người môn đệ Chúa Giê-su hiền lành và khiêm nhường. Xin đừng để chúng con lây nhiễm tinh thần thế tục, nhưng xin dạy chúng con biết tôn vinh Cha trong mọi sự. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng con. A-men.**R

 

https://ditimchanly.org/sach-kinh-thanh/truyen-cac-thanh/thanh-luy-gonzaga-tu-si-2106.html

 

(có thể tài liệu trên đây được lấy từ tài liệu dưới đây, chỉ thêm vào 3 đoạn cuối cùng mà thôi, vì tài liệu dưới đây mang tên tác giả, còn tài liệu trên không thấy tên ai viết!)

 

THÁNH LUY GONZAGA TUỔI TRẺ DÂNG HIẾN

Luy Gonzaga sinh ngày 9 tháng 3 năm 1568, là con trưởng của hầu tước xứ Castiglione, miền bắc nước Ý. Danh tiếng gia đình và kỳ vọng của hầu tước đều được đặt cả vào Luy. Lên bốn tuổi, Luy đã bắt đầu cùng bố sống trong quân đội, cậu mặc đồ lính, đeo súng và học hỏi nghiệp binh đao. Ông hầu tước ắt hẳn hài lòng về những gì cậu quý tử đang theo đuổi và hy vọng cậu sẽ làm rạng danh dòng họ Gonzaga hơn nữa. Lên 9 tuổi, Luy và cậu em Rudolpho được gởi đến cung điện của hầu tước Francesco de’Medici ở Firenze để học hỏi những nghi lễ của lối sống vương giả. Cũng ở nơi ấy, Luy nhìn ra mặt trái của lối sống xa hoa và phóng khoáng; nơi mà người ta luôn có những âm mưu và sẵn sàng lừa gạt nhau, họ giải quyết vấn đề bằng dao và thuốc độc. Nhưng ngay trong môi trường nhiều cạm bẫy đe dọa, bàn tay Chúa bắt đầu hướng dẫn Luy theo con đường yêu thương của Ngài.

Mặc dù cuộc sống bên ngoài của Luy mang nhiều vẻ khác nhau, nội tâm của cậu vẫn hướng về điều thiện bằng việc cầu nguyện và thích thú đọc Thánh vịnh. Nhờ vậy, Luy khám phá ra rằng chỉ còn cách rút lui khỏi những cuộc vui và bàn tiệc để tránh phạm tội. Sau thời gian ở Firenze, Luy được gởi tới Mantua sống với những người họ hàng. Tại đây, cậu tình cờ đọc được cuốn tóm lược giáo lý với phần suy niệm của Cha Phêrô Canisiô. Luy liền dùng tập sách này làm đề tài cầu nguyện hàng ngày và cảm nếm những an ủi lớn lao.

Trong một chuyến đi với gia đình đến Tây Ban Nha, Luy gặp một cha giải tội dòng Tên ở Madrid và cậu ngày càng muốn trở thành Giêsu hữu. Ngày 15 tháng 8 năm 1583, đang khi cầu nguyện trước ảnh Đức Mẹ trong nhà thờ, từ nội tâm, Luy cảm thấy mình được Chúa gọi theo bậc sống tu trì và mong ước gia nhập dòng Tên. Ý đã quyết, Luy nguyện theo đuổi đến cùng ơn gọi của mình.

Tin này đến tai vị hầu tước và ngay lập tức ông nổi trận lôi đình khiển trách Luy nặng lời và tìm đủ mọi cách ngăn cản với hy vọng cậu đổi ý. Nhưng tất cả mọi cách ông hầu tước áp dụng chẳng đem lại thay đổi gì bởi Luy một mực xin được từ bỏ tất cả để gia nhập dòng Tên. Ông hầu tước, mặc dù đặt mọi kỳ vọng vào cậu quý tử sẽ là người thừa kế mình trong gia tộc, đành phải để Luy ra đi. Tròng lòng hầu tước chẳng hề muốn điều này, nhưng vì thương con, ông đành chiều ý cậu. Đối với ông, Luy là “kho tàng quý báu nhất trên cõi đời này”.

Tháng 11 năm 1585, Luy nhường lại ngôi thế tử cho em trai và lên đường hướng về nhà Tập thánh Anrê ở Rôma. Cùng đi với anh là cả một đoàn tuỳ tùng: cha tuyên uý của gia đình, viên thái sư, một tu sĩ, những người hầu cận. Trên đường, nhắc đến chuyện nhường ngôi thế tử, một người trong đoàn tuỳ tùng nói với anh: "Chắc công tử Rudolpho vui lắm", Luy trả lời:"Tôi còn vui hơn".

Khi vào nhà Tập, Luy tâm niệm rằng: “Tôi là thanh sắt cong, phải vào nhà Dòng để được uốn lại cho thẳng”. Trong thực tế, Luy nhận thấy rằng nếp sống nhà Tập lại ít đòi hỏi hơn những gì cậu tự đặt ra cho mình khi còn ở nhà. Thực vậy, theo sự hướng dẫn của Cha giám tập, Luy không được tiếp tục việc đánh tội như đã quen làm, cậu cũng không được ăn chay thường xuyên như đã thực hành trước đây. Trên hết, Luy từ bỏ chính mình để tuân thủ cách tỉ mỉ tiến trình đào luyện trở thành Giêsu hữu. Luy bắt đầu tập làm những việc nhỏ nhặt trong nhà như rửa chén, lau nhà, quét mạng nhện… những việc mà trước đây anh chưa từng đụng đến. Hết thời gian nhà Tập, Luy tuyên khấn lần đầu ngày 25 tháng 11 năm 1587 và chuyển đến Đại học Rôma để tiếp tục chương trình thần học.

Đầu năm 1591, nước Ý lâm nạn đói kém và dịch bệnh hoành hành. Cùng với các anh em khác, Luy đi quyên góp thực phẩm, quần áo giúp những bệnh nhân. Luy đưa những người bệnh đang hấp hối ngoài đường phố đến bệnh viện, tắm rửa và cho họ ăn, sau đó chuẩn bị cho họ lãnh nhận các bí tích sau cùng. Một lần sau khi trở về từ bệnh viện, Luy nói với Cha linh hướng Roberto Bellarmino rằng: “Con tin rằng mình chẳng sống thêm bao lâu nữa. Con cảm thấy nơi mình một khao khát mãnh liệt để làm việc và phục vụ Chúa nơi các bệnh nhân. Con nghĩ rằng Chúa đã không cho con cơ hội này nếu Ngài không muốn đưa con về với Ngài.”

Những ngày sau đó, nhiều anh em trẻ bị ngã bệnh, Cha bề trên buộc phải yêu cầu các học viên hạn chế tiếp xúc với người bệnh và chỉ cho phép anh em đến giúp ở bệnh viện Đức Mẹ An Ủi, nơi có những người bệnh nhẹ và ít lây. Một hôm, Luy đến bệnh viện, bế một người bệnh và chăm sóc cẩn thận. Về nhà anh ngã bệnh ngay và nằm liệt giường từ ngày 3 tháng 3 năm 1591.

Những ngày sau đó, Luy đón nhận tất cả những khó chịu thể xác với tâm hồn phó thác kiên vững. Qua cầu nguyện, anh được biết mình sẽ được đưa về với Chúa vào ngày cuối của tuần bát nhật kính Mình Thánh Chúa. Thời gian ấy đến, ngày 21 tháng 6 năm 1591, Luy xin được lãnh các bí tích sau cùng. Vào khoảng 11 giờ, Luy, tay nắm chặt tượng thánh giá, mắt nhìn thẳng vào Chúa Giêsu chịu đóng đinh và môi miệng anh cố gắng thốt lên Danh Thánh Giêsu lần cuối cùng. Anh ra đi trong bình an khi mới 23 tuổi.

Thánh Luy Gonzaga
Tu sĩ Dòng Tên
Sinh : 09.03.1568 – tại Castiglione, Bắc Ý.
Qua đời : 21.06.1591
Lễ mừng ngày 21.6
ĐẶNG THẾ NHÂN

http://www.memaria.org/default.aspx?LangID=0&tabId=392&ArticleID=21820