
SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần
XVIII Thường Niên
Năm C (Chúa
Nhật) -
Năm Lẻ (trong
tuần)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Chúa Nhật
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Gv
1, 2; 2, 21-23
"Ích gì cho người bởi mọi việc
mình làm".
Trích sách Giảng Viên.
Giảng Viên đã dạy rằng: Hư không
trên các sự hư không, hư không trên các sự hư không, và mọi sự đều hư
không. Vì kẻ này làm việc vất vả trong sự khôn ngoan, hiểu biết và lo
lắng, rồi phải để sự nghiệp lại cho người ở nhưng không, thì thật là hư
không và tai hại lớn lao. Ích gì cho người bởi mọi việc mình làm mà phải
chịu đau khổ cực lòng dưới phàm trần? Suốt ngày của họ đầy sự đau khổ
gian truân, và ban đêm lại không được yên lòng, thế thì chẳng phải là hư
không sao?
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 94,
1-2. 6-7. 8-9
Ðáp: Ước
chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: các ngươi đừng cứng lòng (c. 8).
Xướng: 1) Hãy tới, chúng ta hãy
reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên
nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người. - Ðáp.
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và
sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người
là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở
tay Người. - Ðáp.
3) Ước chi hôm nay các bạn nghe
tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa trong khu
rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử Ta mặc
dầu đã thấy công cuộc của Ta". - Ðáp.
Bài Ðọc II: Cl
3, 1-5, 9-11
"Anh em hãy tìm những sự trên
trời, nơi Ðức Kitô ngự".
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi
tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, nếu anh em đã
sống lại với Ðức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô
ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng
nghĩ đến những sự dưới đất. Vì anh em đã chết, và sự sống anh em được ẩn
giấu với Ðức Kitô trong Thiên Chúa. Khi Ðức Kitô là sự sống anh em xuất
hiện, bấy giờ anh em sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang. Vậy còn
sống trên địa cầu, anh em hãy kiềm chế các chi thể anh em, là sự gian
dâm, ô uế, dục tình, đam mê xấu xa và hà tiện, tức là sự thờ phượng thần
tượng.
Anh em chớ nói dối với nhau; anh
em hãy lột bỏ người cũ cùng các việc làm của nó, và mặc lấy người mới,
con người được đổi mới theo hình ảnh của Ðấng đã tạo thành nó: ở đấy
không còn là dân ngoại và Do-thái, chịu phép cắt bì hay không chịu phép
cắt bì, người man rợ hay người Scytha, nô lệ hay tự do nữa, nhưng mọi sự
và trong mọi sự có Ðức Kitô.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mt 4,
4b
Alleluia, alleluia! - Người ta
sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán
ra. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 12,
13-21
"Những của ngươi tích trữ sẽ để
lại cho ai?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi ấy, có người trong đám đông
thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, xin Thầy bảo anh tôi chia gia tài
cho tôi". Người bảo kẻ ấy rằng: "Hỡi người kia, ai đã đặt Ta làm quan
xét, hoặc làm người chia gia tài cho các ngươi?" Rồi Người bảo họ rằng:
"Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải
sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu".
Người lại nói với họ thí dụ này
rằng: "Một người phú hộ kia có ruộng đất sinh nhiều hoa lợi, nên suy
tính trong lòng rằng: 'Tôi sẽ làm gì đây, vì tôi còn chỗ đâu mà tích trữ
hoa lợi?' Ðoạn người ấy nói: 'Tôi sẽ làm thế này, là phá các kho lẫm của
tôi mà xây những cái lớn hơn, rồi chất tất cả lúa thóc và của cải tôi
vào đó, và tôi sẽ bảo linh hồn tôi rằng: "Hỡi linh hồn, ngươi có nhiều
của cải dự trữ cho nhiều năm: ngươi hãy nghỉ ngơi, ăn uống vui chơi đi".
Nhưng Thiên Chúa bảo nó rằng: 'Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi
linh hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?' Vì
kẻ tích trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng
vậy".
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm Cảm
Nghiệm
Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật XVIII Năm C hôm nay nhấn mạnh đến mối hiệp
thong thần linh, một mối hiệp thông thần linh vượt lên trên tất cả mọi sự
thuộc về thế gian này nói chung và của cải vật chất nói riêng.
Đó là lý do chính Chúa Giêsu trong Bài Phúc Âm hôm nay đã trực tiếp cảnh báo
người em đòi chia gia tài và gián tiếp người anh tham lam chiếm hữu tất cả
gia tài cho mình rằng:
"Các ngươi hãy coi chừng, giữ mình tránh mọi thứ tham lam: vì chẳng phải
sung túc mà đời sống được của cải bảo đảm cho đâu".
Đúng thế, chỉ có những ai tin có đời sau thì mới cảm thấu được tất cả ý
nghĩa và sự thật trong lời Chúa cảnh giác rất quan trọng khẩn thiết trên
đây: “Chẳng phải sung túc mà đời sống
được của cải bảo đảm cho đâu".
Bởi
vì của cải chỉ là phương tiện chứ không phải là cùng đích của con người, và
con người được dựng nên cho đời sau chứ không phải ở đời này, nên không gì ở
trên đời này có thể làm thỏa nguyện được cõi lòng luôn tìm kiếm chân thiện
mỹ, luôn khắc khoải cho tới khi được nghỉ an trong Chúa, Đấng tạo dựng nên
họ theo hình ảnh thần linh của Ngài và tương tự như Ngài, và là Đấng cứu độ
duy nhất của họ, một tạo vật bất toàn lẫn bất lực cùng bất hạnh nên luôn bất
an.
Và đó cũng là lý do, trong cùng Bài Phúc Âm hôm nay, thành phần có lòng tham
vô đáy, chỉ biết tích lũy và hưởng thụ: “Tôi
sẽ làm thế này, là phá các kho lẫm của tôi mà xây những cái lớn hơn, rồi
chất tất cả lúa thóc và của cải tôi vào đó, và tôi sẽ bảo linh hồn tôi rằng:
‘Hỡi linh hồn, ngươi có nhiều của cải dự trữ cho nhiều năm: ngươi hãy nghỉ
ngơi, ăn uống vui chơi đi’",
chỉ biết tích lũy và hưởng thụ đến độ không biết chia sẻ với người thiếu
thốn hơn mình, nên đã bị Chúa Giêsu thậm tệ nguyền rủa một cách thương tình
như sau:
“Nhưng Thiên Chúa bảo nó rằng: 'Hỡi kẻ ngu dại, đêm nay người ta sẽ đòi linh
hồn ngươi, thế thì những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?' Vì kẻ tích
trữ của cải cho mình mà không làm giàu trước mặt Chúa thì cũng vậy".
Thế nên mới có cảm nghiệm của vị tác giả của Sách Giảng Viên trong Bài Đọc 1
hôm nay, một vị tác giả được cho rằng đã từng là một vị vua sang giầu trần
gian này, một vị quốc vương lừng danh là khôn ngoan, nhưng có đến 700 thiếp
và 300 thê, để rồi cuối cùng chỉ còn biết than lên rằng:
“Hư không trên các sự hư không, hư không trên các sự hư không, và mọi sự đều
hư không. Vì kẻ này làm việc vất vả trong sự khôn ngoan, hiểu biết và lo
lắng, rồi phải để sự nghiệp lại cho người ở nhưng không, thì thật là hư
không và tai hại lớn lao. Ích gì cho người bởi mọi việc mình làm mà phải
chịu đau khổ cực lòng dưới phàm trần? Suốt ngày của họ đầy sự đau khổ gian
truân, và ban đêm lại không được yên lòng, thế thì chẳng phải là hư không
sao?”
Tuy nhiên, ngay từ
ban đầu, con người đã tự động dứt bỏ mối hiệp thông thần linh với Thiên
Chúa, ngoại tình với thế gian, theo sự mai mối tinh ranh của ma quỉ, chạy
theo những gì không phải là Chúa, bám víu lấy phương tiện thấp hèn tạm bợ
hơn là cùng đích bất biến của mình, đã “yêu
chuộng tối tăm hơn ánh sáng”
(Gioan 3:19), mà họ đã trở thành đáng thương trước Vị “Thiên Chúa là tình
yêu” (1Gioan 4:8,16) vô cùng nhân hậu, đến độ họ đã được Ngài tỏ lòng thương
cứu độ họ trong Chúa Kitô và nhờ Chúa Kitô Con của Ngài.
Chính vì thế, chính vì chung loài người đã được Con
Thiên Chúa làm người cứu độ, nhất là thành phần tin tưởng chấp nhận Người
nơi Phép Rửa mà họ đã được vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô khuyên dạy sống xứng
đáng với thân phận được tái sinh của họ như sau trong Bài Đọc 2:
“Anh
em thân mến, nếu anh em đã sống lại với Ðức Kitô, anh em hãy tìm những sự
trên trời, nơi Ðức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự
trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất. Vì anh em đã chết, và sự
sống anh em được ẩn giấu với Ðức Kitô trong Thiên Chúa. Khi Ðức Kitô là sự
sống anh em xuất hiện, bấy giờ anh em sẽ xuất hiện với Người trong vinh
quang. Vậy còn sống trên địa cầu, anh em hãy kiềm chế các chi thể anh em, là
sự gian dâm, ô uế, dục tình, đam mê xấu xa và hà tiện, tức là sự thờ phượng
thần tượng”.
Chính vì con người đã được Thiên Chúa cứu độ như thế mà cần phải xứng dáng
đáp ứng lại lòng thương xót của Ngài, theo tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay
như sau:
1) Hãy tới, chúng ta hãy reo mừng
Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên nhan với lời ca
ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người.
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng
tạo thành ta. Vì chính Người là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn
dẫn, là đoàn chiên thuộc ở tay Người.
3) Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba,
như hôm ở Massa trong khu rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách
Ta, họ đã thử Ta mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta".
Thứ Hai
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) Ds
11, 4b-15
"Một mình tôi không mang nổi
dân này".
Trích sách Dân Số.
Trong những ngày ấy, con cái
Israel nói rằng: "Ai sẽ cho chúng tôi thịt ăn? Chúng tôi nhớ lại hồi còn
ở Ai-cập, cá thì được ăn không, rồi có dưa chuột, dưa gang, rau cải,
hành tỏi. Giờ thì chúng tôi suy nhược, thiếu hết mọi thứ: quay đi ngó
lại chỉ thấy manna".
Manna hình giống hạt ngò, sắc
giống hạt châu. Dân chúng đi rảo quanh mà hốt, rồi cho vào cối mà xay
hoặc lấy chày mà giã; sau cùng, bỏ vào nồi nấu thành bánh. Mùi vị nó như
bánh chiên dầu. Cứ thường đêm, khi sương sa xuống trại thì manna cũng
rơi xuống.
Môsê nghe dân chúng than khóc, nhà
nào cũng đứng ở cửa lều. Chúa bừng bừng nổi giận. Môsê rất đỗi bực mình.
Ông thưa cùng Chúa rằng: "Sao Chúa làm khổ tôi tớ Chúa? Sao con không
được nghĩa với Chúa? Sao Chúa bắt con phải mang cả dân này? Con đâu có
cưu mang cả đám dân này, con đâu có sinh ra nó, mà Chúa bảo con: "Hãy ẵm
nó vào lòng, như vú nuôi ẵm trẻ thơ, hãy mang nó vào đất Ta đã thề hứa
ban cho tổ tiên nó?" Con biết tìm đâu ra thịt để cho cả đám dân này? Họ
kêu khóc với con rằng: "Hãy cho chúng tôi ăn thịt". Một mình con không
mang nổi dân này vì là gánh nặng nề đối với con. Nếu Chúa muốn xử với
con như thế, thì xin giết con đi, và cho con được nghĩa với Chúa, kẻo
con phải khốn cực dường này".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 80,
12-13. 14-15. 16-17
Ðáp: Hãy reo
mừng Thiên Chúa là Ðấng phù trợ chúng ta (c. 2a).
Xướng: 1) Dân tộc của Ta chẳng có
nghe Ta; Israel đã không vâng lời Ta răn bảo. Bởi thế nên Ta để mặc cho
chúng cứng lòng, để chúng sinh hoạt tuỳ theo sở thích. - Ðáp.
2) Phải chi dân tộc của Ta biết
nghe lời Ta, Israel biết theo đường lối của Ta mà ăn ở, thì lập tức Ta
sẽ triệt hạ kẻ thù của chúng, và để đập tan quân địch của chúng, Ta sẽ
trở tay. - Ðáp.
3) Quân thù của chúng sẽ phải xưng
tụng chúng, và vận mạng của chúng sẽ bền vững muôn đời. Ta sẽ lấy tinh
hoa lúa mì nuôi dưỡng chúng, và cho chúng ăn no mật từ hốc đá chảy ra. -
Ðáp.
Alleluia: Mt 4,
4b
Alleluia, alleluia! - Người ta
sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán
ra. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 14,
13-21
"Mọi người đều ăn no".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu nghe tin Gioan
Tẩy Giả đã chết, thì Người rời bỏ nơi đó xuống thuyền đi đến nơi hoang
địa vắng vẻ. Dân chúng nghe biết, thì từ các thành phố đi bộ theo Người.
Ra khỏi thuyền, Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ và chữa
những người bệnh tật trong họ.
Chiều tới, các môn đệ đến gần thưa
Người rằng: "Ðây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi: xin Thầy giải
tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn".
Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông
rằng: "Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn". Các ông thưa lại
rằng: "Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá". Người bảo
các ông rằng: "Hãy đem lại cho Thầy".
Khi Người đã truyền cho dân chúng
ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên
trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các ông này phân
phát cho dân chúng. Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười
hai thúng đầy những miếng bánh vụn. Số người ăn là năm ngàn người đàn
ông, không kể đàn bà và con trẻ.
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm Cảm Nghiệm
Xin Thầy giải tán
dân chúng </>
Các con hãy cho họ ăn
Bài Phúc Âm
cho Thứ Hai Tuần
XVIII Thường Niên hôm nay của Thánh Ký Mathêu thuật lại biến cố phép lạ
bánh hóa ra nhiều từ 5 ổ bánh và 2 con cá. Cùng biến cố hóa bánh ra nhiều
lần thứ nhất này cũng đã được Phúc Âm của Thánh
ký Gioan thuật lại trong Chúa
Nhật XVII Thường Niên Năm B tuần trước.
Trong bài Phúc Âm được Thánh ký
Gioan thuật lại về
biến cố phép lạ hóa bánh ra nhiều thì Chúa
Giêsu đóng vai
chủ động. Ở chỗ, chính Người lên tiếng hỏi các vị môn đệ của
Người trước và Người
đích thân phân phát bánh cùng cá cho dân chúng.
Chính Người lên tiếng hỏi: "Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông
dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: 'Ta mua đâu được bánh cho
những người này ăn?' Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết
việc Người sắp làm".
Chính Người đích thân phân phát bánh cùng cá cho dân: "Bấy
giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ
ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích".
Trong khi đó, ở
bài Phúc Âm Thánh ký Mathêu hôm nay, các tông đồ đóng vai chủ động, cả về
việc quan tâm đến dân chúng lẫn phân phát cho dân chúng.
Các tông đồ quan tâm đến dân
chúng: "Chiều
tới, các môn đệ đến gần thưa Người rằng: 'Đây là nơi hoang địa, mà giờ đã
chiều rồi: xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức
ăn'".
Các tông đồ phân phát cho dân chúng:
"Khi
Người đã truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh và
hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn
đệ, các ông này phân phát cho dân chúng".
Tuy nhiên, việc các tông đồ quan
tâm đến dân chúng đói ăn đây có tích cách tiêu cực hơn là tích cực. Ở
chỗ các vị đẩy trách nhiệm cho chính dân chúng hơn là chính các vị tìm cách
thỏa đáng nhu cầu đói ăn của họ. Lý do cũng dễ hiểu, là vì việc làm ấy quá
sức của các vị. Thế nhưng Thày của các vị đang ở đó: tại sao các vị
không đến với Người như Mẹ Maria đã đến với Người trong tiệc cưới Cana mà
nhắc khéo Người rằng: "Thày ơi, dân
chúng đang đói kìa!"
Cho
dù các tông đồ không tích
cực và chủ động trong việc đáp ứng nhu cầu đói ăn
của dân chúng bấy giờ, nhưng các vị hình
như đã sửa soạn sẵn sàng nên đã mau mắn đáp lại khi được Chúa Giêsu hỏi các
vị trước khi Người ra tay làm phép lạ hóa bánh ra nhiều:
"Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: 'Họ chẳng cần phải
đi, các con hãy cho họ ăn'. Các ông thưa lại rằng: 'Ở đây chúng con chỉ có
năm chiếc bánh và hai con cá'. Người bảo các ông rằng: 'Hãy đem lại cho
Thầy'".
Thật
sự là các tông đồ đã sửa soạn sẵn sàng, bởi thế, vừa được Chúa Giêsu hỏi là
các vị trả lời liền, không cần phải thắc mắc hay do dự gì, sau đó các
vị đáp ứng ngay khi được Chúa bảo: "Hãy
đem lại cho Thầy".
Căn cứ vào chi tiết nho
nhỏ này thì có
thể các tông đồ đã đi thăm dò dân chúng xem họ có mang theo lương
thực phòng thân hay chăng, nhưng chắc các vị thấy hầu hết hay hầu như chẳng
mấy ai có gì để ăn uống hết, ngoài trừ có một cậu bé có 5 ổ bánh và 2 con
cá.
Thấy tình hình như thế nên các
vị mới giục Thày giải tán dân chúng cho họ đi tìm của ăn. Nhưng không ngờ lý
lẽ của Chúa Giêsu khác với, đúng ra hơn hẳn lý lẽ của các tông đồ, ở chỗ,
không phải là dân chúng tự lo giải quyết tình trạng đói ăn của họ mà ngược
lại: "Họ chẳng
cần phải đi, các con hãy cho họ ăn".
Có những giải thích phép lạ
Chúa Giêsu làm theo kiểu khoa học, như thể cố ý hay tìm cách xuyên tạc
phép lạ Chúa Giêsu làm, bằng cách gián tiếp hay trực tiếp chối
bỏ các phép lạ của Người. Chẳng hạn trong phép lạ bánh hóa ra nhiều này, họ
giải thích rằng vì dân chúng nghe lời giảng của Chúa Giêsu xong thì động
lòng nên ai có đồ ăn thức uống thì mang ra chia cho nhau cùng ăn cùng uống,
nên ai cũng ăn no.
Vậy thì "12 thúng đầy"
dư ở đâu mà ra, dư từ
5 chiếc bánh và 2 con cá hóa nhiều hay từ đồ ăn của
dân chúng san sẻ cho nhau? Nếu
thế thì (theo Phúc Âm Thánh ký Gioan) chính Chúa Giêsu phân phát cho dân
chúng bánh trước và cá sau phải hiểu như thế nào, từ 5 ổ bánh và 2 con cá
hay từ những gì của chính dân chúng chứ? Và
trong Phúc Âm Thánh ký Mathêu hôm nay, lời Chúa Giêsu bảo các tông đồ "Họ chẳng
cần phải đi, các
con hãy cho họ ăn"
phải hiểu ra sao, từ 5 ổ bánh và 2 con cá do Người
làm phép lạ hóa ra nhiều hay
từ những gì của dân chúng mang theo??
Phép lạ hóa bánh ra nhiều của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay đã
được báo trước qua hình ảnh manna do Thiên Chúa hằng ngày ban cho dân
Do Thái trong thời gian 40 năm hành trình băng qua sa mạc từ Biển Đỏ về
Đất Hứa, một thứ lương thực mà họ nhưng không được hưởng và vì thế họ
cũng tưởng là "bởi trời" như Bánh Sự Sống là chính Chúa Kitô khi Người
giảng cho họ nghe về Bánh Sự Sống này ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 6. Sách
Dân Số ở Bài Đọc 1 hôm nay đã diễn tả manna như thế này:
"Manna hình giống hạt ngò, sắc
giống hạt châu. Dân chúng đi rảo quanh mà hốt, rồi cho vào cối mà xay
hoặc lấy chày mà giã; sau cùng, bỏ vào nồi nấu thành bánh. Mùi vị nó như
bánh chiên dầu. Cứ thường đêm, khi sương sa xuống trại thì manna cũng
rơi xuống".
Nếu các tông đồ ở trong bài Phúc Âm hôm nay không biết giải quyết thế
nào khi được Chúa Kitô bảo các vị rằng: "Họ
chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn'", sau khi các vị cảm thấy
gánh nặng phải lo cho dân chúng quá ư là đông đảo đã ngỏ ý cùng Người "xin
Thầy giải tán dân chúng",
thì trong Bài Đọc 1 hôm nay, Moisen cũng cảm thấy gánh nặng đến độ muốn
hoàn toàn trút bỏ như sau:
"Sao Chúa làm khổ tôi tớ Chúa? Sao con không được nghĩa với Chúa?
Sao Chúa bắt con phải mang cả dân này? Con đâu có cưu mang cả đám dân
này, con đâu có sinh ra nó, mà Chúa bảo con: 'Hãy ẵm nó vào lòng, như vú
nuôi ẵm trẻ thơ, hãy mang nó vào đất Ta đã thề hứa ban cho tổ tiên
nó?'".
Tâm trạng của Moisen chán nản đến tột cùng, như ông van xin Chúa cũng
trong Bài Đọc 1 hôm nay rằng: "Một mình con không mang nổi dân này
vì là gánh nặng nề đối với con. Nếu Chúa muốn xử với con như thế, thì
xin giết con đi, và cho con được nghĩa với Chúa, kẻo con phải khốn cực
dường này", xét về phương diện loài người, như phản ảnh tâm trạng
của Thiên Chúa trước dân của Ngài, một tâm trạng được Thánh Vịnh 80 ở
bài Đáp Ca hôm nay cho thấy như sau:
1) Dân tộc của Ta chẳng có
nghe Ta; Israel đã không vâng lời Ta răn bảo. Bởi thế nên Ta để mặc cho
chúng cứng lòng, để chúng sinh hoạt tuỳ theo sở thích.
2) Phải chi dân tộc của Ta biết nghe lời Ta, Israel biết theo đường
lối của Ta mà ăn ở, thì lập tức Ta sẽ triệt hạ kẻ thù của chúng, và để
đập tan quân địch của chúng, Ta sẽ trở tay.
3) Quân thù của chúng sẽ phải xưng
tụng chúng, và vận mạng của chúng sẽ bền vững muôn đời. Ta sẽ lấy tinh
hoa lúa mì nuôi dưỡng chúng, và cho chúng ăn no mật từ hốc đá chảy ra.
Ngày 4 tháng 8
Thánh Gio-an Ma-ri-a Vi-a-nê, linh mục
lễ nhớ bắt buộc

Thánh nhân sinh năm 1786 tại Ly-ông. Sau biết bao khó khăn gian khổ,
người làm linh mục và được giao phó nhiệm vụ làm cha sở họ Ác-xơ
thuộc giáo phận Ben-le. Người quả là vị mục tử gương mẫu : hoàn toàn
lo việc loan báo Lời Thiên Chúa, giải tội, cầu nguyện và hãm mình.
Có nhiều lúc, khuôn mặt người rạng rỡ khác thường, nhờ tình yêu bắt
nguồn từ bí tích Thánh Thể mà người đem hết lòng sốt sắng để vừa cử
hành, vừa thờ phượng. Người qua đời năm 1859.
Các con thân mến, kho tàng của người Ki-tô hữu không phải ở dưới
đất, nhưng ở trên trời. Thế thì lòng trí chúng ta phải hướng đến
nơi có kho tàng của chúng ta.
Con người có một bổn phận cao đẹp là cầu nguyện và yêu mến...
Các con cầu nguyện, các con yêu mến : đó là hạnh phúc của con
người trên trần gian.
Cầu nguyện không gì khác hơn là kết hợp với Thiên Chúa. Khi có
tâm hồn trong sạch và gắn bó với Thiên Chúa, ta thấy nơi mình
một thứ hương thơm dịu dàng ngây ngất, một luồng ánh sáng rực rỡ
chói chang. Trong mối kết hợp mật thiết này, Thiên Chúa và linh
hồn tựa hai khối sáp nóng chảy hoà vào nhau, không thể tách rời
nhau nữa. Thiên Chúa kết hợp với thụ tạo bé nhỏ của Người : đẹp
đẽ biết bao ! Hạnh phúc này, không sao hiểu thấu.
Xưa kia chúng ta chẳng xứng đáng cầu nguyện, nhưng Thiên Chúa đã
thương cho chúng ta được thưa chuyện với Người. Lời cầu nguyện
của chúng ta là làn hương thơm rất đẹp lòng Người.
Các con thân mến, trái tim các con nhỏ hẹp, nhưng lời cầu nguyện
sẽ khiến nó mở rộng và có sức yêu mến Thiên Chúa... Cầu nguyện
là nếm trước hạnh phúc trời cao, là làm cho phúc lộc thiên đàng
tuôn đổ. Không bao giờ cầu nguyện mà không thấy dịu êm. Cầu
nguyện là mật chảy vào hồn, biến tất cả nên êm ái ngọt ngào.
Buồn phiền cực nhọc sẽ biến tan khi cầu nguyện sốt sắng, tựa
tuyết tan dưới ánh mặt trời.
Cầu nguyện làm cho thời gian đi rất mau và đầy hứng thú, khiến
ta không cảm thấy lâu. Đúng vậy : hồi các cha sở vùng Bơ-rét-xơ
bị bệnh hầu hết, cha phải đi khắp vùng. Cha vừa đi vừa cầu
nguyện với Thiên Chúa nhân lành. Nói thật với các con là cha
chẳng thấy lâu gì cả.
Cha biết có những người đắm chìm trong cầu nguyện như cá trong
nước. Họ thuộc trọn về Thiên Chúa nhân lành. Họ không bị chia
trí. Ôi, cha mến những tâm hồn quảng đại này quá ! Thánh
Phan-xi-cô Át-xi-di và thánh Co-lê-ta trông thấy Chúa và chuyện
vãn với Người như chúng ta vẫn trò chuyện với nhau. Còn chúng
ta, biết bao lần chúng ta đến nhà thờ mà chẳng biết mình đến để
làm gì, cũng chẳng biết mình muốn xin gì ! Thế mà khi đến nhà ai
thì ta lại biết rõ mình đến để làm gì... Có những người như muốn
nói với Thiên Chúa nhân lành rằng : “Con đến nói mấy câu cho
xong chuyện với Chúa đây...” Cha thường nghĩ rằng : Khi đến tôn
thờ Chúa, chúng ta sẽ được mọi điều như sở nguyện, với điều kiện
là lời cầu xin của chúng ta đi đôi với một đức tin sống động và
một tấm lòng thật trong trắng.
Lời nguyện
Lạy Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu, Chúa đã làm cho thánh linh
mục Gio-an Ma-ri-a nên một tấm gương tuyệt vời về lòng tận tuỵ
hy sinh của người mục tử. Vì lời thánh nhân cầu thay nguyện
giúp, xin cho chúng con hằng noi theo lòng bác ái của người mà
cố gắng đem nhiều anh em về với Đức Ki-tô, để muôn đời cùng nhau
hưởng nguồn vinh phúc. Chúng con cầu xin
Ngày 04/08: Thánh Gioan Maria Vianney, linh mục, bổn mạng ...


Trong chuyến Hành Hương Thánh Mẫu - Thời Điểm Maria 2017,
phái đoàn TĐCTT chúng tôi đã ghé kính viếng di tích lịch sử của Thánh
Gioan Vianney sáng ngày 19/5, và thấy được cuộc đời khổ hạnh thánh đức
của ngài ra sao....



Nhà bếp của Cha Sở Họ Ars Gioan Vianney, Vị Thánh Khổ Hạnh chuyên hãm
mình ăn khoai cả đời



Thánh Gioan Vianney chẳng những ăn chay mà còn đánh tội nữa, để chẳng
những đền tội lỗi của mình mà còn đền tội cho những hối nhân đến xưng
tội với ngài nữa.

Bởi thế lũ ma quỉ rất căm tức thánh nhân vì ngài đã cướp lấy khỏi tay
chúng biết bao nhiêu là mồi ngon cho hỏa ngục, nên chúng đã quấy phá
ngài nhất là về đêm là lúc ngài cần nghỉ ngơi một chút để lấy sức làm
mục vụ.




Ở nơi đây, dưới thánh tích của ngài là một chút chất ở bộ não, chúng tôi
đã khởi hứng hát bài Lúa Chín Đầy Đồng để xin ngài chuyển cầu cùng Chúa
ban thêm ơn gọi linh mục cho Giáo Hội

Tòa giải tội trước đây của Cha Sở Họ Ars, quan thày của các cha xứ.
Không ngờ một chủng sinh dốt nát như ngài, không đủ khả năng về kiến
thức để làm linh mục, mà Chúa lại chọn làm linh mục nhờ nhân đức của
ngài
Thứ Ba
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) Ds
12, 1-13
"Môsê không như tiên tri khác;
sao các ngươi dám nói xấu ông ta?"
Trích sách Dân Số.
Trong những ngày ấy, Maria và
Aaron nói xấu ông Môsê, vì vợ ông này là người xứ Êthiôpia. Họ nói:
"Thiên Chúa chỉ phán với một mình Môsê mà thôi ư? Người chẳng phán cùng
chúng ta như thế sao?" Chúa nghe biết sự ấy - vì Môsê là người hiền lành
nhất trong thiên hạ - Chúa liền phán cùng Môsê, Aaron và Maria rằng: "Cả
ba hãy đến nhà xếp giao ước".
Khi cả ba ra đi, thì Chúa ngự
xuống trong cột mây, đứng ngay ở cửa nhà xếp, gọi Aaron và Maria. Hai
người tiến tới, và Chúa phán rằng: "Hãy nghe lời Ta nói đây: Nếu trong
các ngươi có ai là tiên tri của Chúa, thì Ta hiện ra cùng người ấy trong
thị kiến; hay Ta nói truyện với người ấy trong giấc mộng. Nhưng Môsê tôi
tớ của Ta không phải thế. Ông rất trung thành trong cả nhà Ta. Ta trực
tiếp đối diện nói truyện với ông, ông thấy Chúa tỏ tường, không bí ẩn
hay là hình bóng. Vậy sao các ngươi dám chê trách Môsê tôi tớ của Ta?"
Chúa nổi giận họ mà bỏ đi, và đám mây trên nhà xếp cũng bay đi. Thế là
Maria bị phung cùi, mình trắng như tuyết.
Aaron ngoảnh lại thấy bà ấy đã bị
phung cùi, nên nói với Môsê rằng: "Thưa Ngài, xin đừng phạt chúng tôi đã
dại phạm tội. Xin đừng để em tôi nên như kẻ chết và như trẻ sinh non?
Ðây phân nửa thịt nó đã bị bệnh phung cùi làm thối nát". Môsê kêu van
cùng Chúa rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin Chúa cứu chữa bà ấy".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 50,
3-4. 5-6a. 6bc-7. 12-13
Ðáp: Lạy Chúa,
nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, vì con đã phạm tội (c. 3a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, nguyện thương
con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin
rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. - Ðáp.
2) Vì sự lỗi con thực là con biết,
và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch cùng một Thiên
Chúa. - Ðáp.
3) Con thi hành điều ác trước
thiên nhan, hầu tỏ ra Chúa công bình khi phê phán. Này coi, con đã chào
đời trong ô uế, và trong tội, mẹ đã hoài thai con. - Ðáp.
4) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con
quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con.
Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra
khỏi con. - Ðáp.
Alleluia: Tv
24, 4c và 5a
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa,
xin dạy bảo con lối bước của Chúa và xin hướng dẫn con trong chân lý của
Ngài. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 14,
22-36
"Xin truyền cho con đi trên mặt
nước mà đến cùng Thầy".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi dân chúng đã ăn no, lập tức
Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong
lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện
một mình. Ðến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa
biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió.
Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt
biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hồn
mà nói rằng: "Ma kìa" và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức, Chúa
Giêsu nói với các ông rằng: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ". Phêrô thưa
lại rằng: "Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt
nước mà đến cùng Thầy". Chúa phán: "Hãy đến". Phêrô xuống khỏi thuyền
bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ
hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: "Lạy Thầy, xin cứu con". Lập tức,
Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: "Người hèn tin, tại sao lại nghi
ngờ?" Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở
trong thuyền đến lạy Người mà rằng: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!"
{Khi
đã sang qua biển hồ, các ngài lên bộ và ghé vào Ghênêsarét. Nhận ra
Ngài, dân địa phương liền loan tin đi khắp cả vùng xung quanh, và người
ta đem đến cho Ngài hết mọi kẻ ốm đau. Họ nài xin Ngài cho họ rờ đến tua
áo choàng của Ngài thôi, và ai đã rờ đến thì đều được chữa lành}.
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm Cảm Nghiệm:
Chúa thích chơi trò ma quái
Bài Phúc Âm cho
Thứ Ba Tuần XVIII Thường Niên
hôm nay thuật
lại một biến
cố xẩy ra sau phép lạ
bánh hóa nhiều. Biến cố này xẩy
ra thứ tự 4 phần
như sau:
Phần nhất: "Khi
dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà
qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ
xong, Người lên núi cầu nguyện một mình. Đến chiều, Người vẫn ở đó một
mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược
gió".
Ở đây
chúng ta thấy chính Chúa Giêsu
giải tán dân chúng, chứ Người không bảo các tông đồ làm
một việc xứng với thân phận và vai trò là môn đệ
được Người chọn gọi. Người đích
thân
làm
việc này có thể là vì "Người
lên núi cầu nguyện một mình". Bởi đó
Người đã "giục
môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước", con
thuyền mà Thày trò đã sử dụng để
tránh dân chúng tuốn đến trước đó (xem Marco 6:32). Và có thể là vì một
mục đích khác nữa, có lợi cho các tông đồ, nên cho mãi "đến
chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng
đánh chập chờn vì ngược gió".
Phần hai: "Canh
tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi
trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: 'Ma kìa' và các ông sợ hãi
kêu la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: 'Hãy yên
tâm. Thầy đây, đừng sợ'".
Phải, ở đây
chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu cố ý để cho thuyền của các tông đồ "ra
giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió" rồi
Người mới xuất hiện giữa đêm tối: "Canh
tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông", chứ
không xuất hiện với các vị khi
trời còn sáng và vào lúc
không có sóng gió gì, khiến các ông
bấy giờ không còn nhận ra Người, càng hoảng sợ hơn nữa: "mà
nói rằng: 'Ma kìa' và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng". Thiên
Chúa hay chơi trò ma quái này với thành phần thiểu số được
Ngài tuyển chọn, và Ngài thích tỏ
mình ra trong những cơn gian nan khốn khó của những ai cần tin vào Ngài:
"Hãy
yên tâm. Thầy đây, đừng sợ".
Phần
ba: "Phêrô
thưa lại rằng: 'Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi
trên mặt nước mà đến cùng Thầy'. Chúa phán: 'Hãy đến'. Phêrô xuống khỏi
thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh,
ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: 'Lạy Thầy, xin cứu con'.
Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: 'Người hèn tin, tại sao
lại nghi ngờ?' Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những
người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: 'Thật, Thầy là Con Thiên
Chúa!'".
Được trấn an và nhận ra quả thực là Thày của
mình chứ chẳng phải ma quái gì, Tông Đồ Phêrô chẳng những cảm thấy hết
sợ mà còn trở nên khoái chí đến độ đã xin với Người rằng:
"Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà
đến cùng Thầy". Chúng ta
thấy Tông Đồ Phêrô không tự ý nhào ra khỏi thuyền mà đến với Thày mà là
xin lệnh của Thày trước. Và khi được Người cho phép "hãy đến"
ngài liền "xuống
khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu".
Về sự
kiện Chúa Giêsu đi trên mặt nước đến cùng các môn đệ này cũng thế, người
ta cũng tìm cách giải thích nghe có lý để gạt bỏ những gì gọi là phép lạ
của Chúa Giêsu đi. Chẳng hạn, họ giải thích rằng bấy giờ là mùa đông nên
nước bị đông cứng và do đó Chúa Giêsu đã bước đi trên tảng băng chứ không
phải trên nước. Đúng là một giải thích trẻ con, chỉ đánh lừa được những
ai không cẩn thận đọc Thánh
Kinh. Vậy thì chỉ có chỗ Tông Đồ Phêrô bị chìm xuống là chỗ duy nhất
không bị đông đá hay sao? Hay chỉ có chỗ nào Chúa Giêsu đi thì mới bị
đóng băng còn chỗ nào thuyền của các môn đệ chèo thì toàn là nước à?
Thật
là một hiện tượng có vẻ ảo thuật hơn là thiên nhiên.
Chúng
ta không biết được từ thuyền đến chỗ Chúa Giêsu đang đi trên biển mà đến
với thuyền của các
tông đồ bao xa. Nhưng chắc cũng không
còn xa cho lắm, bởi trong đêm tối các tông đồ còn có thể nhìn
thấy được Người và còn có thể nghe được
tiếng của Người giữa sóng gió ào ào.
Vậy từ thuyền đến chỗ của Chúa Giêsu rất gần nên có thể suy đoán rằng
Tông Đồ Phêrô vừa mới ra khỏi thuyền được một chút thì đã cảm thấy chới
với: "Khi
thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: 'Lạy Thầy,
xin cứu con'".
Tất
nhiên Chúa Giêsu ở ngay đó không thể nào để cho vị tông đồ này chết
chìm: "Lập
tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: 'Người hèn tin, tại sao lại
nghi ngờ?'". Đúng thế, chỉ vì "nghi
ngờ" mà Tông Đồ Phêrô mới bị chìm xuống, trái lại, nếu sóng gió càng
mạnh, càng cản trở vị tông đồ này đến cùng Chúa Giêsu, mà ngài cứ tiếp
tục thắng vượt tất cả, bằng một lòng tin tưởng tuyệt đối vào
Thày, Đấng đang ở ngay phía trước mặt ngài và là chính mục tiêu tiến đến
của ngài, thì chắc chắn ngài đã gặp được Người trong chính sóng gió
và giữa đêm tối.
Dầu sao Chúa Giêsu cũng đạt được mục đích
của Người là tỏ mình ra cho các tông đồ giữa cơn gian nan khốn khó đầy
hiểm nguy của các vị để các vị nhờ đó mà tin vào Người: "Khi
cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền
đến lạy Người mà rằng: 'Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!'".
"Khi
cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng" có
nghĩa là cuộc thử thách đức tin của các tông đồ được Chúa Giêsu sắp xếp
xẩy ra chỉ tới đó thôi, nghĩa là cho tới khi Người bước vào trong thuyền
của các vị, và cũng chính là lúc và là nơi các vị nhận biết
Người đúng như những gì Người mong muốn nơi các vị: "Những
người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: 'Thật, Thầy là Con Thiên
Chúa!'"
Điều tích cực cần phải áp dụng thực hành được bài Phúc
Âm gợi lên cho chúng ta hôm nay được rút từ trường hợp của tông đồ
Phêrô, vị tông đồ một khi hoảng sợ, ở chỗ bị chi phối bởi ngoại cảnh cuồng phong
nên bị chìm xuống thế nào, thì một khi Kitô hữu chúng ta không gắn mắt
đức tin của chúng ta vào Chúa, Đấng làm chủ mọi sự bằng đường lối quan
phòng thần linh vô cùng sâu nhiệm và khôn ngoan của Ngài cho phần rỗi
của con người, mà chỉ vào những sự kiện hay con người
gây khốn cho mình, chúng ta khó lòng, nếu không muốn nói là không thể
nào không tức giận, không trả đũa, bất an ..., nghĩa là chúng ta bị chìm
xuống dưới nước là hình ảnh bản tính tự nhiên của chúng ta, chứ không
vượt trên (như tông đồ Phêrô đi trên mặt nước) bản tính tự nhiên của
mình, cho tới khi chúng ta nhìn lên Chúa, sống đức tin, như tông đồ
Phêrô đã tuyên xưng qua lời kêu cứu của ngài: "Thày ơi, cứu con với".
Điều tiêu cực cần phải tránh đó là đừng bao giờ để mắt của mình bị quáng
gà đến độ "nhìn cò ra quạ", nhìn Chúa lại tưởng ma. Tại sao? Tại vì
hoảng sợ! Tại vì bất an! Chính cái hoảng sợ và bất an làm cho mắt con
người bị mờ đi, khiến cho sự thật trước mắt bị nhạt nhòa, bị sóng sánh,
bị chao đảo đến độ bị biến dạng trước những con mắt không còn làm chủ
được mình. Như thế, chỉ còn một cách duy nhất để tránh khỏi bị tình trạng quáng gà
khốn nạn thảm thương đó là áp dụng đường lối tích cực trên đây, đó là cứ nhìn thẳng vào đối
tượng mình tin tưởng ngay từ ban đầu, nghĩa là cứ tin tưởng cho đến
cùng.
Tâm trạng đột nhiên hoảng hốt của tông đồ Phêrô nên vị tông
đồ đang tin tưởng đi trên nước đến với Thày mình thì bị chìm ngay xuống
nước trong bài Phúc Âm hôm nay, được phản ảnh phần nào nơi trường hợp
của Maria và Aaron là anh chị em ruột thịt của Moisen trực tiếp
"nói
xấu ông Môsê, vì vợ ông này là người xứ Êthiôpia. Họ nói:
'Thiên
Chúa chỉ phán với một mình Môsê mà thôi ư? Người chẳng phán cùng chúng
ta như thế sao?'",
mà chính là gián tiếp trách móc Thiên Chúa như thể cho Ngài là thiên vị,
nên đã phạm đến cả Thiên Chúa, đến độ, sau khi Chúa tỏ cho 2 vị này biết
về Moisen ở trong "nhà xếp giao ước", thì "Chúa
nổi giận họ mà bỏ đi, và đám mây trên nhà xếp cũng bay đi. Thế là Maria
bị phung cùi, mình trắng như tuyết.
Maria bị phung cùi, mình trắng như tuyết".
Sau khi "Aaron ngoảnh lại thấy bà ấy đã bị phung cùi, nên nói với
Môsê rằng: 'Thưa Ngài, xin đừng phạt chúng tôi đã
dại phạm tội. Xin đừng để em tôi nên như kẻ chết và như trẻ sinh non?
Ðây phân nửa thịt nó đã bị bệnh phung cùi làm thối nát'. Môsê kêu van
cùng Chúa rằng: 'Lạy Thiên Chúa, xin Chúa cứu chữa bà ấy'", một
tiếng kêu van thay cho chính phạm nhân Maria, một người chị em của ông
chắc chắn đã nhận biết lỗi lầm của mình, khi bị Chúa trừng phạt nhãn
tiền như thế, để cảnh tỉnh bà và giúp cho bà nhờ đó sống tốt lành hơn
bằng cách biết mình và tin vào Ngài hơn, với tất cả tâm hồn thống hối ăn năn
như tâm trình của Thánh Vịnh 50 ở Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Lạy Chúa, nguyện thương
con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi. Xin
rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác. .
2) Vì sự lỗi con thực là con biết,
và tội con ở trước mặt con luôn. Con phạm tội phản nghịch cùng một Thiên
Chúa.
3) Con thi hành điều ác trước
thiên nhan, hầu tỏ ra Chúa công bình khi phê phán. Này coi, con đã chào
đời trong ô uế, và trong tội, mẹ đã hoài thai con.
4) Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con
quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con.
Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra
khỏi con.
CUNG HIẾN ĐỀN THỜ ĐỨC BÀ CẢ
Ngày 5 tháng 8
I. ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ
Hôm nay chúng ta cử hành thánh lễ cung hiến Cung
Hiến Đền Thờ Đức Bà Cả một
trong những đại thánh đường ở Rôma. Vương
cung Thánh đường này được xây dựng để dâng kính Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa.
Đây là Đền thờ kính Đức Mẹ đầu
tiên và lớn nhất được
xây cất ở Tây Phương. Đền thờ này cũng được coi là tột đỉnh lòng sùng kính
của Dân Chúa, đặc biệt là dân chúng thành Roma đối với Đức Maria. Lòng sùng
kính Đức Maria là một trong những đặc điểm lòng đạo đức của dân chúng Roma
ngay từ lúc khởi đầu Kitô giáo. Người ta vẫn thường gọi đây là “Hang đá
Belem ở Roma”. Năm 1853, tại Rôma người
ta đếm được có 1.421 những khánh nhỏ có để hình Đức Mẹ. Đến năm 1939 thì chỉ
còn lại 530 khánh nhỏ ở rải rác khắp nơi trong thành phố Roma.
Thánh đường Đức Maria được xây cất vào thế kỷ thứ 4 dưới thời đức giáo hoàng
Libêriô. Truyện kể rằng chính Đức Mẹ đã chọn nơi này để người ta xây ngôi
thánh đường tôn kính Mẹ. Mẹ đã thân hiện ra với đôi vợ chồng sở hữu mảnh đất
cũng như với Đức Giáo Hoàng, bảo họ rằng khoảng đất trên ngọn đồi được bao
phủ đầy tuyết kia chính là nơi Đức Mẹ đã chọn. Sáng hôm sau, nhằm ngày mùng
5 tháng Tám, một thời điểm rất nóng trong năm ở Rôma, có một lớp tuyết bao
phủ ngọn đồi Esquiline. Đôi vợ chồng đã xin dâng phần đất cũng như tiền bạc
cần thiết để xây ngôi thánh đường như là món quà dâng kính Đức Mẹ.
Thoạt tiên, ngôi thánh đường này mang tên là vương cung thánh đường Libêriô,
theo tên của đức giáo hoàng Libêriô. Nó cũng được gọi là thánh đường Đức Mẹ
Xuống Tuyết để nhắc nhớ sự kiện Đức Mẹ đã chỉ cho biết mảnh đất dành cho
việc xây cất. Sau đó, ngôi thánh đường được đức thánh cha Sixtô III cung
hiến cho Đức Maria sau khi Công đồng chung Êphêsô năm 431 tuyên bố tín điều
Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Ngôi thánh đường chính là một nhắc nhở tuyệt đẹp
về tình yêu và lòng tôn kính mà Giáo hội dành tặng cho Mẹ Thiên Chúa. Danh
xưng “CẢ” được
thêm vào danh hiệu “thánh đường Đức Bà” bởi vì đây là ngôi thánh đường đầu
tiên được xây cất ở Tây phương để tôn kính Đức Mẹ.
Bên trong thánh đường có máng cỏ Bêlem nơi Đức Maria đã đưa nôi Chúa Hài Nhi
Giêsu. Điều này biểu lộ lòng tôn kính ngày Chúa giáng sinh, với hình Chúa
Hài Nhi nhỏ bằng bạc đang nằm trong máng cỏ.
Giáo hội tôn kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa với những ngôi đền và thánh đường
rất đặc biệt để các Kitô hữu có thể đến viếng nhằm bày tỏ lòng yêu mến đối
với Đức Mẹ và cầu xin Người ban cho ơn lành. Hành hương đến một trong các
đền thờ hay thánh đường này chính là một cảm nghiệm đức tin thú
vị.(tinmung.net)
II. LÒNG SÙNG KÍNH ĐỐI VỚI ĐỨC MẸ
* Mẹ làm gương ẩn dật khiêm cung nhưng đồng thời Mẹ luôn luôn hiện diện phục
vụ; Mẹ không ra mặt, chúng lên tiếng, nhưng Mẹ hằng ở gần bên Chúa Giêsu:
sống trọn vẹn cho Chúa và Chúa trong con. (ĐHV 926)
* Chúa Giêsu đang tiếp tục sống và hành động trong Hội Thánh, vì thế
Mẹ Maria hiện diện trong Hội Thánh và trong con, Mẹ Hội Thánh và Mẹ con.
(ĐHV 927)
Mỗi vị thánh đều có những, nét đặc thù hoàn toàn khác biệt nhau, “mỗi thánh
mỗi thể” mà! Nhưng nếu ta nhìn kỹ, ta sẽ thấy tất cả các ngài cùng có một
điểm chung: “Vị thánh nào cũng yêu mến đức Mẹ”
* Thánh Gioan Tông đồ thì kể từ giây phút Chúa trối dưới chân Thánh Giá,
ngài đã đưa Đức Mẹ về nhà mình và sống thảo hiếu với Mẹ.
* Thánh Bênađô nổi tiếng về lòng sùng kính Mẹ Maria. Người ta nói cạnh ngài
đã đặt ra kinh “Hãy nhớ” (Lạy Thánh Nữ đồng trinh Maria...). Những câu cuối
cùng trong kinh “Lạy Nữ Vương” cũng do ngài thêm vào vì lòng quá mến yêu Đức
Mẹ: “Ôi khoan thay! nhân thay! dịu thay! Thánh Maria trọn đời đồng trinh!”
* Thánh Anphongsô đã nhiệt thành rao truyền lòng thành kính Đức Mẹ hằng cứu
giúp và soạn một tác phẩm gồm hai cuốn nhan đề là “Vinh quang của Đức Mẹ” để
cổ võ mọi người yêu mến Đức Mẹ.
* Thánh Đaminh lãnh nhận sứ mệnh phổ biến việc lần hạt Mân côi như là một
phương thế hiệu nghiệm để cứu rỗi bản thân và thế giới.
Ngoài ra còn không biết bao nhiêu là vị thánh đã chép sách, đã cổ võ lòng
sùng kính Đức Mẹ cách này hoặc cách khác; đã được Mẹ hiện ra; đã lập các
dòng tu nam nữ với tước hiệu của Mẹ...
Các Đức Giáo hoàng cũng luôn luôn nhắc nhở toàn thể Hội thánh phải yêu mến,
cậy trông và bắt chước gương Mẹ. Như Đức Piô V, Đức Grêgôriô XIII, Đức
Clêmentê XI, Đức Bênêđictô XIV, đức Lêô XIII đều xác nhận: nhờ ơn Đức Mẹ mà
Hội thánh thoát khỏi nhiều cơn gian nan nguy hiểm không thể tưởng tượng
được. Các ngài cũng thúc giục giáo dân lần hạt Mân côi, chạy đến cùng Mẹ
trong hết mọi dịp.
Gần ta hơn, Đức Piô IX đã công bố Tín điều ĐỨC MẸ VÔ NHIỄM ngày 8-12-1854.
Đức Lêô XIII lập tháng Mân côi (tháng 10) trong toàn thể Hội thánh. Đức Piô
XI dạy xây một hang đá Lộ Đức trong vườn Vatican và mỗi chiều ngài đều xuống
dạo vườn đến trước hang kính viếng Đức Mẹ. Đức Piô XII thì do một sự quan
phòng đặc biệt đã thụ phong Giám mục vào chính ngày Đức Mẹ hiện ra mân đầu
tiên tại Fatima (13-5-1917). Ngài đã tuyên bố Tín điều ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN
TRỜI ngày 1-11-1950. Chính chiều hôm ấy, ngài được xem thấy phép lạ mặt trời
xoay vần ngay trên khung trời Vatican y hệt như ở Fatima. Ngài đã dâng loài
người cho Trái Tim Mẹ và công bố Năm Thánh kính Đức Mẹ (1945).
Đức Gioan XXIII thì có ra một Thông điệp về việc sùng kính Đức Mẹ
(29-9-1961). Ngài đã đi đến tận Loretto, nơi tục truyền có nhà của Đức Mẹ để
cầu nguyện và phó dâng Công đồng Vatican II Cho Đức Mẹ.
Đức Phaolô VI đã đích thân sang chủ tọa lễ kỷ niệm 50 năm Đức Mẹ hiện ra tại
Fatima (1917-1967), gặp chị Lucia. Ngài cũng đã ban hành một Tông huấn nói
về việc sùng kính đức Mẹ (Manalis cultu), đặc biệt nhấn mạnh về kinh Truyền
tin, chuỗi Mân Côi và Kinh Cầu Đức Mẹ.
Trong Hiến chế Tín lý về Hội Thánh, Đức Phaolô VI và cùng các nghị Phụ công
bố Đức Mẹ là “Mẹ Hội Thánh” vào ngày lễ Đức Mẹ dâng mình vào Đền thánh
21-11-1964. Ngài cũng đã chọn ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (8-12-1965)
để bế mạc Công đồng Vatican II.
Đức Gioan Phaolô II là một “Tâm hồn Thánh Mẫu”.
Nhìn lên huy hiệu của ngài, ta thấy trên nền xanh, chỉ có một Thánh giá và
một chữ M(Maria) màu vàng núp ẩn dưới cánh thập tự thực là đơn sơ và giàu ý
nghĩa! Khẩu hiệu của ngài càng vắn tắt, thâm thúy và bộc lộ rõ ràng hơn nữa
tâm hồn Thánh Mẫu: “Totus Tuus”. một khẩu hiệu rất khó mà diễn tả hết mọi ý
nghĩa: “Tận hiến cho Mẹ, toàn thân thuộc về Mẹ, tất cả đều là của Mẹ...”
https://tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-05-08-le-cung-hien-den-tho-duc-ba-cao-roma-33788
Sau đây là mấy tấm
hình lưu niệm ở Đền Thờ Đức Bà Cả chiều ngày 18/11/2021,
trong chuyến Hành Hương Đức Tin - Chứng Tích Phục Sinh 8-19/11/2022
của phái đoàn TĐCTT (Tông Đồ Chúa Tình Thương)

Truyền thuyết kể rằng đêm ngày mùng 4 tháng 8 năm 352, Đức Mẹ hiện ra với
ĐGH Liberio và nhà quyền quý Giovanni, và xin xây một đền thờ dâng kính Đức
Mẹ.
Khi ĐGH hỏi Mẹ muốn xây đền thờ ở đâu, thì Đức Mẹ trả lời: “Ngày mai, con
thấy tuyết rơi ở đâu, thì xây đền thờ ở đó”.
Sáng hôm sau mùng 5 tháng 8 tuyết rơi trên đồi Esquilino. Tháng 8 là mùa hè
trời Roma rất nóng, nhưng tuyết đã rơi trên đồi Esquilino, là một trong 7
trái đồi của Roma.
Vào năm 1377 khi từ Avignon
trở về Roma ĐGH Gregorio XI cho xây tháp chuông theo kiểu Roman. Tháp
cao 75 mét và là tháp chuông kiểu roman cuối cùng cao nhất Roma.
Giữa các thế kỷ XVI-XVII hai
Giáo Hoàng Sisto V và Phaolo V cho xây thêm hai nhà nguyện mang tên các vị
là nhà nguyện Sistina bên phải và nhà nguyện Paolina bên trái.
Vào thế kỷ XVII ĐGH Clemente X
cho xây thang cấp mặt sau đền thờ. Tiếp đến ĐGH Biển Đức XIV cho tu sửa lại
hết, và xây thêm mặt tiền như hiện nay.

Bên cạnh nhà nguyện Thánh Thể ở bên phải đền thờ từ cung thánh xuống là nhà
nguyện Thánh Mẫu,
trước nhà nguyện Thánh Thể, có tấm hình Đức
Trinh nữ là Phần rỗi của Dân thành Roma.

Nhà nguyện này là nơi ĐTC Phanxicô có thói quen hay tới để cầu nguyện cùng
Đức Mẹ mỗi khi có những biến động trong Giáo Hội hay trên thế giới (như đại
dịch năm 2020)
Nhất là vào trước và sau mỗi chuyến tông du của ngài, để dâng Mẹ trước khi
đi và cảm tạ Mẹ sau khi về, với một bó hoa kèm theo.

Phái đoàn TĐCTT đã hát bài cầu cho Đức Giáo Hoàng, như vẫn hát cầu như vậy
sau mỗi chuỗi Mân Côi và Chuỗi Thương Xót hằng ngày,
vì đây là Chuyến Hành Hương Đức Tin - Chứng Tích Phục Sinh liên quan đến
chung Giáo Hội và riêng vị Giáo Hoàng kế vị Thánh Phêrô đại diện Chúa Kitô
trên trần gian,
và lại còn hát ở một nơi vị giáo hoàng đương kim Phanxicô vẫn đến cầu cùng
với Đức Mẹ nữa. Thật là chính đáng.

Mộ của ĐTC Phanxicô từ Thứ Bảy 26/4/2025 ở trong Đền Thờ Đức Bà Cả, theo di
chúc của ngài,
nơi sát Nguyện đường Đức Mẹ
có tấm hình Đức Trinh nữ là Phần rỗi của Dân thành Roma,
và là nơi ngài vẫn tới trước và sau mỗi chuyến tông du để cầu nguyện và tạ
ơn Đức
Mẹ.
THỨ TƯ
Ngày 6 tháng 8
CHÚA HIỂN DUNG
lễ kính

Phụng Vụ Giờ Kinh
Bốn mươi ngày trước lễ Suy Tôn Thánh Giá, lễ Hiển Dung nhắc cho các tín
hữu nhớ rằng Chúa Ki-tô đã muốn “chuẩn bị tâm hồn các môn đệ khỏi vấp
phạm vì khổ hình thập giá”. Nhưng đồng thời lễ này cũng loan báo cho mọi
tín hữu biết mình được nhận làm con cái Thiên Chúa, nhờ Con Thiên Chúa
là Đức Giê-su, và loan báo ánh sáng diệu kỳ một ngày kia sẽ rạng ngời
trên toàn thân thể nhiệm mầu, tức là Hội Thánh.
Muôn lạy Đức Giê-su Cứu Chúa
Là Hào Quang phát tự Hào Quang,
Xin thương ghé mắt dịu dàng,
Nhậm lời cầu khẩn hát mừng thiết tha.
Dung nhan Chúa vượt xa chính ngọ,
Áo trắng như tuyết phủ non ngàn,
Hiển dung trên đỉnh thiên san
Để cho các vị chứng nhân ngắm nhìn.
Này ngôn sứ kề bên môn đệ,
Cựu tân hai thế hệ khác nhau,
Giờ đây ý hợp tâm đầu,
Tin Ngài Con Đấng Tối Cao giáng trần.
Lời Thánh Phụ vang ngân trong gió,
Gọi Ngài là Thánh Tử dấu yêu,
Chúng con xưng tụng hoà theo :
Ngài là Vua Cả thiên triều muôn năm.
Xưa đã mặc xác phàm yếu đuối,
Cứu loài người thoát khỏi hư vong,
Giờ xin biến đổi chúng con
Thành phần thân thể oai phong của Ngài.
Xin dâng Chúa đôi lời tán tụng,
Ôi Giê-su cao cả vinh quang,
Thánh Linh, Thánh Phụ chứng rằng :
Ngài là Thánh Tử Cha hằng yêu thương.
Đức Giê-su đã bày tỏ mầu nhiệm này cho các môn đệ trên núi Ta-bo.
Đang khi cùng đi đường, Người đã chuyện trò với các ông về Nước Trời
và về cuộc quang lâm của Người. Có lẽ các ông chưa xác tín những
điều Người tiên báo về Nước Trời, nên Người muốn cho các ông thâm
tín tận đáy lòng và từ những việc hiện tại, các ông có thể tin vào
những việc tương lai. Vì thế, trên núi Ta-bo, Người đã cho các ông
thấy một quang cảnh thần diệu như hình ảnh báo trước về Nước Trời.
Dường như Người muốn nói với các ông : “Để anh em khỏi mất lòng tin
trong khi còn phải chờ đợi, thì ngay bây giờ, Thầy
bảo thật anh em : trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không
phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người đến hiển trị trong
vinh quang của Cha Người.”
Để chứng tỏ Đức Ki-tô muốn thế nào thì có quyền làm như thế, tác giả
sách Tin Mừng thêm : Sáu
ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an là em
ông Gia-cô-bê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ,
tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các
ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên
trắng tinh như ánh sáng. Và kìa các ông thấy ông Mô-sê và ông Ê-li-a
hiện ra đàm đạo với Người.
Đó là những điều kỳ diệu của ngày đại lễ hôm nay ; đó là mầu nhiệm
đem lại ơn cứu độ cho chúng ta, mầu nhiệm đang được thực hiện trên
núi vào chính lúc này. Quả thế, cả sự chết lẫn vinh quang của Đức
Ki-tô đang quy tụ chúng ta. Vậy chúng ta sẽ đi sâu vào những mầu
nhiệm thánh thiêng khôn tả này cùng với những người Đức Ki-tô đã
tuyển chọn trong số môn đệ được Thiên Chúa dẫn lối soi đường. Để
được như thế, chúng ta hãy lắng nghe tiếng nói thánh thiêng của
Thiên Chúa. Từ đỉnh núi cao, Người đang khẩn thiết kêu mời chúng ta.
Tôi dám nói là chúng ta phải mau chân tìm đến đó như Đức Giê-su. Giờ
đây, trên trời, Người vẫn đưa đường dẫn lối cho chúng ta. Cùng với
Người, chúng ta sẽ rực sáng, và chỉ những ai có đức tin mới nhận ra,
vì một cách nào đó, khuôn mặt tâm linh của chúng ta được đổi mới,
được nên đồng hình đồng dạng với Người, và cũng như chính Người,
chúng ta không ngừng được biến đổi hình dạng, được thông phần bản
tính thần linh và sẵn sàng để được đưa về trời.
Chúng ta hãy chạy đến đó, phấn khởi hân hoan ; hãy vào sâu trong đám
mây, như các ông Mô-sê và Ê-li-a hay các ông Gia-cô-bê và Gio-an.
Như ông Phê-rô, hãy say sưa chiêm ngắm cảnh tượng thần thiêng, hãy
để cho cuộc biến đổi hình dạng vinh quang của Chúa biến đổi con
người bạn, giúp bạn siêu thoát cõi đời và xa rời trần thế. Hãy từ bỏ
xác thịt, lìa xa thụ tạo và quay về với Tạo Hoá, với Đấng mà trong
phút xuất thần, ông Phê-rô đã thưa lên : Lạy
Ngài, chúng con ở đây, thật hay quá.
Hẳn rồi, lạy thánh Phê-rô, ở
đây với Đức Giê-su và ở đây mãi mãi thì thật
hay quá. Còn gì hạnh phúc hơn, còn gì cao cả và quý báu hơn là
được ở với Thiên Chúa, được nên đồng hình đồng dạng với Người và
được chan hoà ánh sáng ? Hẳn rồi, mỗi chúng ta khi có Thiên Chúa ở
trong mình và được biến đổi nên hình ảnh thần thiêng của Người, thì
phải vui mừng kêu lên : Ở
đây thật hay quá, vì ở đây, mọi sự đều sáng ngời rực rỡ ; ở đây,
có niềm vui và hạnh phúc ngọt ngào ; ở đây, lòng ta được hoàn toàn
bình an, thanh tĩnh và êm đềm ; ở đây, ta được nhìn thấy Đức Ki-tô ;
Người chọn chỗ này làm nơi cư ngụ cùng với Chúa Cha. Vừa bước vào,
Người đã nói : Hôm
nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này ; ở đây, có Đức
Ki-tô là có những kho tàng chất chứa phúc lộc đời đời ; ở đây những
hoa trái đầu mùa và những hình ảnh tiên báo đời sau được mô tả như
đang hiển hiện trong một tấm gương vậy.
Hôm nay Thiên Chúa muốn cho Đức Ki-tô tỏ vinh quang mình cho ba môn đệ
được thấy. Ta hãy tôn vinh Người và thiết tha cầu nguyện :
Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.
Lạy Thiên Chúa là Cha nhân từ, Chúa đã cho ba môn đệ được nhìn ngắm vinh
quang của Thánh Tử Giê-su, và được nghe tiếng Chúa phán dạy phải vâng
nghe lời Người, - xin cho chúng con cũng biết vâng phục Người luôn mãi.
Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.
Chúa đã ban phúc lộc đầy dư cho những người Chúa chọn, - xin cho chúng
con biết tìm đến Đức Ki-tô là mạch suối trường sinh.
Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.
Trong những giờ đen tối, xin cho chúng con được soi sáng nhờ ánh vinh
quang Chúa tỏ hiện nơi dung nhan Đức Ki-tô, - và cho chúng con hằng tha
thiết chiêm ngưỡng thánh nhan Người.
Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.
Nhờ mầu nhiệm Đức Ki-tô hiển dung, Chúa kêu gọi chúng con đổi mới cuộc
đời, - xin cho mọi người trên thế giới được nhờ ánh sáng Tin Mừng mà đạt
tới phúc trường sinh.
Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.
Vì yêu thương, Chúa đã cho chúng con được trở thành con cái Chúa, - xin
làm cho chúng con thật nên giống Thánh Tử Giê-su khi Người quang lâm.
Xin cho đời chúng con bừng sáng huy hoàng
nhờ ánh vinh quang của Chúa.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, khi Con Một Chúa biểu lộ dung nhan
vinh hiển Người, Chúa đã dùng hai chứng nhân Cựu Ước là ông Mô-sê và ông
Ê-li-a, để củng cố niềm tin của các Tông Đồ vào mầu nhiệm cứu độ, và báo
trước hồng ân lạ lùng Chúa sẽ ban là nhận chúng con làm nghĩa tử. Xin
cho chúng con nghe lời Con Một Chúa, để mai sau được chung hưởng gia
nghiệp với Người. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa,
hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Ðn 7,
9-10. 13-14
"Áo Người trắng như tuyết".
Trích sách Tiên tri Ðaniel.
Tôi ngắm nhìn cho đến khi đặt ngai
toà xong, và một vị Bô Lão ngự trên ngai: áo Người trắng như tuyết, tóc
trên đầu Người như những ngọn lửa, các bánh xe như lửa cháy. Một con
sông lửa chảy lan tràn trước mặt Người. Hằng ngàn kẻ phụng sự Người, và
muôn vàn kẻ chầu chực Người. Người ngự toà xét xử, và các quyển sách đều
mở ra.
Trong một thị kiến ban đêm, tôi đã
ngắm nhìn, và đây tôi thấy như Con Người đến trong đám mây trên trời.
Ngài tiến đến vị Bô Lão, và người ta dẫn Ngài đến trước mặt vị Bô Lão.
Vị này ban cho Ngài quyền năng, vinh dự và vương quốc: Tất cả các dân
tộc, chi họ, và tiếng nói đều phụng sự Ngài: quyền năng của Ngài là
quyền năng vĩnh cửu, không khi nào bị cất mất: vương quốc của Ngài không
khi nào bị phá huỷ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 96,
1-2. 5-6. 9
Ðáp: Chúa hiển trị,
Chúa là Ðấng tối cao trên toàn cõi đất (c. 1a và 9a).
Xướng: 1) Chúa hiển trị, địa cầu
hãy hân hoan; hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui. Mây khói và sương mù bao
toả chung quanh; công minh chính trực là nền kê ngai báu. - Ðáp.
2) Núi non vỡ lở như mẩu sáp ong
trước thiên nhan, trước thiên nhan Chúa tể toàn cõi trái đất. Trời xanh
loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người.
- Ðáp.
3) Lạy Chúa, vì Ngài là Ðấng tối
cao trên toàn cõi đất, Ngài rất đỗi siêu phàm giữa muôn chúa tể. - Ðáp.
Bài Ðọc II: 2 Pr
1, 16-19
"Chúng tôi đã nghe tiếng ấy từ
trời phán xuống".
Trích thư thứ hai của Thánh Phêrô
Tông đồ.
Anh em thân mến, chúng tôi không
theo những truyện bày đặt khôn khéo, để tỏ ra cho anh em biết quyền năng
và sự hiện diện của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta; nhưng chúng tôi đã
được chứng kiến nhãn tiền sự uy nghi của Người. Người đã được Chúa Cha
ban cho vinh dự và vinh quang, khi có lời từ sự vinh quang cao cả xuống
phán về Người rằng: "Này là Con Ta yêu dấu, Người đẹp lòng Ta, các ngươi
hãy nghe lời Người". Chúng tôi đã nghe tiếng ấy từ trời phán xuống, lúc
chúng tôi ở với Người trên núi thánh. Và chúng tôi có lời nói chắc chắn
hơn nữa là lời nói tiên tri: anh em nên nghe theo lời đó, nó như ngọn
đèn sáng soi trong nơi u tối, cho đến khi rạng đông và sao mai mọc lên
trong lòng anh em.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mt 17,
5c
Alleluia, alleluia! - Này là Con
Ta yêu dấu rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe lời Người. - Alleluia.
Phúc Âm: Mc 9, 1-9
"Ðây là Con Ta yêu dấu".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô,
Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình
trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi trắng tinh như tuyết,
không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia
cùng Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu.
Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa
Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin
làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Phêrô không rõ
mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó một đám mây bao phủ các
Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Ðây là con Ta yêu dấu, các
ngươi hãy nghe lời Người". Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy
ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông.
Và trong lúc từ trên núi đi xuống,
Chúa Giêsu đã ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa
xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn
dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?"
Ðó là lời Chúa.
LỄ CHÚA KITÔ BIẾN HÌNH
VINH QUANG BA NGÔI NƠI VIỆC CHÚA KITÔ BIẾN HÌNH
(ĐTC Gioan Phaolô II: Bài Giáo Lý 8 ngày 26/4/2000 trong loạt 33
bài về Chúa Ba Ngôi cho Đại Năm Thánh 2000)
1- Trong
Tuần Bát Nhật Phục Sinh này, một tuần được coi như là một ngày trọng đại
duy nhất, phụng vụ không ngừng lập đi lập lại sứ điệp Phục Sinh: “Chúa
Giêsu thực sự đã sống lại rồi!”. Lời
loan báo này mở ra cho toàn thể nhân loại một chân trời mới. Tất
cả những gì được ám chỉ một cách mầu nhiệm nơi Cuộc Biến Hình trên Núi
Tabo đều trở thành hiện thực nơi Cuộc Phục Sinh. Lúc
biến hình, Chúa Giêsu tỏ cho các vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan thấy
phép lạ hiển vinh cùng với ánh sáng được niêm ấn bằng tiếng của Chúa
Cha: “Đây là Người Con yêu dấu của Ta” (Mk 9:7).
Vào ngày lễ
Phục Sinh, những lời này hiện lên cho chúng ta thấy trọn vẹn thực tại
của chúng. Người
Con yêu dấu của Chúa Cha, tức Đức Kitô bị đóng đanh và tử nạn, đã sống
lại vì chúng ta. Trong sự tỏ rạng của Người, tín hữu
chúng ta thấy được ánh sáng, và, như phụng vụ của Giáo Hội Đông Phương
xướng lên, “được Thần Linh phục sinh, chúng ta muôn đời chúc tụng Ba
Ngôi Thiên Chúa đồng bản thể” (Kinh Tối Trọng Thể Lễ Chúa Kitô Biến
Hình). Với một tấm lòng tràn đầy niềm vui Phục Sinh, hôm nay tinh
thần chúng ta hãy leo lên
ngọn núi thánh nổi bật trên đồng bằng Galilêa để chiêm ngưỡng ở chóp
đỉnh của nó một biến cố xẩy ra hướng vọng tới biến cố Phục Sinh.
2- Chúa
Kitô là tâm điểm của Cuộc Biến Hình. Hai
chứng nhân của Cựu Ước hiện ra với Người là Moisen, vị trung gian của lề
luật, và Elia, vị tiên tri của Thiên Chúa hằng sống. Thần
tính của Chúa Kitô, được tiếng của Chúa Cha công bố, cũng tỏ hiện bởi
những biểu hiệu bằng hình ảnh theo kiểu
diễn tả của thánh ký Marcô. Thật vậy, có ánh sáng và mầu trắng tiêu biểu
cho vĩnh cửu và siêu việt tính: “Y phục của Người trở nên sáng láng,
trắng tinh đến nỗi không một thợ giặt tẩy nào trên trần gian này có thể
làm nổi” (Mk 9:3). Thế rồi có cả mây trời, dấu hiệu Thiên Chúa hiện diện
trong cuộc Xuất Ai Cập của dân Yến Duyên cũng là dấu hiệu Ngài hiện diện
nơi lều Giao Ước (x Ex 13:21-22, 14:19, 24, 40: 34, 38).
Vào Buổi Sáng
ngày lễ Biến Hình, phụng vụ Đông Phương cũng xướng lên rằng: “Ôi Lời
Thiên Chúa, sự rạng ngời tinh nguyên của ánh sáng Chúa Cha, trong ánh
sáng tỏa chiếu của Chúa trên Núi Tabo, hôm nay chúng con đã được thấy
ánh sáng là Chúa Cha và ánh sáng là Thần Linh, một ánh sáng soi chiếu
tất cả mọi tạo vật”.
3- Bản
văn phụng vụ này đề cao chiều kích Ba Ngôi nơi Cuộc Biến Hình trên núi
của Chúa Kitô. Thật vậy, Chúa Cha hiện diện rõ ràng nơi tiếng nói phát
ra. Truyền thống Kitô Giáo có một thoáng nhìn ngấm ngầm về việc Thánh
Linh hiện diện nơi biến cố biến hình song song với biến cố Chúa Giêsu
chịu Phép Rửa ở sông Dược Đăng, lúc mà Thần Linh lấy hình bồ câu đậu
xuống trên Người (Mk 1:10). Thật vậy, mệnh lệnh “Hãy lắng nghe Người”
(Mk 9:7) của Chúa Cha cho thấy Chúa Giêsu đầy Thánh Linh để các lời của
Người đều là “thần trí và là sự sống” (Jn 6:63, x. 3:34-35).
Bởi vậy, chúng
ta có thể leo lên
ngọn núi này để trầm tư, chiêm ngưỡng và dìm mình vào mầu nhiệm ánh sáng
của Thiên Chúa. Tabo tiêu biểu cho tất
cả mọi ngọn núi dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa, như các nhà thần bí vẫn
thích dùng hình ảnh so sánh này. Một bản văn khác
của Giáo Hội Đông Phương kêu gọi chúng ta thực hiện cuộc tiến lên tới
chóp đỉnh và tới ánh sáng như sau: “Hỡi các dân, hãy đến mà theo tôi!
Chúng ta hãy leo lên ngọn núi thánh thiên đình; tâm linh của chúng ta
hãy dừng lại ở thành đô Thiên Chúa hằng sống và lấy tinh thần mà chiêm
ngưỡng thần tính của Chúa Cha và Thánh Thần được rạng ngời nơi Người Con
Duy Nhất” (troparion at the conclusion of the Canon of
St John Damascene).
4- Nơi
Cuộc Biến Hình, chúng ta chẳng những chiêm ngưỡng mầu nhiệm Thiên Chúa,
đi từ ánh sáng tới ánh sáng (x Ps 36:10), chúng ta còn được mời gọi để
lắng nghe lời thần linh nói với chúng ta nữa. Vượt trên ngôn từ của Lề
Luật hiện thân nơi Moisen cũng như ngôn từ của tiên tri hiện thân nơi
Êlia, tiếng nói của Chúa Cha có thể nghe thấy có liên quan đến tiếng nói
của Chúa Con, như Tôi vừa đề cập tới (x Mk 9:7). Khi
dẫn giải về cảnh Biến Hình, Bức Thư Thứ Hai của Thánh Phêrô nhấn mạnh
đến tiếng nói thần linh. Chúa Giêsu Kitô “đã nhận
được vinh dự cùng vinh quang từ Thiên Chúa Cha và có một tiếng nói đã
phát ra với Người từ vinh quang uy nghi cao cả: ‘Đây là Người Con yêu
dấu của Ta, Người mà Ta hài lòng’; chúng tôi đã nghe thấy tiếng nói ấy
phát ra từ trời, vì chúng tôi đã ở với Người trên núi thánh. Do đó chúng
tôi càng vững vàng hơn nữa về lời ngôn sứ. Anh em tỏ ra vững chắc khi
chú ý tới lời như là ngọn đèn sáng soi trong nơi tăm tối cho đến ngày
rạng đông và sao mai mọc lên trong tâm trí anh em” (2Pt 1:17-19).
Chúng ta hãy
chúc tụng Chúa Cha, Ngôi Lời và Thánh Linh.
5- Bởi
vậy, nhìn và nghe, chiêm ngưỡng và tuân phục là những đường lối dẫn
chúng ta lên núi thánh, nơi Ba Ngôi tỏ mình ra trong vinh quang của Chúa
Con. “Cuộc Biến Hình làm cho chúng ta nếm trước việc Chúa Kitô đến trong
vinh quang, khi Người ‘biến đổi thân xác thấp hèn của chúng ta nên giống
như thân xác vinh hiển của Người’ (Phil 3:21). Thế nhưng, Cuộc Biến Hình
đồng thời cũng nhắc nhớ là ‘chính nhờ trải qua nhiều cuộc bách hại chúng
ta mới được vào vương quốc của Thiên Chúa’ (Acts 14:22)”
(Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, số 556).
Như linh đạo
của Giáo Hội Đông Phương nêu lên, phụng vụ về Cuộc Biến Hình cho thấy
một “bộ ba” nhân loại nơi ba vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan, những
vị chiêm ngưỡng Ba Ngôi thần linh. Như ba người trẻ trong lò lửa của
Sách Tiên Tri Đaniên (3:51-90), phụng vụ “chúc tụng Thiên Chúa là Cha và
là Đấng Hóa Công, ngợi khen Ngôi Lời là Đấng đã xuống giúp họ và biến
lửa thành sương sa, cùng tôn vinh Thánh Linh là Đấng ban sự sống cho tất
cả mọi người đến muôn đời” (Kinh Ban Mai Lễ Biến Hình).
Giờ đây chúng
ta hãy cầu nguyện cùng Chúa Kitô biến hình bằng những lời của Kinh
Nguyện Thánh Gioan Đamascênô: “Ôi Chúa Kitô, Chúa đã thu hút con
bằng lòng khao khát Chúa, và đã biến đổi con bằng tình yêu thần linh.
Xin Chúa hãy thiêu đốt tội lỗi của con bằng lửa thiêng của Chúa và xin
hãy đoái thương làm cho con tràn đầy nỗi dịu ngọt của Chúa, để vui mừng
hớn hở, con sẽ chúc tụng tất cả mọi biểu hiện của Chúa”.
(Đaminh
Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ Tuần san L’Osseervatore Romano,
ấn bản Anh ngữ, 3/5/2000)
Một số hình ảnh về Núi Tabor trong chuyến Hành Hương Thánh Địa Tuần Thánh
Vượt Qua 2019 của Nhóm TĐCTT (Tông Đồ Chúa Tình Thương)



Ở dưới hầm (tầng dưới) nhà thờ (từ tầng trên có thể nhìn xuống) có một bàn
thờ và các mảnh tường của một nhà thờ từ thời Đế Quốc Byzantine,
và nền đá của cái hầm (crypt) này được tin là nơi Chúa Giêsu đứng khi Người
biến hình trên núi.


Cuối lòng nhà thờ hay ngay lối vào từ cuối nhà thờ này, một bên (phải) là
bàn thờ trên tường có hình tiên tri Elia và một bên (trái) có hình Moisen
Thứ Tư
(PVLC vẫn được cử hành năm nào không bị át
bởi Lễ Kính Chúa Biến Hình như năm 2025)
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) Ds
13, 1-3a. 26 -- 14, 1. 26-29. 34-35
"Ðất ngon lành họ đã không
thèm" (Tv 77, 24)
Trích sách Dân Số.
Trong những ngày ấy, Chúa phán
cùng Môsê (ở trong hoang địa Pharan) rằng: "Ngươi hãy sai đàn ông, mỗi
chi tộc một người (thuộc hàng vương công trong chúng), đi xem đất Canaan
mà Ta sẽ ban cho con cái Israel".
Sau bốn mươi ngày, những người dò
thám đất đi khắp miền, đoạn trở về.
{Họ
đi gặp Môsê, Aaron và toàn thể cộng đồng con cái Israel ở sa mạc Pharan,
tại Cađê. Và họ đã báo cáo với các ông và toàn thể cộng đồng, và cho
người ta thấy thổ sản đất ấy. Họ đã tường thuật và nói: "Chúng tôi đã
vào đất, nơi các ông sai chúng tôi đến, và thật là đất chảy tràn sữa và
mật, và đây là thổ sản đất ấy. Hiềm một nỗi là dân cư trong xứ hùng
cường! Thành trì kiên cố (và) lớn lắm, và chúng tôi đã thấy ở đó cả
những con cháu Anaq. Có Amalec ở vùng Namsa; có dân Hit-tit, Giơbusi và
Amori ở trên núi; còn dân Canaan thì ở gần biển và bờ sông Giođan".
Bấy giờ Caleb truyền cho dân nín
bặt trước Môsê. Ông nói: "Ta cứ lên chiếm đất ấy, vì ta sẽ thắng nổi
nó!" Những người cùng lên với ông đáp lại: "Ta không thể lên đánh dân
ấy, vì nó mạnh hơn ta". Và họ buông lời chê bai giữa con cái Israel về
đất họ đã dò thám, họ nói: "Ðất chúng tôi đã băng qua để dò thám là đất
làm tiêu diệt cả những người ở trên ấy; dân chúng tôi đã thấy trong xứ
toàn là những người vóc dạng. Chúng tôi đã thấy ở đó những người khổng
lồ (con cháu của Anaq thuộc hạng người khổng lồ). Quay nhìn lại mình,
thật chúng tôi chỉ như những con châu chấu, và trước mắt họ, chúng tôi
chỉ như thế đó".
Và toàn thể cộng đồng kêu la; họ
lên tiếng},
và đêm ấy toàn dân la lối khóc
lóc. (Họ trách móc Môsê và Aaron, và nói rằng: "(...) Phải chi chúng tôi
chết quách ở trong sa mạc này!").
Chúa phán cùng Môsê và Aaron rằng:
"Dân bạc ác này kêu trách Ta cho đến bao giờ? Ta đã nghe tiếng kêu trách
của con cái Israel. Ngươi hãy nói với chúng rằng: Chúa phán: Ta hằng
sống, như các ngươi đã nói, Ta đã nghe, nên Ta sẽ làm cho các ngươi như
vậy. Xác chết của các ngươi sẽ nằm trên rừng vắng này. Tất cả các ngươi,
tính từ hai mươi tuổi trở lên, đều đã kêu trách Ta. Các ngươi đã xem
thấy đất, trong bốn mươi ngày, (thì) một năm kể thay cho một ngày; các
ngươi mang lấy cái khổ của sự gian ác các ngươi, và sẽ biết sự thù ghét
của Ta: vì Ta đã phán thế nào, thì Ta sẽ làm cho dân bạc ác này dấy lên
chống lại Ta như vậy: nó sẽ hao mòn và chết trên rừng vắng này".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 105,
6-7a. 13-14. 21-22. 23
Ðáp: Lạy Chúa,
xin nhớ đến chúng con (c. 4a).
Xướng: 1) Chúng con đã phạm tội
cũng như tổ phụ chúng con, chúng con đã làm điều gian ác và ăn ở bất
nhân. Tổ phụ chúng con khi còn ở bên Ai-cập, đã không suy xét những việc
lạ lùng của Chúa. - Ðáp.
2) Nhưng họ đã mau quên công việc
của Chúa khi gia ân huệ cho dân Ngài, họ không tin cậy vào định kế của
Ngài. Họ chiều theo dục vọng ở nơi hoang địa, và thử thách Thiên Chúa
trong cõi cô liêu. - Ðáp.
3) Họ đã quên Thiên Chúa là Ðấng
cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều trọng đại bên Ai-cập, Ðấng đã làm
những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ Cam, và những điều kinh ngạc nơi
Biển Ðỏ. - Ðáp.
4) Chúa đã nghĩ tới chuyện tiêu
diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là Người Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn
với Người, để Người nguôi giận và đừng tiêu diệt họ. - Ðáp.
Alleluia: 1 Sm
3, 9
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa,
xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống
đời đời. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 15,
21-28
"Này bà, bà có lòng mạnh tin".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui
về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy đến mà
kêu cùng Người rằng: "Lạy Ngài là con Vua Ðavít, xin thương xót tôi: con
gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm".
Nhưng Người không đáp lại một lời
nào. Các môn đệ đến gần Người mà rằng: "Xin Thầy thương để bà ấy về đi,
vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi". Người trả lời: "Thầy chỉ được sai
đến cùng chiên lạc nhà Israel".
Nhưng bà kia đến lạy Người mà nói:
"Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi". Người đáp: "Không nên lấy bánh của con cái
mà vứt cho chó". Bà ấy đáp lại: "Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn
những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống".
Bấy giờ, Chúa Giêsu trả lời cùng
bà ấy rằng: "Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy". Và
ngay lúc đó, con gái bà đã được lành.
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm Cảm Nghiệm
Ma Nữ Cao Thủ Đức Tin
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Tư
trong Tuần XVIII Thường Niên, Thánh ký Mathêu thuật lại cho chúng ta về
việc Chúa Giêsu chữa cho con gái của người đàn bà xứ Canaan được khỏi bị
quỉ ám, một người đàn bà dân ngoại nhưng có một đức tin
đầy ma lực đến độ "muốn gì được
nấy".
Thế nhưng, để có một
đức tin "muốn gì được nấy" này, người đàn bà ngoại bang Cannan
này đã phải trải qua một một cơn thử thách phải nói là khủng khiếp, một
trận đấu sinh tử, trận đấu thập tử nhất sinh, liên
quan đến sắc tộc của bà cũng như đến chính phẩm giá của bà.
Cuộc thử thách đức tin liên
quan đến sắc tộc của người đàn bà Canaan: "Các
môn đệ đến gần Người mà rằng: 'Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ
theo chúng ta mà kêu mãi'. Người trả lời: 'Thầy chỉ được sai đến cùng
chiên lạc nhà Israel'". Qua câu
trả lời cho các môn đệ này,
Chúa Giêsu như muốn
nói rằng chỉ có dân Do Thái của Người là nhất, còn các dân ngoại chỉ
là đồ thứ
yếu, không đáng chú
trọng cho bằng dân Do Thái.
Cuộc thử thách đức tin liên
quan đến phẩm giá làm người
của người đàn bà
Canaan: "Nhưng
bà kia đến lạy Người mà nói: 'Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi'. Người đáp:
'Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó'". Đến đây,
bị chạm tự ái như thế, bị coi như loài chó như vậy, không biết có ai còn
nhẫn nại để tiếp tục với con người khinh bỉ mình và chửi mình như thế
nữa hay chăng, hay là điên tiết lên và hùng hổ quại lại bằng câu như:
"Này, ông đừng có tưởng rằng ông ngon lắm, không đáp ứng những gì tôi
xin thì thôi, chứ đừng có mà khinh bỉ tôi như vậy. Tôi cóc cần ông".
Thế nhưng, cho dù người đàn
bà Canaan bị một độc chưởng
vô cùng lợi hại chỉ từ
chết tới bị thương như vậy mà bà chẳng những vẫn không hề hấn gì, trái
lại, bà còn tung lại một tuyệt chiêu
vô cùng ngoạn mục: "Vâng,
lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi
xuống", một
tuyệt chiêu đã làm cho đối thủ vô địch của bà đành chào thua bà
lập tức: "Này
bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy".
Điều duy nhất người đàn bà ngoại bang
Canaan này muốn đó là làm sao để người con gái của bà khỏi "bị
quỷ ám khốn cực lắm", đến độ,
bà cảm thấy cái khổ của chính con bà như
là của bà, nên bà đã
xin Chúa Giêsu thương chính bản thân bà
chứ không phải là đứa
con gái của bà: "Lạy
Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót tôi". Để
rồi, nhờ đức
tin "muốn gì được nấy" của bà mà "ngay
lúc đó, con gái bà đã được lành".
Nếu so sánh với đức tin của các tông đồ trong
Bài Phúc Âm hôm qua thì quả thật nhân vật ma nữ cao thủ đức tin này đã
hoàn toàn trổi vượt, ở chỗ, cho dù Chúa có tiếp tục chơi trò ma quái với
cả bà là một kẻ thuộc dân ngoại chăng nữa, bà chẳng những đã không cảm
thấy bị Người nát đến hoảng sợ thế nào, trái lại, còn nhìn thẳng vào
Người, nên đã không bị chìm xuống như tông đồ Phêrô - Như thế phải chăng
ma nữ cao thủ đức tin này chẳng những đi trên mặt nước mà còn bay trên
mặt nước, bất chấp bão tố còn dữ dội kinh hoàng về tinh thần hơn là thứ
phong ba bão tố về thể lý thử thách các tông đồ trong bài Phúc Âm hôm
qua.
Nếu đức tin của người đàn bà
ngoại bang Canaan trong Bài Phúc Âm hôm nay phi thường như thế nào thì
đức tin của dân Chúa trong Bài Đọc 1 hôm nay, được trích từ Sách Dân Số,
cho thấy quá ư là yếu tin, cho dù đã thấy được biết bao nhiêu là dấu lạ
và phép lạ Thiên Chúa tỏ mình ra trong thời gian 40 năm trong sa mạc,
đến độ Thiên Chúa, sau lần họ đúc bò vàng để thờ như một vị cứu chúa của
họ khi họ mới băng qua Biển Đỏ chẳng được bao lâu, lại muốn hủy diệt họ
đi một lần nữa ngay trước khi họ sắp vào được Đất Hứa,
"Chúa phán cùng Môsê và Aaron rằng:
'Dân bạc ác này kêu trách Ta cho đến bao giờ? Ta đã nghe tiếng kêu trách
của con cái Israel. Ngươi hãy nói với chúng rằng: Chúa phán: Ta hằng
sống, như các ngươi đã nói, Ta đã nghe, nên Ta sẽ làm cho các ngươi như
vậy. Xác chết của các ngươi sẽ nằm trên rừng vắng này. Tất cả các ngươi,
tính từ hai mươi tuổi trở lên, đều đã kêu trách Ta. Các ngươi đã xem
thấy đất, trong bốn mươi ngày, (thì) một năm kể thay cho một ngày; các
ngươi mang lấy cái khổ của sự gian ác các ngươi, và sẽ biết sự thù ghét
của Ta: vì Ta đã phán thế nào, thì Ta sẽ làm cho dân bạc ác này dấy lên
chống lại Ta như vậy: nó sẽ hao mòn và chết trên rừng vắng này'".
Tuy nhiên, mỗi lần cảm thấy Thiên Chúa nổi
cơn thịnh nộ, nhất là khi bị Ngài trừng phạt xứng với tội của mình, thì
dân Ngài lại ăn năn thống hối, bởi Chúa là Đấng thấu biết mọi sự, biết
được lý do chính yếu mà dân Ngài cứ tiếp tục cứng lòng tin là bởi khuynh
hướng hay quên việc Ngài làm cho họ,
như Thánh Vịnh 105 ở bài Đáp Ca hôm nay cho thấy:
1) Chúng con đã phạm tội cũng như tổ phụ chúng con, chúng con đã làm
điều gian ác và ăn ở bất nhân. Tổ phụ chúng con khi còn ở bên Ai-cập, đã
không suy xét những việc lạ lùng của Chúa.
2) Nhưng họ đã mau quên công việc của Chúa khi gia ân huệ cho dân Ngài,
họ không tin cậy vào định kế của Ngài. Họ chiều theo dục vọng ở nơi
hoang địa, và thử thách Thiên Chúa trong cõi cô liêu.
3) Họ đã quên Thiên Chúa là Ðấng cứu độ mình, Ðấng đã làm những điều
trọng đại bên Ai-cập, Ðấng đã làm những điều kỳ diệu trên lãnh thổ họ
Cam, và những điều kinh ngạc nơi Biển Ðỏ.
4) Chúa đã nghĩ tới chuyện tiêu diệt họ cho rồi, nếu như Môsê là Người
Chúa chọn, không đứng ra cầu khẩn với Người, để Người nguôi giận và đừng
tiêu diệt họ.
Thứ Năm
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) Ds
20, 1-13
"Xin Chúa mở kho tàng châu báu
của Chúa là mạch nước hằng sống".
Trích sách Dân Số.
Trong những ngày ấy, vào tháng
Giêng, con cái Israel và toàn thể cộng đồng đến rừng Sim. Dân chúng định
cư ở Cađê. Tại đây bà Maria đã qua đời và được chôn cất.
Và khi dân chúng thiếu nước, họ
toa rập nhau chống đối Môsê và Aaron. Họ công kích Môsê rằng: "Phải chi
chúng tôi chết đi như anh em chúng tôi đã chết trước mặt Chúa. Tại sao
các ông dẫn cộng đoàn của Chúa vào rừng vắng này, để chúng tôi lẫn súc
vật chúng tôi phải chết? Tại sao bắt chúng tôi bỏ Ai-cập mà dẫn lên chỗ
rất xấu xa này, chẳng cày cấy được, chẳng sinh quả vả, nho lựu, hơn nữa
không có nước mà uống".
Môsê và Aaron lánh mặt khỏi dân
chúng và vào nhà xếp giao ước. Hai ông sấp mình xuống đất, kêu van cùng
Chúa rằng: "Lạy Chúa là Thiên Chúa, xin nghe tiếng dân này kêu van, và
xin mở cho họ kho tàng châu báu của Chúa là mạch nước hằng sống, để họ
uống no đầy mà hết kêu trách".
Sự vinh quang của Chúa hiện ra
trên họ. Và Chúa phán cùng Môsê rằng: "Hãy cầm lấy gậy và tập họp dân
chúng lại, ngươi và Aaron khiến hòn đá, trước mắt họ, và đá liền chảy
nước. Khi ngươi làm cho nước từ hòn đá này chảy ra, thì toàn dân và súc
vật sẽ được uống".
Môsê cầm lấy cây gậy để trước mặt
Thiên Chúa như Chúa đã truyền dạy ông. Khi tập họp cộng đồng đến trước
hòn đá, ông bảo họ rằng: "Hỡi bọn người phản loạn và cứng lòng, hãy nghe
đây. Chúng tôi có thể làm cho nước từ hòn đá này chảy ra cho các ngươi
được không?" Môsê giơ tay cầm gậy đánh vào hòn đá hai lần: nước chảy ra
tràn trề. Dân chúng và súc vật được uống.
Bấy giờ Chúa phán cùng Môsê và
Aaron rằng: "Vì các ngươi không tin Ta mà tuyên xưng thánh danh Ta trước
mặt con cái Israel, thì các ngươi không được đem dân này vào Ðất Ta sẽ
ban cho chúng nó".
Ðây là nước mâu thuẫn nơi con cái
Israel trách Chúa, và Người dùng nước để tỏ ra thánh danh Người.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 94,
1-2. 6-7. 8-9
Ðáp: Ước chi hôm nay
các bạn nghe tiếng Người: các ngươi đừng cứng lòng (c. 8a).
Xướng: 1) Hãy tới, chúng ta hãy
reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên
nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người. - Ðáp.
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và
sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người
là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở
tay Người. - Ðáp.
3) Ước chi hôm nay các bạn nghe
tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa, trong khu
rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử thách Ta
mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta". - Ðáp.
Alleluia: Tv 144,
13cd
Alleluia, alleluia! - Chúa trung
thành trong mọi lời Chúa phán, và thánh thiện trong mọi việc Chúa làm. -
Alleluia.
Phúc Âm: Mt 16,
13-23
"Con là Ðá, Thầy sẽ ban cho con
chìa khoá nước trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt
thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: "Người ta bảo Con Người
là ai?" Các ông thưa: "Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là
Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó". Chúa Giêsu
nói với các ông: "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?" Simon Phêrô
thưa rằng: "Thầy là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Chúa Giêsu trả
lời rằng: "Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt
hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời.
Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Ðá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh
của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa
khoá Nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và
sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở". Bấy giờ Người truyền
cho các môn đệ đừng nói với ai rằng Người là Ðức Kitô.
Kể từ đó, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ
cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau
khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, phải bị giết, và ngày thứ ba
thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: "Lạy Thầy, xin
Chúa giúp Thầy khỏi điều đó. Thầy chẳng phải như vậy đâu". Nhưng Người
quay lại bảo Phêrô rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy: con làm
cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những sự thuộc về Thiên Chúa,
mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người".
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm Cảm Nghiệm
Thâm Cung Bí Sử về Nhân Vật Giêsu
Nazarét
Bài
Phúc Âm hôm
nay, Thứ
Năm Tuần
XVIII Thường Niên, được Thánh ký Mathêu thuật lại về sự kiện
tông đồ đoàn, qua vị đại diện của mình là Tông Đồ Phêrô, tuyên
xưng thực tại thần linh chân thực về Chúa Kitô, một
Chúa Kitô sau đó chẳng những thiết lập Giáo Hội của Người trên
nền tảng đức tin của vị
tông đồ này, mà còn tỏ ra cho các tông đồ biết một
thâm cung bí sử tối quan hệ về Người.
Tông Đồ Phêrô, tuyên xưng thực
tại thần linh chân thực về Chúa Kitô:
"Khi Đức Giê-su đến vùng kế
cận thành Caesarea Philippi, Người hỏi các môn đệ rằng: 'Người
ta nói Con Người là ai?' Các ông thưa: 'Kẻ thì nói là ông Gioan
Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông
Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ'. Đức Giêsu lại hỏi: 'Còn
anh em, anh em bảo Thầy là ai?' Ông Simôn Phêrô thưa: 'Thầy là
Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống'".
Chúa Kitô đã thiết
lập Giáo Hội của Người trên nền
tảng đức tin của vị
tông đồ này:
"Đức Giêsu nói với ông: 'Này
anh Simon con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không
phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy,
Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là
Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh
của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao
cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì,
trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều
gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy".
Chúa
Kitô tỏ ra cho các tông đồ biết một thâm cung bí sử
tối quan hệ
về Người:
"Từ lúc đó, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết:
Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục,
các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ
ba sẽ sống lại. Ông Phêrô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu
trách Người: 'Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện
ấy!' Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: 'Satan, lui lại
đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải
là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người'".
Qua bài
Phúc Âm hôm nay, chúng
ta có thể tự hỏi là tại sao Chúa Giêsu bỗng nhiên lại hỏi các
tông đồ về nhận định của dân chúng nói chung và của các tông đồ
nói riêng về Người, trong khi Người vẫn cố ý che dấu căn tính
của Người, như trong chính bài Phúc Âm hôm nay cho thấy: "Người
cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng
Kitô"?
Phải
chăng Người chỉ có ý
muốn trắc
nghiệm xem kiến
thức thần linh và cảm nghiệm thần linh về Người nơi các vị như
thế nào sau thời gian được gần gũi với Người hơn quần chúng? Căn
cứ vào nội dung và kết cấu của bài Phúc Âm thì Chúa Kitô không
phải chỉ muốn trắc nghiệm mức độ đức
tin của các
tông đồ, vì tự mình Người đã biết đức tin của các vị ra sao rồi,
chẳng cần phải hỏi, mà Người muốn tiết lộ một bí mật hết sức phũ
phàng về Người mà Người biết chắc chắn rằng các tông đồ không
thể nào chấp nhận được, dù các vị có tuyên xưng hết sức chính
xác về Người đi chăng nữa.
Thật thế, điều
tối mật về Người đó là Người chẳng những là "Đức Kitô, Con
Thiên Chúa hằng sống" mà còn là một Đức Kitô tử nạn và phục
sinh nữa, để chứng tỏ Người thực sự là "Đức
Kitô" (qua mầu nhiệm tử giá) và đồng
thời cũng chính là "Con Thiên Chúa hằng sống"
(qua mầu nhiệm phục sinh), chứ
không phải như lý lẽ tự nhiên của các tông đồ, tiêu biểu qua
tông đồ Phêrô, hiểu
theo kiểu trần gian, ở
chỗ đã là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" thì Người
không thể nào lại chết được.
Nếu chung các
tông đồ và riêng tông đồ Phêrô không chấp nhận sự thật này về "Đức
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" thì các vị sẽ không thể
nào theo Người được. Đó là lý do các vị đã phản nộp Người, như
một tông đồ
Giuđa Íchca,
hay đã trắng
trợn chối bỏ Người, như một tông đồ Phêrô đầu đàn. Đó
cũng là lý do các vị ru rú lo âu sợ
hãi trong
căn thượng lầu khóa kín sau khi Thày của các vị chết đi.
Đó còn là lý do
khi nhận biết tất cả sự
thật về một
Chúa Kitô Phục Sinh,
tông đồ
Toma đã tuyên xưng: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi"
(Gioan 20:28), chứ không tuyên xưng "Vâng, con tin Thày đã chết
nhưng đã sống
lại". Bởi
vì, chính vì Thày là Chúa và là Thiên Chúa mà Thày dù có chết
cũng sẽ sống lại, để làm Chúa của cả kẻ sống lẫn người chết, để
chứng tỏ Người là Vị Thiên Chúa hằng sống bất diệt.
Lời
tuyên xưng này của tông đồ Tôma như thể lập lại lời tuyên xưng
của tông đồ Phêrô: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng
sống".
Sự kiện tông đồ Phêrô tuyên xưng chính xác về căn tính của "Đức Kitô Con
Thiên Chúa hằng sống" Thày của mình trong bài Phúc Âm hôm nay, nhưng sau đó,
vị tông đồ này đã có một cảm nghiệm đức tin hoàn toàn không thích hợp với sự
thật thần linh về mạc khải thần linh vừa được ngài tuyên xưng, nên ngài đã
bị Vị Sư Phụ đáng tôn kính quí yêu thậm tệ quở trách. Sách Dân Số cũng
thuật lại nhân vật Moisen hằng tin tưởng vào Thiên Chúa của mình, bằng không
ông đã không dấn thân gánh vác sứ vụ giải phóng dân Chúa ra khỏi Ai Cập vô
cùng khó khăn và đau khổ, thế mà cũng có lúc không đẹp lòng Chúa, như trường
hợp ông theo lệnh Chúa dùng gậy khiến nước chảy ra từ tảng đá, được ghi nhận
ở Bài Đọc 1 hôm nay:
"Môsê cầm lấy cây gậy để trước mặt
Thiên Chúa như Chúa đã truyền dạy ông. Khi tập họp cộng đồng đến trước
hòn đá, ông bảo họ rằng: 'Hỡi bọn người phản loạn và cứng lòng, hãy nghe
đây. Chúng tôi có thể làm cho nước từ hòn đá này chảy ra cho các ngươi
được không?' Môsê giơ tay cầm gậy đánh vào hòn đá hai lần: nước chảy ra
tràn trề. Dân chúng và súc vật được uống. Bấy giờ Chúa phán cùng Môsê và
Aaron rằng: 'Vì các ngươi không tin Ta mà tuyên xưng thánh danh Ta trước
mặt con cái Israel, thì các ngươi không được đem dân này vào Ðất Ta sẽ
ban cho chúng nó'".
Nếu "đó là nước mâu thuẫn nơi con cái
Israel trách Chúa, và Người dùng nước để tỏ ra thánh danh Người",
như câu kết của Bài Đọc 1 hôm nay cho biết, thì phải chăng ám chỉ đến Chúa
Kitô là tảng đá bị thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá góc tường (xem
Thánh Vịnh 118:22; Mathêu 21:42) ban nước hằng sống, nhưng chỉ cho những ai
tin vào Người mà thôi. Bởi thế mà bài Đáp Ca hôm nay, trích từ Thánh Vịnh
94, mới có những lời kêu gọi thích đáng như sau:
1) Hãy tới, chúng ta hãy
reo mừng Chúa, hãy hoan hô Ðá Tảng cứu độ của ta! Hãy ra trước thiên
nhan với lời ca ngợi, chúng ta hãy xướng ca để hoan hô Người.
2) Hãy tiến lên, cúc cung bái và
sụp lạy, hãy quỳ gối trước nhan Chúa, Ðấng tạo thành ta. Vì chính Người
là Thiên Chúa của ta, và ta là dân Người chăn dẫn, là đoàn chiên thuộc ở
tay Người.
3) Ước chi hôm nay các bạn nghe
tiếng Người: "Ðừng cứng lòng như ở Mêriba, như hôm ở Massa, trong khu
rừng vắng, nơi mà cha ông các ngươi đã thử thách Ta, họ đã thử thách Ta
mặc dầu đã thấy công cuộc của Ta".
Thánh Systo II Giáo Hoàng và các bạn tử đạo; Thánh Catejano, linh
mục (7/8)
Thánh Systo II Giáo Hoàng và các bạn tử đạo
Thánh XISTÔ II Giáo Hoàng và Các Bạn Tử Đạo
Ngày 30 tháng 8 năm 257, Đức Xystô lên ngôi Giáo hoàng, kế vị Đức
Stephanô I giữa lúc Giáo hội đang chìm trong con người bách hại thời
Valerianô. Pontiô, một phó tế của Thánh Cyprianô gọi Ngài là "Linh mục
nhân hậu hòa nhã". Ngài đã tránh được một cuộc ly khai khi để cho các
Giáo hội địa phương tự do theo thói quen rửa tội lại cho các người theo
lạc giáo.
Một năm sau thánh Cyprianô loan tin: Đức giáo hoàng Xystô đã bị xử tử
đêm 6 tháng 8 cùng với 4 vị trợ tá (phó tế) của Ngài. Các Kitô hữu Roma
đã bị binh lính đột kích trong khi đang cử hành thánh lễ tại hang toại
đạo Callistô. Để khỏi bị bắt giam tất cả, Đức Xystô đã hiến mình chịu
chết. Ngài bị chặt đầu ngay tại ngai tòa giám mục cùng với 4 vị trong số
7 vị trợ tá (phó tế) của Ngài là Gianuariô. Mahnô, Vicentê và Stêphanô.
Hai vị khác là Fêlicissimô và Agapitô đã bị bắt và bị chặt đầu cùng ngày
tại hang toại đạo Praetextato.
Cái chết vì đoàn chiên trong những cảnh thương tâm như vậy đã khiến cho
Đức Xystô được dân chúng tôn kính rộng rãi. Ngài được mai táng trong hầm
mộ giáo hoàng tại chính nơi Ngài chịu chết. Tuy nhiên di hài của Ngài có
lẽ đã được Đức Lêô IV (847 - 855) dời về thánh đường Xystô vẫn còn được
tôn kính cho đến ngày nay.
http://conggiao.info/thanh-xisto-ii-giao-hoang-va-cac-ban-tu-dao-d-17667
Thánh Sixtô II và các bạn tử đạo
Thánh Sixtô II là công dân thành Athena, theo học và tốt nghiệp
trường đại học triết lý tại Hy Lạp, được bầu làm giáo hoàng ngày
31.8.257.
Trở ngại đầu tiên của Giáo Hoàng Sixtô II là phải bảo vệ đức tin
Công giáo trước những lầm lạc mà các bè phái lạc giáo, ly giáo gieo
rắc trong Giáo hội. Ngoài ra, ngài đã khôn ngoan dàn xếp một cách ổn
thỏa các ý kiến về phép Rửa Tội giữa các giám mục và giáo sĩ, nhờ
vậy toàn thể giáo sĩ và giáo dân cùng hiệp lực chung xây dựng Giáo
hội. Con thuyền Giáo hội còn bị phong ba bão táp trước sức tấn công
của vua Valêrianô, một bạo vương luôn muốn tróc nã và hành quyết các
tông đồ của Chúa, ngăn cấm không cho những người Kitô hữu tụ họp và
ra lệnh sát hại các giám mục, linh mục và phó tế.
Một lần kia, thánh Sixtô II cùng với bốn phó tế bị phát hiện khi
đang dâng thánh lễ tại hầm mộ của thánh Calistô. Ngài bị trảm quyết
cùng với các phó tế Janvier, Magne, Vicentê và Etienne vào ngày
6.8.258. Ngoài ra, thầy Félicissime và Agapit cũng đã bị bắt và bị
xử chém tại nghĩa trang Prétextat, trong khi đó, thầy Laurent bị
hành hình và chết vào bốn ngày sau.
Thánh Sixtô II được an táng ngay trong hầm mộ và trở thành vị Giáo
hoàng thứ hai được nhiều người sùng kính nhất sau thánh Phêrô.
http://www.cgvdt.vn/lich-cong-giao/thanh-sixto-ii-va-cac-ban-tu-dao_a7694
Thánh Catejano, linh mục

Vào năm 1523, Giáo Hội trong tình trạng tiêu điều. Ðời sống tâm linh cần
thiết của giáo dân không được chăm sóc bởi rất đông các mục tử thiếu học
thức và thiếu đạo đức, họ chỉ biết đồng tiền mà không hoạt động gì cả. Khi
các linh mục tốt lành và giáo dân chạy đến các đấng có quyền để xin giúp đỡ,
họ cũng chỉ gặp sự thờ ơ lãnh đạm của các vị chủ chiên.
Một người Công Giáo tốt lành phải phản ứng thế nào trước hoàn cảnh này? Tất
cả chúng ta đều biết Luther và một số người khác đã phản ứng bằng cách tách
rời khỏi Giáo Hội Công Giáo khi thỉnh cầu của họ không được lắng nghe.
Thánh Cajetan lại theo một phương cách khác. Cũng như Luther, khi lưu tâm
đến những gì họ được thấy trong đời sống Giáo Hội, ngài đến Rôma năm 1523 —
không phải để trình lên đức giáo hoàng hay đấng có quyền nhưng để gia nhập
Hội A¨i Hữu Tình Yêu Thiên Chúa, là một tổ chức nhỏ bé, bán chính thức, tận
tụy trong công việc bác ái. Họ chăm sóc người nghèo, người đau yếu, trẻ mồ
côi và các tù nhân. Dần dà họ gây được ảnh hưởng khắp nước Y¨.
Sau khi chịu chức linh mục, năm 1518 Cajetan trở về quê nhà ở Vicenza khi mẹ
ngài sắp từ trần. Ở đây, ngài gia nhập Hội Dòng Thánh Giêrôme. Sau khi mẹ
chết, ngài dùng tất cả tài sản để cứu giúp người đau yếu, đồng thời sáng lập
một hội dòng tương tự ở Venice, là nơi ngài cổ võ đời sống tâm linh và chăm
sóc người nghèo, người đau yếu không chỉ bằng lời nói mà còn bằng gương mẫu
anh hùng.
Năm 1523, ngài trở về Rôma, với sự tiếp tay của các bạn thân trong hàng giáo
phẩm, ngài quyết định thành lập một tu hội dựa trên đời sống của các tông
đồ, với hy vọng rằng đời sống của các thánh sẽ khích lệ họ và người khác cố
gắng sống một cuộc đời thánh thiện vì Ðức Giêsu Kitô. Ðể hoàn thành mục đích
này, họ nhắm đến đời sống luân lý, học hỏi Kinh Thánh, rao giảng và chăm sóc
mục vụ, giúp đỡ người bệnh tật, và các nền tảng vững chắc của đời sống mục
vụ. Tu hội mới này được gọi là Tu Sĩ Dòng Theatine.
Dĩ nhiên, các linh mục phóng túng và tham lam chẳng bao giờ đặt chân đến tu
hội, nhưng Cajetan vẫn kiên trì chịu đựng sự chống đối từ các giáo sĩ và
giáo dân không muốn cải tổ. Chính gương mẫu đời sống thánh thiện cũng như
lời rao giảng của ngài mà nhiều người đã hoán cải.
Kiệt quệ vì các khó khăn trong Giáo Hội và ở quê nhà, Cajetan lâm trọng
bệnh. Khi các y sĩ tìm cách khiêng ngài từ chiếc giường gỗ thô thiển lên
chiếc giường nệm êm ấm, Cajetan thều thào, “Chúa Cứu Thế chết trên thập giá.
Hãy để tôi được chết trên tấm gỗ này.” Ngài từ trần ngày 7 tháng Tám 1547.
Ngài được Ðức Giáo Hoàng Clêmentê phong thánh năm 1671.
Lời Trích
Có lần Thánh Cajetan nói với các anh em trong dòng, “Chúng ta cố gắng phục
vụ Thiên Chúa qua sự thờ phượng trong hội dòng này; nhưng trong bệnh viện,
chúng ta mới có thể nói là thực sự tìm thấy Ngài.”
https://dongten.net/2019/08/06/hanh-cac-thanh-07-08-thanh-cajetan/
https://giaophanvinhlong.net/thanh-cajetan-14801547.html
https://www.hddaminhthanhlinh.net/a7332/7-thang-tam-thanh-cajetan-1480-1547-
Thánh Cajêtan sinh tại Vicenza, nước Ý, vào năm 1480. Ngài là con trai của
một bá tước. Cajêtan tốt nghiệp trường đại học Pađua với văn bằng cử nhân
lưỡng luật, đạo và đời. Sau đó, Cajêtan phục vụ tại văn phòng của giáo triều
Rôma. Cajêtan thụ phong linh mục năm 1516. Rồi ngài trở về thành phố quê
hương Vicenza và làm việc mục vụ tại đây. Dù cho những bạn bè quý tộc của
Cajêtan ra sức phản đối và giận dữ, thánh nhân vẫn tham gia với nhóm người
khiêm tốn, chuyên phục vụ các bệnh nhân và những người nghèo khổ. Cajêtan đi
khắp thành phố tìm kiếm những người bất hạnh và chính ngài đã tự phục vụ họ.
Cajêtan vào bệnh viện săn sóc những người mang những chứng bệnh kinh tởm
nhất. Tại các thành phố khác, thánh Cajêtan cũng làm các việc từ thiện ấy.
Thánh nhân cũng thường khuyến khích mọi người hãy năng lãnh nhận bí tích
Thánh Thể. Ngài nói: “Tôi sẽ không bao giờ vui sướng cho tới khi nào được
thấy các Kitô hữu cùng nhau tiến lên lãnh nhận Bánh Ban Sự Sống với lòng hăm
hở vui mừng, chứ không lo buồn tủi hổ.”
Cùng với ba người đạo đức khác, thánh Cajêtan đã thiết lập một tu hội giáo
sĩ dòng, gọi là tu hội Các Anh Em Dòng Thêatin, chuyên đi thuyết giảng. Họ
khuyến khích việc năng xưng tội, lãnh nhận bí tích Thánh Thể, giúp bệnh nhân
và làm những công việc từ thiện khác.
Thánh Cajêtan qua đời lúc được 67 tuổi. Trong cơn bạo bệnh cuối cùng, thánh
nhân chỉ nằm trên những tấm ván thô cứng dù các bác sĩ khuyên ngài nên dùng
nệm êm. Nhưng Cajêtan nói: “Đấng Cứu Chuộc tôi đã chết trên cây thập giá.
Vậy ít ra, hãy để tôi được chết trên tấm gỗ này!” Cajêtan về trời ngày mùng
7 tháng Tám năm 1547 tại thành phố Napôli. Tới năm 1671, đức thánh cha
Clêmentê X tôn phong Cajêtan lên bậc hiển thánh.
Để noi gương vị
thánh này, chúng ta hãy đặt Chúa Giêsu Thánh Thể làm trung tâm đời sống của
chúng ta. Chúng ta cũng hãy nài xin thánh Cajêtan giúp chúng ta biết yêu mến
Chúa Giêsu Thánh Thể như ngài.
Biên dịch: Đa Minh M.
Nguyễn Phúc Lộc, CMC
http://mtgcaimon.net/mtgnews/index.php/suy-niem/hanh-cac-thanh/4555-thanh-cajetan.html
Thứ
Sáu
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) Ðnl
4, 32-40
"Người đã yêu thương cha ông
các ngươi và sau đó đã tuyển chọn con cháu các ông ấy".
Trích sách Ðệ Nhị Luật.
Ông Môsê nói cùng dân chúng rằng:
"Các ngươi hãy tìm hiểu những thời xa xưa trước kia, từ khi Thiên Chúa
tác thành con người trên mặt đất, từ chân trời này đến chân trời nọ, có
bao giờ xảy ra một việc vĩ đại như thế này chăng? Có bao giờ người ta đã
nghe thấy những việc lạ lùng như vậy chăng? Có bao giờ một dân tộc đã
nghe lời Thiên Chúa từ trong lửa phán ra như các ngươi đã nghe mà còn
sống chăng? Có bao giờ Chúa đã dùng sự thử thách, dấu chỉ, điềm lạ,
chiến tranh, cánh tay quyền năng mạnh mẽ và những thị kiến khủng khiếp,
để chọn lấy cho mình một dân tộc giữa các dân tộc khác, như Chúa là
Thiên Chúa các ngươi đã làm tất cả các điều đó trước mặt các ngươi trong
đất Ai-cập chăng? Tất cả những điều đó, Người chỉ cho các ngươi xem
thấy, để các ngươi biết rằng Chúa là Thiên Chúa thật, và ngoài Người,
không có chúa nào khác. Từ trên trời, Người cho các ngươi nghe tiếng
Người; ở dưới đất, Người cho các ngươi thấy đám lửa to lớn của Người; và
từ giữa đám lửa ấy, các ngươi đã nghe lời Người, vì Người đã yêu thương
cha ông các ngươi và sau đó đã tuyển chọn con cháu các ông ấy. Người đã
dẫn các ngươi ra khỏi Ai-cập khi Người dùng quyền năng cao cả mà đi
trước mặt các ngươi, để tiêu diệt trước mặt các ngươi những dân tộc lớn
mạnh hơn các ngươi, và đem các ngươi vào trong xứ của họ và ban đất của
họ cho các ngươi làm gia nghiệp, như các ngươi vẫn thấy hiện nay. Vậy
hôm nay các ngươi hãy nhận biết và suy niệm trong lòng rằng: Trên trời
dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, chứ không có Chúa nào khác. Hãy tuân
giữ các lề luật và giới răn mà hôm nay chính ta truyền dạy cho các
ngươi, hầu cho các ngươi và con cháu mai sau được hạnh phúc, và tồn tại
trên phần đất mà Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho các ngươi".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 76,
12-13. 14-15. 16 và 21
Ðáp: Tôi hồi
tưởng lại những việc làm của Chúa (c. 12a).
Xướng: 1) Tôi hồi tưởng lại những
việc làm của Chúa; tôi cũng nhớ những điều kỳ diệu thuở trước của Ngài.
Tôi nghiền ngẫm về mọi việc làm của Chúa, và tôi suy tư về những đại sự
của Ngài. - Ðáp.
2) Ôi Thiên Chúa, đường lối của
Ngài thánh thiện; có thần minh nào vĩ đại như Thiên Chúa chúng tôi? Ngài
là Thiên Chúa làm nên những điều kỳ diệu, làm sáng tỏ quyền năng ở giữa
chư dân. - Ðáp.
3) Ngài đã ra tay thục mạng dân
Ngài, thục mạng con cháu của Giacóp và Giuse. Nhờ tay Môi-sen và Aaron,
Chúa chăn dắt dân Ngài như thể đoàn chiên. - Ðáp.
Alleluia: Tv
94, 8ab
Alleluia, alleluia! - Ước chi hôm
nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 16,
24-28
"Người ta sẽ lấy gì mà đổi được
sự sống mình".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập
giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất;
còn ai đành mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được
lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người
ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình?
"Bởi vì Con Người sẽ đến trong
vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ,
Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm. Thật, Thầy bảo các
con: trong những kẻ đang đứng đây, có người sẽ không nếm sự chết trước
khi xem thấy Con Người đến trong Nước Người".
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm Cảm Nghiệm
Cộng = Trừ và Trừ
= Cộng
Hôm nay,
Thứ Sáu Tuần XVIII Thường Niên, để tiếp tục tất cả sự thật về mầu nhiệm Chúa
Kitô trong bài Phúc Âm hôm qua, ở
chỗ: Nếu Ngưòi là "Đức
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống",
thì Người đồng thời
cũng phải là
một Đức Kitô Vượt Qua, tử giá và phục sinh, nhờ đó Người mới
chứng thực Người
quả là
"Đức
Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống",
Chúa Kitô, trong bài
Phúc Âm hôm nay, đã thẳng thắn tuyên bố một hệ luận hay một lối sống liên
quan trực tiếp đến thân phận của những ai muốn theo Người là một Đức Kitô
Vượt Qua từ khổ giá đến phục sinh rằng: "Nếu
ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo
Thầy".
Sau đó,
Người cho các môn đệ của Người biết về lý do tại sao họ cần phải sống như
thế, cần phải bỏ mình và vác thập giá mà theo Người như vậy, hay đúng hơn cần
phải bỏ mình và vác thập giá mới có thể theo Người, bằng không, họ không thể
nào theo Người được, thậm chí như Người phán trong Phúc Âm của Thánh ký
Luca: "Ai không vác
thập giá mình mà theo Thày không xứng đáng làm môn đệ của Thày" (14:27).
Lý do được Người nêu lên cho các môn đệ thấy đó là:
"Vì chưng, ai muốn cứu sự sống
mình thì sẽ mất; còn ai đành mất sự sống
mình vì Ta, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự
sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống
mình?"
Câu
tuyên bố này của Chúa Kitô có thể hiểu về trường hợp của các vị tử đạo trong
Giáo Hội từ trước tới nay dọc suốt giòng lịch sử của Giáo Hội. Nguyên tắc cứu thì mất
bỏ thì còn có vẻ mâu thuẫn này cũng đúng trong cả trường hợp bị rắn độc cắn
nếu không chặt cánh tay hay chặt bàn
chân bị nó cắn chỉ vì tiếc rẻ hay sợ đau
cứ muốn giữ lấy chỗ bị cắn đó thì
nạn nhân sẽ mất mạng, ngược lại thì còn
mạng.
Đó là lý do trong bài giảng Phúc Đức Trọn Lành
trên núi của Phúc Âm Thánh ký Mathêu, Chúa Kitô cũng đã khuyên các môn đệ
của Người rằng nếu mắt của các
con hay tay của các con mà nên
cớ vấp phạm cho các con thì hãy móc nó đi, hãy chặt
nó đi, thà mất một mắt hay thiếu một tay mà vào Nước Trời còn hơn còn
nguyên toàn thân
lại bị
quẳng vào hỏa ngục (xem 5:29-30).
"Sự
sống mình" mà
Chúa bảo cần
phải mất đi để "được sự sống" đây
là gì, nếu không phải "sự sống"
họ được đây là Chúa Kitô, Đấng đã tuyên bố mình là "sự sống" (Gioan
11:25,14:6), thì "sự sống mình" đây chính là bản thân con người. Đó
là lý do Người đã dứt khoát với những ai muốn theo Người "phải bỏ
chính bản thân mình đi
- must deny his very self".
Việc
"phải bỏ chính bản thân mình" của những ai muốn theo Chúa Kitô này
không phải là việc họ tự hủy diệt bản
thân họ, mà là một tiến trình biến đổi bản thân họ, biến đổi từ bản thân vô
cùng thấp hèn xấu xa tội lỗi của họ để trở nên một Chúa Kitô vô cùng cao
cả là chính sự sống thần linh của họ, nghĩa là họ đánh đổi bản thân mình để
lấy chính Chúa Kitô, như thể họ là người tìm thấy kho tàng là Chúa Kitô trong
thửa ruộng
thế gian thì đã
bán hết mọi sự mình có, bán chính bản thân mình đi, để
mua lấy thửa ruộng có kho tàng được chôn
giấu ấy vậy (xem
Mathêu 13:44).
Chúa
Kitô là "sự
sống" của
thành phần muốn theo Người và cho những ai từ bỏ chính bản thân mình, đến độ
không một sự gì trên thế gian này có thể so sánh được: có Người là có tất
cả, mất Người là mất tất cả. Đó là lý do Chúa Kitô đã khẳng định với các
môn đệ của Người trong bài Phúc Âm hôm nay rằng: "Nếu
ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc
người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình?".
Chưa hết, những ai dám hy sinh tất cả mọi sự
chẳng là gì trên trần gian tạm gửi mau qua chóng tàn hết sức tầm
thường này để theo
Người cho tới cùng thì sau này sẽ được
phần thưởng xứng đáng bất diệt đời
sau nữa, như Người hứa với họ ở cuối bài Phúc Âm hôm nay: "Con
Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của
Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tùy theo
việc họ làm".
Thế
nhưng, để có thể "bỏ chính bản thân mình" mà theo Chúa, con người cần
phải có đức tin, phải tin vào Đấng đã kêu gọi họ và chính là Đấng họ
theo đuổi cho tới cùng, Đấng luôn tỏ mình ra cho họ, chẳng những bằng điềm
thiêng dấu lạ trong cuộc đời họ mà nhất là bằng đau khổ thử thách để họ càng
tin vào Người hơn, nhờ đó họ có thể hiệp nhất nên
một với Người là "sự sống" của họ mỗi
ngày một hơn.
Đúng thế, không có đức tin con người không thể nào bỏ mình và vác thập giá
mà theo Chúa được. Thế nhưng, con người cũng không thể nào tin vào Thiên
Chúa được nếu chính bản thân họ không được Ngài tỏ mình ra cho, để qua đó họ
có thể tin vào Ngài mỗi ngày một hơn đúng như mạc khải thần linh của Ngài.
Và đó là lý do những gì được nhân vật Moisen nhắc lại cho dân Chúa nghe
trong Bài Đọc 1 hôm nay, từ Sách Đệ Nhị Luật, đều là để giúp cho dân Chúa
nhớ lại và tái nhận thức về Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình mà tin
vào Ngài hơn, qua việc tuân giữ lề luật Ngài ban như dấu hiệu trung thành
với Ngài.
"Các ngươi hãy tìm hiểu những thời xa xưa trước kia, từ khi Thiên Chúa
tác thành con người trên mặt đất, từ chân trời này đến chân trời nọ, có
bao giờ xảy ra một việc vĩ đại như thế này chăng? Có bao giờ người ta đã
nghe thấy những việc lạ lùng như vậy chăng? Có bao giờ một dân tộc đã
nghe lời Thiên Chúa từ trong lửa phán ra như các ngươi đã nghe mà còn
sống chăng? Có bao giờ Chúa đã dùng sự thử thách, dấu chỉ, điềm lạ,
chiến tranh, cánh tay quyền năng mạnh mẽ và những thị kiến khủng khiếp,
để chọn lấy cho mình một dân tộc giữa các dân tộc khác, như Chúa là
Thiên Chúa các ngươi đã làm tất cả các điều đó trước mặt các ngươi trong
đất Ai-cập chăng? Tất cả những điều đó, Người chỉ cho các ngươi xem
thấy, để các ngươi biết rằng Chúa là Thiên Chúa thật, và ngoài Người,
không có chúa nào khác. Từ trên trời, Người cho các ngươi nghe tiếng
Người; ở dưới đất, Người cho các ngươi thấy đám lửa to lớn của Người; và
từ giữa đám lửa ấy, các ngươi đã nghe lời Người, vì Người đã yêu thương
cha ông các ngươi và sau đó đã tuyển chọn con cháu các ông ấy. Người đã
dẫn các ngươi ra khỏi Ai-cập khi Người dùng quyền năng cao cả mà đi
trước mặt các ngươi, để tiêu diệt trước mặt các ngươi những dân tộc lớn
mạnh hơn các ngươi, và đem các ngươi vào trong xứ của họ và ban đất của
họ cho các ngươi làm gia nghiệp, như các ngươi vẫn thấy hiện nay. Vậy
hôm nay các ngươi hãy nhận biết và suy niệm trong lòng rằng: Trên trời
dưới đất, chính Chúa là Thiên Chúa, chứ không có Chúa nào khác. Hãy tuân
giữ các lề luật và giới răn mà hôm nay chính ta truyền dạy cho các
ngươi, hầu cho các ngươi và con cháu mai sau được hạnh phúc, và tồn tại
trên phần đất mà Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho các ngươi".
Thánh Vịnh 76 ở bài Đáp Ca hôm nay đã tỏ ra tích cực đáp ứng lời kêu gọi của
ông Moisen trong Bài Đọc 1 hôm nay, với những nhận thức và tâm tình đầy tin
tưởng và xác tín như sau:
1) Tôi hồi tưởng lại những
việc làm của Chúa; tôi cũng nhớ những điều kỳ diệu thuở trước của Ngài.
Tôi nghiền ngẫm về mọi việc làm của Chúa, và tôi suy tư về những đại sự
của Ngài.
2) Ôi Thiên Chúa, đường lối của
Ngài thánh thiện; có thần minh nào vĩ đại như Thiên Chúa chúng tôi? Ngài
là Thiên Chúa làm nên những điều kỳ diệu, làm sáng tỏ quyền năng ở giữa
chư dân.
3) Ngài đã ra tay thục mạng dân
Ngài, thục mạng con cháu của Giacóp và Giuse. Nhờ tay Môi-sen và Aaron,
Chúa chăn dắt dân Ngài như thể đoàn chiên.
Ngày 8 tháng 8
Thánh Đa-minh, linh mục
lễ nhớ bắt buộc
Tiểu sử
Thánh nhân sinh quãng năm 1170, tại Ca-lê-ru-ê-ga, Tây Ban Nha. Người
học thần học tại Pa-len-xi-a rồi làm kinh sĩ giáo phận Ốt-ma. Trước hết,
người quy tụ một số phụ nữ về sống tại Pơ-rô-vin-lơ (Pháp), theo một tu
luật, rồi sau người lập dòng Anh Em Thuyết Giáo tại Tu-lu-dơ để đối lại
lạc giáo Ca-tha. Chính người đã chiến đấu với lạc giáo bằng lời giảng
thuyết, bằng gương sáng và đã thu hoạch được kết quả khả quan. Người
muốn các anh em trong dòng phải sống khất thực, và lời giảng dạy phải
xuất phát và được nuôi dưỡng bằng chiêm niệm. Người đã đặt trung tâm
dòng ở Rô-ma trước khi qua đời ở Bô-lô-nha ngày 6 tháng 8 năm 1221.

Bài đọc 2 phụng vụ giờ kinh sách
Thánh Đa-minh rất mực đoan chính và nhiệt tình mến Chúa. Không nghi
ngờ gì nữa, ai cũng chứng thực là người thật đáng kính và đầy ân
sủng. Tâm hồn người hết sức bình thản, chỉ xao động khi đồng cảm nỗi
thống khổ của người khác hay khi tỏ lòng thương xót khoan dung. Lòng
vui thì nét mặt cũng vui lây, nên người đã giãi toả niềm an vui nội
tâm trên khuôn mặt khả ái hân hoan.
Qua lời nói cũng như việc làm, đâu đâu người cũng tỏ ra là một con
người phúc âm. Ban ngày, không ai hoà đồng vui vẻ với anh em bằng
hữu hơn người. Ban đêm, chẳng ai kiên trì canh thức cầu nguyện đủ
cách như người. Người ít nói, ngoại trừ nói với Thiên Chúa -tức là
cầu nguyện- hay nói về Thiên Chúa, và người thường khuyên bảo anh em
như vậy.
Người thường dâng lên lời cầu khẩn đặc biệt này, là xin Thiên Chúa
thương ban cho người lòng bác ái chân thật, lòng bác ái giúp người
nỗ lực tìm kiếm và đem lại ơn cứu độ cho con người. Người nghĩ rằng
người chỉ thật sự là chi thể của Đức Ki-tô khi đem trọn vẹn con
người và sức lực ra cứu các linh hồn như Chúa Giê-su là Đấng cứu độ
mọi người đã dâng hiến trọn vẹn con người mình để cứu độ chúng ta.
Và để thực hiện công trình này, theo kế hoạch quan phòng sâu thẳm từ
ngàn đời của Thiên Chúa, người đã lập dòng Anh Em Thuyết Giáo.
Người hay dùng lời nói và thư từ khuyên bảo anh em dòng thường xuyên
học hỏi Tân Ước và Cựu Ước. Lúc nào người cũng mang theo mình sách
Tin Mừng theo thánh Mát-thêu cùng với các thư thánh Phao-lô, và học
đến hầu như thuộc lòng.
Hai ba lần được chọn làm giám mục, nhưng lần nào người cũng từ chối,
vì thích sống nghèo với anh em hơn là ngự trong một toà giám mục.
Người bảo toàn đức khiết tịnh cao quý vẹn tuyền cho đến chết. Người
những ước ao được chịu đòn, chịu tan xương nát thịt và chịu chết vì
tin Đức Ki-tô. Đức giáo hoàng Ghê-gô-ri-ô IX đã nói về người : “Tôi
biết người đã theo lối sống của các Tông Đồ một cách trọn hảo, nên
không chút nghi ngờ : người cũng được chia sẻ vinh quang trên trời
với các Tông Đồ.”
Lời nguyện
Lạy Thiên Chúa toàn năng, Chúa đã cho xuất hiện trong Hội Thánh một
tông đồ nhiệt tâm truyền giảng chân lý là thánh Đa-minh. Xin nhậm
lời thánh nhân hằng tha thiết chuyển cầu, mà ban cho Hội Thánh luôn
tiến triển nhờ công đức và lời giảng dạy của người. Chúng con cầu
xin
THÁNH DAMINH (8/8)
LẬP DÒNG ANH EM THUYẾT GIÁO
1. Vài dòng lịch sử
Thánh Đaminh sinh tại Castile nước Tây ban nha, năm 1170.
Ngay từ lúc còn nhỏ, thánh nhân đã mến mộ sự học hành, cầu nguyện, hãm mình,
sống khắc khổ và yêu thương người nghèo. Mỗi ngày đều có giờ nhất định để
cầu nguyện và ngài ăn chay hãm mình luôn. Ngày kia có người đến xin Ngài
giúp đỡ để chuộc lại đứa em bị bắt, ngài không còn tiền cho người ấy, vì đã
bố thí hết, nên nói:
- Tôi không còn tiền, nhưng này chị hãy dẫn tôi nộp cho người ta, để chuộc
em chị về.
Người này không thể chấp nhận được đề nghị đó, nhưng lòng hết sức cảm phục
sự hy sinh cao độ của Ngài.
Vì muốn dâng mình giúp việc Chúa, nên thánh nhân được gọi đến thụ giáo với
một Linh Mục ở Gumiel d‘Izan. Năm 14 tuổi, Ngài gia nhập Đại chủng viện tại
Palencia. Sau khi hoàn tất việc học, Ngài được Đức Cha Diégo de Azsvedo
truyền chức Linh Mục. Và vì thấy ngài thông minh nhân đức, nên Đức Giám Mục
Martin de Bazan đặt ngài làm Kinh sĩ ở Osma.
Lúc Đức Cha sang Pháp lo việc mục vụ, thánh nhân được đi theo. Trong thời
gian ở đây, ngài thấy tận mắt những khó khăn do bè rối Albigeois gây ra cho
Hội Thánh. Họ chủ trương tất cả những gì thuộc về vật chất đều xấu xa: muốn
hoàn thiện phải tận diệt vật chất, sống hoàn toàn khắc khổ. Ngài quyết định
đem hết khả năng chống lại chủ trương sai lạc của họ. Nhưng nhận thấy một
mình không thể đương đầu với sức bành trướng quá mạnh của họ nên ngài kêu
gọi nhiều nhà truyền giáo nhiệt thành cộng tác. Đó là những người sau này sẽ
trở nên tu sĩ hội dòng Ngài sáng lập, gọi là “Dòng Anh Em Thuyết Giáo”.
Một cộng tác viên của ngài kể lại:
“Đaminh có một đời sống luân lý, một lòng sốt sắng kính mến Chúa mãnh liệt,
đến nỗi hiển nhiên ai cũng thấy ngài là tác phẩm của sự cao trọng và ơn
thánh. Ngài có một tâm hồn bình thản đến nỗi chỉ rộn lên khi phải trắc ẩn và
thương xót. Và vì tâm hồn hân hoan thì làm cho bộ mặt rạng rỡ, nên ngài cũng
để lộ sự bình thản của tâm hồn ngài ra trên nét mặt hiền từ và vui tươi của
Ngài.
“Đâu đâu ngài cũng tỏ ra một con người của Tin Mừng, cả trong lời nói lẫn
hành động”
“Ngài năng dâng lên Chúa lời cầu xin đặc biệt này là cho ngài được lòng bác
ái chân thật, có khả năng săn sóc và đem lại phần rỗi cho người ta. Ngài
nghĩ mình sẽ thật là chi thể của Chúa, nên tiên vàn mình đem hết sức lực
mình ra cứu rỗi các linh hồn, giống như Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc mọi
người, đã tận hiến mình để cứu chuộc chúng ta. Và chính để làm công việc ấy
mà theo ý Chúa an bài sâu xa, Ngài đã lập ra “Dòng Anh Em Thuyết Giáo”
Suốt sáu năm trời, thánh nhân dâng lời cầu nguyện, sự hy sinh kèm theo lời
rao giảng kêu gọi mọi người trở về với đức tin chân chính, nhưng kết quả
không được bao nhiêu. Ngài buồn sầu than thở với Mẹ Maria và được Mẹ dạy bảo
hãy rao giảng và cổ động mọi người lần chuỗi Môi khôi, để nhờ đó Mẹ cầu cùng
Chúa cho những người lầm lạc trở về với Hội thánh. Vâng lời Đức Mẹ, ngài đem
hết khả năng truyền bá chuỗi Môi khôi, giải thích các mầu nhiệm thánh, kêu
gọi mọi người thực hành việc đạo đức này. Kết quả thật là lùng! Không bao
lâu, những người tội lỗi và kẻ lầm lạc ăn năn trở về với Chúa. Thánh nhân
hết sức vui mừng, tạ ơn Chúa và tri ơn Đức Mẹ.
Năm 1215, thánh nhân đến Roma, xin Đức Honoriô III châu phê luật dòng vào
ngày 22/10/1216. Từ đó dòng phát triển mạnh mẽ và có mặt trên khắp thế giới
.
Thánh nhân qua đời tại Bologna ngày 6 tháng 8 năm 1221. Năm 1231 Đức Thánh
Cha Gregoriô thứ IX đã tôn phong ngài lên bậc hiển thánh.
2. Lời trăn trối cuối cùng
“Anh em thân mến. Đây là những gì Cha thánh để lại cho anh em để anh em giữ
lấy như là con có quyền thừa kế:
Anh em hãy sống bác ái
Hãy giữ lòng khiêm tốn
Hãy tự nguyện giữ đức thanh bần – khó nghèo.”
Đây không phải là những gì rút ra từ sách vở, mà là kết tinh của cả một cuộc
sống mà chính Ngài đã nỗ lực thực hiện trong suốt một cuộc đời 51 năm – hơn
một nửa thế kỷ.
ĐTC Biển Đức XVI nói về Thánh Đaminh trong bài giáo lý ở cái link
dưới đây:
3/2/2010 - Bài 104 về Thánh Đaminh
Thứ Bảy
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm
I) Ðnl
6, 4-13
"Hãy yêu mến Chúa ngươi hết
lòng ngươi".
Trích sách Ðệ Nhị Luật.
Môsê nói với dân chúng rằng: "Hỡi
Israel, hãy nghe đây. Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy
yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức
ngươi. Những lời tôi truyền cho ngươi hôm nay, phải ghi tạc vào lòng.
Hãy kể lại những lời ấy cho con cái ngươi, hãy suy ngắm những lời ấy khi
ngồi ở nhà cũng như khi đi ngoài đường, khi nằm ngủ cũng như khi chỗi
dậy. Ngươi hãy buộc những lời đó vào bàn tay như dấu hiệu, lên trán như
một vòng khăn, hãy viết lên cột và cửa nhà ngươi.
"Khi Chúa là Thiên Chúa ngươi dẫn
ngươi đến xứ Người đã thề với các tổ phụ ngươi là Abraham, Isaac và
Giacóp, và ban cho ngươi những thành phố to lớn và phồn thịnh mà ngươi
không xây cất, những ngôi nhà đầy mọi của cải mà ngươi không làm ra,
những giếng nước mà ngươi không đào, vườn nho và vườn cây ôliu mà ngươi
không trồng, ngươi sẽ được no nê: ngươi hãy nhớ, đừng quên Chúa, Ðấng đã
dẫn ngươi ra khỏi đất Ai-cập và khỏi nhà nô lệ. Ngươi hãy kính sợ Chúa
là Thiên Chúa ngươi, hãy làm tôi một mình Người và lấy danh Người mà
thề".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 17,
2-3a. 3bc-4. 47 và 51ab
Ðáp: Lạy Chúa
là dũng lực con, con yêu mến Chúa (c. 2).
Xướng: 1) Lạy Chúa là dũng lực
con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Ðá Tảng, chiến lũy, và cứu tinh. -
Ðáp.
2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn
động chỗ con nương mình, là khiên thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ
phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát
khỏi tay quân thù. - Ðáp.
3) Chúa hằng sống, chúc tụng Ðá
Tảng của con, tán tụng Thiên Chúa là Ðấng cứu độ con. Ngài đã ban cho
vương nhi Ngài đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Ðấng được xức dầu của
Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Tv
129, 5
Alleluia, alleluia! - Con hy vọng
rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 17,
14-19
"Nếu các con có lòng tin, thì
chẳng có gì các con không làm được".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, có một người đến gần, quỳ
gối trước mặt Chúa Giêsu mà nói rằng: "Lạy Ngài, xin thương xót con trai
tôi vì nó mắc chứng kinh phong và rất trầm trọng: nó thường ngã vào lửa
và lắm lúc nó ngã xuống nước. Tôi đã đem nó đến cùng môn đệ Ngài, nhưng
các ông không thể chữa nó được". Chúa Giêsu đáp: "Ôi thế hệ cứng lòng
tin và hư hỏng! Ta phải ở với các ngươi đến bao giờ? Ta còn phải chịu
đựng các ngươi đến bao giờ nữa? Hãy đem nó lại đây cho Ta". Chúa Giêsu
quát mắng quỷ và quỷ liền ra khỏi đứa bé. Và nó được lành ngay trong lúc
ấy. Bấy giờ các môn đệ đến hỏi riêng Chúa Giêsu rằng: "Tại sao chúng con
không thể trừ quỷ ấy được?" Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Vì các con yếu
lòng tin! Thầy bảo thật các con: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt
cải, thì các con có khiến núi này rằng: 'Hãy rời khỏi đây mà sang nơi
kia', thì nó liền đi sang, và chẳng có gì các con không làm được".
Ðó là lời Chúa.

Suy Niệm Cảm Nghiệm
Hôm nay, bài Phúc Âm cho Thứ Bảy
Tuần XVIII Thường Niên không phải là bài tiếp ngay sau bài Phúc Âm
hôm qua, cuối đoạn 16 theo Phúc Âm Thánh Mathêu, mà
là bài Phúc Âm sang đoạn 17, từ
câu 14 đến 21, thay vì từ câu 1 đến câu 13. Bởi vì bài Phúc Âm từ câu 1 đến
13 mở đầu đoạn
17 là bài Phúc Âm về biến
cố Chúa Giêsu biến hình trên núi, một biến cố đã được Giáo Hội cử hành hôm
Thứ Năm vừa rồi
(là ngày
6/8 trong tháng như năm
2015).
Bài
Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc cho ngày cuối tuần XVIII Thường Niên hôm nay
tường thuật về sự việc Chúa Giêsu trừ quỉ cho đứa con trai của một người đến
xin Người, vì môn đệ của
Người đã không thể trừ được quỉ cho con của ông ta:
"Khi ấy, có một người đến gần, quỳ gối trước mặt Chúa Giêsu mà nói rằng:
'Lạy Ngài, xin thương xót con trai tôi vì nó mắc chứng kinh phong và rất
trầm trọng: nó thường ngã vào lửa và lắm lúc nó ngã xuống nước. Tôi đã đem
nó đến cùng môn đệ Ngài, nhưng các ông không thể chữa nó được'".
Chính
các môn đệ cũng thắc mắc là tại sao các
vị không
trừ được quỉ, và đã được
Chúa Giêsu trả lời cho các vị biết rằng: "Bấy
giờ các môn đệ đến hỏi riêng Chúa Giêsu rằng: 'Tại sao chúng con không thể
trừ quỷ ấy được?' Chúa Giêsu bảo các ông rằng: 'Vì các con yếu lòng tin!'"
Đó là lý do sau khi nghe ông bố
của đứa con trai bị quỉ ám cho biết các môn đệ của Người không trừ được quỉ
ra khỏi con ông ta,
Chúa Giêsu đã không than
trách chung dân chúng và
riêng ông bố đang xin Người trừ quỉ cho con ông ta, cho
bằng chính các
môn đệ của Người, thành
phần đã được Người ban cho quyền trừ
quỉ từ khi Người sai các vị đi truyền giáo trước
kia (xem
Mathêu 10:1) mà quyền trừ
quỉ nơi các vị vẫn không có công hiệu gì nơi các vị trong trường hợp
này, chỉ vì các vị yếu lòng tin: "Ôi
thế hệ cứng lòng tin và hư hỏng! Ta phải ở với các ngươi đến bao giờ? Ta còn
phải chịu đựng các ngươi đến bao giờ nữa?"
Như
thế, căn cứ vào trường hợp trừ quỉ được bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu
thuật lại hôm nay thì không phải có quyền trừ quỉ mà trừ được quỉ đâu, nếu
chính tác nhân trừ quỉ yếu đức tin. Đúng thế, nếu "ai được sinh bởi Thiên
Chúa là kẻ chiến thắng thế gian và quyền
năng chiến thắng
thế gian là đức tin của chúng ta" (1Gioan 5:4) thì ai không có đức tin
hay yếu đức tin không thể nào chiến thắng thế gian vốn thuộc quyền cai trị
của ma quỉ sau nguyên tội.
Nếu
"Con Thiên Chúa tỏ mình ra là để hủy hoại các việc làm của ma quỉ"
(1Gioan 3:8) thì quả thực "Người chiến thắng thế gian là ai? Chính là
người tin rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa"(1Gioan 5:5). Đó là lý do,
như bài Phúc Âm hôm Thứ Năm tuần này cho thấy, ngay
sau khi vừa tuyên xưng thật chính xác "Thày
là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống"
(Mathêu 16:16), tông đồ Phêrô đã bị
Thày thậm tệ nguyền rủa là "đồ Satan"
(Mathêu 16:23), vì ngài
phán đoán theo thế gian hơn là theo Thiên Chúa, mà theo thế gian là theo ma
quỉ, vậy thì trừ quỉ làm sao được là đúng lắm vậy!?!
Trái
lại, nếu các tông đồ có đức tin mạnh mẽ thì các vị chẳng những trừ được quỉ
mà còn làm gì cũng được nữa, kiểu "muốn gì được nấy", (giống trường
hợp của người đàn bà Canaan trong bài Phúc Âm Thứ Tư tuần này), như lời Chúa
Giêsu khẳng định
kết bài Phúc Âm hôm nay: "Thầy
bảo thật các con: Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con có
khiến núi này rằng: 'Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia', thì nó liền đi sang,
và chẳng có gì các con không làm được".
"Nếu các con có lòng
tin lớn bằng hạt cải" đây
nghĩa là gì nếu không phải trong dụ ngôn về Nước Trời giống như hạt cải (xem
Mathêu 13:31-32) mà hạt cải nhỏ bé nhất trở thành cây lớn nhất ám chỉ Chúa
Kitô nhập thể tử giá (hạt nhỏ
nhất) và phục sinh thăng thiên (cây
lớn nhất), thì "lòng
tin" của các môn đệ cần phải "lớn bằng hạt cải" đây có nghĩa là "lòng
tin" của
các vị cần phải đạt tới tầm vóc Chúa Kitô, nghĩa là "lòng
tin" của
các vị cần phải làm sao hoàn toàn tin tưởng vào Chúa Kitô, đến độ Chúa Kitô
sống trong các vị, biến các vị thành chứng nhân trung thực và sống động của
Người, tác nhân để Người tỏ mình ra và làm mọi sự trong các vị, nhờ các
vị và qua
các vị.
Nếu "đức tin tỏ hiện qua đức
mến" (Galata 5:6) thì tình trạng của các tâm hồn tin vào Chúa Kitô cũng được
hiệp nhất nên một với Chúa Kitô trong tình
yêu là thế, như trên vừa cảm nhận.
Đối với dân Do Thái thì đức tin của họ đưoọc tỏ hiện bằng việc họ kính
mến Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, được thể hiện cụ thể qua
lòng tri ân của họ ở chỗ luôn nhớ đến những gì Ngài làm cho họ chỉ vì
thương yêu tuyển chọn họ. Và đó là lý do Moisen, trong Sách Nhị Luật ở
Bài Đọc 1 hôm nay, đã căn dặn và huấn dụ thành phần dân được ông theo
lệnh Chúa dẫn họ ra khỏi Ai Cập như sau:
"Hỡi
Israel, hãy nghe đây. Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy
yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức
ngươi. Những lời tôi truyền cho ngươi hôm nay, phải ghi tạc vào lòng.
Hãy kể lại những lời ấy cho con cái ngươi, hãy suy ngắm những lời ấy khi
ngồi ở nhà cũng như khi đi ngoài đường, khi nằm ngủ cũng như khi chỗi
dậy. Ngươi hãy buộc những lời đó vào bàn tay như dấu hiệu, lên trán như
một vòng khăn, hãy viết lên cột và cửa nhà ngươi."Khi Chúa là Thiên Chúa ngươi dẫn
ngươi đến xứ Người đã thề với các tổ phụ ngươi là Abraham, Isaac và
Giacóp, và ban cho ngươi những thành phố to lớn và phồn thịnh mà ngươi
không xây cất, những ngôi nhà đầy mọi của cải mà ngươi không làm ra,
những giếng nước mà ngươi không đào, vườn nho và vườn cây ôliu mà ngươi
không trồng, ngươi sẽ được no nê: ngươi hãy nhớ, đừng quên Chúa, Ðấng đã
dẫn ngươi ra khỏi đất Ai-cập và khỏi nhà nô lệ. Ngươi hãy kính sợ Chúa
là Thiên Chúa ngươi, hãy làm tôi một mình Người và lấy danh Người mà
thề".
Và đó là lý do Bài Đáp Ca hôm nay, bài Đáp Ca trích từ Thánh Vịnh 17, đã
chất chứa những tâm tình tin tưởng và kính mến Thiên Chúa như sau:
1) Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Chúa, lạy Chúa là Ðá Tảng,
chiến lũy, và cứu tinh.
2) Lạy Chúa là Thiên Chúa, là sơn động chỗ con nương mình, là khiên
thuẫn, là uy quyền cứu độ, là sức hộ phù con. Con xướng ca khen ngợi cầu
cứu Chúa, và con sẽ được cứu thoát khỏi tay quân thù.
3) Chúa hằng sống, chúc tụng Ðá Tảng của con, tán tụng Thiên Chúa là
Ðấng cứu độ con. Ngài đã ban cho vương nhi Ngài đại thắng, đã tỏ lòng từ
bi với Ðấng được xức dầu của Ngài.
Thánh Têrêsa Benedicta Đồng trinh tử đạo (9/8)

Edith Stein, một nữ tu Cát Minh thánh thiện, một triết gia uyên thâm
và một văn sĩ sáng giá, không những ngài có ảnh hưởng lớn ở thời ấy
mà ngày nay, ảnh hưởng ấy đang lan tràn trong giới triết gia và trí
thức ở Ðức cũng như trên toàn thế giới. Ngài là nguồn cảm hứng cho
tất cả những ai coi Thánh Giá là di sản, và cuộc đời ngài được dâng
hiến cho sự đau khổ và bách hại của dân tộc Do Thái.
Sinh ngày 12 tháng Mười 1891 trong một gia đình Do Thái ở Breslau,
nước Ðức, ngay từ nhỏ Edith Stein đã chứng tỏ năng lực học hỏi lạ
thường, và vào lúc bắt đầu Thế Chiến I, ngài đã học xong triết và
ngữ văn tại đại học Breslau và Goettingen.
Sau cuộc chiến, ngài tiếp tục cao học tại Ðại Học Freiburg và lấy
bằng tiến sĩ ưu hạng về triết. Sau đó ngài là giáo sư phụ tá và là
cộng tác viên của Giáo Sư Husserl, cha đẻ của hiện tượng học và cũng
là người có ảnh hưởng lớn đến tư duy của thánh nữ.
Trong tất cả các ngành học hỏi, Edith Stein không chỉ tìm kiếm chân
lý mà còn đi tìm chính Chân Lý và ngài đã tìm thấy ở Giáo Hội Công
Giáo sau khi đọc tự truyện của Thánh Têrêsa Avila. Edith Stein được
rửa tội vào ngày đầu năm 1922.
Sau khi trở lại đạo, Edith dùng toàn thời giờ để dạy học, diễn
thuyết, viết lách và dịch sách, và không bao lâu ngài trở nên một
triết gia và tác giả nổi tiếng, nhưng điều ngài khao khát là cuộc
sống cô độc và tịnh niệm của dòng Cát Minh, là nơi ngài tận hiến cho
Thiên Chúa và người dân của ngài. Trước khi Ðức Quốc Xã bách hại
người Do Thái khiến ngài phải ngưng mọi hoạt động thì cha linh hướng
đã đồng ý để ngài gia nhập dòng Cát Minh Hèn Mọn ở
Cologne-Lindenthal vào tháng Mười năm 1933. Vào tháng Tư năm kế
tiếp, ngài được mặc áo dòng và lấy tên là “Têrêsa Bênêđícta của
Thánh Giá.” Vào Chúa Nhật Phục Sinh năm 1935, ngài khấn trọn.
Khi sự bách hại người Do Thái gia tăng mãnh liệt và điên cuồng, Sơ
Têrêsa Bênêđícta nhận thấy sự nguy hiểm khi có mặt tại nhà dòng Cát
Minh ở Cologne, và ngài đã xin phép bề trên để di chuyển đến một tu
viện ở ngoại quốc. Vào đêm 31 tháng Mười Hai 1938, ngài bí mật vượt
biên giới đến Hòa Lan là nơi ngài được tiếp đón một cách nồng nhiệt
vào dòng Cát Minh ở Echt. Ở đây ngài sáng tác văn bản sau cùng là
Thánh Giá Học.
Chính Thánh Giá của ngài thì ngay ở trước mặt, vì lúc ấy Ðức Quốc Xã
đã xâm lăng Hòa Lan, và khi các giám mục Hòa Lan công bố lá thư mục
vụ phản đối việc trục xuất người Do Thái và đuổi các học sinh Do
Thái ra khỏi trường Công Giáo, thì Ðức Quốc Xã ra lệnh bắt giữ mọi
người Công Giáo thuộc gốc Do Thái ở Hòa Lan. Sơ Têrêsa Bênêđícta bị
bắt vào ngày 2 tháng Tám 1942, và được chở đến trại tử thần
Auschwitz. Ngài chết trong phòng hơi ngạt ở Auschwitz ngày 9 tháng
Tám 1942.
Vào ngày 1 tháng Năm 1987, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong chân
phước cho Sơ Têrêsa Bênêđícta, và sau cùng sơ được phong thánh ngày
11 tháng Mười 1998.
Lời Nguyện:
Lạy Chúa là Thiên Chúa tổ tiên chúng con, Chúa đã đưa Thánh Têrêsa
Benedicta đến sự tròn đầy của khoa học thập giá trong giờ tử đạo của
người. Xin lấp đầy chúng con sự hiểu biết ấy; và nhờ lời người
chuyển cầu, xin cho chúng con luôn kiếm tìm Chúa là chân lý tối
thượng, và trung tín cho đến chết đối với giao ước tình yêu đã được
ký kết trong Máu Con Chúa cho ơn cứu độ của tất cả mọi người. Chúng
con cầu xin.
Lời Bàn
Các sáng tác của Sơ Têrêsa Bênêđícta có đến 17 tập, phần lớn đã được
dịch sang Anh ngữ. Là một phụ nữ chính trực, ngài theo đuổi chân lý
mà bất cứ đâu chân lý đưa đẩy đến. Sơ Josephine Koeppel, O.C.D.,
người đã dịch vài cuốn sách của Sơ Têrêsa Bênêđícta, nhận xét tổng
quát về vị thánh này như sau, ngài “học biết cách sống trong bàn tay
Thiên Chúa.”
Lời trích
Trong bài giảng lễ phong thánh, Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói:
“Vì Edith Stein là người Do Thái nên cùng với người chị là Rosa và
những người Công Giáo cũng như Do Thái khác bị đưa từ Hòa Lan đến
trại tập trung Auschwitz, là nơi ngài chết vì hơi ngạt. Ngày nay,
chúng ta tưởng nhớ ngài với lòng tôn trọng sâu xa. Một vài ngày
trước khi bị trục xuất, người phụ nữ đạo đức này đã gạt bỏ vấn đề
được cứu nguy: ‘Ðừng làm như vậy! Tại sao tôi phải được miễn trừ?
Không đúng sao khi tôi chẳng được ích gì từ bí tích Rửa Tội? Nếu tôi
không thể chia sẻ số phận với anh chị em của tôi, đời sống của tôi
chắc chắn bị tiêu diệt’.”
Với những người trẻ có mặt trong buổi lễ, đức giáo hoàng nói: “Cuộc
đời các con không phải là một chuỗi không cùng của những cánh cửa
mở! Hãy lắng nghe tâm hồn mình! Ðừng dừng ở ngoài mặt nhưng đi sâu
vào tâm điểm của mọi sự! Và khi đến giờ, hãy có can đảm quyết định!
Thiên Chúa chờ đợi các con phó thác sự tự do của mình trong bàn tay
nhân ái của Người.”
Thánh Teresa Benedicta Thánh Giá Edith Stein (1891-1942)