SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO
Chúa Nhật
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: Gr 38, 4-6. 8-10
"Ngài đã sinh ra tôi làm người bất thuận sống trên vũ trụ".
Trích sách Tiên tri Giêrêmia.
Trong những ngày ấy, các thủ lãnh tâu vua rằng: "Chúng tôi xin bệ hạ cho lệnh giết người này, vì nó cố ý nói những lời làm lũng đoạn tinh thần chiến sĩ còn sống sót trong thành này và toàn dân. Thực sự tên này không tìm hoà bình cho dân, mà chỉ tìm tai hoạ". Vua Sêđêcia phán rằng: "Ðấy nó ở trong tay các ngươi, vì nhà vua không thể từ chối các ngươi điều gì". Họ liền bắt Giêrêmia và quăng xuống giếng của Melkia con Amêlec, giếng này ở trong sân khám đường, họ dùng dây thả Giêrêmia xuống giếng. Giếng không có nước, chỉ có bùn, nên ông Giêrêmia sa xuống bùn.
Abđêmêlech ra khỏi đền vua và đến tâu vua rằng: "Tâu bệ hạ, những người này chỉ toàn làm những điều ác đối với tiên tri Giêrêmia, họ ném ông xuống giếng cho chết đói dưới đó, vì trong thành hết bánh ăn". Vậy vua truyền dạy Abđêmêlech người Êthiôpi rằng: "Hãy đem ba mươi người ở đây theo ngươi, và kéo tiên tri Giêrêmia ra khỏi giếng trước khi ông chết".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 39, 2. 3. 4. 18
Ðáp: Lạy Chúa, xin cấp tốc trợ phù con (c. 14b).
Xướng: 1) Tôi đã cậy trông, tôi đã cậy trông ở Chúa, Người đã nghiêng mình về bên tôi, và Người đã nghe tiếng tôi kêu cầu. - Ðáp.
2) Người đã kéo tôi ra khỏi hố diệt vong, khỏi chỗ bùn nhơ; Người đã đặt chân tôi trên đá cứng, và đã làm vững bước chân tôi. - Ðáp.
3) Và Người đã đặt trong miệng tôi một bài ca mới, bài ca mừng Thiên Chúa chúng ta; nhiều người đã chứng kiến và tôn sợ, và họ sẽ cậy trông vào Chúa. - Ðáp.
4) Phần con, khốn khổ cơ bần, nhưng mà có Chúa ân cần chăm nom. Người là Ðấng phù trợ và giải thoát con, ôi lạy Chúa, xin Ngài đừng chậm trễ. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Dt 12, 1-4
"Chúng ta hãy kiên quyết xông ra chiến trận đang chờ đợi ta".
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Anh em thân mến, cả chúng ta, chúng ta cũng có một đoàn thể chứng nhân đông đảo như đám mây bao quanh, chúng ta hãy trút bỏ tất cả những gì làm cho chúng ta nặng nề và tội lỗi bao quanh chúng ta. Chúng ta hãy cương quyết xông pha chiến trận đang chờ đợi ta. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Ðức Giêsu, Ðấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất; vì trông mong niềm vui đang chờ đón mình, Người đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn, và rồi lên ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. Anh em hãy tưởng nghĩ đến Ðấng đã liều thân chịu cuộc tấn công dữ dội của những người tội lỗi vào chính con người của Ngài, ngõ hầu anh em khỏi mỏi mệt mà thất vọng. Vì chưng, trong khi chiến đấu với tội lỗi, anh em chưa đến nỗi phải đổ máu.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 8, 12
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống". - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 12, 49-53
"Thầy không đến để đem bình an, nhưng đem sự chia rẽ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên. Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất. Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ chồng".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Phụng Vụ Lời Chúa nói chung, căn cứ chính yếu vào Bài Phúc Âm của Chúa
Nhật XX Thường Niên Năm C, có thể nói câu
then chốt nhất đó là:
“Thầy
phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi
hoàn tất”.
“Phép rửa”
đây Chúa Giêsu muốn ám chỉ những gì, nếu không phải cuộc khổ nạn và tử
giá của Người, “phép rửa” mà
chính Người “khắc
khoải biết bao cho đến khi hoàn tất”!
Tại sao? Tại vì, như Người đã khẳng định ngay đầu Bài Phúc Âm hôm nay:
"Thầy đã đến đem lửa xuống thế
gian và Thầy mong muốn biết bao cho lửa cháy lên”.
“Lửa” được Người “đem
xuống thế gian” và “mong muốn
biết bao cho lửa ấy cháy lên” trên thế gian này ấy là gì, nếu không
phải Thánh Linh, Đấng mà các vị tông đồ sẽ “chịu
phép rửa khi nhận được quyền lực từ trên cao” (Tông Vụ 1:8) ở
Giêrusalem trong ngày Lễ Ngũ Tuần, Đấng hiện xuống như hình lưỡi lửa đậu
trên đầu của từng vị (xem Tông Vụ 2:3),
sau khi Người Thăng Thiên về cùng Cha!
Đó là lý do, trước khi Chúa Giêsu lãnh nhận phép rửa ở Sông Dược Đăng
(Jordan), Người đã được vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả của Người tiên báo về
Đấng đến sau cao trọng hơn ngài rằng:
“Tôi
chưa hề biết Ngài, nhưng Ðấng đã sai tôi đến thanh tẩy bằng nước, chính
Người đã nói với tôi: Ngươi thấy Thần khí đáp xuống và lưu lại trên ai,
thì chính Ngài là Ðấng thanh tẩy trong Thánh thần.”
(Gioan 1:33).
Thế nhưng, để có thể thực hiện phép rửa trong Thánh Thần vô cùng thiết
yếu, một phép rửa tỏ hiện tất cả mạc khải thần linh của Thiên Chúa, Đấng
là tình yêu vô cùng nhân hậu, nhờ đó, loài người vô cùng thấp hèn và tội
lỗi nói chung, và những ai tin vào Ngài nói riêng, được muôn đời hiệp
thông thần linh với Ngài, thì chính bản thân Chúa Giêsu Kitô Con của
Ngài “phải chịu một phép rửa”
khổ nạn và tử giá bất khả thiếu.
Hình ảnh Người “phải chịu một
phép rửa” khổ nạn và tử giá bất khả thiếu đây đã được cả Bài Đọc 1,
liên quan đến số phận bị ám hại của Tiên Tri Giêrêmia, lẫn Bài Đọc 2, về
chính Chúa Giêsu Kitô, hôm nay cho thấy.
Bài Đọc 1: “Trong
những ngày ấy, các thủ lãnh tâu vua rằng: ‘Chúng tôi xin bệ hạ cho lệnh
giết người này, vì nó cố ý nói những lời làm lũng đoạn tinh thần chiến
sĩ còn sống sót trong thành này và toàn dân. Thực sự tên này không tìm
hoà bình cho dân, mà chỉ tìm tai hoạ’. Vua Sêđêcia phán rằng: ‘Ðấy nó ở
trong tay các ngươi, vì nhà vua không thể từ chối các ngươi điều gì’. Họ
liền bắt Giêrêmia và quăng xuống giếng của Melkia con Amêlec, giếng này
ở trong sân khám đường, họ dùng dây thả Giêrêmia xuống giếng. Giếng
không có nước, chỉ có bùn, nên ông Giêrêmia sa xuống bùn”.
Bài Đọc 2: “…Người
đã chịu khổ giá, bất chấp sự hổ thẹn,
và rồi lên ngự bên hữu ngai Thiên
Chúa. … Ðấng đã liều thân chịu cuộc tấn công dữ dội của những người tội
lỗi vào chính con người của Ngài”.
Đúng thế, “lửa” được “Lời
đã hóa thành nhục thể” (Gioan 1:14) là Chúa Giêsu Kitô “đã
đến mang xuống thế gian” đây
chính là Thánh Thần, và Người
đã
“mong muốn biết bao cho lửa ấy
cháy lên” bằng cuộc khổ nạn và tử giá của Người. Và đó là lý do ngay
sau khi sống lại từ trong cõi chết, vào buổi tối ngày thứ nhất trong
tuần, khi hiện ra với các tông đồ lần đầu tiên, Người đã thông ban cho
các vị Thánh Thần của mình, qua hơi thở sự sống, từ thân xác phục sinh
của Người, được Người thổi trên các vị (xem Gioan 20: 22), những con
người đang ở trong sự chết đầy nỗi sợ hãi và thất vọng.
Quả thật, thành phần đầu tiên được Chúa Giêsu Kitô thắp “lửa”
Người “đem xuống thế gian” là
chính các vị tông đồ, thành phần chứng nhân tiên khởi của Người, tiêu
biểu cho chung những ai được Người tuyển chọn và kêu gọi làm môn đệ của
Người trong giòng thời gian cho đến tận thế, thành phần nhân chứng của
Người, chẳng những “ở Giêrusalem,
khắp Giuđêa và Samaria” (Tông Vụ 1:8), mà còn “cho
đến tận cùng trái đất nữa” (cùng câu vừa trích).
Các vị tông đồ chứng nhân tiên khởi, và cùng với các vị và theo các vị,
Kitô hữu hậu sinh là môn đệ của Chúa Kitô Phục Sinh, “chịu
phép rửa khi lãnh nhận được quyền lực từ trên cao” (Tông Vụ 1:8), là
để “các con sẽ trở thành nhân
chứng của Thày” (cùng câu vừa trích), không phải chỉ, dù trước tiên,
ở Thánh Địa (Giêrusalem, Giuđêa và Samaria), mà còn, sau đó ở “khắp
thế giới” (Marco 16:15) nữa, “cho
đến tận cùng trái đất” (Tông Vụ 1:8), cho tới khi Người lại đến
trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Và chính vì thành phần chứng nhân của Chúa Giêsu Kitô được lãnh nhận “phép
rửa trong Thánh Linh” của Chúa Kitô và bởi Chúa Kitô như thế mà họ
cũng đã, như Người, nhưng với Người và trong Người, trở thành mục tiêu
chống đối của thế gian, bao gồm cả chính những ai thân tình nhất của họ,
đúng như Chúa Kitô đã khẳng định trong Bài Phúc Âm hôm nay:
“Các con tưởng Thầy đến để đem sự
bình an xuống thế gian ư? Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy
đến để đem sự chia rẽ. Vì từ nay, năm người trong một nhà sẽ chia rẽ
nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối
con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, và con gái
chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, và nàng dâu chống đối mẹ
chồng".
Thành phần môn đệ đích thực của Chúa Kitô bị chống đối là vì họ sống
theo tinh thần của Người, theo giáo huấn của Người, một tinh thần và một
giáo huấn siêu việt trên thế gian của Người, theo tác động hiệp thông
của Thánh Linh, những gì hoàn toàn vượt trên thế gian, hơn là phản lại
thế gian, nhưng vì “thế gian
chuộng tối tăm hơn ánh sáng”
(Gioan 3:19), nên bất khả tránh xẩy ra tình trạng “chia
rẽ nhau”, mà nạn nhân thua thiệt chính là thành phần thiểu số môn đệ
chứng nhân của Chúa Kitô, như lịch sử của Giáo Hội đã từng chứng thực.
Thực tế cho thấy, không phải là không xẩy ra trường hợp thành phần Kitô
hữu môn đệ Chúa Kitô, không kể những người sống phản chứng Kitô, mang
tính cách “phản Kitô”, còn có những tâm hồn không thể hay không dám
trung thành với Người khi chạm trán và đụng độ với quyền lực hay áp lực
của thế gian. Đó là lý do, trong Bài Đọc 2 hôm nay, Kitô hữu giáo đoàn
Do Thái mới được nhắc nhở và khuyên nhủ hãy theo mẫu gương của Chúa
Kitô, Đấng đã “phải chịu phép
rửa” khổ nạn và tử giá vô cùng khủng khiếp của Người cho phần rỗi
của nhân loại nói chung và cho Giáo Hội của Người được thánh hoá nói
riêng (xem Gioan 17:19), như sau:
“Chúng
ta hãy nhìn thẳng vào Ðức Giêsu,
Ðấng khơi nguồn đức tin và làm cho nó nên hoàn tất; vì trông mong niềm
vui đang chờ đón mình,
Người đã chịu khổ giá, bất
chấp sự hổ thẹn, và rồi
lên ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. Anh em hãy tưởng nghĩ đến
Ðấng đã liều thân chịu cuộc tấn công dữ dội của những người tội lỗi vào
chính con người của Ngài, ngõ hầu anh em khỏi mỏi mệt mà thất
vọng”.
Tuy nhiên, những ai là Kitô hữu môn đệ của Chúa Kitô, thành phần chứng
nhân đích thực và sống động của Người,
ở trong những trường hợp “chia rẽ
nhau” như thế, chẳng những không nản chí và bỏ cuộc, trái lại, còn
càng tin cậy vào Đấng Phục Sinh “được
toàn quyền trên trời dưới đất” (Mathêu 28:19), cũng như vào Đấng Quan Phòng Thần Linh vô cùng khôn ngoan, toàn thiện và
toàn năng là chủ tể của lịch sử loài người hơn bao giờ hết, như tâm tình
và chiều hướng của Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Tôi đã cậy trông, tôi đã cậy
trông ở Chúa, Người đã nghiêng mình về bên tôi, và Người đã nghe tiếng
tôi kêu cầu.
2) Người đã kéo tôi ra khỏi hố diệt vong, khỏi chỗ bùn nhơ; Người đã đặt
chân tôi trên đá cứng, và đã làm vững bước chân tôi.
3) Và Người đã đặt trong miệng tôi một bài ca mới, bài ca mừng Thiên
Chúa chúng ta; nhiều người đã chứng kiến và tôn sợ, và họ sẽ cậy trông
vào Chúa.
4) Phần con, khốn khổ cơ bần, nhưng mà có Chúa ân cần chăm nom. Người là
Ðấng phù trợ và giải thoát con, ôi lạy Chúa, xin Ngài đừng chậm trễ.
Thứ Hai
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Tl 2, 11-19
"Chúa khiến các quan án đứng ra, nhưng chúng không muốn nghe các ông".
Trích sách Thủ Lãnh.
Trong những ngày ấy, con cái Israel làm điều gian ác trước mặt Chúa và phụng thờ các thần Baal. Chúng lìa bỏ Chúa là Thiên Chúa các tổ phụ chúng, Ðấng đã dẫn chúng ra khỏi đất Ai-cập, mà theo các thần ngoại, những thần các dân tộc cư ngụ chung quanh chúng, và thờ lạy các thần ấy, khiêu khích cơn nghĩa nộ Chúa, chối bỏ Người, và phụng thờ thần Baal và Astaroth. Chúa thịnh nộ Israel, trao chúng vào tay bọn cướp. Bọn này bắt chúng mà bán cho quân thù ở chung quanh chúng, chúng không sao chống lại được địch thù của chúng. Dù chúng muốn đi nơi nào, tay Chúa vẫn đè trên chúng, như Người đã phán và đã thề với chúng, như thế chúng phải chịu khổ cực nặng nề.
Chúa khiến các vị thủ lãnh đứng ra giải thoát chúng khỏi tay những người bóc lột, nhưng chúng cũng chẳng muốn nghe theo các vị thủ lãnh. Chúng hướng lòng về các thần ngoại và thờ lạy các thần ấy. Chúng đã vội bỏ đường lối các tổ tiên chúng đã đi, dù chúng có nghe biết các điều răn của Chúa, nhưng chúng vẫn làm mọi điều trái nghịch. Khi Chúa khiến các vị thủ lãnh đứng ra, Người tỏ lòng thương xót chúng, nghe lời những kẻ khốn cực kêu van, và giải thoát chúng khỏi tay những người bóc lột sát hại. Nhưng sau khi vị thủ lãnh chết, chúng lại đổi lòng, làm những điều xấu xa hơn cha ông chúng đã làm, theo các thần ngoại, phụng sự và thờ lạy các thần ấy. Chúng không từ bỏ những điều chúng bày đặt ra và đường lối quá ương ngạnh chúng quen đi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 105, 34-35. 36-37. 39-40. 43ab và 44
Ðáp: Lạy Chúa, xin nhớ chúng con khi gia ân huệ cho dân Chúa (c. 4a).
Xướng: 1) Họ không chịu tiêu diệt những dân mà Chúa đã có lệnh truyền cho họ. Họ đã hoà mình với người chư dân, và học theo công việc chúng làm. - Ðáp.
2) Họ sùng bái tà thần của chúng, những tà thần đã hoá thành lưới dò hại họ. Họ đã giết những người con trai và con gái, để làm lễ cúng tế quỷ thần. - Ðáp.
3) Bởi những việc đó, họ tự làm ô uế bản thân, và do hành động tội lỗi, họ đã ngoại tình. Chúa đã bừng cơn thịnh nộ với dân tộc, và tởm ghét phần gia nghiệp của Người. - Ðáp.
4) Nhiều lần Chúa đã thương giải phóng nhưng họ manh tâm chống lại Người. Nhưng Người đã nhìn đến cảnh gian truân của họ, khi Người nghe lời họ kêu xin. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 34
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin giáo huấn con, để con tuân cứ luật pháp của Chúa và để con hết lòng vâng theo luật đó. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 19, 16-22
"Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, có một người đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm việc lành gì để được sống đời đời?" Người bảo kẻ ấy rằng: "Sao ngươi hỏi Ta về việc lành? Chỉ có một Ðấng nhân lành là Thiên Chúa. Nếu ngươi muốn vào nơi hằng sống, ngươi hãy tuân giữ các giới răn". Người ấy hỏi rằng: "Những giới răn nào?" Chúa Giêsu đáp: "Ngươi chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng dối. Hãy thảo kính cha mẹ, và yêu thương kẻ khác như chính mình". Người thanh niên thưa lại rằng: "Tất cả những điều đó tôi đã giữ từ khi còn niên thiếu, vậy tôi còn thiếu sót gì nữa chăng? Chúa Giêsu bảo anh: "Nếu ngươi muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải ngươi có và bố thí cho người nghèo khó, thì ngươi sẽ được kho tàng trên trời, rồi đến mà theo Ta". Khi người thanh niên nghe lời đó thì buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều sản nghiệp.
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Tốt Lành vẫn chưa Thánh Đức
Bài
Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần XX Thường Niên hôm
nay tiếp theo ngay sau bài Phúc Âm của Thứ Bảy tuần trước, bài Phúc Âm
về "Nước Trời thuộc về những người" sống tinh thần khiêm hạ như trẻ
nhỏ.
Về
nội dung, có thể nói bài Phúc Âm hôm nay tiếp nối bài Phúc Âm Thứ Bảy
tuần trước. Vì trong bài Phúc Âm hôm nay Nước Trời dường như không thuộc
về thành phần giầu có như người giầu có trong bài Phúc Âm, cho dù người
giầu có này sống đạo đàng hoàng chứ không vì giầu mà bê bối.
Trước hết, người giầu trong
bài Phúc Âm sống đạo đàng hoàng, đến độ dường như vẫn còn cảm thấy thiếu
một cái gì đó cho dù về vật chất giầu sang phú quí, nên mới lên tiếng
hỏi Chúa Giêsu rằng: "Lạy
Thầy nhân lành, tôi phải làm việc lành gì để được sống đời đời?"
Sau nữa, "người thanh
niên" này không
vì giầu mà sống bê bối, như lời anh ta đã thưa
cùng Chúa Giêsu, Đấng đã
liệt kê các giới răn căn bản trong Thập Giới để được cứu rỗi hay "để được
sống đời đời", những giới răn "chớ
giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng dối. Hãy thảo
kính cha mẹ, và yêu thương kẻ khác như chính mình", những
giới răn mà
anh ta đã tự thú với Người rằng: "Tất
cả những điều đó tôi đã giữ từ khi còn niên thiếu, vậy tôi còn thiếu sót
gì nữa chăng?"
Đúng thế, con người được
dựng nên theo hình ảnh và tương tự như Thiên Chúa nên lòng luôn khắc
khoải cho tới khi được nghỉ yên trong Ngài mà cho dù giầu sang phú quí
về vật chất họ vẫn cảm thấy xao xuyến bất an làm sao ấy. Thái độ của
người thanh niên giầu sang trong bài Phúc Âm đã cho thấy rõ tâm trạng
này, chẳng những ở vấn nạn được anh ta đặt ra hỏi Chúa Giêsu: "Lạy
Thầy nhân lành, tôi phải làm việc lành gì để được sống đời đời?",
mà còn ở hành động cuối cùng của anh ta được Phúc Âm thuật lại rằng: "Khi
người thanh niên nghe lời đó thì buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều sản
nghiệp".
Tuy nhiên, tâm
trạng vẫn còn "thiếu sót" này của chàng thanh niên giầu có trong
bài Phúc Âm hôm nay cũng dễ hiểu thôi. Bởi vì, ơn gọi nên trọn lành
không phải ai cũng có thể theo đuổi, hễ muốn là được, mà cần phải được
kêu gọi và tuyển chọn như các vị tông đồ. Mà muốn nên trọn lành thì điều
kiện tiên quyết đó là từ bỏ tất cả những gì con người sở hữu, nhờ đó họ
mới có thể tiến đến chỗ bỏ mình và vác thập giá mà theo Chúa Kitô Vượt
Qua được, như chính Người đã kêu gọi trong
bài Phúc Âm hôm nay: "Nếu
anh muốn nên trọn lành, hãy về bán hết của cải anh có và bố thí cho
người nghèo khó, thì anh sẽ được kho tàng trên trời, rồi đến mà theo Tôi".
Dấu hiệu còn cảm thấy "thiếu
sót" và "buồn rầu" của người thanh niên giầu có trong bài
Phúc Âm dầu sao cũng đáng mừng, vì chúng chứng tỏ người
thanh niên giầu có này vẫn
còn ý thức đức tin, vẫn còn khao khát nên trọn lành, tuy chưa thể thực
hiện ngay được, hơn là những con người tham lam làm giầu đến độ bỏ Chúa,
bỏ lễ Chúa Nhật, cho đến khi Chúa để cho thất bại, tan gia bại sản
thì đâm ra trách Chúa, hận Chúa, tại sao Chúa để cho họ bị khốn khó như
vậy v.v. Tại sao họ
không tự trách mình bỏ Chúa mà lại trách Chúa bỏ họ nhỉ?! Thật là đáng
thương...
Thái độ tỏ ra luyến tiếc thế gian, dính bén với tất cả những gì mình có, đến độ không thể từ bỏ mà sống trọn lành hơn của chàng thanh niên giầu có trong bài Phúc Âm hôm nay, là bằng chứng cho thấy mầm mống nguyên tội của con người vẫn còn đó, với đam mê nhục dục và tính mê nết xấu, một mầm mống cho dù đã được lãnh nhận Phép Rửa, và nhờ đó đã như dân Do Thái vào Đất Hứa, nhưng Kitô hữu vẫn cần phải chiến đấu với bản thân mình để Sống Thánh xứng với thân phận là con cái của Thiên Chúa là Đấng Thánh. Thân phận của dân Chúa ở Đất Hứa cũng thế, như hai nguyên tổ ở trong Vườn Địa đường, cũng vẫn phải chiến đấu với chính bản thân mình trước mọi cám dỗ của đủ mọi thứ thần tượng thế gian rất thích hợp với con người của mình, nhưng lại không phải là chính Thiên Chúa của mình. Bài Đọc 1 hôm nay đã được Sách Thủ Lãnh / Quan Án ghi nhận về tình trạng của dân Chúa vẫn còn xu hướng dân ngoại và hằng được Thiên Chúa tìm hết cách để cải hoá họ, như sau:
Trong những ngày ấy, con cái Israel làm điều gian ác trước mặt Chúa và phụng thờ các thần Baal. Chúng lìa bỏ Chúa là Thiên Chúa các tổ phụ chúng, Ðấng đã dẫn chúng ra khỏi đất Ai-cập, mà theo các thần ngoại, những thần các dân tộc cư ngụ chung quanh chúng, và thờ lạy các thần ấy, khiêu khích cơn nghĩa nộ Chúa, chối bỏ Người, và phụng thờ thần Baal và Astaroth. Chúa thịnh nộ Israel, trao chúng vào tay bọn cướp... Chúa khiến các vị thủ lãnh đứng ra giải thoát chúng khỏi tay những người bóc lột, nhưng chúng cũng chẳng muốn nghe theo các vị thủ lãnh. Chúng hướng lòng về các thần ngoại và thờ lạy các thần ấy. Chúng đã vội bỏ đường lối các tổ tiên chúng đã đi, dù chúng có nghe biết các điều răn của Chúa, nhưng chúng vẫn làm mọi điều trái nghịch. Khi Chúa khiến các vị thủ lãnh đứng ra, Người tỏ lòng thương xót chúng, nghe lời những kẻ khốn cực kêu van, và giải thoát chúng khỏi tay những người bóc lột sát hại. Nhưng sau khi vị thủ lãnh chết, chúng lại đổi lòng, làm những điều xấu xa hơn cha ông chúng đã làm, theo các thần ngoại, phụng sự và thờ lạy các thần ấy. Chúng không từ bỏ những điều chúng bày đặt ra và đường lối quá ương ngạnh chúng quen đi".
Thánh Vịnh 105 ở bài Đáp Ca hôm nay đã cho thấy nguyên do dân Do Thái vẫn còn xu hướng dân ngoại (câu 1), đã sống như dân ngoại (câu 2), đến độ đã trở nên bất xứng với Thiên Chúa (câu 3), nhưng Chúa là vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ vẫn không bao giờ bỏ rơi họ (câu 4), tất cả 4 câu Thánh Vịnh này như sau:
1) Họ không chịu tiêu diệt những dân mà Chúa đã có lệnh truyền cho họ. Họ đã hoà mình với người chư dân, và học theo công việc chúng làm.
2) Họ sùng bái tà thần của chúng, những tà thần đã hoá thành lưới dò hại họ. Họ đã giết những người con trai và con gái, để làm lễ cúng tế quỷ thần.
3) Bởi những việc đó, họ tự làm ô uế bản thân, và do hành động tội lỗi, họ đã ngoại tình. Chúa đã bừng cơn thịnh nộ với dân tộc, và tởm ghét phần gia nghiệp của Người.
4) Nhiều lần Chúa đã thương giải phóng nhưng họ manh tâm chống lại Người. Nhưng Người đã nhìn đến cảnh gian truân của họ, khi Người nghe lời họ kêu xin.
Thứ Ba
Bài Ðọc I: (Năm I) Tl 6, 11-24a
"Hỡi Giêđêon, hãy đi giải thoát Israel: ngươi biết Ta thương xót ngươi".
Trích sách Thủ Lãnh.
Trong những ngày ấy, Thiên thần Chúa đến ngồi dưới gốc cây sồi ở đất Êphra, thuộc sở hữu của ông Gioas, tổ gia tộc Abiêzer. Khi ấy, Giêđêon, con trai của ông, đang đập và rê lúa trong nhà ép nho để tránh mắt quân Mađian, thì Thiên thần Chúa hiện ra với ông và nói rằng: "Hỡi người dũng sĩ, Chúa ở cùng ngươi". Giêđêon thưa lại rằng: "Thôi, xin Ngài, nếu Chúa ở cùng chúng tôi, tại sao chúng tôi phải chịu tất cả những sự này? Nào đâu những việc kỳ diệu của Chúa mà cha ông chúng tôi đã kể lại cho chúng tôi mà rằng: "Chúa đã dẫn chúng ta ra khỏi Ai-cập"? Nhưng nay Chúa lại bỏ rơi chúng tôi và trao chúng tôi vào tay quân Mađian". Chúa nhìn ông mà phán rằng: "Ngươi hãy mạnh mẽ tiến đi mà giải thoát Israel khỏi tay quân Mađian: chính Ta sai ngươi đó". Ông thưa lại rằng: "Thôi, xin Chúa, con dựa vào đâu mà giải thoát Israel? Ðây gia đình con là gia đình rốt hết trong chi tộc Manassê, và con là con út trong nhà cha con". Chúa phán cùng ông rằng: "Ta sẽ ở cùng ngươi: ngươi sẽ đánh ngã quân Mađian như đánh một người vậy". Ông thưa rằng: "Nếu con đẹp lòng Chúa, thì xin Chúa ban cho con một dấu chứng rằng chính Chúa phán dạy con. Xin Chúa chớ lìa khỏi nơi đây cho đến khi con trở lại cùng Chúa, mang theo của lễ dâng lên Chúa". Chúa đáp lại rằng: "Ta sẽ đợi ngươi trở lại".
Vậy Giêđêon vào nhà làm thịt một con dê đực, lấy một đấu bột làm bánh không men: để thịt vào giỏ, đổ nước thịt vào nồi, mang các món đó đến dưới cây sồi mà dâng cho Chúa. Thiên thần Chúa bảo ông rằng: "Ngươi hãy đem thịt và bánh không men đặt trên tảng đá kia, rồi đổ nước thịt lên trên". Khi ông làm như vậy, thì Thiên thần Chúa giơ cây gậy Người cầm trong tay lên và chạm đến thịt và bánh không men, tức thì có lửa từ tảng đá bốc lên thiêu đốt thịt và bánh không men. Thiên thần Chúa liền biến đi khuất mắt ông. Giêđêon nhận biết đó là Thiên thần Chúa, liền thưa rằng: "Ôi, lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con đã nhìn thấy Thiên thần Chúa nhãn tiền". Chúa phán cùng ông rằng: "Bình an cho ngươi. Ðừng sợ, ngươi không chết đâu". Giêđêon liền dựng một bàn thờ dâng kính Chúa, và gọi bàn thờ đó là "Bình an của Chúa".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 84, 9. 11-12. 13-14
Ðáp: Chúa phán bảo về sự bình an cho dân tộc Người (x. c. 9).
Xướng: 1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an, bình an cho dân tộc và các tín đồ của Chúa, và cho những ai thành tâm trở lại với Người. - Ðáp.
2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống. - Ðáp.
3) Vâng Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất Nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Ngài. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 36a và 29b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin nghiêng lòng con theo lời Chúa răn bảo, và xin rộng tay ban luật pháp của Chúa cho con. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 19, 23-30
"Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy bảo thật các con: Người giàu có thật khó mà vào Nước Trời. Thầy còn bảo các con rằng: Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Trời". Các môn đệ nghe vậy thì bỡ ngỡ quá mà thưa rằng: "Vậy thì ai có thể được cứu độ?" Chúa Giêsu nhìn các ông mà phán rằng: "Ðối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được". Bấy giờ Phêrô thưa Người rằng: "Này đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?" Chúa Giêsu bảo các ông rằng: "Thầy bảo thật các con: Các con đã theo Thầy, thì trong ngày tái sinh, khi Con Người ngự trên toà vinh hiển, các con cũng sẽ ngồi trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và tất cả những ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh Thầy, thì sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời. Nhưng có nhiều kẻ trước hết sẽ nên sau hết, và kẻ sau hết sẽ nên trước hết".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Một tí ti bất khả lọt nhưng cũng bất khả thiếu
"Bấy giờ Phêrô thưa Người rằng: 'Này đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy, vậy chúng con sẽ được gì?' Chúa Giêsu bảo các ông rằng: 'Thầy bảo thật các con: Các con đã theo Thầy, thì trong ngày tái sinh, khi Con Người ngự trên toà vinh hiển, các con cũng sẽ ngồi trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel. Và tất cả những ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh Thầy, thì sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời. Nhưng có nhiều kẻ trước hết sẽ nên sau hết, và kẻ sau hết sẽ nên trước hết'".
Trước hết, thành phần "bỏ mọi sự mà theo Thày" - "sẽ ngồi trên mười hai toà mà xét xử mười hai chi tộc Israel": Nghĩa là nhân loại sẽ được xét xử căn cứ vào chứng từ của thành phần theo Chúa, một chứng từ cho thấy "đức tin hoạt động qua đức ái" (Galata 5:6), một chứng từ nhờ đó họ có thể nhận biết Thiên Chúa mà được sống.
Đó là lý do trong cuộc chung thẩm, Vị Thẩm Phán Tối Cao đã phân loại chiên dê theo tiêu chuẩn "đức tin hoạt động qua đức ái" này, khi Người phán xét cả hai về đức bác ái theo bề ngoài nhưng thật ra phán xét đức tin của họ, ở chỗ dê không thấy Người nơi thành phần anh chị em hèn mọn nhất của Người nên không thương giúp bởi đó bị loại trừ, còn chiên dù không thấy vẫn ra tay bác ái cứu trợ nên được cứu độ (xem Mathêu 25:31-46).
Sau nữa, thành phần "bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, vợ con, ruộng nương vì danh Thầy" - "sẽ được gấp trăm và được sự sống đời đời": Theo Phúc Âm Thánh Marco đoạn 10 câu 30 thì câu nói của Chúa Kitô đây còn được xác định rõ ràng "đời này" và "đời sau" nữa: "sẽ được gấp trăm" ngay "ở đời này" và "được sự sống trường sinh" "ở đời sau". Mà nếu thành phần môn đệ theo Chúa Kitô quả thực "được gấp trăm" ngay "ở đời này" thì chắc chắn họ sẽ "được sự sống trường sinh" "ở đời sau".
Đúng thế, ngay "ở đời này" thành phần môn đệ theo Chúa Kitô không phải là thành phần "có tinh thần nghèo khó" nên đã được "Nước Đức Chúa Trời làm của mình vậy" (Mathêu 5:3) hay sao, và họ cũng không phải là thành phần "hiền lành" nên đã "được đất làm của mình vậy" (Mathêu 5:5) hay sao, một thứ "đất" biểu hiệu cho thế gian hay nhân loại. Nghĩa là họ dám đánh đổi tất cả mọi sự họ có để tậu cho bằng được thửa ruộng thế gian là nơi kho tàng Chúa Kitô cũng là kho tàng ơn cứu độ vô giá được chôn giấu (xem Mathêu 13:44). Như thế không phải là họ đã thực sự được "gấp trăm" ngay "ở đời này" hay sao, là được cả Chúa Kitô lẫn ơn cứu chuộc thế gian của Người?
Thật vậy, "đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với
Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được". Đối với trường hợp của
thành phần giầu có, theo tự nhiên, khó được rỗi, nếu không muốn nói
là bất khả, như lạc đà to lớn cồng kềnh không thể chui qua lỗ kim
nhỏ xíu, và ngược lại, thành phần bỏ hết mọi sự để có thể theo Chúa,
như các vị tông đồ trong bài Phúc Âm hôm nay, một từ bỏ cũng là
những gì bất khả theo bản năng tự nhiên vị kỷ chỉ muốn hưởng thụ của
mình. Bởi thế, Thiên Chúa bao giờ cũng lợi dụng những gì con người
bất xứng, bất lực và bất hạnh để tỏ mình ra cho họ, nhờ đó họ từ từ
nhận biết Ngài hơn, như trong trường hợp của dân Do Thái ở Bài
Đọc 1 được Sách Thủ Lãnh cho thấy Thiên Chúa lợi dụng chính tình
trạng dân Ngài bỏ Ngài để chứng thực Ngài là vị Thiên Chúa chân thật
duy nhất của họ, bằng việc Ngài tìm cách giải cứu họ, qua một số
nhân vật của họ, như chàng Giêđêon:
"Khi ấy, Giêđêon, con trai của ông, đang đập và rê lúa trong nhà ép nho để tránh mắt quân Mađian, thì Thiên thần Chúa hiện ra với ông và nói rằng: 'Hỡi người dũng sĩ, Chúa ở cùng ngươi'. Giêđêon thưa lại rằng: 'Thôi, xin Ngài, nếu Chúa ở cùng chúng tôi, tại sao chúng tôi phải chịu tất cả những sự này? Nào đâu những việc kỳ diệu của Chúa mà cha ông chúng tôi đã kể lại cho chúng tôi mà rằng: Chúa đã dẫn chúng ta ra khỏi Ai-cập? Nhưng nay Chúa lại bỏ rơi chúng tôi và trao chúng tôi vào tay quân Mađian'. Chúa nhìn ông mà phán rằng: 'Ngươi hãy mạnh mẽ tiến đi mà giải thoát Israel khỏi tay quân Mađian: chính Ta sai ngươi đó'. Ông thưa lại rằng: 'Thôi, xin Chúa, con dựa vào đâu mà giải thoát Israel? Ðây gia đình con là gia đình rốt hết trong chi tộc Manassê, và con là con út trong nhà cha con'. Chúa phán cùng ông rằng: 'Ta sẽ ở cùng ngươi: ngươi sẽ đánh ngã quân Mađian như đánh một người vậy'".
Thánh Vịnh 84 ở bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy những ai được Thiên Chúa ở cùng, như nhân vật Giêđêon trang Bài Đọc 1 hôm nay, thì luôn quan tâm đến Ngài (câu 1), nhờ đó xứng đáng được Ngài tỏ mình ra và sử dụng, như thể "lòng nhân hậu (của Chúa) và lòng trung thành (của con người) gặp gỡ nhau" (câu 2), và cũng nhờ đó, dân Chúa được giải cứu, theo đức công minh của Thiên Chúa, Đấng "công minh" thấu suốt tất cả mọi sự về thành phần dân được Ngài tuyển chọn, để tìm cách ban "ơn cứu độ" của Ngài cho họ, như thể "Ðức công minh sẽ đi trước ... và ơn cứu độ theo sau" vậy (câu 3), những câu Thánh Vịnh tuyệt vời diễn tả về Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất ở chỗ Ngài tỏ lòng nhân hậu xót thương:
1) Tôi sẽ nghe Chúa là Thiên Chúa của tôi phán bảo điều chi? Chắc hẳn Người sẽ phán bảo về sự bình an, bình an cho dân tộc và các tín đồ của Chúa, và cho những ai thành tâm trở lại với Người.
2) Lòng nhân hậu và trung thành gặp gỡ nhau, đức công minh và sự bình an hôn nhau âu yếm. Từ mặt đất, đức trung thành sẽ nở ra, và đức công minh tự trời nhìn xuống.
3) Vâng Chúa sẽ ban cho mọi điều thiện hảo, và đất Nước chúng tôi sẽ sinh bông trái. Ðức công minh sẽ đi trước thiên nhan Chúa, và ơn cứu độ theo sau lốt bước của Ngài.
Thánh Gioan Eude (19/8)
Thánh Gioan Euđê là một trong số những người chấn hưng tôn giáo tại Pháp thời vua Luy XVI. Isaac Euđê, cha Ngài là nhà nông kiêm nghề giải phẫu tại thành Ri gần Argentan, đã có ý định trở thành linh mục, nhưng rồi lại bỏ ý định để lập gia đình. Mẹ Ngài là bà Mattha Corbin tưởng sẽ phải son sẻ. Nhưng rồi sau nhờ cầu nguyện, họ sinh được Gioan với bốn em gái và hai em trai nữa.
Gioan có tính nóng nảy, nhưng hiến mình cho Đức Trinh Nữ Maria, Ngài quyết sửa mình bằng cách ngày càng mến Mẹ hơn. Hồi 9 tuổi, có lần Ngài bị một thằng bạn vả mặt, nhớ lời Chúa Ngài đưa má kia ra: còn má này nữa, nếu muốn anh cứ vả tiếp đi. Thằng bạn ngượng ngùng và sau này đã kể lại sự kiện đó với niềm thán phục sâu xa.
15 tuổi Gioan theo học các cha dòng Tên tại Caen. Từ trong huyết quản Gioan đoan hứa dâng mình cho mẹ Thiên Chúa. Nhưng khi trở về nhà, cha mẹ nói với Ngài về việc hôn nhân. Ngài bày tỏ ước vọng với cha mẹ và phải khó khăn lắm mới được cha mẹ ưng thuận. Ngài nhập dòng giảng thuyết và năm 1625 thụ phong linh mục.
Sau ngày thụ phong, Gioan phục vụ giáo xứ ở Aubervilliers. Hai năm sau, một cơn dịch xảy tới tàn phá giáo phận Sees. Các bệnh nhân bị những người khác bỏ mặc và trốn chạy. Gioan chỉ muốn bay tới để giúp đỡ họ. Trong suốt hai tháng trời, Ngài hết mình phục vụ. Khi cơn dịch hạ giảm, Ngài thực hiện sứ vụ tại Caen. Nhưng cơn dịch chưa dứt mà chỉ dời chỗ. Lần này cơn dịch tràn tới Caen. Gioan lại tận tâm quên mình phục vụ. Không có gì làm cho Ngài sợ hãi cả. Nhưng dân chúng lại sợ Ngài truyền bệnh. Bởi đó Ngài bị giam mình trong một cái thùng để ở ngoài đồng ruộng, khiến lúc đó cánh đồng được gọi là “cánh đồng của thánh nhân”. Các nữ tu thương hại Ngài ngày ngày mang của ăn đến cho Ngài. Ngài trở về dòng hiến mình phục vụ hai tu sĩ và bề trên sắp chết vì bệnh dịch. Cuối cùng, cơn dịch tan biến, nhưng Gioan lên cơn sốt, dân chúng khẩn cầu tha thiết cho Ngài được chữa lành và niềm vui thật lớn lao khi người “Samaritanô nhân hậu” tái xuất hiện.
Bây giờ bắt đầu công trình rao giảng và truyền giáo của Ngài. Ngài chống lại lạc thuyết Calvinô, những kinh hoàng của cuộc nội chiến, sự dốt nát của hàng giáo sĩ, những tật xấu của các tín hữu. Chúng ta có thể đo lường hoạt động của một vị thánh như thế nào: 15 ngàn người chen lấn nghe thánh nhân giảng, các tội nhân sám hối và để được xưng tội, họ phải chờ 4 hay 5 ngày mới đến lượt. Trong khi để tiết kiệm thì giờ của họ. Ngài chỉ dùng vài miếng bánh để dưỡng sức. Các thói tục ngoại giáo biến dạng. Ở Autun, cuộc rước Trinh nữ thay thế cho những gương mù ngày Mi-Careme.Ở Meaux dân chúng mang các sách đồi trụy đến công trường để đốt bỏ.
Cha Gioan Euđê đã giảng thuyết khắp vùng Normandie Bretagne, tới tận Saint Etienne. Tại Paris, cha sở thánh thiện của Saint – Sulpice, M.Olier, đã tổ chức cho Ngài 5 kỳ giảng thuyết. Ngài danh tiếng đến nỗi có 10 giám mục hiện diện. Ở Saint Germain-Laye, vua và hoàng hậu đến ngồi vào ghế thính giả. Cha Gioan Euđê thuyết giảng lần cuối cùng tại Sain-Lô.
Suốt 40 năm, cha Gioan đi rao giảng đó đây. Nhưng việc rao giảng chỉ là một phần hoạt động của Ngài. Nhận thấy hàng giáo sĩ không được đào tạo đầy đủ, Ngài từ giã dòng giảng thuyết năm 1643, để lập hội dòng Chúa Giêsu và Đức Maria lo việc tổ chức các chủng viện. Theo lời đề nghị của Đức Hồng Y Richelieu, Ngài lập đại chủng viện ở Caen rồi sau này ở Lisieux, Rouen, Eureux và Renner. Đàng khác Ngài rất thương cảm các thiếu nữ bất hạnh hoàn lương, năm 641 Ngài đã lập dòng Chúa chiên lành để săn sóc họ.
Giữa bao nhiêu công chuyện, ước mơ lớn nhất của thánh Gioan Euđê là phổ biến lòng tôn sùng Thánh Tâm, Ngài là người khởi xướng, viết sách và các thánh thi ca tụng Thánh Tâm. Đây là nỗ lực chống lại chủ trương sai lầm của thuyết Giansêniô.
Ngày 19 tháng năm 1680, thánh Gioan Euđê từ trần, Ngài được phong chân phước năm 1925 được tôn phong hiển thánh.
https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-19-8-thanh-gioan-eude-linh-muc-42318
Mỗi thánh đều có một nét đặc biệt. Ơn gọi của mỗi vị đều có những sắc thái khác nhau, không ai giống ai, không ai như ai cả. Tựu trung, tất cả các vị thánh đều có một mẫu số chung là muốn trở nên trọn lành và họa lại càng giống bao nhiêu càng tốt hình ảnh của Đức Giêsu Kitô.
THÁNH GIOAN ÊUĐÊ LÀ AI ?
Thánh Gioan Êuđê sinh tại miền Normandie nước Pháp, thuộc địa phận Sées ngày 14 tháng 11 năm 1601 ở làng Ri. Thoạt đầu, thánh nhân theo học với các cha Dòng Tên tại Caen và sau đó đi vào Đại Học. Được gần gũi các cha Dòng tên, được hun đúc về tình yêu Chúa và phục vụ tha nhân, thánh Gioan Eâuđê muốn đáp trả lại lời mời gọi của Chúa, nhưng gia đình Ngài ngăn cản Ngài trở thành linh mục. Ý Chúa thật nhiêm mầu, Ngài không bao giờ nản chán và quyết tâm theo đuổi lý tưởng trở thành linh mục của Chúa, Ngài gia nhập hội dòng giảng thuyết do Đức Hồng y Bérulle vào năm 1623 và rất hăng say với công việc loan báo Tin Mừng. Thánh nhân nhiệt thành với công việc, chuyên cần học triết học và thần học, Ngài được gọi lãnh sứ vụ linh mục và sau đó được chỉ định làm cha xứ ở Aubervillier, đồng thời kiêm nhiệm chức vụ giảng dậy ở nhiều nơi trong nước Pháp. Đời sống đạo đức, lối sống thánh thiện, gương mẫu đi đôi với lời giảng dậy có sức thu hút, lôi cuốn nhiều linh hồn. Thánh nhân có tinh thần truyền giáo cao độ, khi trong vùng có dịch bệnh hoành hành, lan rộng khắp nơi, thánh nhân đã tình nguyện đi săn sóc bệnh nhân và an táng những người qua đời.
NHỮNG CÔNG VIỆC NỔI BẬT CỦA THÁNH NHÂN:
Thánh nhân có đời nội tâm sâu sắc, chính Ngài đã chấn chỉnh lại đời sống đạo đức và uy thế của các giáo sĩ bị sa sút, và thánh Gioan Eâuđê đã thiết lập nhiều chủng viện để thực hiện dự tính tốt lành của Ngài trong việc chấn hưng đạo đức và đào tạo giáo sĩ. Năm 1662, thánh nhân đã lập Hội sùng kính trái tim Chúa Giêsu, sau này được đổi tên là Dòng Đấng Chăn Chiên Lành để giáo dục các thiếu nữ trụy lạc, hư đốn, sa đọa.
CHÚA THƯỞNG CÔNG VÀ GIÁO HỘI TÔN VINH THÁNH NHÂN:
Với cố gắng tận lực, với lòng hy sinh, nhiệt thành cao độ, thánh Gioan Eâuđê đã được Chúa gọi về vào ngày 19 tháng 8 năm 1680. Đức thánh Cha Piô X đã cất nhắc Ngài lên bậc chân phước. Đức Giáo Hoàng Piô XII, vào dịp năm thánh 1925, đã tôn phong Ngài lên bậc hiển thánh, và truyền cho Giáo Hội kính Ngài trên toàn thế giới vào năm 1928.
Lạy Chúa, Chúa đã chọn thánh Gioan linh mục làm người rao giảng sự phong phú khôn lường của Đức Kitô. Xin cho chúng con cũng biết theo gương sáng của thánh nhân và nghe lời Người dạy dỗ để ngày càng thêm hiểu biết Chúa và trung kiên sống theo Tin Mừng( Lời nguyện nhập lễ,lễ thánh Gioan Eâuđê).
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
http://giaophanthaibinh.org/ngay-19-8-thanh-gioan-eude-st-john-eudes-linh-muc.html
Thật không thể nào biết được ơn Chúa sẽ đưa dẫn đến đâu. Thánh Gioan sinh ngày 14 tháng 11 năm 1601 tại Ri, Normandy, miền bắc nước Pháp. Ngài là một tu sĩ, một tông đồ tuần đại phúc, sáng lập hai tu hội và là người cực lực cổ võ lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
Ngài gia nhập dòng Ôratôriô và thụ phong linh mục năm 24 tuổi. Trong thời kỳ dịch hạch tấn công Normandy năm 1627 và 1631, ngài tình nguyện chăm sóc bệnh nhân trong giáo phận. Ðể khỏi lây bệnh cho các tu sĩ trong dòng, ngài phải sống trong một cái thùng thật lớn ở giữa cánh đồng.
Vào năm 32 tuổi, Cha Gioan trở thành vị tông đồ tuần đại phúc. Tài rao giảng và ơn khuyên bảo người hối nhân đã khiến ngài nổi tiếng. Ngài rao giảng tuần đại phúc trên 100 giáo xứ, có khi kéo dài từ vài tuần đến vài tháng.
Trong sự lưu tâm đến linh đạo của hàng giáo sĩ, ngài nhận thấy trước hết cần phải thăng tiến tâm linh các chủng sinh. Với sự cho phép của bề trên, là giám mục và Hồng Y Richelieu, ngài bắt đầu việc canh tân, nhưng vị bề trên kế tiếp lại không tán thành. Sau khi cầu nguyện và hội ý, Cha Gioan quyết định từ bỏ dòng và sáng lập một tổ chức mới, được gọi là Tu Hội Ðức Giêsu và Mẹ Maria (Dòng Thánh Gioan Eudes), chuyên đào tạo các giáo sĩ qua việc thiết lập và trông coi các chủng viện. Công việc táo bạo này, trong khi được sự tán thành của các giám mục địa phương, lại bị chống đối kịch liệt bởi phe Jansen và chính các linh mục dòng Ôratôriô. Cha Gioan thành lập được một vài chủng viện ở Normandy, nhưng không đạt được sự phê chuẩn của Rôma (người ta nói, một phần là vì ngài không biết khéo đối xử).
Trong việc tổ chức tuần đại phúc giáo xứ, Cha Gioan thật lo âu khi thấy các phụ nữ nghèo đói tìm cách thoát ra khỏi đời sống khó khăn qua nghề làm điếm. Lúc bấy giờ, bà Madeleine Lamy, đang chăm sóc một số phụ nữ hoàn lương, đến nói với Cha Gioan: “Ðầu óc cha đang ở đâu vậy? Có lẽ cha đang nghĩ đến nhà thờ là nơi cha chiêm ngắm các ảnh tượng và nghĩ mình đạo đức. Trong khi đó, những gì cần nơi cha là một căn nhà tử tế cho những người khốn cùng này.” Những lời lẽ ấy, và có lẽ những tiếng nhạo cười đã thức tỉnh ngài. Kết quả là một tu hội mới được thành lập, mang tên Nữ Tu Bác Ái của Nơi Nương Tựa để chăm sóc các phụ nữ bất hạnh hoàn lương.
Có lẽ Cha Gioan nổi tiếng nhất là vì các sáng tác của ngài về chủ đề: Ðức Giêsu là nguồn thánh thiện, Ðức Maria là gương mẫu đời sống Kitô Hữu.
Cha Gioan qua đời ngày 19 tháng 8 năm 1680 tại Caen, Normandy, Nước Pháp. Cha được Đức Thánh Giáo Hoàng Pius X tôn phong Chân Phước ngày 25/4/1909 và Đức CP Giáo Hoàng Pius XI đã nâng Cha Gioan lên hàng hiển thánh năm 1925 và tuyên xưng ngài là cha đẻ việc sùng kính Thánh Tâm Ðức Giêsu và Mẹ Maria.
Thánh thiện là mở lòng cho tình yêu của Thiên Chúa và được tỏ lộ qua nhiều hình thức, nhưng các hình thức ấy đều có một đặc điểm chung: lưu tâm đến nhu cầu của tha nhân. Trong trường hợp của Thánh Gioan Eudes, những người có nhu cầu là các bệnh nhân dịch hạch, các giáo dân trong xứ, những người chuẩn bị làm linh mục, các người gái điếm và mọi Kitô Hữu được mời gọi để bắt chước tình yêu của Chúa Giêsu và mẹ của Người.
“Sự khao khát của chúng ta, mục tiêu của chúng ta, sự bận tâm của chúng ta phải là việc uốn nắn chính mình để trở nên giống Chúa Giêsu, để thần khí của Người, sự tận tụy của Người, lòng thương mến của Người và ý định của Người sống động và ngự trị trong chúng ta. Mọi luyện tập nhân đức phải hướng đến cùng đích này. Ðó là công việc mà Thiên Chúa đã trao cho chúng ta để thi hành một cách không ngừng nghỉ” (Thánh Gioan Eudes, “Ðời Sống và Sự Ngự Trị của Ðức Giêsu trong Tâm Hồn Kitô Hữu”).
https://dongten.net/2019/08/18/hanh-cac-thanh-19-08-thanh-gioan-eudes/
Thứ Tư
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Tl 9, 6-15
"Ðang khi Chúa ngự trị giữa chúng tôi, các ngươi đã nói: "Xin cho một vua cai trị chúng tôi".
Trích sách Thủ Lãnh.
Khi ấy, mọi người Sikem và tất cả các gia tộc thành Mêllô tụ họp lại, rồi kéo nhau đến gần cây sồi ở Sikem, và tôn Abimêlech lên làm vua.
Khi ông Giotham nghe tin ấy, liền đi lên đứng trên đỉnh núi Garizim, lớn tiếng kêu lên rằng: "Hỡi người Sikem, hãy nghe ta, để Thiên Chúa cũng nghe các ngươi. Các cây cối đều đến xức dầu phong một vị vua cai trị chúng, và nói cùng cây ôliu rằng: "Hãy đi cai trị chúng tôi". Cây ôliu đáp lại rằng: "Chớ thì ta có thể bỏ việc sản xuất dầu mà các thần minh và loài người quen dùng, để được lên chức cai trị cây cối sao?" Các cây cối nói cùng cây vả rằng: "Hãy đến cầm quyền cai trị chúng tôi". Cây vả trả lời rằng: "Chớ thì ta có thể bỏ sự ngọt ngào của ta, bỏ hoa trái ngon lành của ta, để được lên chức cai trị các cây cối khác sao?" Các cây cối nói với cây nho rằng: "Hãy đến cai trị chúng tôi". Cây nho đáp rằng: "Chớ thì ta có thể bỏ việc cung cấp rượu, là thứ làm cho Thiên Chúa và loài người được vui mừng, để được lên chức cai trị các cây cối khác sao?" Tất cả những cây cối nói với bụi gai rằng: "Hãy đến cai trị chúng tôi". Bụi gai trả lời rằng: "Nếu các ngươi thật lòng đặt ta làm vua các ngươi, thì các ngươi hãy đến nghỉ dưới bóng ta. Nhưng nếu các ngươi không muốn thì sẽ có lửa từ bụi gai phát ra thiêu huỷ các cây hương nam núi Liban".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 20, 2-3. 4-5. 6-7
Ðáp: Lạy Chúa, do quyền năng Chúa mà vua vui mừng (c. 2a).
Xướng: 1) Lạy Chúa, do quyền năng Chúa mà vua vui mừng; do ơn Chúa phù trợ, vua xiết bao hân hoan! Chúa đã ban cho sự lòng vua ao ước, và điều môi miệng vua xin, Chúa chẳng chối từ.- Ðáp.
2) Chúa đã tiên liệu cho vua được phước lộc may mắn, đã đội triều thiên vàng ròng trên đầu vua. Nhờ Chúa giúp mà vua được vinh quang cao cả, Chúa khoác lên người vua, oai nghiêm với huy hoàng. - Ðáp.
3) Vua xin Chúa cho sống lâu, thì Chúa đã ban cho một chuỗi ngày dài tới muôn muôn thuở. Chúa đã khiến vua nên mục tiêu chúc phúc tới muôn đời, Chúa đã cho vua được hân hoan mừng rỡ trước thiên nhan. - Ðáp.
Alleluia: Tv 118, 135
Alleluia, alleluia! - Xin Chúa tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những thánh chỉ của Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 20, 1-16a
"Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: "Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông.
"Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng". Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.
"Ðến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: "Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?" Họ thưa rằng: "Vì không có ai thuê chúng tôi". Ông bảo họ rằng: "Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta".
"Ðến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: "Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết". Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng. Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn; nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Ðang khi lãnh tiền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: "Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao?" Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: "Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?"
"Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Ân Sủng - Một đảo lộn Thần Linh
Lời Chúa cho Thứ Tư Tuần XX Thường Niên
hôm nay được tiếp tục trước hết với Bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu với
16 cầu đầu ở đoạn 20 về dụ ngôn thuê thợ làm vườn nho và trả
công đồng đều cho họ bao gồm cả người làm nhiều giờ nhất, từ "giờ
thứ ba" trong ngày đến người ít giờ
nhất, từ "giờ thứ 11"
trong ngày, tức cách nhau 8 tiếng đồng hồ.
1) Lạy Chúa, do quyền năng Chúa mà vua vui mừng; do ơn Chúa phù trợ, vua xiết bao hân hoan! Chúa đã ban cho sự lòng vua ao ước, và điều môi miệng vua xin, Chúa chẳng chối từ.
2) Chúa đã tiên liệu cho vua được phước lộc may mắn, đã đội triều thiên vàng ròng trên đầu vua. Nhờ Chúa giúp mà vua được vinh quang cao cả, Chúa khoác lên người vua, oai nghiêm với huy hoàng.
3) Vua xin Chúa cho sống lâu, thì Chúa đã ban cho một chuỗi ngày dài tới muôn muôn thuở. Chúa đã khiến vua nên mục tiêu chúc phúc tới muôn đời, Chúa đã cho vua được hân hoan mừng rỡ trước thiên nhan.
Ngày 20 tháng 8
Thánh Bê-na-đô, viện phụ, tiến sĩ Hội Thánh
lễ nhớ bắt buộc
Tôi yêu vì tôi yêu, tôi yêu để tôi yêu
Trích bài giảng của thánh Bê-na-đô, viện phụ, về sách Diễm ca.
Tình yêu tự mình đủ cho mình, tự mình và vì mình đem lại niềm vui. Chính tình yêu là công trạng, nhưng cũng chính tình yêu là phần thưởng cho mình. Tình yêu không tìm lý do, không tìm hiệu quả ngoài mình : hiệu quả của tình yêu là chính tình yêu. Tôi yêu vì tôi yêu, tôi yêu để tôi yêu. Tình yêu là một điều cao cả, miễn là luôn trở về với nguyên lý của mình, miễn là luôn trở lại với nguồn gốc của mình, miễn là ngược trở lại nguồn mạch của mình để luôn luôn được tuôn trào. Trong mọi hoạt động, cảm xúc và tâm tình của linh hồn, chỉ có tình yêu có thể giúp thụ tạo đáp lại Đấng Tạo Hoá, dầu không tương xứng, thì ít ra cũng giống nhau được phần nào. Vì khi Thiên Chúa yêu, thì Người không muốn điều gì khác hơn là được yêu : Thật vậy, Thiên Chúa yêu, thì Người không nhằm điều gì khác ngoài được yêu lại, vì Người biết ai yêu mến Người thì sẽ được hạnh phúc nhờ chính tình yêu đó.
Tình yêu của hôn phu, đúng hơn tình yêu là hôn phu, không đòi hỏi gì khác hơn là được yêu lại và giữ lòng chung thuỷ. Do đó người được yêu có quyền yêu lại. Sao hôn thê có thể không yêu, khi chính nàng là hôn thê của tình yêu ? Sao tình yêu lại không được yêu ?
Thế nên hôn thê có lý khi từ bỏ mọi tình cảm khác để hoàn toàn hiến mình cho một tình yêu duy nhất, vì hôn thê phải đáp lại chính tình yêu bằng cách yêu lại. Nhưng khi hôn thê hoà nhập hoàn toàn với tình yêu, thì tình yêu sẽ là gì so với dòng chảy bất tận của nguồn mạch tình yêu ? Người yêu và tình yêu, linh hồn và Ngôi Lời, hôn thê và hôn phu, tạo hoá và thụ tạo không tuôn đổ dòng yêu thương phong phú như nhau, chẳng khác gì người khát với nguồn nước.
Vậy thì sao ? Không lẽ vì thế mà làm mai một và tan biến hoàn toàn lời ước nguyện của vị hôn thê, niềm khát khao của kẻ mong chờ, lòng rạo rực của kẻ đang yêu, lòng tin tưởng của người hãnh diện, vì vị hôn thê đâu có thể chạy sóng đôi với người khổng lồ, tranh đua vị ngọt với mật ong, tính hiền lành với con chiên, màu trắng với hoa huệ, vẻ sáng chói với mặt trời, tình yêu với Đấng là chính tình yêu ? Không phải thế. Vì thụ tạo nhỏ bé hơn, nên vẫn yêu mến ít hơn. Dầu vậy, nếu thụ tạo yêu trọn tình, thì nơi đâu đã trọn vẹn, nơi ấy chẳng thiếu chi. Vậy yêu như thế là đã thành hôn rồi, bởi không thể yêu đến vậy mà chỉ được yêu lại ít, nên khi hai bên đã thuận tình, thì hôn phối trọn vẹn và hoàn hảo đã được kết ước. Nếu không, lại có kẻ nghi ngờ sự thật này : linh hồn vẫn được Ngôi Lời yêu thương trước và yêu thương nhiều hơn.
Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh viện phụ Bê-na-đô đầy nhiệt tâm lo việc nhà Chúa để trở nên ngọn đèn cháy sáng trong Giáo Hội. Nhờ lời người nguyện giúp cầu thay, xin cho chúng con cũng được lòng hăng hái như người, để sống thế nào cho xứng danh là con cái ánh sáng. Chúng con cầu xin
1. Đôi
hàng tiểu sử
Thánh Bernađô sinh năm 1090 tại lâu đài Fontaine-les-Dijon, nước Pháp.
Nhờ sinh trưởng trong một gia đình thượng lưu và gia giáo, Bernađô sau
này đã trở thành người bặt thiệp biết xử sự khôn ngoan với mọi người.
Trong số 7 anh em, Bernađô là người con thứ ba. Cậu được gia đình cưng
chiều hơn cả vì có tư cách nết na và đạo hạnh hơn các anh em.
Đàng khác Bênadô còn được bà thân mẫu A-let quý mến cách riêng vì một
câu chuyện chiêm bao có liên quan tới con bà. Câu chuyện mộng mị đó như
sau:
Một tối kia bà Alét mơ thấy trẻ Bênadô đang nô đùa, bỗng hoá thành một
con chó cất tiếng sủa vang. Bà đem hiện tượng chiêm bao đó kể lại cho
mọi người nghe và ai nấy đều nghĩ đó là điềm báo sau này sẽ trở thành
một nhà giảng thuyết đại tài.
Tới tuổi khôn, Bernađô được cha mẹ cho theo học tại trường các thầy kinh
sĩ ở Chatillon-sur-Seine. Nhờ sư rèn cặp của các thầy, Bernađô đã dần
dần bỏ được tính rụt rè và câu nệ thái quá. Tính nhút nhát đó đã khiến
cậu rất sợ hãi khi phải ra trước công chúng; vì thế mà có lần Bênadô đã
phải bực mình kêu lên: “Thà rằng tôi chết đi còn hơn nói trước công
chúng hay đến trước mặt một người ngoại quốc”.
Năm 16 tuổi giữa lúc cuộc đời đang lên với nhiều hứa hẹn thì bà thân mẫu
của Bernađô từ trần khiến cậu phải trải qua một cơn khủng hoảng tinh
thần nặng nề, và khiến cậu trở nên trầm lặng và suy tư. Nhưng rồi bỗng
người ta thấy cuộc đời của chàng thanh niên ấy xoay hẳn một góc 180o.
Chàng đứng lên, cương quyết chống lại mọi thử thách và quyến dũ của gia
đình và bạn bè để dâng mình phụng sự Chúa trong dòng Xi-tô. Không những
thế Bernađô còn lần lượt lôi cuốn được các anh em và cả ông thân sinh
cùng nhiều người khác theo gương mình vào dòng.
Người ta kể lại rằng: Ngày kia người em út của Bênadô là Nivard đang
chơi đùa với các trẻ em thì người anh cả bảo cậu rằng: “Các anh đi đây
và nhường lại cho các em cả gia nghiệp, em có bằng lòng không?” Người em
đáp lại: “Em không muốn thế, sao các anh chiếm nước trời còn để đất đai
lại cho em”. Ít lâu sau người em cũng vào dòng.
Bênadô từ ngày dấn thân vào đời sống mới, luôn luôn tự hỏi mình: “Hỡi
Bênadô, người vào đây để làm gì?”. Để nhắc nhở mình sống đúng với lý
tưởng đã chọn, câu hỏi vắn tắt làm như phương châm cho đời sống, đã giúp
thầy Bênadô siêng năng làm việc và làm một cách chu đáo. Một hôm các
thầy xin Bênadô nghỉ ngơi để cho các thầy khác gặt lúa bởi vì thấy thầy
yếu và không quen. Nhưng thầy khóc lóc xin Chúa cho mình có thể gặt lúa
với anh em.
Năm 1115 thầy được cử làm tu viện trưởng Clairvaux một chi nhánh của
dòng Xi-tô. Đây là một dịp để thầy hy sinh hãm mình nhiều hơn, dù yếu
đuối và sức khỏe rất mỏng manh thầy cũng không chịu thua kém ai trong sự
ăn uống kham khổ. Ngài còn mắc chứng đau bụng kinh niên. Tuy nhiên Ngài
vẫn cố gắng tham dự các buổi phụng vụ như mọi người khác. Chỉ khi nào
không chịu nổi cơn đau Ngài mới bỏ cộng đồng.
Nhận thấy tu viện trưởng Bernađô là người có đầy nhân đức và uy tín nên
đức Giám mục Guillaume de Champeaux cho ngài được nhận chức linh mục và
sai ngài đi giảng thuyết ở nhiều nơi. Ngài đã vâng lời vui vẻ ra đi. Nhờ
đức khiêm nhường sâu thẳm, Chúa đã ban cho Ngài nhiều ơn lạ như nói tiên
tri, làm nhiều phép lạ. Hết nhiệm vụ Ngài lại trở về nhà dòng phục vụ.
Trong 38 năm làm bề trên, Ngài lập thêm được 68 tu viện chi nhánh của
Clervaux. Ngài viết nhiều tác phẩm để bênh vực đức tin, truyền bá lòng
yêu mến Chúa và đức bác ái.
Từ bé, Ngài vốn có lòng tôn sùng mầu nhiệm Chúa xuống thế làm người thì
bây giờ Ngài cũng năng suy niệm mầu nhiệm ấy. Nhận thấy thánh nhân là
người có trí thông minh và tài giảng thuyết cũng như giảng hòa nội bộ.
Năm 1145 - Ngài kịch liệt phản đối vua ở miền nam nước Pháp. Lúc còn
thanh niên, Ngài rất sợ ra trước công chúng nhưng nhờ ơn Chúa, nay Ngài
cảm thấy cương quyết và can đảm nhiều.
Một hôm Ngài tới miền Sens để gặp A-bê-la người mê trí thức và khoa học
đời, trước mặt cả cộng đồng giáo sĩ, Ngài phản đối A-bê-la: “Một người
công giáo lầm lạc còn nguy hiểm hơn là người theo tà giáo”. Bênadô không
phản đối việc trau dồi tri thức nhưng cha nhận đó là phương tiện truyền
giáo, Ngài nói: “Người ta không khuất phục tà giáo bằng khí giới nhưng
bằng biện luận”. Sau cùng cha Bênadô đã góp phần vào việc tranh đấu bảo
vệ mồ thánh Chúa khỏi tay người Hồi giáo. Tuy thành công và danh tiếng
nhiều nhưng thánh nhân vẫn khiêm tốn. Đôi khi không làm phép lạ và người
ta hỏi thì Ngài chỉ trả lời: trông cậy ở Chúa và Chúa làm còn tôi không
có gì đâu.
Sau khi tận tụy và nỗ lực làm việc cho sáng danh Chúa, thánh nhân đã qua
đời tại Clairvaux ngày 20 tháng 8 năm 1153 lúc ba giờ chiều ngày thứ
năm, thọ 63 tuổi.
Mười năm sau, các tu viện trưởng họp lại lập án xin phong thánh cho cha
Bernađô. Ngày 18 tháng 1 năm 1174, án được Đức Alexandro III châu phê.
Và năm 1830 Đức Piô VIII tôn phong Ngài lên hàng tiến sĩ Giáo hội.
2. Cuộc sống chứng nhân
Như đã nói ở trên, Bernađô là một người rất khiêm nhường và thánh thiện
cho nên Chúa đã thưởng công cho Ngài. Chúa đã ban cho Ngài nhiều ơn lạ
như nói tiên tri, làm nhiều phép lạ.
Đây là một giai thoại nổi tiếng khi Ngài ở Clairvaux. Hôm ấy nhà dòng
hết muối. Cha Bernađô liền gọi một thầy tên là Guibert đến và bảo:
- Con hãy lấy con lừa (vì đây là con vật duy nhất mà tu viện sở hữu) và
đi ra phố mua muối.
- Xin Cha con tiền để trả - thấy Guiber nói.
- Con ơi thánh - Bernađô trả lời -, đã khá lâu Cha không còn tiền cũng
không còn vàng. Nhưng trên cao kia có Đấng giữ túi tiền và kho tàng của
Cha!
Nghe nói thế thầy Guiber suýt nữa phì cười, nhưng thầy không thể không
lưu ý Cha thánh điều này:
- Thưa Cha, nếu con đi với hai bàn tay không thì con cũng trở về chắc
chắn với hai bàn tay không.
- Đừng sợ con ạ, hãy tin tưởng. Đấng giữ kho báu của Cha sẽ ở với con và
người sẽ tìm cách giúp con có những gì cần thiết để làm xong công tác.
Guiber cúi đầu nhận phúc lành từ tay vị tu viện trưởng và dẫn con lừa ra
đi. Các mối nghi ngờ của thầy không hoàn toàn tan biến. Nhưng khi thấy
sắp băng qua cửa thành thì có một vị Linh mục đến gần và hỏi:
- Thầy từ đâu đến và đi đâu vậy?
Guiber không do dự thú nhận sự túng thiếu tột độ của tu viện và sự bối
rối hiện nay của thầy. Rất cảm động, vị Linh mục dẫn thầy về nhà và cho
thầy nửa thùng muối và một số tiền là 30 xu (tương đương với 300 quan
Pháp thời nay).
Hãy tưởng tượng xem niềm vui của thầy Guiber lớn như thế nào. Thầy trở
về lại tu viện và chỉ còn việc phải làm là ngay lập tức kể lại câu
chuyện cho bề trên của thầy nghe.
- Cha đã nói rõ với con, cha Bernađô đáp, và cha lập lại với con điều
đó: Đối
với người Kitô hữu không có cái gì khác ngoài đức tin!
Lịch sử cũng còn ghi, Ngài lòng sùng kính Mẹ Maria rất lạ lùng. Truyền
thuyết cho hay: Mỗi khi đi ngang qua ảnh tượng Đức Mẹ, thánh nhân thường
hay chào Mẹ bằng câu: “Kính chào Mẹ Maria!” và một ngày kia, Đức Mẹ đã
đáp lại lời chào của ngài: “Chào con, Bernađô!” Bằng cách này, Đức Mẹ
cho biết tình yêu và lòng sùng kính thánh Bernađô đã dành cho Đức Mẹ
thật lớn lao chừng nào; và Đức Mẹ cũng hài lòng biết bao!
Xin được kết thúc bằng chính lời của thánh Bernađô trích trong bài giảng
về sách Diễm Ca Của Ngài: "Khi Thiên Chúa yêu, thì Người không muốn điều
gì khác hơn là được yêu: Thật vậy, Thiên Chúa yêu, thì Người không nhằm
điều gì khác ngoài việc được yêu lại, vì Người biết ai yêu mến Người thì
sẽ được hạnh phúc nhờ chính tình yêu đó."
(Đaminh Maria cao tấn tĩnh tổng hợp lại theo tài liệu của website TGP Sài Gòn)
(ĐTC Biển Đức XVI ngày 21/10/2009 Bài Giáo Lý Giáo Hội Tông Truyền thứ 92/138)
Thứ Năm
Phụng Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) Tl 11, 29-39a
"Hễ người nào ra khỏi cửa nhà trước hết, tôi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu".
Trích sách Thủ Lãnh.
Trong những ngày ấy, Thần Trí của Chúa ngự trên ông Giéphtê, ông liền đi quanh đất Galaad, Manassê, (rồi) Maspha (của) Galaad, và từ đó tiến sang đánh con cái Ammon. Ông thề hứa với Chúa rằng: "Nếu Chúa trao con cái Ammon vào tay con, thì khi con từ đất con cái Ammon trở về bình an, hễ người nào ra khỏi nhà con và đón tiếp con trước hết, con sẽ dâng nó cho Chúa làm của lễ toàn thiêu".
Ông Giéphtê liền trẩy sang đánh con cái Ammon, Chúa đã trao chúng trong tay ông. Ông đã đánh phá hai mươi thành trong một trận ác liệt, từ Arôê đến cửa thành Mennith, và đến Abel Kêramim. Con cái Ammon bị con cái Israel hạ nhục. Khi ông Giéphtê trở về nhà ở Maspha, người con gái duy nhất ra với hội hát trống phách đón rước ông, vì ông chẳng có người con nào khác. Khi thấy đứa con gái, ông liền xé áo mình ra mà kêu lên rằng: "Con ơi, con làm khổ cha, con cũng khổ nữa, vì cha đã khấn hứa cùng Chúa, và cha không thể làm gì khác được". Người con gái đáp: "Cha ơi, nếu cha đã khấn hứa cùng Chúa, thì cha cứ làm cho con mọi điều cha đã thề hứa, vì Chúa ban cho cha được trả thù và thắng kẻ thù của cha". Cô lại nói với cha rằng: "Con chỉ xin cha điều này: xin cha cho con hai tháng, để con cùng các bạn con đi quanh núi đồi mà than khóc tuổi thanh xuân của con". Người cha đáp: "Con cứ đi". Và ông đã cho cô đi hai tháng. Khi cô ra đi làm một với bạn nghĩa thiết của cô, thì cô than khóc tuổi thanh xuân của cô trên núi đồi. Sau hai tháng, cô trở về nhà cha cô, và ông đã thi hành như ông đã thề hứa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 39, 5. 7-8a. 8b-9. 10
Ðáp: Lạy Chúa, này con xin đến, để thực thi ý Chúa (c. 8a & 9a).
Xướng: 1) Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa, không theo kẻ thờ thần tượng, không hướng về chuyện gian tà. - Ðáp.
2) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi hy lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến". - Ðáp.
3) Như trong Quyển Vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận đáy lòng con. - Ðáp.
4) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong Ðại Hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi. - Ðáp.
Alleluia: Tv 147, 12a và 15a
Alleluia, alleluia! - Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Ðấng đã sai Lời Người xuống cõi trần ai. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 22, 1-14
"Các ngươi gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu lại phán cùng các đầu mục tư tế và kỳ lão trong dân những dụ ngôn này rằng: "Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: "Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới". Nhưng những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán, những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi. Khi vua nghe biết, liền nổi cơn thịnh nộ, sai binh lính đi tru diệt bọn sát nhân đó, và thiêu huỷ thành phố của chúng. Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: "Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới". Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc.
Ðoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: "Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?" Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: "Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng!" Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Ân Sủng - Một thông ban nhưng không... cần đáp ứng tương xứng
Bài
Phúc Âm hôm nay, Thứ Năm Tuần XX Thường Niên, không còn liên tục với các
bài Phúc Âm trong tuần như các ngày trước, mà là một bài Phúc Âm bắt đầu
từ đầu Đoạn 22,
hoàn toàn bỏ Đoạn
21 và 17
câu của Đoạn 20. Tất
nhiên, việc Giáo Hội cố ý chọn đọc các bài Phúc Âm hằng ngày trong tuần
hay Chúa Nhật này phải liên tục với nhau về nội dung, cho dù có
những đoạn và những câu Phúc Âm bị cắt bỏ như vậy, vì có thể những
chỗ ấy chỉ là những biến cố không hợp vào thời điểm phụng vụ này.
Chẳng hạn như biến cố Chúa Giêsu vào Thánh Giêrusalem và thanh tẩy đền thờ rồi nguyền rủa cây vả và vấn đề thẩm quyền của Chúa Giêsu (xem Mathêu 21:1-27), những gì mà hầu hết đã được Giáo Hội cho đọc theo Phúc Âm của Thánh ký Marco ở các ngày Thứ Sáu và Thứ Bảy Tuần VIII Thường Niên rồi, không cần đọc lại hay lập lại nữa.
Nếu bài Phúc Âm hôm qua về dụ ngôn người chủ vườn nho thuê thợ làm vườn nho và trả công cho họ bằng nhau liên quan cả đến ân sủng của Thiên Chúa thì bài Phúc Âm hôm nay về dụ ngôn một "vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử" lại càng liên quan đến ân sủng của Thiên Chúa.
Thật vậy, nếu 4 nhóm thợ được chủ vườn nho thuê làm vườn nho cho ông để được trả công tương xứng, một khoản tiền công chẳng những công bằng về lý đối với 3 nhóm thợ đầu mà còn về tình với nhóm thợ cuối cùng, thì thành phần được mời đến dự tiệc cưới trong bài Phúc Âm hôm nay đây hoàn toàn liên quan đến tình nghĩa của Thiên Chúa, tức là họ chỉ việc đến hoan hưởng mà chẳng phải vất vả làm gì hết, một đặc ân bao gồm chẳng những thành phần được ấn định ám chỉ dân Do Thái mà còn tất cả mọi người không trừ ai ám chỉ chung nhân loại hay dân ngoại nữa:
Thành phần đã được ấn định: "Nước Trời giống như vua kia làm tiệc cưới cho hoàng tử. Vua sai đầy tớ đi gọi những người đã được mời dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. Vua lại sai các đầy tớ khác mà rằng: 'Hãy nói cùng những người đã được mời rằng: Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng: xin mời các ông đến dự tiệc cưới'. Nhưng những người ấy đã không đếm xỉa gì và bỏ đi: người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán, những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi".
Thành phần không được mời trước cũng được tham dự: "Bấy giờ vua nói với các đầy tớ rằng: 'Tiệc cưới đã dọn sẵn sàng, nhưng những kẻ đã được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới'. Các đầy tớ liền đi ra đường, gặp ai bất luận tốt xấu, đều quy tụ lại và phòng cưới chật ních khách dự tiệc".
Căn cứ vào dụ ngôn về việc mở tiệc cưới và mời khách đến dự hôm nay, chúng ta thấy nếu tiệc cưới đây ám chỉ mầu nhiệm nhập thể của Chúa Kitô, Đấng là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14), Đấng đã kết hiệp thiên tính và nhân tính lại với nhau nơi ngôi vị thần linh của mình, thì thành phần được mời đến tham dự tiệc cưới đây, tức thành phần được tham phần vào chính mầu nhiệm nhập thể này tất nhiên phải bao gồm cả dân Do Thái là giòng dõi Chúa Giêsu được sinh ra về thể lý, lẫn dân ngoại vì Người mặc lấy nhân tính của cả loài người của họ và như họ.
Chính vì dân Do Thái đã được mời trước, ở chỗ đã được Thiên Chúa tuyển chọn và lập giao ước với qua các tổ phụ của họ, mà họ không chấp nhận Chúa Kitô đã đến trong xác thịt, lại còn giết Người nữa, nên họ đúng là thành phần đã từ chối không đến dự tiệc cưới vậy.
Tuy nhiên, để xứng đáng với đặc ân tự nhiên được tham dự tiệc cưới cứu độ này, một ân sủng được ban cho chẳng những dân Do Thái mà còn cả dân ngoại, chẳng những ban cho những người tốt lành mà còn cả những người không tốt lành: "bất cứ ai", "bất luận tốt xấu", thành phần tham dự một khi đã được mời và đã đến tham dự thì cần phải tỏ ra xứng đáng nữa, bằng không sẽ bị loại trừ:
"Đoạn vua đi vào quan sát những người dự tiệc, và thấy ở đó một người không mặc y phục lễ cưới. Vua liền nói với người ấy rằng: 'Này bạn, sao bạn vào đây mà lại không mặc y phục lễ cưới?' Người ấy lặng thinh. Bấy giờ vua truyền cho các đầy tớ rằng: 'Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng!' Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít".
Như bài Phúc Âm về việc trả lương cho thợ làm vườn nho, mới nghe qua thì có vẻ bất công thế nào thì việc ông vua đối xử với thành phần được ông lùa vào dự tiệc cưới của con ông đã bị ông trừng phạt vì không mặc áo cưới cũng thế. Ở chỗ, nếu những người này biết trước là cần phải mặc áo cưới thì có lẽ họ đã không vào, bởi bấy giờ họ không kịp sửa soạn áo cưới hay không có tiền mua áo cưới v.v.
Thế nhưng, áo cưới đây là gì, nếu không phải, trước hết là chính việc chấp nhận Lời Nhập Thể, Đấng Thiên Sai, Đấng "đã đến trong xác thịt" (xem 2Gioan 7), "đã mặc lấy thân phận tôi đòi, được sinh ra như loài người" (Philiphê 2:7), "bởi một người nữ" (Galata 4:4): "Người đã ở trong thế gian, và nhờ Người mà thế gian đã được tạo thành, nhưng thế gian đã không nhận biết Người là ai. Người đã đến với những ai thuộc về Người nhưng họ đã không chấp nhận Người. Bất cứ ai chấp nhận Người thì Người đã ban cho họ được quyền trở nên con cái của Thiên Chúa" (Gioan 1:10-12).
Chưa hết, áo cưới đây, nếu áp dụng vào thành phần dân ngoại Kitô hữu thì có thể còn được hiểu là lòng biết ơn, do đó không thể tỏ ra thờ ơ lãnh đạm với ơn cứu độ được ban cho mình và chính mình đã lãnh nhận khi chịu Phép Rửa, thờ ơ lãnh đạm đến độ khi được chất vấn tại sao không mặc áo cưới cũng không lên tiếng trả lời. Và một khi thờ ơ lãnh đạm với ơn cứu chuộc thì Kitô hữu sẽ khinh thường và không sống xứng đáng với ơn cứu độ, như thể không mặc áo cưới vậy.
Sau hết, và bởi thế, áo cưới đây còn được hiểu là chính phẩm vị làm con Thiên Chúa của Kitô hữu - không mặc áo cưới nghĩa là không sống với phẩm vị con Thiên Chúa của mình. Nhất là bằng những tội trọng, như thể họ đã cố tình lột bỏ chiếc áo rửa tội của mình đi. Đó là lý do khi người con hoang đàng phung phá trở về, nó đã được cha của nó phục hồi lại cho nó tất cả những gì của một người con, chẳng những thân phận làm con (qua hình ảnh mang giầy, chứ không phải đi chân không như thân phận của một tên nô lệ) và quyền làm con (qua hình ảnh đeo nhẫn), mà còn chính phẩm vị làm con (qua hình ảnh mặc lại cho nó áo đẹp nhất).
Số phận của con người được mời vào dự tiệc cưới mà không chịu mặc áo cưới nên đã bị trừng phạt tương xứng ở trong bài Phúc Âm hôm nay đã chứng thực cho thấy tác động đáp ứng ân sủng thần linh nhưng không của Thiên Chúa là những gì bất khả thiếu. Việc đáp ứng ân sủng thần linh đã được Sách Thủ Lãnh thuật lại ở Bài Đọc về nhân vật Giéphtê hôm nay, một nhân vật, sau khi thắng trận do Chúa ban, đã giữ đúng lời thề hứa của mình với Ngài, bất chấp điều ấy như thế nào, nghĩa là hoàn toàn bất lợi cho người con gái của mình, liên quan đến thân phận son sẻ suốt đời của nó, nhưng chính nó cũng cùng với cha của nó đáp ứng ân sủng thần linh một cách can đảm như sau:
"Trong những ngày ấy, Thần Trí của Chúa ngự trên ông Giéphtê, ông liền đi quanh đất Galaad, Manassê, (rồi) Maspha (của) Galaad, và từ đó tiến sang đánh con cái Ammon. Ông thề hứa với Chúa rằng: 'Nếu Chúa trao con cái Ammon vào tay con, thì khi con từ đất con cái Ammon trở về bình an, hễ người nào ra khỏi nhà con và đón tiếp con trước hết, con sẽ dâng nó cho Chúa làm của lễ toàn thiêu'. Ông Giéphtê liền trẩy sang đánh con cái Ammon, Chúa đã trao chúng trong tay ông. Ông đã đánh phá hai mươi thành trong một trận ác liệt, từ Arôê đến cửa thành Mennith, và đến Abel Kêramim. Con cái Ammon bị con cái Israel hạ nhục. Khi ông Giéphtê trở về nhà ở Maspha, người con gái duy nhất ra với hội hát trống phách đón rước ông, vì ông chẳng có người con nào khác. Khi thấy đứa con gái, ông liền xé áo mình ra mà kêu lên rằng: 'Con ơi, con làm khổ cha, con cũng khổ nữa, vì cha đã khấn hứa cùng Chúa, và cha không thể làm gì khác được'. Người con gái đáp: 'Cha ơi, nếu cha đã khấn hứa cùng Chúa, thì cha cứ làm cho con mọi điều cha đã thề hứa, vì Chúa ban cho cha được trả thù và thắng kẻ thù của cha'".
Đúng thế, không việc gì đẹp lòng Thiên Chúa cho bằng nhận biết Ngài bằng việc đáp ứng tác động thần linh của Ngài, nghĩa là luôn tuân theo Thánh Ý tối hậu của Ngài, để Ngài hoàn toàn có thể tỏ mình ra cho họ và qua họ cho ngưòi khác nữa. Thánh Vịnh 39 ở bài Đáp Ca hôm nay đã chất chứa niềm xác tín chân thật này như sau:
1) Phúc thay người đặt niềm tin cậy vào Chúa, không theo kẻ thờ thần tượng, không hướng về chuyện gian tà.
2) Hy sinh và lễ vật thì Chúa chẳng ưng, nhưng Ngài đã mở tai con. Chúa không đòi hỏi hy lễ toàn thiêu và lễ đền tội, bấy giờ con đã thưa: "Này con xin đến".
3) Như trong Quyển Vàng đã chép về con: lạy Chúa, con sung sướng thực thi ý Chúa, và pháp luật của Chúa ghi tận đáy lòng con.
4) Con đã loan truyền đức công minh Chúa trong Ðại Hội, thực con đã chẳng ngậm môi, lạy Chúa, Chúa biết rồi.
Thánh Giáo Hoàng Piô X
(21/8)
Thứ Sáu
Phụng
Vụ Lời Chúa
Bài Ðọc I: (Năm I) R 1, 1. 3-6. 14b-16. 22
"Bà Nôêmi cùng nàng dâu người Moab là bà Ruth, từ nơi di cư trở về thành Bêlem".
Khởi đầu sách truyện Bà Ruth.
Khi các quan án cầm quyền, thì dưới thời một quan án kia, trong xứ xảy ra nạn đói kém. Có một người thành Bêlem, thuộc chi tộc Giuđa, đem vợ và hai con sang cư ngụ trong miền Môab.
Và Elimêlech, chồng bà Nôêmi, qua đời, để bà lại với hai con. Hai con bà cưới hai thiếu nữ Môab làm vợ: một tên là Orpha, còn người kia tên là Ruth. Họ chung sống ở đó được mười năm, thì cả hai người chồng là Mahalon và Kêlion cũng qua đời, còn lại mình bà Nôêmi không chồng con. Bấy giờ bà Nôêmi cùng với hai nàng dâu định bỏ đất Môab trở về quê hương, vì nghe nói Chúa thương dân Người, và ban cho họ lương thực.
Bà Orpha hôn mẹ chồng và ở lại đó. Còn bà Ruth thì đi theo mẹ chồng. Bà Nôêmi bảo bà Ruth rằng: "Kìa, chị dâu con đã ở lại với dân mình và các thần minh của họ, con hãy ở lại với chị con". Bà Ruth thưa lại rằng: "Xin mẹ đừng bắt con bỏ mẹ mà ở lại, vì mẹ đi đâu thì con cũng đi theo đó. Dân tộc của mẹ là dân tộc của con, và Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con".
Vậy bà Nôêmi cùng nàng dâu người Môab là bà Ruth, từ nơi di cư trở về thành Bêlem, vào đầu mùa gặt lúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 145, 5-6. 7. 8-9a. 9bc-10
Ðáp: Linh hồn tôi ơi, hãy ngợi khen Chúa (c. 2a).
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Phúc thay người được Thiên Chúa nhà Giacóp phù trợ, người đặt hy vọng vào Chúa là Thiên Chúa của mình: Người là Ðấng đã tạo thành trời đất, biển khơi và muôn vật chúng đang chứa đựng. - Ðáp.
2) Người là Ðấng trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. - Ðáp.
3) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù. Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân, Thiên Chúa che chở những khách kiều cư. - Ðáp.
4) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường lối đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác. - Ðáp.
Alleluia: Mt 11, 25
Alleluia, alleluia! - Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã mạc khải những mầu nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 22, 34-40
"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, những người biệt phái nghe tiếng Chúa Giêsu đã làm cho những người Sađốc câm miệng, thì họp nhau lại. Ðoạn một người thông luật trong nhóm họ hỏi thử Người rằng: "Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?" Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ðó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy, là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong hai giới răn đó".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
Tình Yêu Bất Diệt - Vinh Hiển Phục Sinh
Bài Phúc Âm hôm nay, Thứ Sáu Tuần XX Thường Niên, cũng không liên tục với bài Phúc Âm hôm qua, cách bài Phúc Âm hôm qua 16 câu, trong đó có hai vấn đề được đặt ra cho Chúa Giêsu, trước hết là vấn đề được nhóm biệt phái cố tình gài bẫy Chúa Giêsu về việc nộp thuế cho Cesar (xem Mathêu 22:22:15-22), và sau đó là vấn đề được nhóm Saducê đặt ra về niềm tin phục sinh (xem Mathêu 22:23-33), cả hai vấn đề đã được Phúc Âm Thánh ký Marcô thuật lại ở Thứ Ba và Thứ Tư Tuần IX Thường Niên trước đây.
Tuy nhiên, bài Phúc Âm hôm nay, bài Phúc Âm trước hết về điều răn trọng nhất, dù đã được Giáo Hội chọn đọc theo Thánh ký Marcô cho Thứ Năm Tuần IX Thường Niên, Giáo Hội vẫn chọn đọc lại một lần nữa, vì giới răn trọng nhất trong bài Phúc Âm hôm nay cũng liên hệ với 2 bài Phúc Âm hôm qua và hôm kia trong tuần này.
Ở chỗ, nếu con người sống trọn giới răn trọng nhất là mến Chúa hết mình và yêu nhau như mình: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy, là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi", thì các nhóm thợ làm vườn nho lâu giờ đã không tỏ thái độ bất mãn với chủ và ghen tị với nhóm thợ cuối giờ, và thành phần bất ngờ được mời đến dự tiệc cưới trong hoàng cung sẽ mặc áo cưới xứng đáng với đặc ân diễm phúc khôn lường của mình.
Và vấn đề giới răn trọng nhất này còn liên quan cả đến mầu nhiệm phục sinh nữa. Ở chỗ, tất cả mọi sự trên trần gian này sẽ qua đi, kể cả đức tin, ngoại trừ còn duy đức mến. Vì "Thiên Chúa là tình yêu" (1Gioan 4:8,16). Bởi vậy, nếu hai yếu tố làm nên bản tính của con người là linh hồn và thân xác, nhưng linh hồn chi phối thân xác và thân xác lệ thuộc linh hồn thế nào, thì một khi thân xác của con người trở thành khí cụ của lòng mến, tác hành theo lòng mến, theo tình yêu Thiên Chúa, theo đức ái trọn hảo, thì thân xác đó đã chứng tỏ nó mang sẵn mầm sống vĩnh cửu, bất diệt, và trọn hảo nhờ linh hồn thiêng liêng bất tử và trọn lành của nó, và nhờ quyền năng của Thánh Thần, nó sẽ trở nên như thân xác phục sinh vinh hiển của Chúa Kitô (xem Philiphê 3:21).
Một thanh sắt cho dù có bị rỉ xét đến đâu chăng nữa, một khi được nung bằng lửa thì nó cũng trở nên sáng rực như lửa thế nào thì thân xác của con người cũng thế. Cho dù thân xác đó khi còn sống có dâm ô nhục dục đàng điếm chăng nữa, nhưng một khi tâm hồn của thân xác đó biết ăn năn thống hối với tất cả lòng mến, thì thân xác đó sẽ trở nên tinh tuyền. Bởi xác của con người ngày sau sống lại thì trở nên thiêng liêng như thiên thần, như Chúa Giêsu khẳng định (xem Mathêu 22:30).
Trong các thánh nữ đồng trinh, ngoài Mẹ Maria là đệ nhất trinh nữ và là trinh nữ trên hết, một trinh nữ sinh con duy nhất trên trần gian này, thì vị thánh nữ đồng trinh thứ nhất trong hàng ngũ các thánh trinh nữ là Thánh Catarina Tử Đạo, sau đó đến Thánh Nữ Mai Đệ Liên đàng điếm và Thánh Nữ Magarita Cortone cũng thuộc về loại ưu hạng trong số các thánh trinh nữ, như chính Chúa Giêsu đã tỏ cho chị thánh Magarita Cortone biết, và dấu chứng thực đó là thân xác sống dâm dục 9 năm trời với một người tình và có một đứa con hoang (ngoại hôn) với chàng của chị chẳng những không bị hư hoại mà vẫn còn nguyên.
Thật vậy, vào
ngày lễ của Thánh Catherine thành Alexandria Tử Đạo (25/11 theo lịch
phụng vụ cũ), khi Thánh Nữ Margarita đang ở bàn thờ để rước lễ thì nghe
thấy Chúa Giêsu nói cùng mình rằng:
“Con
Cha ơi, chỗ của con sẽ ở giữa thần Seraphim cùng với các trinh nữ bừng
cháy tình yêu thần linh”.
Nghe thấy thế Thánh nữ sửng sốt đáp lại rằng:
“Lạy
Chúa, làm sao điều ấy có thể xẩy ra được với một con người nhớp nhúa tội
lỗi chứ?”
Chị đã nghe thấy câu giải đáp của Chúa như sau:
“Những
đau khổ vô vàn của con sẽ thanh tẩy tâm hồn con khỏi tất cả mọi thứ thu
hút phạm tội, và trong nỗi đớn đau và ăn năn thống hối của mình, con sẽ
phục hồi sự tinh tuyền đồng trinh của con”.
Thánh nữ lại càng cảm thấy sợ hãi trước câu trả lời của Chúa và đã than
lên rằng:
“Ôi
Chúa Kitô là Sư Phụ của con, phải chăng Thánh Mai Đệ Liên thuộc về thành
phần các trinh nữ trong vinh quang thiên đình?” Chúa liền tiết lộ cho
chị biết rằng: “Ngoại trừ Mẹ Maria và Catherine Tử Đạo, không ai hơn Mai
Đệ Liên trong hàng ngũ trinh nữ”.
(A Tuscan Petinent: The Life and Legend of
Saint Margaret of Cortona, by Father Cuthbert, Burns Oates and
Washbourne, Ltd, 1900, pages 160-161).
Giới răn trọng đại nhất là giới răn mến
Chúa yêu người được Chúa Giêsu tóm gọn và khẳng định trong bài Phúc Âm
hôm nay được tỏ hiện nơi một con người dân ngoại, được Sách Bà Ruth
thuật lại ở Bài Đọc 1 hôm nay, một nữ nhân vật vì trung thành với người
mẹ chồng của mình nên cũng tôn thờ Thiên Chúa của bên chồng mình nữa, dù
chồng mình không còn sống, và dù có được mẹ chồng khuyên giục trở về quê
quán của mình, nhờ đó có thể lập gia đình với người khác:
"Elimêlech, chồng bà Nôêmi, qua đời, để bà lại với hai con. Hai con bà cưới hai thiếu nữ Môab làm vợ: một tên là Orpha, còn người kia tên là Ruth. Họ chung sống ở đó được mười năm, thì cả hai người chồng là Mahalon và Kêlion cũng qua đời, còn lại mình bà Nôêmi không chồng con. Bấy giờ bà Nôêmi cùng với hai nàng dâu định bỏ đất Môab trở về quê hương, vì nghe nói Chúa thương dân Người, và ban cho họ lương thực. Bà Orpha hôn mẹ chồng và ở lại đó. Còn bà Ruth thì đi theo mẹ chồng. Bà Nôêmi bảo bà Ruth rằng: 'Kìa, chị dâu con đã ở lại với dân mình và các thần minh của họ, con hãy ở lại với chị con'. Bà Ruth thưa lại rằng: 'Xin mẹ đừng bắt con bỏ mẹ mà ở lại, vì mẹ đi đâu thì con cũng đi theo đó. Dân tộc của mẹ là dân tộc của con, và Thiên Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con'. Vậy bà Nôêmi cùng nàng dâu người Môab là bà Ruth, từ nơi di cư trở về thành Bêlem, vào đầu mùa gặt lúa".
Những con người nhận biết Thiên Chúa là những con người có phúc, dù cuộc đời họ có khốn khổ bần cùng chăng nữa, vì Thiên Chúa muốn để cho họ như vậy để họ càng trở nên đáng thương hơn, càng tin tưởng cậy trông vào Ngài hơn, và nhờ đó Ngài càng tỏ mình ra cho họ hơn, để Ngài trở thành chủ tể của cõi lòng họ và cuộc đời họ như Thánh Vịnh 145 ở bài Đáp Ca hôm nay cảm nhận:
1) Phúc thay người được Thiên Chúa nhà Giacóp phù trợ, người đặt hy vọng vào Chúa là Thiên Chúa của mình: Người là Ðấng đã tạo thành trời đất, biển khơi và muôn vật chúng đang chứa đựng.
2) Người là Ðấng trả lại quyền lợi cho người bị ức, và ban cho những người đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội.
3) Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù. Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục, Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân, Thiên Chúa che chở những khách kiều cư.
4) Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường lối đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác.
Ngày 22 tháng 8
Đức Ma-ri-a Nữ Vương
lễ nhớ bắt buộc
Nữ Vương thế giới và Nữ Vương hoà bình
Bài đọc 2 phụng vụ giờ kinh sách
Trích bài giảng của thánh A-mê-đê, giám mục Lô-dan.
Trước khi được cất lên trời, danh tuyệt diệu của Đức Ma-ri-a đã toả sáng trên toàn cõi đất và danh thơm lừng lẫy của Mẹ đã lan toả khắp nơi, trước cả khi vẻ huy hoàng lộng lẫy của Mẹ được nâng cao vượt các tầng trời. Bạn xem : điều đó thật là phải lẽ. Thật vậy, vì Mẹ đồng trinh và vì danh dự của người Con do Mẹ sinh ra, trước hết Mẹ phải cai trị ở dưới đất, rồi sau cùng đón nhận cõi trời vinh quang. Mẹ phải được đầy tràn ở dưới đất này, để rồi tiến vào trong sung mãn thánh thiện chốn trời cao. Và vì Mẹ đã được Thần Khí của Chúa đưa từ nhân đức này tới nhân đức khác, thì Mẹ cũng được đưa từ chốn rạng ngời dưới đất đến chốn rạng ngời trên trời.
Vậy tuy đang sống trong thân xác, Mẹ đã được thưởng thức trước những hoa quả đầu mùa của vương quốc mai sau : khi thì vươn lên tới Thiên Chúa nhờ sự hoàn thiện khôn thấu, lúc lại hạ cố đến với tha nhân nhờ đức bác ái khôn tả. Ở trên trời, Mẹ được các thiên sứ tới lui phục vụ, ở dưới đất, Mẹ được loài người hầu hạ kính tôn. Tổng lãnh Gáp-ri-en cùng với các thiên sứ đã cung phụng Mẹ. Còn ông Gio-an trinh khiết thì vui mừng vì Mẹ đồng trinh đã được trao phó cho mình dưới chân thập giá, ông cùng với các Tông Đồ chăm sóc Mẹ. Các thiên sứ hân hoan nhìn nhận Mẹ là nữ vương của mình, các Tông Đồ vui mừng nhìn nhận Mẹ là bà chúa của mình. Và tất cả đều đem lòng đạo đức và yêu mến mà vâng phục Mẹ.
Phần Mẹ, Mẹ đang ngự trên lâu đài cao chót vót của các nhân đức và được các ân huệ của Thiên Chúa bao la như biển cả. Mẹ trổi vượt hơn mọi người nhờ ân sủng dồi dào như vực thẳm, nhưng Mẹ lại tuôn đổ thật rộng rãi xuống trên đoàn dân đang tin tưởng và khao khát. Thật vậy, Mẹ ban sức khoẻ cho thân xác và thần dược cho linh hồn, Mẹ có khả năng giúp thân xác và linh hồn được trỗi dậy từ cõi chết. Có ai từ biệt Mẹ ra về mà vẫn còn đau yếu, buồn phiền và dốt nát không hiểu các mầu nhiệm thiên quốc bao giờ ? Có ai về tới nhà mà lại không hân hoan vui mừng, vì đã nhờ Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu của Chúa, mà được như lòng mong muốn ?
Mẹ là hiền thê đầy dẫy bao ân phúc cao cả, là Mẹ của Vị Hôn Phu độc nhất, Mẹ dịu dàng và rất đáng mến, vì đầy niềm hân hoan vui sướng. Mẹ như nguồn suối cho các thửa vườn thiêng liêng, như giếng đầy nước hằng sống và đem lại sức sống. Nước ấy xuất phát từ núi Li-băng của Thiên Chúa, chảy như thác lũ. Vì thế, Mẹ làm tuôn chảy những dòng sông hoà bình và những con suối ân sủng thiên quốc, từ núi Xi-on cho đến mọi nước chung quanh. Vì vậy, khi Đức Trinh Nữ trên mọi trinh nữ được Thiên Chúa và được Con của Người là Vua trên các vua dẫn vào thiên cung, trước các thiên sứ đang hân hoan, các tổng lãnh đang vui mừng và thiên cung đang reo hò ca ngợi, thì bấy giờ ứng nghiệm lời sấm đã được tác giả thánh vịnh thưa với Chúa : Bên hữu Ngài hoàng hậu sánh vai, trang điểm vàng Ô-phia lộng lẫy.
Lạy Chúa, Chúa đã đặt Thánh Mẫu của Đức Ki-tô Con Chúa làm Thánh Mẫu và Nữ Vương chúng con. Xin nhậm lời Đức Nữ Vương chuyển cầu mà cho chúng con đạt tới phúc vinh quang Chúa dành sẵn trên trời cho con cái Chúa. Chúng con cầu xin
Kitô Hữu Nhìn Lên Nữ Vương Maria
(Giáo lý Thánh Mẫu của ĐTC Gioan Phaolô II)
1.- Lòng tôn sùng thịnh hành vốn kêu cầu Mẹ Maria như là một Vị Nữ
Vương. Công Đồng Chung Vaticanô II, sau khi nhắc lại Việc Đức Trinh Nữ
Mông Triệu “cả xác lẫn hồn vào vinh quang thiên quốc”, đã giải thích
rằng Mẹ “được Chúa tôn làm Nữ Vương trên tất cả mọi sự, để Mẹ có thể
hoàn toàn nên giống hơn Con Mẹ là Chúa các chúa (x Rev 19:16) và là Đấng
chiến thắng tội lỗi cùng sự chết” (Lumen Gentium, 59).
Thật vậy, bắt đầu từ thế kỷ thứ năm, hầu như trong cùng một giai đoạn
Công Đồng Chung Êphêsô công bố Mẹ là “Mẹ Thiên Chúa”, thì tước hiệu Nữ
Vương cũng đã được bắt đầu được gán cho Mẹ. Nhận biết hơn về vai trò cao
cả của Mẹ như thế, dân Kitô giáo muốn đặt Mẹ lên trên tất cả mọi thụ
tạo, vinh thăng vai trò và tầm quan trọng của Mẹ nơi đời sống của hết
mọi người cũng như của cả thế giới.
Thế nhưng, trong một khúc bài giảng được cho rằng của giáo phụ Origen,
cũng đã chất chứa lời dẫn giải này về những lời bà Elizabét thốt lên
trong biến cố Thăm Viếng: “Đáng lẽ chị phải đến thăm em, vì em có phúc
hơn mọi người nữ, em là Người Mẹ của Chúa chị, em là Vị Tôn Nữ của chị”
(Fragment, PG 13, 1902 D).
Bản văn chuyển một cách tự nhiên từ lời diễn tả “Người Mẹ của Chúa chị”
sang tước hiệu “Vị Tôn Nữ”, trước cả những gì Thánh Gioan Đamascênô sau
này nói khi thánh nhân gán cho Mẹ tước hiệu “Vương Chủ”: “Khi Mẹ trở nên
Mẹ của Đấng Hóa Công, Mẹ thực sự trở nên nữ vương của tất cả mọi tạo
vật” (De fide orthodaxa, 4, 14, PG 94, 1157).
2.- Vị Tiền Nhiệm đáng kính Piô XII của Tôi, trong bức Thông Điệp Ad
coeli Reginam, một văn kiện được bản văn của Hiến Chế Lumen Gentium qui
chiếu, xác định việc Mẹ cộng tác vào công cuộc Cứu Chuộc đã là nền tảng
cho vai trò nữ vương của Mẹ Maria, thêm vào vai trò mẫu thân của Mẹ. Bức
Thông Điệp đã lập lại bản văn phụng vụ: “Có Thánh Maria, Nữ Vương thiên
đàng và là Vị Vương Chủ thế giới, đau thương đứng kề bên cây Thập Giá
của Chúa Giêsu Kitô” (AAS 46 [1954] 634). Như thế, bức Thông Điệp này đã
nêu lên tính cách tương tự giữa Mẹ Maria và Chúa Kitô, một tính cách
tương tự giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng nơi trạng thái trung
thành của Đức Trinh Nữ. Chúa Kitô là Vua không phải chỉ vì Người là Con
Thiên Chúa, mà còn vì Người là Đấng Cứu Chuộc; Mẹ Maria là Nữ Vương
không phải chỉ vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, mà còn vì Mẹ đã cộng tác vào công
cuộc cứu chuộc loài người, với tư cách là tân Evà cùng với tân Adong.
Trong Phúc Âm Thánh Marcô, chúng ta đọc thấy rằng, vào ngày Thăng Thiên,
Chúa Giêsu “được đưa lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (16:19). Theo ngôn
ngữ Thánh Kinh, “ngồi bên hữu Thiên Chúa” nghĩa là chia sẻ quyền bính
tối cao. Ngồi “bên hữu Cha”, Người thiết lập vương quốc của Người, vương
quốc của Thiên Chúa. Được đưa lên trời, Mẹ Maria được liên kết với quyền
năng của Con Mẹ, và được giành vào việc phát triển Vương Quốc này, ở chỗ
thông phần vào việc ban phát ân sủng thần linh trên thế giới.
Nhìn vào tính cách tương tự giữa việc Chúa Giêsu Thăng Thiên và việc Mẹ
Maria Mông Triệu, chúng ta có thể kết luận rằng, Mẹ Maria, dựa vào Chúa
Kitô, là một Vị Nữ Vương nắm thượng quyền và thực hiện thượng quyền do
Con Mẹ ban Mẹ trên vũ trụ.
3.- Tước hiệu Nữ Vương dĩ nhiên không thay thế cho tước hiệu Làm Mẹ, ở
chỗ, vai trò làm nữ vương của Mẹ vốn là hệ quả của sứ vụ đặc biệt làm
mẹ, và chỉ để thể hiện quyền năng được ban cho Mẹ để Mẹ thi hành sứ vụ
ấy mà thôi.
Trích lại Trọng Sắc Ineffabilis Deus của Đức Piô IX, Đức Piô XII nhấn
mạnh đến chiều kích làm mẹ nơi vai trò nữ vương của Đức Trinh Nữ: “Cảm
thương chúng ta với lòng từ mẫu và quan tâm đến phần rỗi của chúng ta,
Mẹ vươn vòng tay săn sóc của Mẹ ra ôm ấp tất cả loài người. Được Chúa
cắt đặt làm Nữ Vương trời đất, được nâng lên trên tất cả mọi ca đoàn
thiên thần cũng như tất cả mọi hàng ngũ các thánh trên trời, ngự bên hữu
Người Con duy nhất của mình là Chúa Giêsu Kitô, Mẹ chắc chắn chiếm được
những gì Mẹ muốn dùng lời nguyện cầu từ mẫu của Mẹ mà kêu xin; Mẹ chiếm
được những gì Mẹ tìm kiếm và không bị khước từ” (xem AAS 46 [1954]
636-637).
4.- Bởi thế, Kitô hữu hãy tin tưởng nhìn lên Nữ Vương Maria, và điều này
chẳng những không làm suy giảm mà thực sự làm tăng thêm việc trao phó
bản thân mình với tình con thảo của họ cho Mẹ, Đấng làm mẹ theo cấp trật
ân sủng.
Thật vậy, nỗi quan tâm của Nữ Vương Maria đối với loài người có thể hoàn
toàn tác hiệu chính là vì trạng thái vinh hiển của Người xuất phát từ
việc Mẹ Mông Triệu. Thánh Germanus I ở Contantinôpôli đã cho thấy sự
kiện này rất hay. Thánh nhân chủ trương rằng trạng thái này bảo toàn mối
liên hệ thân mật giữa Mẹ Maria với Con của Mẹ, và cho phép Mẹ thực hiện
việc Mẹ can thiệp hộ giúp chúng ta. Ngỏ lời cùng Mẹ Maria, thánh nhân
viết, Chúa Kitô muốn “có một kết nối giữa môi miệng của Mẹ với lòng trí
của Mẹ; bởi thế Người đồng ý với tất cả mọi ước muốn Mẹ bày tỏ cùng
Người, khi Mẹ chịu đựng vì con cái của Mẹ, Người làm tất cả mọi sự Mẹ
kêu xin Người bằng quyền năng thần linh của Người” (Hom. 1 PG 98, 348).
5.- Người ta có thẻ kết luận rằng Việc Mông Triệu làm cho Mẹ Maria chẳng
những hoàn toàn hiệp thông với Chúa Kitô, mà còn với mỗi một người trong
chúng ta nữa, ở chỗ, Mẹ ở bên chúng ta, vì tình trạng vinh hiển của Mẹ
khiến cho Mẹ có thể theo chúng ta trong cuộc hành trình trần thế hằng
ngày của chúng ta. Như chúng ta cũng đọc thấy ở Thánh Germanus: “Mẹ ở
với chúng con một cách thiêng liêng, và việc Mẹ hết lòng coi sóc chúng
con cho thấy Mẹ hiệp thông đời sống với chúng con” (Hom. 1, PG 98, 344).
Bởi vậy, thay vì tạo nên khoảng cách giữa Mẹ và chúng ta, tình trạng
vinh hiển của Mẹ Maria lại tạo nên một tình trạng liên tục gần gũi và
chăm sóc. Mẹ biết hết mọi sự xẩy ra trong đời sống của chúng ta, và nâng
đỡ chúng ta bằng tình yêu từ mẫu của Mẹ trong những cơn thử thách cuộc
đời của chúng ta.
Được đưa về trời vinh hiển, Mẹ Maria hoàn toàn hiến mình cho công cuộc
cứu độ, để thông truyền cho hết mọi con người sống động thứ hạnh phúc Mẹ
lãnh nhận. Mẹ là một Vị Nữ Vương ban phát tất cả những gì Mẹ chiếm
hưởng, trước hết, ở chỗ Mẹ tham dự vào cuộc sống và tình yêu của Chúa
Kitô.
(Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, dịch từ
Tuần san L’Osservatore Romano, ấn bản Anh ngữ ngày 30/7/1997)
Vinh Quang Trên Thiên Đàng
(Trích Thần Đô Huyền Nhiệm, phần truyện hợp với đời sống thầm lặng của Mẹ, một đời sống làm mẫu gương của Dòng Carmêlô)
Linh hồn rất thánh của Me. Maria đã hưởng phúc thiên đàng được ba ngày,
Thiên Chúa tỏ cho thần thánh biết quyết định hằng hữu của Ngài là phục
sinh cho Xác Thể đáng kính của Mẹ. Tới lúc đó, Chúa Giêsu từ trời, đem
theo Linh Hồn Mẹ chí ái Ngài xuống mồ Thánh của Mẹ với vô số sư đoàn các
thiên thần, các vị tổ phụ và các tiên tri. Đến mồ Mẹ, Chúa phán với đoàn
tháp tùng rằng: "Mẹ của Cha đã được đầu thai Vô Nhiễm, đê? Cha mặc lấy
Nhân Tính Cha từ nơi bản thể vô nhiễm của Mẹ. Thể xác Cha là thể xác Mẹ
hơn nữa, Mẹ còn đồng công vào hết mọi công trình việc cứu chuộc của Cha.
Cho nên Cha phải phục sinh cho Me. Cha, như Cha đã sống lại, và phải
phục sinh cho Mẹ vào cùng lúc Cha đã sống lại, vì Cha muốn Mẹ nên tương
tư. Cha trong mọi sự". Toàn thể các Thánh đều ca tụng Chúa vì sự quyết
định ấy, nhất là Adong Eva, thánh ca? Giuse và hai thánh song thân của
Me.
Tức thì Linh Hồn Hiển Vinh của Mẹ vào lại Thân Xác Đồng Trinh của Mẹ trả
lại sự sống cho Thân Xác ấy, mà không hề động chạm gì đến tảng đá che mồ
hay đảo lộn những nếp áo và khăn phủ mặt. Không thể nào tả lại được vẻ
mỹ lệ và ánh sáng chói ngời trang sức cho Mẹ lúc ấy. Ta chỉ cần nói rằng
Chúa Giêsu muốn trả lại cho Mẹ tất cả những gì Ngài đã tiếp nhận từ Mẹ
lúc Nhập Thể đã đủ. Hôm đó là ngày Chúa Nhật, mười lăm tháng tám, liền
ngay sau nửa đêm. Xác Thánh Me. Maria ở trong mồ 30 giờ y như Xác Thánh
Chúa Giêsu.
Lúc đó diễn ra từ phần mộ của Mẹ về thiên đàng một cung nghinh trang
trọng không thể tả hết giữa thanh âm của một điệu nhạc say lòng. Các vị
thánh và các thiên thần vào thiên đàng vị nào theo địa vị ấy. Sau cùng
là Chúa Giêsu Kitô với Mẹ rất thánh Ngài ở bên hữu. Toàn thể thần thánh
đều quay về phía Mẹ để nhìn ngắm và chúc tụng Mẹ trong một nguồn hoan
lạc mới lạ, những khúc thánh ca mới và những lời ở trong chương ba sách
Diễm Ca. Khi Mẹ tới bê. Ngai Chúa Ba Ngôi, Chúa đã tiếp đón Mẹ với một
tiếp đón thỏa tình nhất. Chúa Cha phán với Mẹ: "Con rất yêu dấu của Cha,
Con hãy lên cao hơn trên tất cả mọi thụ tạo". - Và Chúa Con thêm: "Me.
Ạ, xin Mẹ nhận từ tay con phần thưởng Mẹ đáng được". - Đến lượt Thánh
Linh nói: "Bạn dấu yêu, hãy vào hưởng nguồn vui vĩnh cửu xứng với tình
trạng trinh trong của Bạn".
Me. Maria chìm ngập trong đại dương vô cùng của Thần Tính Thiên Chúa.
Khi Mẹ đã được tôn lên Ngai Thần Linh, Chúa tuyên dương cho cả triều
đình thiên đàng đang tràn ngập tán thưởng, biết những đặc ân đã thông
ban cho Mẹ qua sư. Mẹ thông phần vào Uy Linh của Ngài. Chúa Cha phán:
"Maria là đức nữ tỳ của chúng ta, từng làm nên những khoái lạc đầu tiên
của chúng ta, và đã không bao giờ bỏ mất tước hiệu ấy. Người có toàn
quyền trên cả vương quốc chúng ta. Người được nhìn nhận và tôn phong là
chủ mẫu chính thức, vừa là Nữ Vương độc nhật". - Chúa Con phán: "Hết mọi
thụ tạo Cha đã sáng tạo và cứu chuộc đều thuộc quyền Mẹ chân thực của
Cha: Mẹ là Nữ Vương chính thức cai trị tất cả những gì Cha là vua cai
trị". - Sau cùng Chúa Thánh Linh phán: "Hỡi bạn, với danh nghĩ là Hiền
Thê của Ta, danh nghĩa mà bạn đã tận trung ứng đáp, bạn được lĩnh vương
miện Nữ Vương cho đến muốn đời.
Ba Ngôi Thiên Chúa đặt trên đầu Mẹ một vương miện vinh quang cực kỳ lộng
lẫy, rạng chiếu luồng sáng tuyệt kỳ, sẽ không bao giờ có nữa. Cũng lúc
ấy, từ ngai Chúa phán ra lời này: "Hỡi người chí ái của chúng ta, Vương
Quốc Của Chúng Ta là Vương Quốc Của Người. Người là Chu? Mẫu là Nữ Vương
hết mọi thụ tạo. Từng được ân sủng nâng cao lên trên mọi loài, những
người đã tự nhận mình hèn kém, hạ mình xuống dưới hết mọi loài. Giờ đây,
người hãy lên chiê"m địa vị tuyệt cao xứng với người. Từ Ngai cao cả
này, Người hãy thống trị toàn thể thụ tạo: hỏa ngục, trần gian và thiên
đàng. Ma qủy, loài người, và thiên thần đều phải tùng phục Người. Chúng
Ta trao ủy cho người quyền bính Thần Linh của Chúng Ta. Người sẽ nâng
đỡ, ủi an, bảo trợ và làm Mẹ của hết mọi người công chính cũng như là Mẹ
của cả giáo hội chiến đấụ để thi hành sứ mệnh đó, một lần nữa chúng ta
tôn nhiệm Người làm đấng bảo quản, đấng phân phát mọi kho tàng của Chúng
Ta. Những gì thuộc quyền Chúng Ta cũng thuộc quyền Người, như Người đã
luôn luôn là của Chúng Ta.
|
Để thể hiện những đặc ân trao ban cho Đức Nữ Vương vũ trụ, Thiên Chúa ra lệnh cho toàn thể thần thánh trên trời phải tùng phục Mẹ, nhìn nhận Mẹ là chủ mẫu mình. Toàn thể thần thánh đều tôn phục Mẹ: những vị được ở thiên đàng cả hồn xác đều phủ phục trước mặt Mẹ và đều suy phục Mẹ bằng những việc tôn kính bề ngoài. Đấy chính là phần thưởng cho đức khiêm nhượng Mẹ đã tỏ ra để tôn kính các thánh khi Mẹ còn tại thế. Việc tôn phong Mẹ là Nữ Vương Thiên Đàng này đã trào đổ một nguôn vui phụ trội cho toàn thể thần thánh. Những vị được hoan hỉ thêm nhiều hơn cả là thánh ca? Giuse, thánh Gioan Kim, Thánh Nữ Anna rồi những thánh thân nhân và các thiên thần hầu cận Me.
Thứ Bảy
Bài Ðọc I: (Năm I) R 2, 1-3. 8-11; 4, 13-17
"Chúa không nỡ để cho bà thiếu kẻ nối dòng. Ðó là thân phụ của Isai, cha của Ðavít".
Trích sách truyện Bà Ruth.
Bấy giờ ông Êlimêlech, chồng bà Nôêmi có một người họ hàng, là người quyền thế và giàu có, tên là Booz. Bà Ruth, người Môab, thưa với mẹ chồng rằng: "Nếu mẹ cho phép, con xin ra đồng mót lúa mà các thợ gặt bỏ sót, nơi nào mà chủ ruộng nhân từ vui lòng cho con mót". Bà mẹ trả lời rằng: "Hỡi con, con cứ đi". Nàng liền đi mót lúa đàng sau các thợ gặt. Bất ngờ chủ ruộng ấy tên là Booz, người có họ với Êlimêlech.
Ông Booz bảo bà Ruth rằng: "Hỡi con, hãy nghe đây, con đừng đi mót lúa ở ruộng khác, đừng rời khỏi nơi này: nhưng hãy đi theo các tớ gái của ta, chúng nó gặt ở đâu, con cứ đi theo đó; vì ta bảo các đầy tớ ta đừng ai làm phiền con. Cả khi con khát nước, cũng cứ đến các vò nước và uống nước mà các đầy tớ ta uống". Bà sấp mình xuống đất, lạy ông ấy mà nói rằng: "Bởi đâu tôi được ơn trước mặt ông, và ông đoái thương tôi là người nữ ngoại bang?" Ông trả lời rằng: "Ta đã nghe đồn mọi sự con đã làm đối với mẹ chồng, sau khi chồng con qua đời, con đã lìa bỏ cha mẹ quê hương và đến cùng dân tộc mà trước đây con không hề biết".
Vậy ông Booz cưới bà Ruth làm vợ. Ông ăn ở với bà, và Chúa ban cho bà có thai, bà sinh được một con trai. Các phụ nữ nói cùng bà Nôêmi rằng: "Chúc tụng Chúa là Ðấng không nỡ để cho gia đình bà thiếu kẻ nối dòng! Và nguyện danh Chúa được ca tụng khắp Israel! Cầu chúc bà có người an ủi tâm hồn và phụng dưỡng tuổi già; vì người đó sẽ sinh ra do người con dâu yêu mến bà, và người con dâu đó đáng quý hơn bảy người con trai". Bà Nôêmi ẵm con trẻ vào lòng, và nuôi nấng nó như người vú. Các phụ nữ láng giềng đến mừng bà mà rằng: "Bà Nôêmi đã được một cháu trai". Họ đặt tên cho con trẻ là Obed: đó là thân phụ của Isai cha của Ðavít.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 127, 1-2. 3. 4-5
Ðáp: Ðó là ơn phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Chúa (c. 4).
Xướng: 1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may. - Ðáp.
2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn, con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn. - Ðáp.
3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Ðức Thiên Chúa. Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn. - Ðáp.
Alleluia: x. Cv 16, 14b
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời của Con Chúa. - Alleluia.
Phúc Âm: Mt 23, 1-12
"Họ nói mà không làm".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng và các môn đệ rằng: "Các Luật sĩ và các người biệt phái ngồi trên toà Môsê: vậy những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ, nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm. Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta: còn chính họ lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là "Thầy". Phần các ngươi, các ngươi đừng muốn được người ta gọi là "Thầy", vì các ngươi chỉ có một Thầy, còn tất cả các ngươi đều là anh em với nhau. Và các ngươi cũng đừng gọi ai dưới đất là "cha", vì các ngươi chỉ có một Cha, Người ngự trên trời. Các ngươi cũng đừng bắt người ta gọi là "người chỉ đạo": vì các ngươi có một người chỉ đạo, đó là Ðức Kitô. Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các ngươi. Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".
Ðó là lời Chúa.
Suy Niệm Cảm Nghiệm
"thày", "cha" và "xếp" - không hưởng thụ nhưng phục vụ
Bài Phúc Âm cho Thứ Bảy Tuần XX Thường Niên hôm nay cách bài Phúc Âm hôm qua 5 câu, 41-46, những câu cuối của Đoạn 22, những câu Phúc Âm về vấn đề Chúa Giêsu đặt ra cho thành phần biệt phái khiến "không ai dám hỏi Người một điều gì nữa từ đó trở đi" (Mathêu 22:46), đó là vấn đề nếu Đấng Kitô Thiên Sai là con của Vua Đavít thì tại sao chính vua lại gọi Người là Chúa.
Phải,
Giáo Hội đã không chọn đọc bài Phúc Âm của Thánh ký Mathêu về
vấn đề ấy, vì vấn đề này đã được
Giáo Hội chọn đọc cho ngày Thứ Sáu Tuần IX Thường Niên theo
Phúc Âm của Thánh ký Marcô rồi. Bài Phúc Âm được Giáo Hội chọn đọc hôm nay liên quan đến thành
phần luật sĩ và biệt phái, thành phần bị Người thậm tệ quở trách
và vạch trần bộ mặt giả hình của họ, như chúng ta đã thấy 1 chút
trong bài Phúc Âm của Thánh ký Marcô ở Thứ Bảy Tuần IX Thường
Niên, và sẽ thấy tất
cả ở trong các bài Phúc Âm
của Thánh ký Mathêu cho 3 ngày đầu của tuần tới, tuần cuối cùng
theo Phúc Âm của Thánh ký Mathêu cho Phụng Vụ Lời Chúa ngày
thường trong tuần từ Tuần X Thường Niên.
Đúng thế, ngay từ bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã nghiêm thẳng vạch trần chân tướng của hai thành phần luật sĩ và biệt phái đầy kiêu hãnh và ham danh trong dân này:
"Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là 'rabbi'".
Tuy hai thành phần luật sĩ và biệt phái vốn được coi là thày dạy trong dân này có những cử chỉ và hành động đầy gương mù gương xấu phản tác dụng bất khả chấp như vậy, nhưng "Đức Giêsu (vẫn) nói với dân chúng và các môn đệ Người rằng: 'Các kinh sư và các người Pharisiêu ngồi trên toà ông Moisen mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm'".
Thế nhưng, trên thực tế rất khó thực hành theo bản tính tự nhiên của loài người. Chúng ta hay có khuynh hướng đồng hóa tội nhân với tội lỗi hay với gương mù gương xấu của họ. Ở chỗ, chúng ta chẳng những tỏ ra ghê tởm việc làm xấu xa hay tội lỗi của họ mà còn ghê tởm và khinh bỉ chính con người của họ nữa. Có những lúc hay nhiều lúc chúng ta thường tấn công họ bằng những lời nói nhục mạ họ, (thậm chí công khai qua phương tiện truyền thông: báo chí, email, internet, truyền thanh, truyền hình, thơ nặc danh, hay ngay cả trên tòa giảng v.v.), hơn là tế nhị và nhẹ nhàng khôn khéo sửa lỗi cho họ để họ dễ cảm nhận bản thân hèn yếu lỗi lầm của mình mà hoán cải trở về cùng Chúa theo tinh thần và đường lối được Chúa Giêsu huấn dạy trong bài Phúc Âm Thứ Tư tuần trước.
Chúng ta thường đối xử với anh chị em lầm lỗi của chúng ta như thể chúng ta là con người toàn hảo, không bao giờ sai lỗi, động một tí là ném đá nhau, thậm chí như thể là quan án của họ, có quyền tối thượng trong việc thưởng phạt nhau, trong khi chúng ta chưa thấu suốt được thâm tâm của nhau như Thiên Chúa là Đấng duy nhất có quyền phán quyết mọi người. Quả thực Chúa Giêsu nói về chúng ta quá đúng khi Người vừa khiển trách vừa nghiêm trọng cảnh giác chúng ta rằng: "Đồ giả hình! trước hết ngươi hãy lấy khỏi mắt của mình cái xà đi đã rồi ngươi mới thấy được một cách rõ ràng mà lấy đi cái rằm trong con mắt của anh chị em của ngươi" (Mathêu 7:5).
Tuy nhiên, không phải đối xử một cách cảm thông với những người anh chị em lỗi lầm của mình đến độ không còn biết phân biệt đâu là phải là trái nữa. Ở chỗ, thương tội nhân nhưng không chấp nhận tội lỗi của họ. Bởi thế, cho dù ở ngay đầu bài Phúc Âm Chúa Giêsu khuyên hãy tôn trọng quyền giáo huấn của thành phần luật sĩ và biệt phái, cuối bài Phúc Âm Người vẫn khuyên dạy dân chúng và các môn đệ của Người "đừng có làm theo những việc của họ", mà hãy sống ngược lại như sau:
"Phần anh em, đừng để ai gọi mình là 'rabbi', vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Kitô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên".
"Ông Booz bảo bà Ruth rằng: 'Hỡi con, hãy nghe đây, con đừng đi mót lúa ở ruộng khác, đừng rời khỏi nơi này: nhưng hãy đi theo các tớ gái của ta, chúng nó gặt ở đâu, con cứ đi theo đó; vì ta bảo các đầy tớ ta đừng ai làm phiền con. Cả khi con khát nước, cũng cứ đến các vò nước và uống nước mà các đầy tớ ta uống'. Bà sấp mình xuống đất, lạy ông ấy mà nói rằng: 'Bởi đâu tôi được ơn trước mặt ông, và ông đoái thương tôi là người nữ ngoại bang?' Ông trả lời rằng: 'Ta đã nghe đồn mọi sự con đã làm đối với mẹ chồng, sau khi chồng con qua đời, con đã lìa bỏ cha mẹ quê hương và đến cùng dân tộc mà trước đây con không hề biết'".
Đúng thế, việc làm đầu là phục vụ của nhân vật Booz, vì đúng ý Chúa và đẹp lòng Chúa, nên đã trổ sinh hoa trái tốt đẹp, ở chỗ "Ông Booz cưới bà Ruth làm vợ. Ông ăn ở với bà, và Chúa ban cho bà có thai, bà sinh được một con trai... Bà Nôêmi ẵm con trẻ vào lòng, và nuôi nấng nó như người vú. Các phụ nữ láng giềng đến mừng bà mà rằng: 'Bà Nôêmi đã được một cháu trai'. Họ đặt tên cho con trẻ là Obed: đó là thân phụ của Isai cha của Ðavít". Đó là lý do Thánh Vịnh 127 ở bài Đáp Ca hôm nay mới xướng lên một tâm tình ca ngợi người biết kính sợ Chúa như sau:
1) Phúc thay những bạn nào tôn sợ Thiên Chúa, bạn nào ăn ở theo đường lối của Người! Công quả tay bạn làm ra bạn an hưởng, bạn được hạnh phúc và sẽ gặp may.
2) Hiền thê bạn như cây nho đầy hoa trái, trong gia thất nội cung nhà bạn, con cái bạn như những chồi non của khóm ô liu, ở chung quanh bàn ăn của bạn.
3) Ðó là phúc lộc dành để cho người biết tôn sợ Ðức Thiên Chúa. Nguyện xin Thiên Chúa từ Sion chúc phúc cho bạn, để bạn nhìn thấy cảnh thịnh đạt của Giêrusalem, hết mọi ngày trong đời sống của bạn.
(23/8)