SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Tuần XXXI Thường Niên 

Năm C (Chúa Nhật) và Năm Lẻ (trong tuần)


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL




Chúa Nhật

 

 Phụng Vụ Lời Chúa

Bài Ðọc I: Kn 11, 23 - 12, 2

"Chúa thương xót mọi loài, vì Chúa yêu thương mọi tạo vật".

Trích sách Khôn Ngoan.

Lạy Chúa, trước mặt Chúa, cả vũ trụ ví như hạt gạo trên đĩa cân, và như hạt sương sa trên mặt đất trước lúc rạng đông. Nhưng Chúa thương xót mọi loài, vì Chúa có thể tác tạo mọi sự, và nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi loài người để họ ăn năn sám hối. Chúa yêu thương mọi tạo vật, và không ghét bỏ bất cứ vật gì Chúa đã tác thành: vì nếu Chúa ghét bỏ một vật gì, thì Người đâu có tác tạo nó.

Nếu Chúa không ưng, thì làm sao một vật có thể tồn tại được? Hoặc vật gì Chúa không kêu gọi, thì làm sao nó duy trì được? Nhưng Chúa dung thứ hết mọi loài: vì chúng thuộc về Chúa. Lạy Chúa, Chúa yêu thương các linh hồn.

Ôi lạy Chúa, thần trí của Chúa tốt lành và hiền hậu đối với mọi loài là dường nào! Vì thế, lạy Chúa, Chúa từ từ sửa phạt những kẻ lầm lạc, khuyên răn và dạy bảo những kẻ phạm lỗi, để họ từ bỏ tội ác mà tin theo Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 144, 1-2. 8-9. 10-11. 13cd-14

Ðáp: Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa, con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời

(x. c. 1).

Xướng: 1) Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa, con sẽ ca khen Chúa, và con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời. Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. - Ðáp.

2) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài.- Ðáp.

4) Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện trong mọi việc Ngài làm. Chúa nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng đứng thẳng lên. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 2 Tx 1, 11 - 2, 2

"Danh Chúa được vinh hiển trong anh em, và anh em được vinh hiển trong Người".

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Thêxalônica.

Anh em thân mến, chúng tôi hằng cầu nguyện cho anh em: Thiên Chúa chúng ta đoái thương làm cho anh em nên xứng đáng ơn Chúa kêu gọi anh em, và xin Người dùng quyền phép mà kiện toàn những ý định ngay lành do lòng tốt của anh em và công việc của lòng tin anh em, để danh Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, được vinh hiển trong anh em, và anh em được vinh hiển trong Người, do ân sủng của Thiên Chúa, Chúa chúng ta, và của Chúa Giêsu Kitô.

Anh em thân mến, nhân về ngày trở lại của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và về sự chúng ta tập họp bên cạnh Người, chúng tôi nài xin anh em chớ vội để mình bị giao động tinh thần, và đừng hoảng sợ bởi có ai nói tiên tri, hoặc bởi lời rao giảng hay bởi thư từ nào được coi như do chúng tôi gởi đến, mà nói như thể ngày Chúa gần đến.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: Ga 14, 5

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 19, 1-10

"Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành, thì kìa, có một người tên là Giakêu, ông thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có. Ông tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được, vì người ta đông quá, mà ông lại thấp bé. Vậy ông chạy lên trước, trèo lên một cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi ngang qua đó.

Khi vừa đến nơi, Chúa Giêsu nhìn lên và trông thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: "Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi". Ông vội vàng trụt xuống và vui vẻ đón tiếp Người. Mọi người thấy vậy, liền lẩm bẩm rằng: "Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi".

Ông Giakêu đứng lên thưa cùng Chúa rằng: "Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn". Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: "Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất".

Ðó là lời Chúa.


Image result for Lc 19, 1-10

Chia sẻ suy niệm

Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật XXXI Thường Niên Năm C hôm nay, thời điểm càng cận kề với thời điểm kết thúc một phụng niên, lại càng phản ảnh hơn nữa chiều hướng cánh chung, liên quan chẳng những đến ngày cùng tháng tận, mà còn nhất là liên quan đến lòng thương xót Chúa, qua việc cứu độ của Thiên Chúa nơi Con Ngài là Chúa Giêsu Kitô, Đấng sẽ "xuất hiện lần thứ hai để mang ơn cứu độ đến cho những ai thiết tha trông đợi Người" (Do Thái 9:28).

Trước hết, về ngày cùng tháng tận, hay về lần đến thứ hai của Chúa Giêsu Kitô, Thánh Phaolô đã cảnh giác trong Thư 2 gửi Giáo đoàn Thessalonica ở Bài Đọc 2 hôm nay như sau:
"Anh em thân mến, nhân về ngày trở lại của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và về sự chúng ta tập họp bên cạnh Người, chúng tôi nài xin anh em chớ vội để mình bị giao động tinh thần, và đừng hoảng sợ bởi có ai nói tiên tri, hoặc bởi lời rao giảng hay bởi thư từ nào được coi như do chúng tôi gởi đến, mà nói như thể ngày Chúa gần đến".

Ở đây, Thánh Phaolô  không chối bỏ sự kiện Chúa Kitô đến lần thứ hai, mà là trấn an giáo đoàn này đang hoang mang lo lắng về biến cố ấy dường như sắp xẩy đến, qua những gì họ được phao tin từ các nguồn khác nhau trong cộng đoàn của họ. Để trấn an họ, chính ngài đã cho họ dấu báo cho thấy những gì sẽ xẩy ra và phải xẩy ra thời điểm xuất hiện của Chúa Kitô, cũng trong cùng bức thư này, ở ngay câu kế tiếp như sau:

"Tên đối thủ tôn mình lên trên tất cả những gì được gọi là thần và được sùng bái, thậm chí nó còn ngồi trong Đền Thờ Thiên Chúa và tự xưng là Thiên Chúa. Khi tôi còn ở với anh em, tôi đã từng nói những điều ấy, anh em không nhớ sao? Anh em biết cái gì hiện đang cầm giữ nó, khiến nó sẽ chỉ xuất hiện được vào thời của nó. Thật vậy, mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành. Chỉ đợi người cầm giữ nó bị gạt ra một bên, bấy giờ tên gian ác sẽ xuất hiện, kẻ mà Chúa Giê-su sẽ giết chết bằng hơi thở từ miệng Người, và sẽ tiêu diệt bằng ánh huy hoàng, khi Người quang lâm" (câu 4-8).

Sau nữa, về lòng thương xót Chúa, Sách Khôn Ngoan ở Bài Đọc 1 hôm nay đã cảm nhận rất chính xác về Ngài như sau: "Chúa thương xót mọi loài, vì Chúa có thể tác tạo mọi sự, và nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi loài người để họ ăn năn sám hối. Chúa yêu thương mọi tạo vật, và không ghét bỏ bất cứ vật gì Chúa đã tác thành: vì nếu Chúa ghét bỏ một vật gì, thì Người đâu có tác tạo nó. Nếu Chúa không ưng, thì làm sao một vật có thể tồn tại được? Hoặc vật gì Chúa không kêu gọi, thì làm sao nó duy trì được? Nhưng Chúa dung thứ hết mọi loài: vì chúng thuộc về Chúa. Lạy Chúa, Chúa yêu thương các linh hồn. Ôi lạy Chúa, thần trí của Chúa tốt lành và hiền hậu đối với mọi loài là dường nào! Vì thế, lạy Chúa, Chúa từ từ sửa phạt những kẻ lầm lạc, khuyên răn và dạy bảo những kẻ phạm lỗi, để họ từ bỏ tội ác mà tin theo Chúa".

Nếu lòng thương xót Chúa được hoàn toàn tỏ hiện vào lần đến thứ nhất của Chúa Kitô, nơi cuộc Vượt Qua của Người nói chung, nhất là nơi cuộc khổ nạn và tử giá của Người, thì lòng thương xót Chúa của Người và nơi Người vẫn tiếp tục trở thành ơn cứu độ cho những ai tin tưởng vào Người, và chỉ những ai tin tưởng vào Người, chấp nhận tình yêu vô cùng nhân hậu của Người mới được cứu độ.

Bài Phúc Âm hôm nay, bài Phúc Âm được Thánh ký Luca trình thuật, vị Thánh ký viết ra một cuốn Phúc Âm chuyên về lòng thương xót Chúa đối với tội nhân cũng như dân ngoại, đã chứng thực chân lý này, qua sự kiện gặp gỡ giữa Chúa Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế và viên trưởng ban thu thuế Giakêu là tội nhân cần được cứu chuộc. Nhân vật trưởng ban thu thuế Giakêu này, một con người thuộc thành phần bị xã hội Do Thái bấy giờ cho là phản quốc và gian tham, thành phần đáng bị khinh bỉ, thành phần cũng cảm thấy mình có tội thật, đã bắt đầu tỏ ra tin tưởng vào Đấng Thiên Sai Cứu Thế, bằng kẽ hở tò mò của mình, ở cử chỉ vừa muốn được thấy Người, lại vừa muốn tránh né những ánh mắt dòm ngó khinh bỉ của dân mình:

"Khi ấy, Chúa Giêsu vào Giêricô và đi ngang qua thành, thì kìa, có một người tên là Giakêu, ông thủ lãnh những người thu thuế và là người giàu có. Ông tìm cách để nhìn xem Chúa Giêsu là người thế nào, nhưng không thể được, vì người ta đông quá, mà ông lại thấp bé. Vậy ông chạy lên trước, trèo lên một cây sung để nhìn xem Người, vì Người sắp đi ngang qua đó".

Tuy nhiên, lòng thương xót Chúa bao giờ cũng đi bước trước, thậm chí bao gồm cả tác động tò mò và leo lên cây của nhân vật trưởng ban thu thuế Giakêu này cũng do lòng thương xót Chúa tác động, để rồi chính lòng thương xót Chúa đã chủ động đáp ứng ước vọng muốn "nhìn xem" của con người tội lỗi này, hoàn toàn bất ngờ với ngay chính đương sự, đang ẩn mình hết sức kín đáo, bởi mặc cảm tội lỗi, và tưởng rằng không ai, thậm chí chính Đấng chàng đang "tìm cách để nhìn xem là người thế nào", biết được mình đang ở đó. Đúng thế, lòng thương xót Chúa đã chủ động và tự động đối với con chiên lạc đang từ trong hang động tối tăm tội lỗi bấy giờ đã thập thò cái đầu của nó ở gần hang động, bằng cách lên tiếng kêu gọi nó:

"Khi vừa đến nơi, Chúa Giêsu nhìn lên và trông thấy ông ấy, nên Người bảo ông rằng: 'Hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi'. Ông vội vàng trụt xuống và vui vẻ đón tiếp Người. Mọi người thấy vậy, liền lẩm bẩm rằng: 'Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi'".

Trong trường hợp gặp gỡ nhân vật thu thuế tội lỗi Giakêu này, lòng thương xót Chúa không phải chỉ muốn tỏ mình ra cho riêng cá nhân của đương sự, mà còn cho cả những con người vốn tự cho mình là công chính, khinh bỉ những con người tội lỗi, cả nam lẫn nữ, như thành phần gái điếm và thu thuế. Nhất là cho thành phần tự mãn về sự công chính nhưng đầy giả hình của họ thấy được rằng muốn được cứu độ họ phải nhận biết lòng thương xót Chúa, phải biết thương người hơn là chỉ biết lễ vật cho Chúa.

Và đó là lý do mới xẩy ra những gì tuyệt vời nhất tại nhà của nhân vật thu thuế giầu có Giakêu này, nhưng lại là một tội nhân biết thống hối ăn năn, khi bản thân của chàng thực sự cảm nghiệm được lòng thương xót Chúa đối với bản thân vô cùng bất xứng của chàng, qua sự kiện Chúa Giêsu Kitô chủ động gọi đích danh tên chàng, lại còn tự động ngỏ ý muốn đến với chàng, chứ không tỏ ra khinh bỉ chàng và không xa tránh chàng, như xã hội dân của chàng vốn đối xử với một thứ ghẻ lở xã hội như chàng. Biến cố viên trưởng ban thu thuế Giakêu giầu có này đã đột nhiên biến đổi hoàn toàn con người của mình, đã được Thánh ký Luca cho biết trong bài Phúc Âm hôm nay như sau:

"Ông Giakêu đứng lên thưa cùng Chúa rằng: 'Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn'. Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: 'Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất'".

Cảm nghiệm thần linh của viên trưởng ban thu thuế Giakêu trong bài Phúc Âm hôm nay trước lòng thương xót Chúa và ơn cứu độ nhưng không của Chúa, được phản ảnh nơi tâm tình của Thánh Vịnh 144 (1-2. 8-9. 10-11. 13cd-14) ở bài Đáp Ca hôm nay:

1) Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa, con sẽ ca khen Chúa, và con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời. Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời.

2) Chúa nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng. Chúa hảo tâm với hết mọi loài, và từ bi với mọi công cuộc của Chúa.

3) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài.

4) Chúa trung thành trong mọi lời Ngài phán, và thánh thiện trong mọi việc Ngài làm. Chúa nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng đứng thẳng lên.

 

 

 

Ngày 2 tháng 11 - Chúa Nhật

Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Ðã Qua Ðời

Lễ Nhớ

 

Lễ Nhất

Bài Ðọc I: Rm 6, 3-9

"Chúng ta phải sống đời sống mới".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tất cả chúng ta đã chịu phép rửa trong Ðức Giêsu Kitô, tức là đã chịu phép rửa trong sự chết của Người. Và chúng ta đã cùng chịu mai táng với Người, bởi được thanh tẩy trong sự chết của Người, để như Ðức Kitô nhờ vinh hiển của Chúa Cha mà sống lại từ cõi chết thế nào, thì cả chúng ta cũng phải sống đời sống mới như thế. Vì nếu chúng ta được liên kết với Người trong cùng một cái chết, giống như cái chết của Người, thì chúng ta cũng được hợp nhất với Người, trong sự sống lại giống như vậy.

Nên biết điều này: con người cũ của chúng ta đã cùng chịu đóng đinh khổ giá, để xác thịt tội lỗi bị huỷ đi, hầu cho chúng ta không còn làm nô lệ tội lỗi nữa, vì con người đã chết, tức là được giải thoát khỏi tội lỗi. Mà nếu chúng ta đã chết với Ðức Kitô, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, vì biết rằng Ðức Kitô một khi từ cõi chết sống lại, Người không chết nữa, sự chết không còn làm chủ được Người nữa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6

Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 5).

Hoặc đọc: Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con (c. 4a).

Xướng: 1) Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng. - Ðáp.

2) Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. - Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. - Ðáp.

3) Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương: đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. - Ðáp.

4) Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 11, 25-26

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến, hãy lãnh lấy phần gia nghiệp là Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 6, 51-59

"Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng: "Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn được?"

Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh này thì sẽ sống đời đời".

Ðó là lời Chúa.

 

Lễ Nhì

Bài Ðọc I: Kn 3, 1-9

"Chúa chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu".

Trích sách Khôn Ngoan.

Linh hồn những người công chính ở trong tay Chúa, và đau khổ sự chết không làm gì được các ngài. Ðối với con mắt người không hiểu biết, thì hình như các ngài đã chết và việc các ngài từ biệt chúng ta, là như đi vào cõi tiêu diệt. Nhưng thật ra các ngài sống trong bình an. Và trước mặt người đời, dầu các ngài đã chịu khổ hình, lòng cậy trông của các ngài cũng không chết. Sau một giây lát chịu khổ nhục, các ngài sẽ được vinh dự lớn lao: vì Chúa đã thử thách các ngài như thử vàng trong lửa, và chấp nhận các ngài như của lễ toàn thiêu.

Khi đến giờ Chúa ghé mắt nhìn các ngài, các người công chính sẽ sáng chói và chiếu tỏ ra như ánh lửa chiếu qua bụi lau. Các ngài sẽ xét xử các dân tộc, sẽ thống trị các quốc gia, và Thiên Chúa sẽ ngự trị trong các ngài muôn đời. Các ngài đã tin tưởng ở Chúa, thì sẽ hiểu biết chân lý, và trung thành với Chúa trong tình yêu, vì ơn Chúa và bình an sẽ dành cho những người Chúa chọn.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 24, 6-7bc. 17-18. 20-21

Ðáp: Lạy Chúa, con vươn linh hồn con lên tới Chúa (c. 1b).

Hoặc đọc: Lạy Chúa, phàm ai trông cậy Chúa, ắt chẳng hổ ngươi (c. 3b).

Xướng: 1) Lạy Chúa, xin nhớ lòng thương xót của Ngài, lòng thương xót tự muôn đời vẫn có. Xin hãy nhớ con theo lòng thương xót của Ngài, vì lòng nhân hậu của Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.

2) Xin cho lòng con được nhẹ bớt lo âu, và giải thoát con khỏi cảnh ưu tư phiền muộn. Xin Chúa coi cảnh lầm than khốn khổ của con, và tha thứ hết mọi điều tội lỗi. - Ðáp.

3) Xin gìn giữ mạng sống con và giải thoát con, đừng để con bẽ bàng vì đã tìm nương tựa Chúa. Nguyện cho lòng con vô tội và trung thứ bảo vệ con, vì con trông cậy vào Ngài, thân lạy Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: 2 Tm 2, 11-12a

Alleluia, alleluia! - Nếu chúng ta cùng chết với Chúa Kitô, thì chúng ta cùng sống với Người; nếu chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Người. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 23, 33. 39-43

"Hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục người rằng: "Nếu ông là Ðấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa".

Ðối lại, tên kia mắng nó rằng: "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta làm, còn ông này, ông có làm gì xấu đâu?" Và anh ta thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Chúa Giêsu đáp: "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".

Ðó là lời Chúa.

 

Lễ Ba

Bài Ðọc I: Rm 5, 5-11

"Chúng ta đã nên công chính trong Máu của Người, và nhờ Người chúng ta được cứu khỏi cơn thịnh nộ".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tình yêu của Thiên Chúa tuôn đổ trong tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Thần đã ban cho chúng ta. Chúa Kitô theo kỳ hẹn mà chịu chết vì chúng ta là kẻ tội lỗi. Ít có ai chết thay cho người công chính, họa chăng mới có người dám chết vì kẻ lành. Nhưng Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Kitô đã chết vì chúng ta.

Vậy phương chi bây giờ, chúng ta đã nên công chính trong máu của Người, và nhờ Người chúng ta sẽ được cứu khỏi cơn thịnh nộ. Bởi chưng nếu khi chúng ta còn là thù nghịch, mà chúng ta đã được giao hoà cùng Thiên Chúa nhờ cái chết của Con Ngài, thì huống chi khi đã được giao hoà, ắt chúng ta sẽ được cứu độ trong sự sống của chính Chúa Kitô. Và không những thế, chúng ta còn được vinh hiển trong Thiên Chúa nhờ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, nhờ Người mà bây giờ chúng ta được lãnh ơn giao hoà.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 26, 1. 4. 7 và 8b và 9a. 13-14

Ðáp: Chúa là sự sáng và là Ðấng cứu độ tôi (c. 1a).

Hoặc đọc: Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh (c. 13).

Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? - Ðáp.

2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng sự êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Người. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, xin nghe con kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con. Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa. Xin Chúa đừng ẩn mặt xa con. - Ðáp.

4) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy trông đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và trông đợi Chúa. - Ðáp.

 

Alleluia: Ga 6, 39

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ý của Cha là hễ sự gì Người đã ban cho Ta, Ta chẳng để mất, nhưng ngày sau hết Ta sẽ cho nó sống lại". - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 17, 24-26

"Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, (Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng:) "Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa".

Ðó là lời Chúa.


Nếu chúng ta quả thực tin có đời sau thì chúng ta đang tìm kiếm những gì ở đời này?

 

      Hôm nay, 2/11/2011, Giáo Hội tưởng nhớ đến Các Linh Hồn trong Luyện Ngục, chúng ta hãy cùng nhau lợi dụng dịp lễ này để suy niệm nhé: Nếu chúng ta quả thực tin có đời sau thì chúng ta đang tìm kiếm những gì ở đời này?

     Trên thực tế, chúng ta có tìm Nước Chúa và sự công chính của Ngài trườc hết mọi sự hay chăng? (Mt 6:33). Không phải chỉ ở chỗ tham dự Thánh Lễ,  trong đó chúng ta nghe lời Chúa và hiệp lễ hằng ngày mà đủ, vì Chúa vẫn có thể phủ nhận chúng ta rằng "Ta không hề biết các ngươi" dù chúng ta có biện minh rằng chúng ta đã từng nghe Người giảng dạy (có thể hiểu là nghe lời Chúa trong lễ) và ăn uống với Người (có thể hiểu là hiệp lễ) - (xem Lk 13:25-27). 

     Hơn thế nữa, chúng ta còn cần phải: 1- cương quyết chống lại các chước cám dỗ, 2- phải chọn những gì trọn lành hơn là những gì dễ chịu thoải mái, và 3- phải chịu đựng mọi trái ý xẩy đến cho mình nữa v.v., mới chứng tỏ chúng ta quả thực tin có đời sau và tìm kiếm những gì chân thật và hoàn hảo bất diệt, và chúng ta quả thực tìm Nước Chúa và sự công chính của Ngài trước hết và trên hết mọi sự. 

     Giả sử Chúa cho các linh hồn dưới hỏa ngục được trở về trần gian nhưng phải chịu khổ gấp trăm ngàn lần hơn ở dưới hỏa ngục và liên lỉ suốt cả nghìn năm như thế thì họ có sẵn sàng trở lại trần gian hay chăng? Theo tôi, chắc chắn họ sẽ vui mừng hết sức vì biết rằng cho dù có khổ đến mấy đi nữa nhưng họ vẫn còn hy vọng được cứu rỗi và nắm chắc được phần rỗi của mình.  

     Và giả sử Chúa cho cả các thánh trên trời trở lại trần gian, một chuyện không bao giờ xẩy ra, như trường hợp các linh hồn đã muôn đời hư đi trong hỏa ngục, nhưng nếu được phép, theo tôi, các thánh cũng chấp nhận liền, không phải vì thiên đàng không đủ cho các ngài, mà là vì các ngài tự mình vẫn cảm thấy mình kính mến Chúa chưa đủ Đấng vô cùng toàn thiện chí ái, nên được dịp là các ngài lợi dụng để yêu Chúa hơn bao nhiêu có thể, nhất là bằng những hy sinh đau khổ chỉ ở trên thế gian này mới có.

     Thế thì:

     1- Về thời gian: Tại sao chúng ta lại phung phí thời gian từng giây từng phút qua đi không bao giờ trở lại ở trên trần gian này với những thứ phù du chứ! Thời gian sống trên trần gian này quá ư là ngắn ngủi (hầu như là hư không) so với cõi đời đời, nhưng phải nói là nó quí "vô cùng", vì chỉ một tíc tắc cuối đời thôi của cuộc sống trần gian, chúng ta một là được Chúa hai là mất Chúa đời đời kiếp kiếp?  

     Nếu chúng ta biết lợi dụng thời gian mau qua ngắn ngủi trên đời này thì chúng ta chẳng những có thể biến mỗi ngày từ 24 tiếng thành 36 tiếng hay 48 tiếng, mà còn biến thời gian thành vĩnh cửu nữa, nhờ tinh thần sống siêu nhiên của chúng ta. Thật vậy, với sức tự nhiên mỗi ngày chúng ta chỉ làm được một số việc giới hạn nào đó, nhưng với lòng yêu mến Chúa, chúng ta có thể làm gấp đôi như vậy, thì không phải một ngày đã trở thành 2 ngày rồi hay sao, chỉ nhờ lòng yêu mến Chúa của chúng ta. Chưa hết, nếu chúng ta chỉ tìm ý Chúa và làm trọn ý Chúa trong mọi sự, thì chúng ta quả thực đã sống đời đời ngay trong thời gian và ngay trên trần gian này rồi vậy. Bởi vì: "Thế gian cùng với những quyến rũ của nó đang qua đi, nhưng ai làm theo ý muốn của Thiên Chúa sẽ tồn tại muôn đời" (1Jn 2:17).

     2- Về đau khổ: Tại sao chúng ta lại không chấp nhận tất cả những đau khổ, so với vinh quang bất diệt đời sau hay với hình phạt muôn đời trong hỏa ngục, thì chẳng là gì trên trần gian mau qua tạm gửi này, những đau khổ chẳng là gì đó lại có thể chẳng những đền bù tội lỗi của chúng ta, mà còn được thông hiệp với cuộc khổ nạn và tử giá vô cùng quí báu của Chúa Kitô cho phần rỗi "những linh hồn cần đến Lòng Thương Xót Chúa hơn", nhất là được dịp chịu đựng để tỏ lòng kính mến hơn nữa Đấng toàn ái chí tôn đã vô cùng yêu thương từng con người được Ngài dựng nên theo hình ảnh thần linh và tương tự như Ngài, đến độ đã trở thành đáng thương hơn cả đối tượng đáng thương của Ngài?

    

Tông Đồ Chúa Tình Thương Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

Chia sẻ với Nhóm Tông Đồ Chúa Tình Thương


Thứ Hai


 Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 11, 29-36

"Thiên Chúa đã để mọi người phải giam hãm trong sự cứng lòng tin, để Chúa thương xót hết mọi người".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối tiếc. Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót, cũng thế, nay họ không tin, vì thấy Chúa thương xót anh em, để họ cũng được thương xót. Thiên Chúa đã để mọi người phải giam hãm trong sự cứng lòng tin, để Chúa thương xót hết mọi người.

Ôi thẳm sâu thay sự giàu có, thượng trí và thông biết của Thiên Chúa! Sự phán quyết của Người làm sao hiểu được, và đường lối của Người làm sao dò được! Vì chưng, nào ai biết được ý Chúa? Hoặc ai đã làm cố vấn cho Người? Hay ai đã cho Người trước để Người sẽ trả lại sau? Vì mọi sự đều do Người và trong Người: nguyện Người được vinh quang đến muôn đời. Amen.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 68, 30-31. 33-34. 36-37

Ðáp: Lạy Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương, xin nhậm lời con (c. 14cd).

Xướng: 1) Phần con, con đau khổ cơ hàn; lạy Chúa, xin gia ân phù trợ, bảo toàn thân con. Con sẽ xướng bài ca ngợi khen danh Chúa, và con sẽ chúc tụng Ngài với bài tri ân. - Ðáp.

2) Các bạn khiêm cung, hãy nhìn coi và hoan hỉ, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh: vì Chúa nghe những người cơ khổ, và không chê bỏ con dân của Người bị bắt cầm tù. - Ðáp.

3) Vì Thiên Chúa sẽ cứu độ Sion, Người sẽ tái thiết thành trì của Giuđa, tại đây người ta cư ngụ và chiếm quyền sở hữu. Con cháu của bầy tôi Chúa sẽ thừa hưởng đất này, và tại đây những người yêu danh Chúa sẽ định cư. - Ðáp.

 

Alleluia: Mt 11, 29ab

Alleluia, alleluia! - Các ngươi hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 14, 12-14

"Ông chớ mời các bạn hữu, nhưng hãy mời những người nghèo khó và tàn tật".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với thủ lãnh các người biệt phái đã mời Người rằng: "Khi ông dọn tiệc trưa hay tiệc tối, ông chớ mời các bạn hữu, anh em, bà con và những người láng giềng giàu có, kẻo chính họ sẽ mời lại ông mà trả ơn cho ông. Nhưng khi ông dọn tiệc, ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù, thì ông sẽ được phúc, bởi họ không có gì đền ơn cho ông: vì chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn".

Ðó là lời Chúa.

Image result for Lc 14, 12-14

Chia sẻ suy niệm

 

sự sống bao gồm 

 

Bài Phúc Âm cho Thứ Hai Tuần XXXI Thường Niên hôm nay là bài Phúc Âm tiếp theo hai bài Phúc Âm cuối tuần trước, vì cùng ở trong một bối cảnh của một bữa ăn diễn ra tại nhà của một trong những lãnh đạo viên của thành phn biệt phái.

Nếu trong bài Phúc Âm cho Thứ Bảy tuần vừa rồi huấn dụ của Chúa Giêsu liên quan đến thái độ của khách được mời đến dự tiệc, thì ở bài Phúc Âm hôm nay huấn dụ của Người liên quan đến người mời khách là chính vị gia chủ đã mời Người:

"Khi ấy, Chúa Giêsu nói với thủ lãnh các người biệt phái đã mời Người rằng: 'Khi ông dọn tiệc trưa hay tiệc tối, ông chớ mời các bạn hữu, anh em, bà con và những người láng giềng giàu có, kẻo chính họ sẽ mời lại ông mà trả ơn cho ông. Nhưng khi ông dọn tiệc, ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt và đui mù, thì ông sẽ được phúc, bởi họ không có gì đền ơn cho ông: vì chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn'". 

 Ở đây chắc hẳn Chúa Giêsu không cố ý nói rằng chúng ta chẳng bao giờ mời thân nhân và thân hữu đến dự bữa khoản đãi của chúng ta nhân một dịp nào đó, như chúng ta theo khuynh hướng tự nhiên vẫn làm và luôn làm, mà chỉ khuyên chúng ta rằng dầu sao chúng ta cũng: 

1- Trước hết, đừng quên những con người xa lạ khác, nhất là những người anh chị em hèn mọn nhất trong xã hội đáng thương, cần thương yêu, ưu đãi và giúp đỡ hơn ai hết; 

2- Sau nữa, chúng ta có làm gì cho ai, dù cho người thân yêu hay xa lạ, chúng ta cũng đừng làm chỉ vì mình, ở chỗ để được đền đáp xứng đáng, hơn là chỉ vì yêu thương họ, cho dù họ "không có gì đền ơn".

Tại sao làm ơn hay yêu thương mà không cần đền ơn hay đáp trả như thế? - Ở cuối bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã hướng thượng chúng ta về đời sau như thế này: "vì chưng, khi những người công chính sống lại, ông sẽ được đền ơn". 

Nghĩa là, theo tinh thần của lời Chúa này: 1- việc làm yêu thương bác ái không bao giờ qua đi, sẽ vĩnh viễn tồn tại (được ám chỉ ở chữ "sống lại"); 2- việc yêu thương trọn hảo mới làm cho con người nên "công chính"; 3- việc bác ái yêu thương mới làm cho con người phản ảnh Thiên Chúa (một tình trạng liên hệ với ý nghĩa "được đền ơn").


Đúng thế, giáo huấn của Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay về việc mời khách dự tiệc một cách bác ái yêu thương này là một giáo huấn phản ảnh của lòng thương xót Chúa, Đấng đã yêu thương hết mọi người và từng người, cả dân Do Thái lẫn dân ngoại, tùy theo cách thức của Ngài, như được Thánh Phaolô cảm nhận và xác tín trong Thư gửi giáo đoàn Roma ở Bài Đọc 1 hôm nay:

"Anh em thân mến, Thiên Chúa ban ơn và kêu gọi ai, thì Người không hề hối tiếc. Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót, cũng thế, nay họ không tin, vì thấy Chúa thương xót anh em, để họ cũng được thương xót. Thiên Chúa đã để mọi người phải giam hãm trong sự cứng lòng tin, để Chúa thương xót hết mọi người".

Bởi vậy, càng bần cùng khốn khổ, càng gian nan thử thách, càng phải tin vào lòng thương xót Chúa hơn bao giờ hết và hơn ai hết, vì Ngài muốn lợi dụng trường hợp của chúng ta để tỏ lòng thương xót của Ngài, và đó là lý do câu họa của Bài Đáp Ca hôm nay mới thân thưa với Ngài rằng: "Lạy Chúa, đây là lúc biểu lộ tình thương, xin nhậm lời con", một Bài Đáp Ca, được trích từ Thánh Vịnh 68, đã chất chứa những tâm tình của những tâm hồn lâm vào hoàn cảnh chỉ còn biết tin tưởng cậy trông vào lòng thương xót Chúa mà thôi:

 1) Phần con, con đau khổ cơ hàn; lạy Chúa, xin gia ân phù trợ, bảo toàn thân con. Con sẽ xướng bài ca ngợi khen danh Chúa, và con sẽ chúc tụng Ngài với bài tri ân.

2) Các bạn khiêm cung, hãy nhìn coi và hoan hỉ, các bạn tìm kiếm Chúa, lòng các bạn hãy hồi sinh: vì Chúa nghe những người cơ khổ, và không chê bỏ con dân của Người bị bắt cầm tù.

3) Vì Thiên Chúa sẽ cứu độ Sion, Người sẽ tái thiết thành trì của Giuđa, tại đây người ta cư ngụ và chiếm quyền sở hữu. Con cháu của bầy tôi Chúa sẽ thừa hưởng đất này, và tại đây những người yêu danh Chúa sẽ định cư.

 

 

 

Thứ Ba

 

 Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 12, 5-16

"Kẻ này là chi thể của người kia".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, chúng ta tuy nhiều người, nhưng cũng chỉ là một thân thể trong Ðức Kitô, và tương quan với mỗi người, kẻ này là chi thể của người kia. Nhưng chúng ta được những ân huệ khác nhau tuỳ theo ân sủng đã ban cho chúng ta: nếu là ơn nói tiên tri, thì hãy xử dụng sao cho xứng đối với đức tin; nếu là chức phận giúp việc, thì hãy chuyên cần giúp việc; nếu là thầy dạy, hãy lo dạy dỗ; nếu là khuyên bảo, hãy lo khuyên bảo; nếu là người phân phát, hãy có lòng chân thành; nếu là người cai quản, hãy cần mẫn; nếu là kẻ thương giúp, hãy vui vẻ.

Ðức ái không được giả hình. Hãy chê ghét điều ác và trìu mến điều lành. Hãy thương yêu nhau trong tình bác ái huynh đệ: Hãy nhân nhượng tôn kính nhau. Hãy siêng năng, chớ biếng nhác: hãy sốt mến trong tâm thần và phụng sự Chúa. Hãy hân hoan trong niềm cậy trông, nhẫn nại trong gian truân và kiên tâm cầu nguyện. Hãy giúp đỡ các thánh khi họ thiếu thốn, và ân cần tiếp khách đỗ nhà. Hãy chúc phúc cho những kẻ bắt bớ anh em: Hãy chúc phúc, chứ đừng chúc dữ. Hãy vui mừng với kẻ vui mừng, và khóc lóc với kẻ khóc lóc. Hãy đồng tâm hiệp ý với nhau: đừng tự cao tự đại, một hãy ưa thích những sự hèn kém. Ðừng tự đắc cho mình là khôn.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 130, 1. 2. 3

Ðáp: Lạy Chúa, xin giữ linh hồn con trong bình an của Chúa.

Xướng: 1) Lạy Chúa, lòng con không tự đắc, và mắt con chẳng liếc nhìn cao, con cũng không lo nghĩ những việc lớn lao hay là những điều quá tầm trí mọn. - Ðáp.

2) Nhưng con lo giữ linh hồn cho thinh lặng và thanh thản. Như trẻ thơ sống trong lòng thân mẫu, linh hồn con cũng như thế ở trong con. - Ðáp.

3) Israel hãy cậy trông vào Chúa, tự bây giờ và cho tới muôn đời. - Ðáp.

Hoặc:

Ðáp Ca: Tv 21, 26b-27. 28-30a. 31-32

Ðáp: Lạy Chúa, bởi Chúa mà lời con ca ngợi vang lên trong Ðại hội (c. 26a).

Xướng: 1) Bởi Chúa mà lời con ca ngợi vang lên trong Ðại hội. Con sẽ làm trọn những lời khấn hứa của con, trước mặt những người tôn sợ Chúa. Bạn cơ bần sẽ ăn và được no nê, những kẻ tìm kiếm Chúa sẽ ca khen Chúa: "Tâm hồn các bạn hãy vui sống tới muôn đời". - Ðáp.

2) Thiên hạ sẽ ghi lòng và trở về với Chúa, khắp cùng bờ cõi địa cầu; và toàn thể bá tánh chư dân sẽ phủ phục trước thiên nhan Chúa. Bao người ngủ trong lòng đất sẽ tôn thờ duy một Chúa. - Ðáp.

3) Miêu duệ con sẽ phục vụ Ngài, sẽ tường thuật về Chúa cho thế hệ tương lai, và chúng kể cho dân hậu sinh biết đức công minh Chúa, rằng: "Ðiều đó Chúa đã làm". - Ðáp.

 

Alleluia: Tv 147, 12a và 15a

Alleluia, alleluia! - Giêrusalem, hãy ngợi khen Chúa, Ðấng đã sai lời Người xuống cõi trần ai. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 14, 15-24

"Anh hãy ra ngoài đường ngoài ngõ, và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, một người đồng bàn thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Phúc cho kẻ sẽ được ăn tiệc trong nước Thiên Chúa". Người phán cùng kẻ ấy rằng: "Có một người kia dọn tiệc linh đình, và đã mời nhiều thực khách. Tới giờ dự tiệc, ông sai đầy tớ đi báo cho những kẻ được mời để họ đến, vì mọi sự đã dọn sẵn sàng rồi. Nhưng mọi người đồng thanh xin kiếu. Người thứ nhất nói với ông rằng: "Tôi mới tậu một thửa ruộng, tôi cần phải đi xem đất, nên xin ông cho tôi kiếu". Người thứ hai nói: "Tôi mới mua năm đôi bò, và tôi phải đi thử chúng, nên xin ông cho tôi kiếu". Người khác lại rằng: "Tôi mới cưới vợ, bởi đó tôi không thể đến được".

"Người đầy tớ trở về thuật lại những điều đó cho chủ mình. Bấy giờ chủ nhà liền nổi giận, bảo người đầy tớ rằng: "Anh hãy cấp tốc đi ra các công trường và các ngõ hẻm thành phố mà dẫn về đây những người hành khất, tàn tật, đui mù và què quặt". Người đầy tớ trở về trình rằng: "Thưa ông, lệnh ông ban đã được thi hành, thế mà hãy còn dư chỗ". Ông chủ lại bảo người đầy tớ rằng: "Anh hãy ra ngoài đường ngoài ngõ và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi. Vì tôi bảo cho các người biết: không một ai trong những kẻ đã được mời, sẽ được nếm bữa tiệc của tôi".

Ðó là lời Chúa.




Chia sẻ Lời Chúa:

                 

  sự sống chia s


m nay, Thứ Ba Tuần XXXI Thường Niên Quanh Năm, Thánh ký Luca thuật lại cho chúng ta trong Bài Phúc Âm của ngài về bữa tiệc mời và thái độ đáp ứng của khách được mời.


Ch
úng ta nên nhớ rằng, Bài Phúc Âm hôm nay tiếp theo Bài Phúc Âm hôm qua và 2 Bài Phúc Âm cuối tuần trước, những Bài Phúc Âm ở nửa đầu của Đoạn 14 này cho biết rằng Người đang tham dự bữa ăn ở nhà của một trong những người lãnh đạo nhóm biệt phái, một môi trường hiếm quí Người muốn lợi dụng để có thể tỏ mình ra cho riêng thành phần hầu như toàn biệt phái lúc ấy. 

 

Theo thứ tự của các Bài Phúc Âm này thì đầu tiên, ở Bài Phúc Âm Thứ Sáu tuần trước, Người đã dạy cho thành phần thông luật, giữ luật và dạy luật một cách duy luật này về ý nghĩa nhân bản đích thực của bản chất luật, bằng cách chữa lành nạn nhân bị thủy thủng ngay trong ngày hưu lễ và tại nhà của gia chủ biệt phái. 

 

Sau đó, ở Bài Phúc Âm Thứ Bảy tuần trước, Người dạy cho thành phần biệt phái ham danh đầy khoe khoang này về thái độ họ cần phải có khi họ được mời đến dự tiệc nơi công cộng, ở chỗ "hãy đi mà ngồi vào chỗ cuối cùng" khi sẵn sàng chấp nhận bất cứ chỗ nào đã ấn định cho mình, chứ không phải "hãy chọn chỗ cuối cùng mà ngồi", tức những gì theo ý riêng chủ quan đầy tham vọng của mình.

 

Rồi trong Bài Phúc Âm hôm qua, Thứ Hai, cũng liên quan đến bữa ăn, Người trực tiếp ngỏ cùng gia chủ biệt phái mời Người hôm ấy về tinh thần mà ông cần có trong việc mời mọc khách đến tham dự tiệc tùng do ông khoản đãi, ở chỗ, đặc biệt là mời những ai không thể nào đền đáp lại lòng tốt của ông.


Cũng lợi dụng bối cảnh của một bữa ăn hôm ấy và chẳng những 
theo tư cách là khách tham dự (như Bài Phúc Âm Thứ Sáu tuần trước), mà còn theo tư cách của người đãi tiệc (như Bài Phúc Âm hôm qua), hôm nay, qua Bài Phúc Âm theo ngày, và lợi dụng câu hỏi của "một người đồng bàn thưa cùng Chúa Giêsu rằng: 'Phúc cho kẻ sẽ được ăn tiệc trong nước Thiên Chúa'", Người đã nói đến cả 2 vế: vế người đãi tiệc lẫn vế khách được mời.

 

Về vế người đãi tiệc, Bài Phúc Âm hôm nay cho biết Chúa Giêsu đã tiếp tục dùng dụ ngôn mà dạy như thế này: "Có một người kia dọn tiệc linh đình, và đã mời nhiều thực khách. Tới giờ dự tiệc, ông sai đầy tớ đi báo cho những kẻ được mời để họ đến, vì mọi sự đã dọn sẵn sàng rồi".


V
ề vế của khách được mời, Bài Phúc Âm cho biết phản ứng của "mọi người" trong họ, nại đủ những lý do riêng tư chính đáng của họ như sau: "Nhưng mọi người đồng thanh xin kiếu. Người thứ nhất nói với ông rằng: 'Tôi mới tậu một thửa ruộng, tôi cần phải đi xem đất, nên xin ông cho tôi kiếu'. Người thứ hai nói: 'Tôi mới mua năm đôi bò, và tôi phải đi thử chúng, nên xin ông cho tôi kiếu'. Người khác lại rằng: 'Tôi mới cưới vợ, bởi đó tôi không thể đến được'".

 

Trước thái độ có vẻ coi thường của khách được mời, của "mọi người", của tất cả mọi khách được vinh dự mời như thế, khiến cho bữa tiệc thịnh soạn của mình dọn ra chỉ để đãi khách như bị ế ẩm như thế, người đãi tiệc đã tỏ thái độ ra sao, Bài Phúc Âm hôm nay đã thuật lại như sau: 

 

"Người đầy tớ trở về thuật lại những điều đó cho chủ mình. Bấy giờ chủ nhà liền nổi giận, bảo người đầy tớ rằng: 'Anh hãy cấp tốc đi ra các công trường và các ngõ hẻm thành phố mà dẫn về đây những người hành khất, tàn tật, đui mù và què quặt'. Người đầy tớ trở về trình rằng: 'Thưa ông, lệnh ông ban đã được thi hành, thế mà hãy còn dư chỗ'. Ông chủ lại bảo người đầy tớ rằng: 'Anh hãy ra ngoài đường ngoài ngõ và cố ép người ta vào cho đầy nhà tôi. Vì tôi bảo cho các người biết: không một ai trong những kẻ đã được mời, sẽ được nếm bữa tiệc của tôi'".

 

Ở đây, trong dụ ngôn của Chúa Giêsu về người đãi tiệc và khách được mời này có ít là hai điều cần chú ý, nhờ đó có thể biết được ẩn ý của dụ ngôn, nghĩa là biết được dụ ngôn này ám chỉ về ai, điều chú ý thứ nhất liên quan đến phía khách được mời và điều chú ý thứ hai liên quan đến phía người đãi tiệc.

 

Về phía khách được mời, dụ ngôn cho biết là "mọi người đồng thanh xin kiếu" và thành phần "mọi người" đây phải chăng ám chỉ chung dân Do Thái, cho đến nay, họ vẫn từ chối tham dự bữa tiệc Nước Trời được Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ dọn ra cho họ và mời họ đầu tiên, bằng cách, cho đến nay họ vẫn chưa chấp nhận Giêsu Nazarét là Đấng Thiên Sai của họ?

 

Về phía người đãi tiệc, dụ ngôn cho thấy thái độ của người này tỏ ra trước phản ứng bất lợi của khách được mời, một thái độ rất tuyệt vời trong việc giải quyết theo chiều hướng biến dữ thành lành. Ở chỗ, người đãi tiệc này đã mời đủ mọi loại khách xa lạ khác đến tham dự thay chỗ cho đám khách quí thân quen trước đó, một thái độ được tỏ ra đúng như những gì Chúa Giêsu đã dạy cho gia chủ biệt phái trong bài Phúc Âm hôm qua trong việc mời khách thì mời thành phần không thể đáp trả. 


Chiều hướng và ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay về phía của chủ tiệc mời khách đúng như chiều hướng của lòng thương xót Chúa, được Thánh Phaolô cảm nhận trong Bài Đọc 1 hôm qua, ở chỗ lợi dụng khuyết điểm của người này để thương người kia, rồi lợi dụng người kia để thương lại người nọ. Chiều hướng yêu thương bất khả phân ly với hiệp nhất, hơn là tẩy chay này, vẫn được Thánh Phaolô tiếp tục ở Bài Đọc 1 hôm nay, liên quan đến ân sủng nhận được nơi từng người là để phục vụ lẫn nhau:

 

"Anh em thân mến, chúng ta tuy nhiều người, nhưng cũng chỉ là một thân thể trong Ðức Kitô, và tương quan với mỗi người, kẻ này là chi thể của người kia. Nhưng chúng ta được những ân huệ khác nhau tuỳ theo ân sủng đã ban cho chúng ta: nếu là ơn nói tiên tri, thì hãy xử dụng sao cho xứng đối với đức tin; nếu là chức phận giúp việc, thì hãy chuyên cần giúp việc; nếu là thầy dạy, hãy lo dạy dỗ; nếu là khuyên bảo, hãy lo khuyên bảo; nếu là người phân phát, hãy có lòng chân thành; nếu là người cai quản, hãy cần mẫn; nếu là kẻ thương giúp, hãy vui vẻ".

 

Và đó là lý do mới có những câu Đáp Ca hôm nay như thế này:

 

1) Lạy Chúa, lòng con không tự đắc, và mắt con chẳng liếc nhìn cao, con cũng không lo nghĩ những việc lớn lao hay là những điều quá tầm trí mọn.

2) Nhưng con lo giữ linh hồn cho thinh lặng và thanh thản. Như trẻ thơ sống trong lòng thân mẫu, linh hồn con cũng như thế ở trong con.

3) Israel hãy cậy trông vào Chúa, tự bây giờ và cho tới muôn đời.

 

 


Thứ Tư

Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 13, 8-10

"Yêu thương là chu toàn trọn cả luật".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, anh em chớ mắc nợ ai ngoài việc phải yêu mến nhau. Vì ai yêu người, thì đã giữ trọn Lề luật. Ðó là: Chớ ngoại tình, chớ giết người, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ mê tham, và nếu có điều luật nào khác, thì cũng tóm lại trong lời này là: Ngươi hãy yêu mến kẻ khác như chính mình. Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy yêu thương là chu toàn cả lề luật.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 111, 1-2. 4-5. 9

Ðáp: Phúc đức cho người biết xót thương và cho vay (c. 5a).

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: 1) Phúc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng ham mộ luật pháp của Ngài. Con cháu người sẽ hùng cường trong đất nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân. - Ðáp.

2) Trong u tối người xuất hiện như sự sáng soi kẻ lòng ngay, người nhân hậu, từ bi và công chính. Phúc đức cho người biết xót thương và cho vay, biết quản lý tài sản mình theo đức công bình. - Ðáp.

3) Người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được ngẩng lên trong vinh quang. - Ðáp.

 

Alleluia: x. Cv 16, 14b

Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy mở lòng chúng con, để chúng con nghe lời của Con Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 14, 25-33

"Ai không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: "Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta. Và có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không, kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế diễu người đó rằng: "Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi".

"Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".

Ðó là lời Chúa.

 




Chia sẻ Lời Chúa:

sự sống nợ nần


i Phúc Âm cho Thứ Tư Tuần XXXI Thường Niên hôm nay tiếp theo Bài Phúc Âm hôm qua, nhưng hoàn toàn với một bối cảnh khác, không còn ở trong bữa ăn tại nhà của một trong nhũng người lãnh đạo của thành phần biệt phái nữa, mà là đã xong bữa ăn ấy và đang thực hiện một cuộc hành trình, tiếp tục tiến về Giêrusalem, một cuộc hành trình đến một đích điểm chất chứa một ý nghĩa cần phải được Chúa Giêsu khẳng định và cảnh giác cho rất ư là nhiều người đang hào hứng đồng hành với Người bấy giờ, như Bài Phúc Âm thuật lại như sau:

 

"Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: "Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta". 

 

Ở đây, Chúa Giêsu chẳng những khẳng định và cảnh giác những ai theo Người lên Giêrusalem, một số người đông thật là đông, số người đồng hành với Người ấy không biết có phải vì đã xem thấy đầy những phép lạ Người làm, nghe những lời Người giảng vô cùng khôn ngoan xuất chúng, nên tưởng rằng theo Người đến giáo đô Giêrusalem là thủ phủ của Do Thái giáo họ sẽ được vinh dự một cách nào đó trước mặt dân chúng bởi họ thuộc về nhóm của Người hay chăng, Người còn cho họ biết rằng họ cần phải lượng sức mình kẻo bị thất vọng, như Người đã khuyên họ ngay sau khi cảnh giác họ về thân phận của những ai muốn theo Người cần phải từ bỏ và vác thập giá trên đây:

 

"Có ai trong các ngươi muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổn cần thiết, xem có đủ để hoàn tất không, kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn tất, thì mọi người xem thấy sẽ chế diễu người đó rằng: 'Tên này khởi sự xây cất mà không hoàn thành nổi'. Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai mươi ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng chẳng nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một phái đoàn đến cầu hoà. Cũng thế, bất kỳ ai trong các ngươi không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Ta".

 

Chính trong lời khuyên cho những ai muốn theo Người cần phải khôn ngoan lượng sức mình này, liên quan đến ơn gọi theo Chúa, như trong việc tính toán xây tháp và mưu lược xuất trận trần gian, Chúa Kitô đồng thời cũng âm thầm nhắn nhủ với những ai muốn theo Người rằng: việc từ bỏ bất khả thiếu và cần phải có, cho dù là những gì hợp tình hợp lý theo trần gian, để theo Người không phải là việc tự diệt, mà là kiến thiết, và việc cần phải vác thập giá bất khả tránh, cho dù có phải mất mạng sống mình, để trung kiên theo Người không phải là thảm bại, mà là chiến thắng.

 

Điều kiện từ bỏ và vác thập giá mà theo Chúa Kitô là để theo gương Người và nên giống Người, Đấng "đến không phải để được phục vụ mà là phục vụ và hiến mạng sống mình cho phần rỗi của nhiều người - non ministrari sed ministrare" (Mathêu 20:28). Có nghĩa là những ai theo Chúa Kitô là thành phần theo đuổi đức ái trọn hảo - perfectae caritatis. Đó là lý do một trong những môn đệ ngoại lệ của Chúa Kitô là vị tông đồ dân ngoại Phaolô đã khuyên nhủ và nhắc nhở tín hữu giáo đoàn Roma trong Bài Đọc 1 hôm nay rằng:


"Anh em thân mến, anh em chớ mắc nợ ai ngoài việc phải yêu mến nhau. Vì ai yêu người, thì đã giữ trọn Lề luật. Ðó là: Chớ ngoại tình, chớ giết người, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ mê tham, và nếu có điều luật nào khác, thì cũng tóm lại trong lời này là: Ngươi hãy yêu mến kẻ khác như chính mình. Lòng yêu thương không làm hại kẻ khác. Vậy yêu thương là chu toàn cả lề luật".

 

Chỉ có những tâm hồn theo Chúa Kitô sống đức ái trọn hảo mới cảm nghiệm được ý nghĩa và tâm tình của Thánh Vịnh gia trong Thánh Vịnh 111 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Phúc đức thay người tôn sợ Chúa, người hết lòng ham mộ luật pháp của Ngài. Con cháu người sẽ hùng cường trong đất nước: thiên hạ sẽ chúc phúc cho dòng dõi hiền nhân.

2) Trong u tối người xuất hiện như sự sáng soi kẻ lòng ngay, người nhân hậu, từ bi và công chính. Phúc đức cho người biết xót thương và cho vay, biết quản lý tài sản mình theo đức công bình.

3) Người ban phát và bố thí cho những kẻ nghèo, lòng quảng đại của người muôn đời còn mãi, sừng người được ngẩng lên trong vinh quang.

 


Thứ Năm

 

 Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 14, 7-12

"Dù chúng ta sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, không ai trong anh em được sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình. Vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa, nếu chúng ta chết, là chết cho Chúa. Vậy dù chúng ta sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa.

Vì lẽ ấy, nếu Ðức Kitô đã chết và sống lại, là để cai trị kẻ sống và kẻ chết. Còn ngươi, việc gì mà đoán xét anh em ngươi? Và ngươi, tại sao ngươi khinh miệt anh em ngươi? Vì tất cả chúng ta đều sẽ phải ra trước toà án của Ðức Kitô, bởi có lời chép: "Chúa phán rằng: Ta thề trên sự sống Ta, mọi đầu gối sẽ phải quỳ lạy Ta, và mọi miệng lưỡi sẽ ngợi khen Thiên Chúa".

Vì vậy, mỗi người chúng ta sẽ phải trả lẽ về chính mình với Thiên Chúa.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 26, 1. 4. 13-14

Ðáp: Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh (c. 13).

Xướng: 1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? - Ðáp.

2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Người. - Ðáp.

3) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa! - Ðáp.

 

Alleluia: 2 Cr 5, 19

Alleluia, alleluia! - Thiên Chúa ở trong Ðức Kitô đã giải hoà thế gian, để chúng ta nghe lời của Con Chúa. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 15, 1-10

"Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người Biệt phái và Luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng". Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: "Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: "Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!" Cũng vậy tôi bảo các ông: Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải.

"Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: "Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất". Cũng vậy, tôi bảo các ông: Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".

Ðó là lời Chúa.




 

Chia sẻ Lời Chúa:

sự sống thất lạc


Thứ Năm Tuần XXXI Thường Niên hôm nay Bài Phúc Âm của Thánh ký Luca bắt đầu 10 câu đầu của đoạn 15, một đoạn từ đầu đến cuối hoàn toàn về Lòng Thương Xót Chúa, bao gồm 3 dụ ngôn, 2 ngắn đầu và 1 dài cuối.

 

Sở dĩ Chúa Giêsu phải nói đến 3 dụ ngôn về Lòng Thương Xót Chúa ấy, là vì, như đầu Bài Phúc Âm hôm nay cho biết: "Khi ấy, những người thâu thuế và những người tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy, những người Biệt phái và Luật sĩ lẩm bẩm rằng: 'Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi, cùng ngồi ăn uống với chúng'". 


Để đáp lại thái độ có vẻ kỳ thị và khinh người của nhóm biệt phái tự cho mình là công chính bấy giờ, Chúa Giêsu đã cho họ biết đâu là tinh thần họ phải có đối với tội nhân, đối với thành phần bị họ cho là "những kẻ tội lỗi", bằng 3 dụ ngôn về Lòng Thương Xót Chúa liền. Và Hai dụ ngôn ngắn về Lòng Thương Xót Chúa trong Bài Phúc Âm hôm nay ấy như sau:

 

"Ai trong các ông có một trăm con chiên, và nếu mất một con, lại không để chín mươi chín con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc, cho đến khi tìm được sao? Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: 'Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!' Cũng vậy tôi bảo các ông: Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải".

 

"Hay là người đàn bà nào có mười đồng bạc, nếu mất một đồng, mà lại không đốt đèn, quét nhà và tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy sao? Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: 'Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất'. Cũng vậy, tôi bảo các ông: Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải".

 

Hai dụ ngôn trên đây, một dụ ngôn về con chiên lạc, đúng hơn về việc tìm kiếm con chiên lạc, và dụ ngôn về đồng bạc bị thất lạc, đúng hơn về việc tìm kiếm đồng bạc bị thất lạcđều cho thấy Lòng Thương Xót Chúa yêu thương và lưu ý đến từng người, yêu thương cho tới cùng, hoàn toàn không bỏ mất một ai, không bỏ mất một sự gì, dù nhỏ mọn mấy chăng nữa. 

 

Hơn thế nữa, cả hai dụ ngôn này thậm chí còn cho thấy thái độ của các vị chủ nhân sau khi tìm thấy con chiên lạc hay đồng bạc bị mất nữa, ở chỗ các vị chẳng những không trút cơn giận dữ xuống trên đầu trên cổ con chiên lạc hay đồng bạc bị mất là những gì làm cho các vị chủ nhân của chúng đã mất giờ tìm kiếm và hết sức vất vả kiếm tìm, trái lại, cả hai còn tỏ ra hết sức hân hoan vui sướng nữa

 

"Khi đã tìm thấy, người đó vui mừng vác chiên trên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: 'Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc!'... khi đã tìm thấy, bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: 'Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất'".

Nếu "trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải", thì dụ ngôn về nhân vật tìm kiếm con chiên lạc đây ám chỉ chính Vị Thiên Chúa đã hóa thân làm người nơi Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã "đến để tìm kiếm và cứu vớt những gì hư hoại" (Luca 19:10) bằng mầu nhiệm nhập thể và vượt qua của Người. 

 

Và con chiên lạc và đồng bạc thất lạc đây ám chỉ chẳng những chung loài người sa ngã phạm tội (99 con chiên không lạc được bỏ lại một nơi để đi tìm con chiên lạc có thể hiểu là ám chỉ các thiên thần vì liên quan đến hình ảnh "trên trời sẽ vui mừng... " sau khi con chiên lạc được tìm thấy, hay "các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng..." sau khi kiếm được đồng bạc thất lạc)mà còn ám chỉ đến từng cá nhân ("một người tội lỗi hối cải" được lập lại 2 lần như nhau ở cuối 2 dụ ngônvướng mắc nguyên tội luôn chiều theo xác thịt, thế gian và ma quỉ. 

 

99 con chiên bị vị mục tử nhân lành bỏ lại, như thể đối với vị mục tử này chúng không có giá trị bằng con chiên lạc duy nhất, còn thể hiểu là thành phần biệt phái và luật sĩ là đối tượng được Chúa Giêsu nói tới trong bài Phúc Âm hôm nay, thành phần tự cho mình là "người công chính không cần hối cải", như trường hợp người biệt phái đã tỏ ra khi cầu nguyện trong đền thờ mà cùng lúc có một người thu thuế cũng cầu nguyện bị người biệt phái khinh miệt (xem Luca 18:10-14), nhưng lại là một tội nhân sống thật với mình nên đã làm cho cả tầng trời vui mừng.

 

Chính vì đã thấm nhuần tinh thần của lòng thương xót Chúa đối với chính bản thân mình là một "đệ nhất tội nhân" (1Timothêu 1:15) như thế mà vị tông đồ dân ngoại, từng là chàng biệt phái Saolê tôn sùng Do Thái giáo, đã giảng dạy và huấn dụ giáo đoàn Roma ở Bài Đọc 1 hôm nay như sau:

 

"Anh em thân mến, không ai trong anh em được sống cho mình, và cũng không ai chết cho mình. Vì nếu chúng ta sống, là sống cho Chúa, nếu chúng ta chết, là chết cho Chúa. Vậy dù chúng ta sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa. Vì lẽ ấy, nếu Ðức Kitô đã chết và sống lại, là để cai trị kẻ sống và kẻ chết. Còn ngươi, việc gì mà đoán xét anh em ngươi? Và ngươi, tại sao ngươi khinh miệt anh em ngươi? Vì tất cả chúng ta đều sẽ phải ra trước toà án của Ðức Kitô, bởi có lời chép: 'Chúa phán rằng: Ta thề trên sự sống Ta, mọi đầu gối sẽ phải quỳ lạy Ta, và mọi miệng lưỡi sẽ ngợi khen Thiên Chúa'. Vì vậy, mỗi người chúng ta sẽ phải trả lẽ về chính mình với Thiên Chúa".

 

Qua lời nhắn nhủ khuyên răn này, Thánh Phaolô nhấn mạnh đến lòng thương xót đối với nhau, hơn là xét đoán và khinh miệt nhau, cho dù anh chị em mình có lầm lỗi hay sai trái đến đâu chăng nữa. Thiên Chúa mới là Đấng có thẩm quyền luận án và thưởng phạt họ, còn chúng ta là thành phần "nhân vô thập toàn" không có quyền ném đá bất cứ một ai (xem Gioan 8:7-8), mà chỉ có phận sự thương cảm và cứu giúp nhau. Có thế, chúng ta mới xứng đáng cùng Thánh Vịnh gia vang lên câu họa của Bài Đáp Ca trong Thánh Vịnh 26 hôm nay: "Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh", và chúng ta cũng mang cùng một tâm tình của những câu xướng sau đó của cũng Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai?

2) Có một điều tôi xin Chúa, một điều tôi kiếm tìm, đó là tôi được cư ngụ trong nhà Chúa suốt đời tôi, hầu vui hưởng êm đềm của Chúa, và chiêm ngưỡng thánh điện của Người.

3) Tôi tin rằng tôi sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa!

 


Thứ Sáu

 

 Phụng Vụ Lời Chúa

 

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 15, 14-21

"Tôi là người giúp việc của Ðức Giêsu Kitô nơi các người Dân ngoại để của lễ Dân ngoại được Chúa chấp nhận".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, phần tôi, tôi tin chắc rằng anh em có đầy thiện cảm, và đầy mọi sự hiểu biết, cho nên anh em có thể khuyên bảo lẫn nhau. Nhưng tôi đã viết thư này cho anh em có phần khá bạo dạn, có ý nhắc nhủ anh em nhớ lại: nhờ ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi trở nên người giúp việc của Ðức Giêsu Kitô nơi các Dân ngoại, gánh lấy thiên chức rao giảng Tin Mừng, ngõ hầu của lễ Dân ngoại được chấp nhận và được thánh hoá trong Thánh Thần.

Bởi vậy trong Ðức Giêsu Kitô, tôi có thể tự hào trước mặt Thiên Chúa. Vì chưng tôi không dám nói điều gì ngoài việc Ðức Kitô dùng tôi làm cho dân ngoại vâng phục, bằng ngôn ngữ cũng như bằng hành động, nhờ những phép lạ, những việc phi thường và quyền lực của Thánh Thần. Bởi thế, từ Giêrusalem và miền chung quanh cho đến Illyricô, tôi đã rao giảng đầy đủ Tin Mừng của Ðức Kitô.

Như thế, tôi đã rao giảng Tin Mừng này, không phải ở những nơi đã kêu cầu danh Ðức Kitô, để tránh khỏi xây dựng trên nền móng kẻ khác đã đặt, nhưng tôi hành động như lời đã chép: "Những ai chưa hề nghe loan báo về Người, thì sẽ xem thấy Người; và những ai chưa hề nghe nói về Người, thì sẽ hiểu biết Người".

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4

Ðáp: Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người trước mặt chư dân (x. c. 2b).

Xướng: 1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.

2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành, để sủng ái nhà Israel. - Ðáp.

3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca. - Ðáp.

 

Alleluia: Pl 2, 15-16

Alleluia, alleluia! - Anh em hãy tích trữ lời ban sự sống, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao ở giữa thế gian. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 16, 1-8

"Con cái đời này khi đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Một người phú hộ kia có một người quản lý; và người này bị tố cáo đã phung phí của chủ. Ông chủ gọi người quản lý đến và bảo rằng: "Tôi nghe nói anh sao đó. Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay anh không thể làm quản lý nữa". Người quản lý thầm nghĩ rằng: "Tôi phải làm thế nào, vì chủ tôi cất chức quản lý của tôi? Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Tôi biết phải liệu thế nào để khi mất chức quản lý thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ".

"Vậy anh gọi từng con nợ của chủ đến và hỏi người thứ nhất rằng: "Anh mắc nợ chủ tôi bao nhiêu?" Người ấy đáp: "Một trăm thùng dầu". Anh bảo người ấy rằng: "Anh hãy lấy văn tự, ngồi xuống mau mà viết lại năm mươi". Rồi anh hỏi người khác rằng: "Còn anh, anh mắc nợ bao nhiêu?" Người ấy đáp: "Một trăm giạ lúa miến". Anh bảo người ấy rằng: "Anh hãy lấy văn tự mà viết lại: tám mươi".

"Và chủ khen người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo: vì con cái đời này, khi đối xử với đồng loại, thì khôn khéo hơn con cái sự sáng".

Ðó là lời Chúa.




Chia sẻ Lời Chúa:

                                                                                                        sự sống khôn khéo

 

Hôm nay, Thứ Sáu Tuần XXXI Thường Niên, Bài Phúc Âm không tiếp ngay sau Bài Phúc Âm hôm qua là bài Phúc Âm về việc tìm kiếm con chiên lạc và đồng bạc bị thất lạc. 

 

Sau 2 dụ ngôn này là dụ ngôn về người cha nhân lành thương 2 người con đáng thương của mình tùy theo hoàn cảnh của mỗi đứa, nhưng lại không được Giáo Hội chọn đọc, mà lại chọn đọc Bài Phúc Âm ở đầu Đoạn 16 về người quản lý bất lương bị chủ báo cho nghỉ việc nên đang mưu toan tìm cách sống còn. 

 

Người quản lý bất lương bị chủ báo cho nghỉ việc: "Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: 'Một người phú hộ kia có một người quản lý; và người này bị tố cáo đã phung phí của chủ. Ông chủ gọi người quản lý đến và bảo rằng: Tôi nghe nói anh sao đó. Anh hãy tính sổ công việc quản lý của anh, vì từ nay anh không thể làm quản lý nữa'". 

 

Người quản lý bất lương đang mưu toan tìm cách sống còn: "Người quản lý thầm nghĩ rằng: 'Tôi phải làm thế nào, vì chủ tôi cất chức quản lý của tôi? Cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Tôi biết phải liệu thế nào để khi mất chức quản lý thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ'. Vậy anh gọi từng con nợ của chủ đến và hỏi người thứ nhất rằng: 'Anh mắc nợ chủ tôi bao nhiêu?' Người ấy đáp: 'Một trăm thùng dầu'. Anh bảo người ấy rằng: 'Anh hãy lấy văn tự, ngồi xuống mau mà viết lại năm mươi'. Rồi anh hỏi người khác rằng: 'Còn anh, anh mắc nợ bao nhiêu?' Người ấy đáp: 'Một trăm giạ lúa miến'. Anh bảo người ấy rằng: 'Anh hãy lấy văn tự mà viết lại: tám mươi'".


Mục đích của dụ ngôn này là gì, hay Chúa Giêsu muốn nói đến dụ ngôn này để làm gì, nếu không phải Người muốn khuyên "các môn đệ" là đối tượng được Người nói với trong bài Phúc Âm hôm nay, như câu Người kết luận cũng trong cùng Bài Phúc Âm rằng các vị là "con cái ánh sáng" thì ngây thơ khù khờ, cần phải "hành động cách khôn khéo... khi đối xử với đồng loại" như "con cái đời này" vậy!

 

"Người quản lý bất lương" này "khôn khéo" ở chỗ nào, nếu không phải ở chỗ anh ta chẳng những đánh lừa được chủ nợ mà cả con nợ của chủ nợ nữa. Bằng cách, anh ta đã biến các con nợ của chủ thành con nợ của mình, khi tự động giảm nợ cho các con nợ số nợ của họ với chủ nợ. 

Có thể các con nợ cũng biết rằng người quản lý này gian lận ở việc anh ta giảm nợ cho họ, nhưng dầu sao cũng vẫn có lợi cho họ thì họ vẫn cứ hưởng chứ dại gì mà vạch trần việc làm gian lận của anh ta làm chi với chủ của anh ta, vì họ hoàn toàn không hề biết gì đến tình trạng sắp bị thất nghiệp của anh ta, một con người quen làm nghề quản lý, chứ không quen làm việc tay chân mệt nhọc phần xác hay chẳng làm gì mà vẫn có tiền như ngồi ăn xin xấu hổ mất mặt. 

Thế nhưng, cho tới khi anh ta bị thất nghiệp, đi lang thang kiếm sống, ghé vào các nhà con nợ đã được anh ta giảm nợ cho để xin giúp đỡ, thì chẳng lẽ những người ấy lại phũ phàng từ chối xua đuổi anh ta hay sao? Bấy giờ cho dù họ mới biết bị anh ta lừa đảo song đã muộn và không thể không giúp anh ta cách nào đó, không nhiều thì ít, không trước thì sau, miễn là đừng hoài hoài mãi mãi. 

Chắc chủ nợ của anh ta có nhiều con nợ đã được/bị anh ta lạm dụng ban ơn giảm nợ cho, nên anh ta cứ tháng này đến nhà người này, tháng sau đến nhà người khác gõ cửa, và anh ta ăn xin một cách ngon lành, không xấu hổ, vì anh ta là ân nhân của các con nợ từ người chủ đã sa thải anh ta. Thật là "khôn khéo", đúng như người chủ nhận xét về anh ta ở cuối bài Phúc Âm hôm nay.   

Như thế phải chăng Chúa Giêsu đã chấp nhận cái khôn lanh trần gian có vẻ gian dối lừa đảo của người quản lý bất lương trong dụ ngôn là tốt, đáng các môn đệ của Người noi gương bắt chước. Vì Chúa Kitô "là sự thật" (Gioan 14:6) nên Người không thể nào hợp với những gì là gian dối lừa đảo, và vì Người "là ánh sáng thế gian" (Gioan 8:12) nên Người không chấp nhận bóng tối. 

 

Bởi vậy, Người không khuyên các môn đệ bắt chước đường lối gian manh của người quản lý bất lương, mà chỉ khuyên các vị hãy bắt chước ước muốn lành mạnh của nhân vật này để khôn khéo làm sao có thể sống sót qua cơn gian nan khốn khó mà thôi: "phải liệu thế nào để khi mất chức quản lý thì sẽ có người đón tiếp tôi về nhà họ". 

Thật ra, theo luân lý Công giáo (xem Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo các khoản 1755-1756), một việc tốt cần phải hội đủ ba điều kiện bất khả thiếu, đó là, thứ nhất việc làm tự bản chất là tốt, thứ hai là phải có ý hướng tốt khi làm việc ấy, và thứ ba là làm việc ấy một cách thích đáng. 

Chẳng hạn, đi làm việc tông đồ tự nó là việc làm tốt, với ý hướng chính yếu là để giúp cho giáo xứ hay cộng đoàn dân Chúa của mình thêm sinh động và thăng tiến, thế nhưng, nếu làm việc tông đồ này đến độ bỏ bê trách nhiệm trong gia đình thì việc tông đồ ấy không tốt nữa. 

 

Hay làm việc tông đồ này khi nào có thể nhưng với ý hướng lợi dụng việc tông đồ để quen biết mà trục lợi trong vấn đề làm ăn tư riêng cũng không tốt. Nếu chính việc làm tự bản chất là xấu, chẳng hạn việc trộm cắp, cho dù để giúp người nghèo thì việc trộm cắp cũng không thể trở thành việc tốt v.v. 

 

Con người dù có ý tốt đến đâu cũng không thể nào biến một việc tự bản chất là xấu thành lành. Chẳng hạn nguyên tổ Eva dù có ý muốn chính đáng và tốt lành là nên giống như Thiên Chúa, vì con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa và xu hướng về lý tưởng nên giống như Ngài, thế nhưng cách thức để đạt tới đích điểm ấy, đạt được ý hướng ấy lại không tốt, ở chỗ bất tuân ý Chúa bằng cách nghe theo rắn quỉ ăn trái cấm không được phép, thì việc làm của bà bấy giờ là xấu, tội lỗi.

 

Việc làm cho người quản lý bất lương trong dụ ngôn của Bài Phúc Âm hôm nay, cho dù có ý hướng tốt là làm sao có thể sống còn, nhưng cách làm của nhân vật này lại có tính cách dối trá, gian lận của chủ (và cũng chính vì máu "phung phí" như thế mà hắn đã bị sa thải), nên việc làm của hắn trở thành xấu xa. Giá hắn đến xin chủ thương tình để hắn sửa mình và đền bù những gì hắn đã phung phí cho chủ, hoặc xin chủ cho làm việc khác nhẹ nhàng mà không dính dáng gì đến tiền bạc có phải hơn không). 

 

Trái hẳn với "Người quản lý bất lương" trong bài Phúc Âm hôm nay chính là vị tông đồ dân ngoại Phaolô, một con người "nhờ ân sủng Thiên Chúa đã ban cho trở nên người giúp việc của Ðức Giêsu Kitô nơi các Dân ngoại, gánh lấy thiên chức rao giảng Tin Mừng, ngõ hầu của lễ Dân ngoại được chấp nhận và được thánh hoá trong Thánh Thần. Bởi vậy trong Ðức Giêsu Kitô, tôi có thể tự hào trước mặt Thiên Chúa. Vì chưng tôi không dám nói điều gì ngoài việc Ðức Kitô dùng tôi làm cho dân ngoại vâng phục, bằng ngôn ngữ cũng như bằng hành động, nhờ những phép lạ, những việc phi thường và quyền lực của Thánh Thần. Bởi thế, từ Giêrusalem và miền chung quanh cho đến Illyricô, tôi đã rao giảng đầy đủ Tin Mừng của Ðức Kitô".

 

Thánh Vịnh 97 ở Bài Đáp Ca hôm nay thật là xứng hợp với sứ vụ tông đồ dân ngoại của Thánh Phaolô:

 

1) Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người.

2) Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người, trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành, để sủng ái nhà Israel.

3) Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca.

 


Thứ Bảy

 

 Phụng Vụ Lời Chúa

 

Bài Ðọc I: (Năm I) Rm 16, 3-9. 16. 22-27

"Anh em hãy chào nhau trong cái hôn thánh thiện".

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.

Anh em thân mến, tôi xin gởi lời chào bà Prisca và ông Aquila, là những người cộng sự viên của tôi trong Ðức Giêsu Kitô, (họ đã liều mất đầu để cứu mạng sống tôi; không chỉ một mình tôi mang ơn họ mà thôi, nhưng còn tất cả các Giáo đoàn dân ngoại nữa), xin gởi lời chào Giáo đoàn đang hội họp tại nhà họ. Xin gởi lời chào Êphênêtô, người tôi yêu quý, ông là hoa quả đầu mùa trong Ðức Kitô bên Tiểu Á. Xin gởi lời chào Maria, người đã vất vả nhiều vì anh em. Xin gởi lời chào Anđrônicô và Giunia, người bà con và bạn tù của tôi; họ là những người danh vọng trong hàng các Tông đồ và đã thuộc về Ðức Kitô trước tôi. Xin gởi lời chào Ampliatô, người tôi rất yêu quý trong Chúa. Xin gởi lời chào Urbanô, cộng sự viên của chúng tôi trong Ðức Giêsu Kitô, và cả Sitakhin, người tôi yêu quý. Anh em hãy chào nhau trong cái hôn thánh thiện. Tất cả các Giáo đoàn của Ðức Kitô gởi lời chào anh em.

Tôi là Tertiô, người viết thư này, xin gởi lời chào anh em trong Chúa. Caiô, người cho tôi trọ nhà, và toàn thể Giáo đoàn cũng gởi lời chào anh em. Êrastô, chủ kho bạc thị trấn, và Quartô, người anh em, xin gởi lời chào anh em. Nguyện chúc ân sủng Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ở cùng tất cả anh em. Amen.

Kính chúc Ðấng có quyền năng làm cho anh em được vững vàng theo Tin Mừng tôi loan truyền, và lời giảng dạy của Chúa Giêsu Kitô, theo mạc khải mầu nhiệm được giữ kín từ đời đời, nhưng nay được tỏ bày, và nhờ các tiên tri ghi chép theo lệnh của Thiên Chúa hằng hữu, được thông tri cho các dân ngoại, để dẫn đưa họ về vâng phục đức tin. Kính chúc Thiên Chúa, Ðấng khôn ngoan độc nhất, nhờ Chúa Giêsu Kitô, kính chúc Người vinh quang muôn đời. Amen.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 144, 2-3. 4-5. 10-11

Ðáp: Lạy Chúa, con sẽ chúc tụng danh Chúa tới muôn đời (x. c. 1b).

Xướng: 1) Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được. - Ðáp.

2) Thế hệ này rao giảng cho thế hệ kia hay công việc Chúa, và thiên hạ loan tin quyền năng của Ngài. Người ta nói đến vinh quang cao cả oai nghiêm, và phổ biến những điều kỳ diệu của Chúa. - Ðáp.

3) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài.- Ðáp.

 

Alleluia: Ep 1, 17-18

Alleluia, alleluia! - Xin Chúa Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cho mắt tâm hồn chúng ta được sáng suốt, để chúng ta biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi chúng ta. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Lc 16, 9-15

"Nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao của chân thật cho các con".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời. Ai trung tín trong việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì cũng gian dối trong việc lớn. Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật cho các con.

"Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được". Những người biệt phái là những kẻ tham lam, nghe nói tất cả những điều đó, thì nhạo cười Người. Vậy Người bảo các ông rằng: "Chính các ông là những kẻ phô trương mình là công chính trước mặt người ta, nhưng Thiên Chúa biết lòng các ông; bởi chưng điều gì cao sang đối với người ta, thì lại là ghê tởm trước mặt Thiên Chúa".

Ðó là lời Chúa.



 Chia sẻ Lời Chúa:

sự sống phàm tục


Hôm nay, Thứ Bảy Tuần XXXI Thường Niên, Bài Phúc Âm theo Thánh ký Luca được Giáo Hội chọn đọc tiếp tục với Bài Phúc Âm hôm qua, liên quan đến người quản lý bất lương bị chủ sa thải nên đã tìm cách để tồn tại trong tình trạng thất nghiệp khốn khổ ấy, và cách thức người quản lý bất lương này làm liên quan đến tiền bạc gian lận của chủ. Đó là lý do, trong Bài Phúc Âm hôm nay, tiếp tục huấn dụ "các môn đệ", Chúa Giêsu đã nói với các vị về tiền bạc.

 

Trước hết, đối với tha nhân, Người bảo các vị hãy lợi dụng tiền bạc mà làm việc bác ái, hay nói đúng hơn, đừng coi của hơn người mà ngược lại phải coi người hơn của: "Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời". Ở đây chúng ta cũng có thể hiểu câu Chúa nói này trong trường hợp chúng ta mất trộm hay buôn bán thua lỗ vì bị lừa đảo, chúng ta cứ việc tìm công lý, nhưng với tấm lòng quảng đại thứ tha cho phạm nhân, thì chúng ta mới đáng được thứ tha cứu độ.


Nếu chúng ta coi người hơn của, thì theo lời Chúa dạy, có nghĩa là chúng ta đã "trung tín trong việc nhỏ (là sử dụng chính đáng tiền bạc nhỏ mọn chẳng là gì so với đức ái cao cả)thì cũng trung tín trong việc lớn (tức mới có thể sống bác ái là những gì trọng đại được)". Ngược lại, nếu chúng ta coi của hơn người, tức là "gian dối trong việc nhỏ (ở chỗ sử dụng tiền của một cách bất chính) thì cũng gian dối trong việc lớn (ở chỗ sống vị kỷ chẳng biết sống bác ái yêu thương gì hết)". 

 

Đến đây chúng ta mới thấy dụ ngôn hôm qua về người quản lý bất lương gian lận tiền bạc bị sa thải vì "phung phí" của chủ có thể sẽ trở thành trường hợp của chính các môn đệ là những người theo Chúa Kitô, qua lời Ngưòi khẳng định với các vị trong Bài Phúc Âm hôm nay như sau: "Vậy nếu các con không trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ giao phó của chân thật (có thể Chúa ám chỉ các linh hồn được các vị coi sóc hay ơn cứu độ cần các vị ban phát) cho các con".

 

Sau nữa, đối với Thiên Chúa, Người bảo các vị đừng lệ thuộc vào tiền của mà hãy chỉ phụng sự Thiên Chúa mà thôi, tức hãy coi Thiên Chúa hơn tiền của: "Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ". Đó là lý do, Chúa Giêsu đã cảnh giác các môn đệ là thành phần theo Người rằng: "Các con không thể làm tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được". 

 

Đúng thế, theo tâm lý chung cũng như theo kinh nghiệm sống đạo thực tế, một khi con người ham thích tiền bạc, mê man của cải trần gian, lúc nào cũng tìm cách và tính toán sao cho có tiền, có nhiều bao nhiêu tốt bấy nhiêu, rồi xài sang, sống hết sức tiện nghi đến xa xỉ, thiếu thốn một chút gì thì không chịu được, thì kêu ca nhăn nhó v.v., họ sẽ dễ dàng quên Chúa và bỏ Chúa, thậm chí có những lúc lạm dụng chính đức bác ái để làm tiền, và cũng chỉ vì tiền, vì lợi lộc đâm ra lỗi đức bác ái yêu thương cao cả, mất lòng Chúa. Chẳng hạn, phũ phàng thay và mâu thuẫn thay, họ tranh nhau gây quĩ bác ái cứu trợ v.v.

 

Giáo lý trong Bài Phúc Âm hôm nay của Chúa Giêsu đề cao tinh thần hơn vật chất, đề cao Thiên Chúa và tha nhân cao cả hơn tiền bạc thường hèn, một huấn dụ Người chỉ khuyên dạy cho riêng các môn đệ của Người, nhưng không ngờ đã trở thành như một cái tát vào mặt thành phần tham lam của cải trần gian, cũng hiện diện và nghe thấy giáo huấn này của Người bấy giờ, và vì thế, cuối Bài Phúc Âm hôm nay còn có thêm chi tiết: "Những người biệt phái là những kẻ tham lam, nghe nói tất cả những điều đó, thì nhạo cười Người". Một thái độ "nhạo cười" như thể họ cho giáo huấn của Người là những gì không tưởng, chẳng thực tế, không bao giờ thực hiện được, chẳng ai theo nổi.

 

Thế nhưng, đáp lại, Chúa Giêsu đã thẳng thắn vạch trần bộ mặt giả dối và lối sống giả hình của thành phần "biệt phái" có vẻ thông luật và giữ luật hơn người như là các thày dạy luật này rằng: "Chính các ông là những kẻ phô trương mình là công chính trước mặt người ta, nhưng Thiên Chúa biết lòng các ông; bởi chưng điều gì cao sang đối với người ta (chẳng hạn như tiền của hay danh giá hoặc chức quyền được người ta sùng bái như ngẫu tượng trên hết của họ), thì lại là ghê tởm trước mặt Thiên Chúa" là Đấng, như vị tông đồ dân ngoại Phaolô đã tuyên tín và giảng dạy ở cuối bức Thư gửi giáo đoàn Roma trong Bài Đọc 1 hôm nay: "khôn ngoan độc nhất", Đấng chí tôn chí ái trên hết mọi sự, Đấng đáng chúng ta cần phải "nhờ Chúa Giêsu Kitô, kính chúc Người vinh quang muôn đời".

 

Với tâm tình của một con người chỉ tôn thờ Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của mình như thế, chúng ta mới có thể cùng Thánh Vịnh gia vang lên những lời của Thánh Vịnh 144 ở Bài Đáp Ca hôm nay:

 

1) Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được.

2) Thế hệ này rao giảng cho thế hệ kia hay công việc Chúa, và thiên hạ loan tin quyền năng của Ngài. Người ta nói đến vinh quang cao cả oai nghiêm, và phổ biến những điều kỳ diệu của Chúa.

3) Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài.

 


Chúa Nhật 28 Thường niên tuần tới ngày 9/11

 

 

Ngày 09 tháng 11

 

Lễ Cung Hiến Thánh Ðường Latêranô

(Lễ kính)

Bài Ðọc I: Ed 47, 1-2. 8-9. 12

"Tôi đã thấy nước từ bên phải đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến ai, thì tất cả đều được cứu rỗi".

Bài trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Trong những ngày ấy, thiên thần dẫn tôi đến cửa nhà Chúa, và đây nước chảy dưới thềm nhà phía hướng đông, vì mặt tiền nhà Chúa hướng về phía đông, còn nước thì chảy từ bên phải đền thờ, về phía nam bàn thờ. Thiên thần dẫn tôi qua cửa phía bắc, đưa đi phía ngoài, đến cửa ngoài nhìn về hướng đông, và đây nước chảy từ bên phải. Người ấy lại nói với tôi: "Nước này chảy về phía cồn cát, phía đông, chảy xuống đồng bằng hoang địa, rồi chảy ra biển, biến mất trong biển và trở nên nước trong sạch. Tất cả những sinh vật sống động, nhờ suối nước chảy qua, đều được sống. Sẽ có rất nhiều cá và nơi nào nước này chảy đến, nơi đó sẽ trở nên trong lành, và sự sống sẽ được phát triển ở nơi mà suối nước chảy đến. Gần suối nước, hai bên bờ ở mỗi phía, mọi thứ cây ăn trái sẽ mọc lên; lá của nó sẽ không khô héo, và trái của nó sẽ không bao giờ hết; mỗi tháng nó có trái mới, vì dòng nước này phát xuất từ đền thờ; trái của nó dùng làm thức ăn, và lá của nó dùng làm thuốc uống.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 45, 2-3. 5-6. 8-9

Ðáp: Nước dòng sông làm cho thành Chúa vui mừng, làm hân hoan cung thánh Ðấng Tối Cao (c. 5).

Xướng: 1) Chúa là nơi ẩn náu và là sức mạnh của chúng ta, Người hằng cứu giúp khi ta sầu khổ. Dầu đất có rung chuyển, ta không sợ chi, dầu núi đổ xuống đầy lòng biển cả. - Ðáp.

2) Nước dòng sông làm cho thành Chúa vui mừng, làm hân hoan cung thánh Ðấng Tối Cao hiển ngự. Chúa ở giữa thành, nên nó không chuyển rung, lúc tinh sương, thành được Chúa cứu giúp. - Ðáp.

3) Chúa thiên binh hằng ở cùng ta, ta được Chúa Giacóp hằng bảo vệ. Các ngươi hãy đến mà xem mọi kỳ công Chúa làm, Người thực hiện muôn kỳ quan trên vũ trụ. - Ðáp.

 

Bài Ðọc II: 1 Cr 3, 9b-11. 16-17

"Anh em là đền thờ của Thiên Chúa".

Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, anh em là toà nhà của Thiên Chúa. Theo ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi như một kiến trúc sư lành nghề, đã đặt nền móng, còn kẻ khác thì xây lên. Nhưng mỗi người hãy xem coi mình xây lên thế nào? Vì chưng không ai có thể xây dựng một nền tảng khác, ngoài nền tảng đã được xây dựng là Ðức Kitô.

Anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Nếu ai xúc phạm tới đền thờ của Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ huỷ diệt người ấy. Vì đền thờ của Thiên Chúa là thánh mà chính anh em là đền thờ ấy.

Ðó là lời Chúa.

 

Alleluia: 2 Sb 7, 16

Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta đã chọn lựa và thánh hoá nơi này, để danh Ta được hiện diện khắp nơi cho đến muôn đời. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 2, 13-22

"Người có ý nói đền thờ là thân thể Người".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêrusa-lem; Người thấy ở trong đền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc. Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ, và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán".

Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: "Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi".

Bấy giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy". Chúa Giêsu trả lời: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại". Người Do-thái đáp lại: "Phải bốn muơi sáu năm mới xây được đền thờ này mà ông, ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?" Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người. Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói.

Ðó là lời Chúa.


Ngày 09: Lễ kỷ niệm cung hiến đền thờ Latêranô

 

Tập tin:Archbasilica of St. John Lateran HD.jpg

 

Đền thờ Chúa Cứu thế Cực Thánh và Thánh Gioan Tẩy giả và Thánh sử Gioan tại Latêranô (Santissimo Salvatore e Santi Giovanni Battista ed Evangelista in Laterano), được hoàng đế Roma là Constantinô, vị đã hợp thức hóa Kitô giáo bằng sắc chỉ năm 313, đã xây cất vào khoảng năm 320, thời gian Giáo Hội vừa thoát khỏi các cuộc bách hại tàn khốc của đế quốc Roma suốt 3 thế kỷ đầu. Đền thờ này cũng được gọi là Tổng Đền Thờ (Archibasilica), là vì: 1- đây là nhà thờ đầu tiên của Kitô giáo, 2- nhà thờ chính yếu của Kitô giáo vì là Vương Cung Thánh Đường của Giám Mục Roma, vị cũng là chính Giáo Hoàng, 3- và là nhà thờ mẹ của tất cả mọi nhà thờ hay đền thờ hoặc vương cung thánh đường trên thế giới. Tổng Đền Thờ Gioan Laterano này tọa lạc ngay trong trung tâm thành phố Roma, nhưng ở bên ngoài và cách biệt với lãnh thổ Quốc Đô Vatican khoảng 4 kilômét về phía tây bắc của Đền Thờ. Từ thế kỷ 16, Đền Thờ này đã cử hành những đêm Phục Sinh, đặc biệt là đã tiếp nhận từng đoàn người dân thành Roma đến gia nhập vào Nhiệm Thể Chúa Kitô, qua Phép Rửa Tội và cử hành Lễ Vượt Qua trong đền thờ.

  

Vào đầu thế kỷ thứ 4, gia đình laterani bị tước lột đất đai của họ bởi vì trong gia đình của họ có một phần tử bị cáo buộc là tham, gia âm mưu chống lại Hoàng đế Roma. Phần đất này được lấy trao cho Vị Giám Mục Roma là chính Đức Giáo Hoàng để xây cất Đền Thờ đầu tiên này của Kitô giáo. Kích thước của đền thờ là dài 140 mét (460 ft), Rộng 140 mét (460 ft) và Chiều rộng ở lòng đền thờ là 65 mét (213 ft)
Qua các thế kỷ, đền thờ đã bị cháy mấy lần và 1 lần bị động đất vào năm 897, nhưng cho dù có sửa chữa nguyên mẫu của đền thờ vẫn không hề thay đổi. Chính tại Đền Thờ này mà các vị giáo hoàng đăng quang cho tới năm 1870, nơi các vị giáo hoàng đã cư trú, và sau này cho dù tông dinh của các vị giáo hoàng được chuyển về Vatican vào hạ bán thế kỷ 14, đền thờ này vẫn là nơi các vị giáo hoàng cử hành Thứ Năm Tuần Thánh. Vào chính ngày 9/11/2019, ngày Lễ Cung Hiến Đền Thờ này, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đến dâng lễ vào lúc 5:30 chiều.

 

Rome


Trong chuyến Hành Hương Tia Sáng Từ Balan 2014, dịp ĐTC Gioan Phaolô được Giáo Hội tuyên phong hiển thánh Chúa Nhật 27/4/2014, Nhóm TĐCTT (Tông Đồ Chúa Tình Thương) chúng tôi đã đến kính viếng cả 4 Đền Thờ chính ở Roma, trong đó có cả Đền Thờ Gioan Laterano hôm Thứ Hai 28/4/2014. Ở trong nhà thờ, chúng tôi quan sát thấy có tượng 12 Thánh Tông Đồ ở 12 cột trụ của đền thờ, có những mảnh gỗ từ Bàn Tiệc Ly của Chúa Giêsu ở trên bàn thờ phía cánh phải của cung thánh nhìn xuống, và ở đằng sau bàn thờ chính có gian cung thánh rất rộng bao gồm cả ngai tòa của vị giám mục Rôma là giáo hoàng, và chính vì thế Đền Thờ Thánh Gioan Latêranô mới là đền thờ có tấm vóc quan trọng về quyền bính, chứ không phải là Đền thờ Thánh Phêrô ở Vatican, nơi từng có tông dinh giáo hoàng 

 

Bên cạnh đền thờ này có Lateran Palace, nơi các vị giáo hoàng đã liên tục ở qua cả ngàn năm, từ thế kỷ thứ 4, nghĩa là ngay từ khi có đền thờ này cho đến thế kỷ 14, tức là cho tới sau khi vị giáo hoàng từ  Agvinon Pháp quốc trở về Roma vào năm 1377, thời điểm Lateran Palace đồng thời cũng bị cháy, nên các vị giáo hoàng từ đó bắt đầu về ở Vatican bên cạnh Đền Thờ Thánh Phêrô cho tới nay. Lateran Palace thời xưa cũng đã từng là nơi diễn ra 3 công đồng riêng (non-ecumenical councils) vào những năm 649, 769 và 964, và 5 Công Đồng Chung (ecumenical councils) vào những năm 1123, 1139, 1179, 1215 và 1512-1517).

 

Nhờ bí tích Thánh Tẩy, tất cả chúng ta được trở nên đền thờ của Thiên Chúa

Trích bài giảng của thánh giám mục Caesarius thành Arles

 

(Bài Đọc 2 của Phụng Vụ Giờ Kinh Sách, được trích từ sermon 229, 1-3: CCL 104, 905-908, cho Lễ Cung Hiến Đền Thờ Gioan Laterano 9/11)

 

Anh em thân mến, hôm nay nhờ lòng khoan nhân của Đức Ki-tô, chúng ta hân hoan mừng rỡ cử hành ngày kỷ niệm khánh thành ngôi đền thờ này. Nhưng chính chúng ta phải là đền thờ đích thực và sống động của Thiên Chúa. Dân Ki-tô hữu quả có lý khi trung thành mừng kính ngày trọng đại của Mẹ Hội Thánh, vì họ biết nhờ Mẹ Hội Thánh mà họ được tái sinh vào cuộc sống thiêng liêng. Bởi vì khi sinh ra lần đầu, chúng ta là những kẻ đáng hứng chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, nhưng lần sau, chúng ta đã được trở nên những kẻ được Người xót thương. Lần sinh thứ nhất dẫn chúng ta đến cõi chết, còn lần sinh thứ hai lại đưa chúng ta về cõi sống.

Thưa anh em, trước khi được thanh tẩy, mọi người chúng ta là miếu thờ ma quỷ, nhưng sau khi được thanh tẩy, chúng ta thành đền thờ của Đức Ki-tô. Nếu chúng ta để tâm suy nghĩ nhiều hơn về ơn cứu độ linh hồn, chúng ta sẽ biết chúng ta là đền thờ đích thực và sống động của Thiên Chúa. Thiên Chúa không chỉ ngự trong những đền do tay con người làm ra, cũng không chỉ ngự trong những ngôi đền bằng gỗ bằng đá, nhưng đặc biệt Người ngự trong linh hồn đã được dựng nên giống hình ảnh Người và do chính tay Người xây lên. Vì thế, thánh Phao-lô tông đồ đã nói : Đền thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và đền thờ ấy chính là anh em.

Và vì khi Đức Ki-tô đến, Người trục xuất ma quỷ ra khỏi lòng chúng ta để chuẩn bị ngôi đền thờ cho chính Người trong chúng ta, nên với sự trợ giúp của Người, chúng ta hãy cố gắng hết sức mình, để nơi chúng ta, Người không còn phải chịu sỉ nhục vì các việc làm xấu xa của chúng ta nữa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì sỉ nhục Đức Ki-tô. Như tôi đã nói : trước khi Đức Ki-tô cứu chuộc chúng ta, chúng ta là đền đài của ma quỷ, về sau chúng ta lại được nên ngôi nhà của Thiên Chúa : chính Thiên Chúa đã đoái thương làm cho chúng ta trở thành ngôi nhà cho Người ngự.

Vì thế, thưa anh em, nếu chúng ta muốn hân hoan mừng ngày cung hiến đền thờ, chúng ta không được dùng những hành động xấu xa để phá huỷ đền thờ sống động của Thiên Chúa nơi chúng ta. Sở dĩ tôi nói như vậy là để ai nấy có thể hiểu rằng : mỗi khi đến nhà thờ, chúng ta muốn thấy nhà thờ đó thế nào, thì chúng ta cũng phải chuẩn bị chính tâm hồn chúng ta như thế.

Bạn muốn thấy ngôi thánh đường sạch sẽ ư ? Bạn đừng làm cho linh hồn bạn ra ô uế vì những nhơ bẩn của tội lỗi. Nếu bạn muốn ngôi thánh đường rực sáng, thì Thiên Chúa cũng muốn bạn không được để cho linh hồn ra tối tăm, nhưng lời Chúa nói phải được thực hiện : ấy là ánh sáng của các việc lành chiếu sáng trong chúng ta và như thế, Thiên Chúa, Đấng ngự trên trời, được tôn vinh. Bạn muốn vào ngôi thánh đường kia như thế nào, thì Thiên Chúa cũng muốn vào linh hồn bạn như thế, theo lời Người đã hứa : Ta sẽ ngự giữa họ và sẽ đi đi lại lại giữa họ.

(bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Phụng Vụ Giờ Kinh



HẠNH THÁNH TRONG TUẦN 31 THƯỜNG NIÊN

 


Kính Thánh Martin de porres - Tướng tiên phong đức ...

(03/11)



 

   
Hạnh Tích Thánh Martino Porres

Tấm Lòng Vàng: Thánh Martin de Porres

San Martin de Porres huaycan.jpg

 

Ngày 04 tháng 11

Thánh Ca-rô-lô Bo-rô-mê-ô, giám mục

lễ nhớ bắt buộc

Thánh nhân sinh năm 1538 tại A-rô-na, miền Lom-ba-đi-a. Sau khi đã học xong luật đạo luật đời, người được cậu là đức giáo hoàng Pi-ô IV nhận vào hàng hồng y, rồi được đặt làm giám mục Mi-la-nô. Người ra sức thể hiện gương mẫu một giám mục như đã được Công Đồng Tren-tô nêu lên. Người cố công cải tổ hàng giáo sĩ, lập các công đồng miền và các chủng viện. Người cũng canh tân phong hoá của các tín hữu bằng cách thăm viếng họ, trình bày cho họ biết thế nào là sống trung thành thật sự với Hội Thánh. Người qua đời ngày 3 tháng 11 năm 1584.

(Phụng Vụ Giờ Kinh 4/11)

Ngày 04.11 Thánh CARÔLÔ BORRÔMÊÔ Giám Mục (1538 – 1584) | Giáo Phận Bà Rịa

1. Đôi dòng tiểu sử

 

Bôrômêô chào đời tại Milan ngày mồng 2 tháng 10 năm 1538. Song thân ngài là ông Bôrômêô Arôma và bà Magatita Mêđixê, chị ruột của Đức Giáo Hoàng Piô IV. Hai ông bà thuộc dòng quý tộc và có lòng đạo đức, ngay nên ngay khi vừa lên năm tuổi, Bôrômêô đã được gởi đi học. Ngày tháng trôi qua, mặc dầu trí khôn không thuộc vào hàng xuất sắc, nhưng do sự siêng năng cần mẫn, Bôrômêô chẳng mấy chốc đã qua hết bậc trung học, rồi lên đại học Pavia. Cuối năm 1559, khi vừa đúng 21 tuổi, Bôrômêô được vinh dự lãnh hai cấp bằng tiến sĩ giáo luật và dân luật một trật qua sự khảo hạch của giáo sư Phanxicô Anxia, một giảng sư về luật nổi tiếng lúc ấy.

Theo tục lệ thời bấy giờ người ta có thể xin gia nhập hàng giáo sĩ ngay từ hồi còn nhỏ. Chính vì thế nên vừa mới được 12 tuổi, Bôrômêô đã được thâu nhận vào hàng giáo sĩ. Năm 1560, tức là một năm sau ngày lấy hai bằng tiến sĩ, Bôrômêô được Đức Giáo Hoàng triệu về Rôma. Mặc dù ngài thuộc về một gia đình quý tộc ở Milan và có bà con với dòng họ Medici rất uy thế, nhưng ngài lại muốn tận hiến cho Giáo Hội. Khi người bác của ngài là Ðức Hồng Y de Medici được chọn làm giáo hoàng năm 1559 với tước hiệu là Piô IV, Đức Giáo Hoàng đã đặt ngài làm làm Hồng y -Phó tế” và Quản trị Tổng Giáo Phận Milan trong khi ngài chỉ là một  giáo dân và một sinh viên. Vì sự thông minh xuất chúng nên ngài được giao cho nhiều chức vụ quan trọng có liên hệ đến Tòa Thánh, và sau này được bổ nhiệm làm Quốc Vụ Khanh của tòa thánh. Cái chết đau đớn của người anh đã đưa ngài đến quyết định làm linh mục, mặc dù họ hàng ngài muốn ngài phải kết hôn. Ngài được thụ phong linh mục năm 25 tuổi, và sau đó không lâu được tấn phong làm giám mục của Milan.

Tên của Thánh Carôlô Borrômêô đi liền với chữ cải cách. Ngài sống trong thời kỳ Cải Cách Tin Lành, và đã đóng góp trong công cuộc cải cách toàn thể Giáo Hội trong những năm cuối của Công Ðồng Triđentinô. 

Chính thánh nhân là người đã thúc giục đức giáo hoàng phục hồi Công Ðồng Triđentinô vào năm 1562 sau 10 năm bị ngưng trệ. Ðứng ở đằng sau và âm thầm làm việc, thánh nhân là người có công trong việc duy trì sự liên tục của các khóa họp Công Ðồng mà nhiều khi tưởng đã đổ vỡ. Thời gian này, ngài phụ giúp Đức Piô IV hoàn tất một cách tốt đẹp Công đồng Triđentinô đã được khai mạc vào năm 1545 dưới triều Đức Giáo Hoàng Phaolô III. Ngài giữ vai trò điều phối chương trình làm việc của các nghị phụ, thu thập tài liệu, đúc kết ý kiến và viết dự thảo nghị quyết của Công đồng. "Ngài làm việc có khi thâu đêm suốt sáng để soạn lại các báo cáo khắp nơi gởi về, lãnh ý kiến và thi hành chỉ thị của Đức Thánh Cha. Đúng ra ngài là người chấp hành sự vụ hơn là thực hiện chức vụ của một vị một cố vấn".

Do mắc cộng việc tại công đồng Triđentinô, nên ngài không được phép cư trú tại Milan, cho tới khi công đồng bế mạc. Trong giai đoạn cuối của Công Ðồng, ngài chịu trách nhiệm hoàn toàn công việc giao dịch thư tín. Trong thời gian công đồng, ngài cũng được phép lo công việc cuả Tổng Giáo Phận Milan là nơi mà bức tranh tôn giáo và luân lý không sáng sủa lắm. Công đồng kết thúc, ngài còn phải lo lắng tới những công chuyện còn sót lại và mãi tới tháng 9 năm 1565, ngài mới được Đức Giáo Hoàng cho phép về ở tại nhiệm sở của mình. Khó khăn lắm mới được trở về Milan, ngài lại bị triệu hồi để giúp cậu ngài bên giường bệnh, và sau đó góp phần chọn lựa Đấng kế vị là Đức Giáo Hoàng Piô V. Ngài trở lại Milan vào tháng 4.1566.Chỉ sau lễ an táng người cậu yêu quí là Đức Giáo Hoàng Piô IV và sau cuộc bầu cử Đức Tân Giáo Hoàng, Đức Hồng Y Tổng Giám mục mới trở về phục vụ giáo phận Milan, một giáo phận rộng lớn nhất nhì của Giáo Hội. 18 năm trời phục vụ giáo phận Milan đối với ngài là 18 năm làm việc vất vả nhất, nhưng lại thu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp nhất.

Kể từ lúc đó cho đến khi qua đời, ngày 3.10. 1584, cuộc đời của thánh Carôlô được dành trọn cho giáo phận với tư cách của một Tổng Giám mục. Việc canh tân khẩn thiết nhất trong mục vụ của vị Giám mục tập chú vào sơ đồ canh tân Công đồng Triđentinô để ra. Thánh Carôlô đã trở thành Giám mục "kiểu mới" của Công đồng Triđentinô, ngài đã thành công đến nỗi trở thành gương mẫu và gợi hứng cho toàn thể Giáo Hội. Có lẽ hơn bất cứ một cá nhân nào khác ngài đã chuyển các sắc lệnh của Công đồng ra hành động trong Giáo Hội Công giáo, ngài đã thực hiện cuộc canh tân, tổ chức lại hàng giáo sĩ và đời sống thiêng liêng trong cả địa phận lẫn tỉnh Milan. Nhưng nỗ lực này được ghi lại đầy đủ chi tiết qua một số qui luật do sáu hội nghị Giáo tỉnh và mười một hội nghị Giáo phận.
 
Ngài kiên trì viếng thăm toàn Giáo phận rộng rãi bao la được giảng dạy, ban các phép bí tích tới những làng mạc xa xôi nhất và những vùng thung lũng núi Alpels. Cuộc hồi sinh đạo Công giáo tại Thụy sĩ mà nhiều phần nằm trong quyền hạn của ngài đã là ảnh hưởng quyết định của ngài, ngài đã thiết lập nhiều học viện và chủng viện, ngài là người bạn của dòng tên, dòng thánh Barnaba và nhiều dòng mới thời đó. Chính ngài cũng đã thiết lập dòng cho những tu sĩ thánh Ambrôsiô (bây giờ là thánh Carôlô) để đặc biệt giúp đỡ ngài. Ngài còn liên hệ một cách chủ động tới cuộc canh tân dòng cổ. Có một nhóm bất mãn dòng Umiliati là ngài muốn canh tân và sau này đã biến mất, đã tìm cách sát hại khi ngài đang cầu nguyện năm 1569.
 
Ngài đã khích lệ những hội đạo đức và tổ chức lại các trường Công giáo. Ngài cố gắng bảo tồn nghi thức thánh Ambrôsiô cho Milan khi nghi thức này bị đe dọa và cố gắng theo gương thánh Ambrôsiô. Nhưng sự cương quyết không chịu thoả hiệp và sự nghiêm khắc về những nguyên tắc luân lý đã không khỏi gây nên những chống dối. Sức chống đối không chỉ từ vài nhóm giáo sĩ và còn từ phía uy quyền thế tục đại diện bởi những nhà cầm quyền Tây Ban Nha và nghị viện thành phố nữa.
 
Dầu vậy, như một thánh nhân và một nhà canh tân, thánh Borrômêô không đòi những người khác điều gì mà chính ngài đã thi hành. Đời sống cầu nguyện và bỏ mình của ngài còn tân tiến với những nỗ lực mục vụ. Tai họa dịch hạch năm 1576 đến 1578 cho thấy sự hy sinh xả kỷ tột cùng của ngài, ngài đã hiến mình làm hiến tế, bố thí tất cả những gì ngài có như động sản, áo quần; lột bỏ những màn trướng để phủ che những người bất hạnh, chính ngài cũng ngủ trên sàn nhà, ngài gọi các linh mục và tu sĩ đến, chỉ định cho họ những ngả đường để giải tội cho nhưng bênh nhân, an ủi và chuẩn bị cho họ chết lành. Để những người hấp hối có thể tham dự thánh lễ, ngài cho dựng những bàn thờ nơi các ngã tư. Thánh giá mọc lên khắp nơi cho mọi người nhìn thấy. Chuông nhà thờ reo vang, những bản thánh ca được hát lớn trong mỗi gia đình vào giờ nhất định.
 
Như thế, bệnh nhân được tham dự vào đời sống cộng đoàn, thành phố thoát khỏi cảnh tang thương vô vọng để sống như trong một tu viện. Đức Tổng Giám mục đến với người bị dịch hạch, những trẻ em lăn lóc bên xác mẹ, ngài cuốn áo choàng mang về nhà. Người ta tổ chức những cuộc đi chân không theo đám rước tay cầm chặt thánh giá. Cuối cùng khi tai họa chấm dứt, Đức Hồng y đã xác tín rằng : dù cho có bao nhiêu nạn nhân, đoàn chiên ngài phải cảm ơn Thiên Chúa vì cơn thử thách đã đổi mới các tâm hồn.
 
Nhiều dịp khác cũng cho thấy sáng kiến và lòng tận tâm của thánh nhân, Milan nhiều lần bị nạn đói, thánh Carôlô cho trồng bắp, tổ chức những bữa cháo nghèo, lập các nhà từ thiện. Nhờ ngài, những người giàu có nên quảng đại hơn. Thánh nhân đã không tìm nghĩ ngơi sau những nỗ lực không ngừng cho công việc bác ái và mục vụ. Mỗi lúc đêm về người ta còn thấy ngài tiến vào nhà nguyện để đọc kinh suy gẫm. Tới cuối đời, ngài còn tìm tòi học hỏi, không lãng quên sách thánh, ngài thích đọc sách cổ, sách thuốc và sách chiêm tinh Ả Rập. Ngài rất ưa thích nghệ thuật và nếu phải bán bộ sưu tầm của ngài đi, thì đây là một hy sinh lớn lao cho ngài.
 
Chính Thánh Carôlô tiên phong trong việc làm gương. Ngài chia sẻ hầu hết phần lương của ngài cho công việc bác ái, tự ý từ bỏ đời sống sang trọng của một tổng giám mục, và ăn chay đền tội. Ngài hy sinh giầu sang, danh vọng, sự mến mộ và ảnh hưởng để trở nên nghèo hèn. Trong thời kỳ dịch tễ và đói kém năm 1576, ngài cố tìm cách để nuôi ăn 60,000 đến 70,000 người mỗi ngày. Ðể thực hiện điều này, ngài phải mượn một số tiền rất lớn mà nhiều năm sau mới trả hết. Khi nạn dịch hoành hành đến mức tối đa, các giới chức hành chánh dân sự bỏ trốn thì ngài vẫn ở lại thành phố để thi hành công việc mục vụ cho những người đau yếu, người hấp hối và những ai cần sự giúp đỡ.

Vào năm 1578, ngài thành lập một tổ chức các linh mục triều, gồm Các người Tận hiến của Thánh Ambrôsiô (bây giờ là Người tận Hiến của thánh Carôlô Borrômêô), đồng thời ngài tích cực rao giảng, chống lại sự xâm nhập của giới Tin Lành Cải cách, và đưa những người Công Giáo bỏ đạo trở về với Giáo Hội. Ngài gặp sự chống đối từ mọi phía trong các nỗ lực của ngài nhằm cải tổ con người cùng các cơ chế. Công việc và gánh nặng của chức vụ đã ảnh hưởng đến sức khỏe của ngài.

Không nghỉ ngơi, thánh Carôlô Borrômêô giống như một người nghèo không bao giờ biết đến nghỉ ngơi. Cơn bệnh đến, thánh nhân bất động, mắt nhắm nghiền. Vài người nói : "Kìa cơn mê của Giám mục thánh Modèna".
 
Vào những ngày cuối đời, nhắm mắt lại để người ta tưởng ngài ngủ và như thế có thể hồi tâm cầu nguyện mà không bị lo ra, ngài cười khi người ta khuyên ngài đừng sợ chết. Rồi sau khi lãnh nhận các bí tích sau hết, ngài lịm vào trong sự tôn thờ. Ngài từ trần khi mới 46 tuổi. Tin loan báo cái chết của thánh Carôlô Borrômêô đã làm cho cả Milan đau đớn. Sử gia viết truyện đời ngài nói: "Đêm ấy, ít có ai ngủ được".
 
Đức Phaolô V đã phong thánh cho ngài ngày 10 tháng 11 năm 1610.

2. Bài học

Mỗi vị thánh có một nét đặc biệt. Có thánh nổi bật về sự khó nghèo, có thánh lưu tâm hơn về sự vâng phục, có thánh lại say mê việc truyền giáo. Và tất cả các ngài là những người đã sống những nhân đức anh hùng, đến nỗi các ngài trở thành những đóa hoa đẹp tô điểm cho vườn hoa Giáo Hội.

Nhìn lại cuộc đời của thánh Carôlô chúng ta thấy nổi bật lên một vài đức tính đặc biệt. Đó là lòng nhiệt thành và một ước vọng muốn luôn thăng tiến.

Chính lòng nhiệt thành và ước muốn luôn thăng tiến này đã khiên ngài không quản ngại những hy sinh vất vả để phục vụ Giáo Hội và đoàn chiên Chúa trao cho ngài dẫn dắt.

Làm sao người ta có thể quên được những đóng góp của ngài và sự thành công của công đồng Triđentinô và những thành quả sau 18 năm trời phục vụ Giáo phận Milan, một Giáo phận có tầm cỡ, có lẽ chỉ kém Giáo phận Roma mà thôi.

Lịch sử còn ghi lại việc ngài cải tổ canh tân đời sống linh mục và tu sĩ theo sự chỉ dẫn của Công đồng Triđentinô. Làm sao mà ngài có thể thản nhiên trước việc một số tu sĩ và linh mục không còn giữ được phẩm chất của đời sống dâng hiến. Chính vì thế mà ngài đã ra công bỏ sức ra để hướng dẫn, giúp đỡ giúp các linh mục tu sĩ tìm lại được đời sống đạo đức của mình.

Chúng ta hãy nghe một đoạn bài giảng trong kỳ họp hội đồng lần cuối cùng:

"Bạn có nhiệm vụ rao giảng và dạy dỗ ư? Hãy học hỏi và nghiên cứu những gì cần biết khả dĩ giúp bạn chu toàn nhiệm vụ ấy một cách tốt đẹp; chính bạn hãy thực hành trước đi, như thế là bạn giảng bằng đời sống và đức hạnh đó. Nếu không, những kẻ thấy bạn nói một đàng làm một nẻo, sẽ phải lắc đầu, to nhỏ với nhau về lời bạn nói.

Bạn coi sóc các linh hồn ư? Thì đừng vì thế mà bỏ bê chính mình, cũng đừng phung phí tất cả cho người khác đến độ không giữ gì cho bạn cả. Vì phải nhớ rằng bạn coi sóc các linh hồn, nhưng không được quên bản thân mình.

Thưa anh em, anh em phải biết rằng: không có gì cần thiết đối với mọi người trong hàng giáo sĩ cho bằng tâm nguyện; đó là một việc phải đi trước, đi cùng và theo sau mọi hoạt động của chúng ta, như tác giả thánh vịnh nói: Con đàn hát và nguyện chủ tâm.

Này bạn, nếu bạn cử hành bí tích, thì hãy suy gẫm về việc bạn làm; nếu dâng thánh lễ, hãy suy gẫm về của lễ bạn dâng; nếu đọc thần vụ trong cung nguyện, hãy nghĩ xem bạn nói với ai và nói gì; nếu bạn coi sóc các linh hồn, hãy nghĩ xem họ đã được tẩy rửa bằng máu nào; như thế, hãy làm mọi sự vì đức ái; nhờ vậy, chúng ta sẽ có thể dễ dàng lướt thắng vô vàn khó khăn chắc chắn sẽ gặp phải trong đời sống hằng ngày (vì địa vị của chúng ta là như thế) ; nhờ vậy, chúng ta sẽ có sức sinh Đức Kitô nơi bản thân mình cũng như nơi kẻ khác."

Lịch sử cũng còn ghi lại những đóng góp của ngài trước biến cố đau thương  xảy đến cho con cái ngài. Làm sao người ta có thể quên được đại họa dịch tả và nạn đói kém xảy ra tại Milan vào hai năm 1576 và 1577. Thị trấn Locarnô, một thắng cảnh du lịch ở ngay dưới đãy núi Alpe, với dân số 4.800 chỉ còn lại 700  người. Trước cảnh đau thương ấy, Đức Tổng Giám mục đã không từ bỏ một sự giúp đỡ nào mỗi khi có thể. Ngài đã bán tất cả đồ đạc trong nhà để lấy tiền cứu trợ. Ngài đã quên ăn quên ngủ để lo thăm viếng và giúp đỡ các bệnh nhân dọn mình chết. Chính vì sự tận tụy hy sinh ấy cùng với nỗi vất vả của việc mục vụ và tông đồ trong gần hai mươi năm trời, khiến ngài kiệt sức rồi ngã bệnh nặng. Và chiều ngày thứ bảy, mùng 3 tháng 11 năm 1584 ngài đã ra đi thanh thản và bình an ở tuổi 47 tuổi tại Milan.

Với những công nghiệp lớn lao và những nhân đức hết sức anh hùng của một Hòng Y Giám mục, Chúa đã thưởng công cho ngài. Ðức Thánh Cha Phaolô V đã nâng Ngài lên bậc hiển thánh vào năm 1610.

Đaminh Maria cao tấn tĩnh, tổng hợp

Bạn đừng nói một đàng làm một nẻo

(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 4/11)

Trích bài giảng của thánh Ca-rô-lô Bo-rô-mê-ô trong kỳ họp hội đồng lần cuối cùng.

Tôi nhìn nhận rằng hết thảy chúng ta đều là những con người yếu đuối, nhưng Thiên Chúa là Chúa chúng ta đã ban cho chúng ta những phương tiện giúp chúng ta dễ dàng hành động, nếu chúng ta muốn. Linh mục nọ muốn có một đời sống tinh tuyền theo lương tâm đòi hỏi, muốn sống tiết độ và có phong cách của bậc thiên thần : đó là điều hợp lý ; nhưng vị ấy lại không quyết tâm dùng những phương tiện cần thiết là : ăn chay, cầu nguyện, tránh tiếp xúc với những người xấu, tránh những cuộc giao du thân mật nguy hại.

Vị linh mục đó phàn nàn rằng mỗi khi vào nhà nguyện để đọc thần vụ hay đi dâng thánh lễ, thì tức khắc cả trăm ngàn chuyện nảy ra trong tâm trí, làm cho mình lo ra, không thể hướng lòng về Thiên Chúa. Nhưng thử hỏi : trước khi vào nhà nguyện hoặc đi dâng thánh lễ, vị đó đã làm gì trong phòng thánh, đã chuẩn bị tâm hồn như thế nào, đã sử dụng những phương thế nào để hồi tâm ?

Có phải bạn muốn tôi dạy bạn làm sao để tiến tới trên đường nhân đức, và nếu trong nhà nguyện, bạn đã cầm trí được rồi thì làm thế nào lần sau bạn cầm trí hơn nữa, và lời cầu nguyện của bạn cũng đẹp lòng Thiên Chúa hơn ? Hãy nghe tôi đây. Nếu bạn đã có được một chút lửa tình yêu bốc cháy trong lòng, thì đừng vội trưng ra, đừng phơi ra trước gió. Hãy giữ lò lửa cho kín, kẻo nó nguội đi và mất sức nóng ; hãy loại bỏ những sự chia trí, hãy hồi tâm kết hợp với Thiên Chúa và tránh những cuộc chuyện trò vô ích.

Bạn có nhiệm vụ rao giảng và dạy dỗ ư ? Hãy học hỏi và nghiên cứu những gì cần biết khả dĩ giúp bạn chu toàn nhiệm vụ ấy một cách tốt đẹp ; chính bạn hãy thực hành trước đi, như thế là bạn giảng bằng đời sống và đức hạnh đó. Nếu không, những kẻ thấy bạn nói một đàng làm một nẻo, sẽ phải lắc đầu, to nhỏ với nhau về lời bạn nói.

Bạn coi sóc các linh hồn ư ? Thì đừng vì thế mà bỏ bê chính mình, cũng đừng phung phí tất cả cho người khác đến độ không giữ gì cho bạn cả. Vì phải nhớ rằng bạn coi sóc các linh hồn, nhưng không được quên bản thân mình.

Thưa anh em, anh em phải biết rằng : không có gì cần thiết đối với mọi người trong hàng giáo sĩ cho bằng tâm nguyện ; đó là một việc phải đi trước, đi cùng và theo sau mọi hoạt động của chúng ta, như tác giả thánh vịnh nói : Con đàn hát và nguyện chủ tâm. Này bạn, nếu bạn cử hành bí tích, thì hãy suy gẫm về việc bạn làm ; nếu dâng thánh lễ, hãy suy gẫm về của lễ bạn dâng ; nếu đọc thần vụ trong cung nguyện, hãy nghĩ xem bạn nói với ai và nói gì ; nếu bạn coi sóc các linh hồn, hãy nghĩ xem họ đã được tẩy rửa bằng máu nào ; như thế, hãy làm mọi sự vì đức ái ; nhờ vậy, chúng ta sẽ có thể dễ dàng lướt thắng vô vàn khó khăn chắc chắn sẽ gặp phải trong đời sống hằng ngày (vì địa vị của chúng ta là như thế) ; nhờ vậy, chúng ta sẽ có sức sinh Đức Ki-tô nơi bản thân mình cũng như nơi kẻ khác.

Lạy Chúa, xin hằng ban ơn Thánh Thần cho Giáo Hội, như xưa Chúa đã ban cho thánh giám mục Ca-rô-lô, để Giáo Hội biết không ngừng canh tân theo đường lối Tin Mừng, nhờ đó, thế giới sẽ tìm thấy hình ảnh trung thực của Đức Ki-tô là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hợp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.