Đức TGM Ngô Quang Kiệt
MÙA VỌNG
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Gr 33,14-16
- 1Tx 3,12 – 4,2
- Lc 21, 25-28.34-36
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Thật ngạc nhiên. Ta cứ tưởng trong mùa Vọng, phải có những bài Sách Thánh báo tin Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra. Nhưng không ngờ những bài Sách Thánh và đặc biệt bài Tin Mừng hôm nay lại báo tin Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Tại sao thế? Thưa vì Giáo hội muốn cho ta hiểu ý nghĩa thần học của việc chờ mong Chúa đến. Hằng năm vào mùa Vọng, Giáo hội mời gọi ta chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến. Thực ra Chúa đã đến rồi khi sinh ra tại hang đá Bêlem cách nay hơn 2.000 năm. Tuy nhiên ta vẫn luôn chờ mong vì Chúa đến hằng ngày với ta. Và nhất là Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Việc Chúa đến lần thứ hai đưa ra những hướng dẫn quan trọng cho cuộc đời chúng ta.
Hướng dẫn thứ nhất: Có hai thế giới. Thế giới hiện tại và thế giới tương lai. Thế giới hiện tại này sẽ qua đi. Vạn vật có khởi đầu và có kết thúc. Con người có sinh có tử. Đó là định luật tự nhiên. Không chỉ những gì yếu đuối, bé nhỏ mới qua đi. Cả những gì lớn lao, mạnh mẽ, có vẻ bền vững nhất như mặt trời, mặt trăng cũng qua đi. Điều quan trọng nhất là chính ta cũng sẽ qua đi. Khi thế giới này qua đi, một thế giới mới sẽ bắt đầu: thế giới vĩnh cửu.
Hướng dẫn thứ hai: Chúa làm chủ lịch sử. Sở dĩ thế giới cũ tan biến đi vì Chúa đã định cho nó một thời hạn. Khi thế giới đến ngày cùng tháng tận, Chúa sẽ đến. Quyền uy của Chúa thể hiện qua việc Chúa xét xử thế giới cũ và khai sinh thế giới mới. Sau cảnh tan vỡ kinh hoàng của thế giới cũ sẽ là một khởi đầu mới đem đến niềm hi vọng mới cho con người. Có thể nói thế giới không chấm dứt nhưng biến đổi. Từ một thế giới mong manh mau tàn đến một thế giới vững bền vĩnh cửu. Từ một thế giới tương đối đến một thế giới tuyệt đối.
Hướng dẫn thứ ba: Ta tự quyết định vận mệnh đời mình. Thế giới này sẽ qua đi. Thế giới mới sẽ xuất hiện. Ta sẽ bị hủy diệt cùng với thế giới cũ. Hay sẽ được hạnh phúc trong thế giới mới? Điều đó tùy thuộc bản thân ta. Chúa đưa ra những chỉ dẫn rõ ràng. Thế giới cũ sẽ suy tàn. Nên ai quá gắn bó với nó sẽ khổ sở. Thế giới mới sẽ tới. Ai biết chuẩn bị chờ đón sẽ được hạnh phúc. Phải làm gì? Thưa phải tỉnh thức và cầu nguyện.
Tỉnh thức không “chè chén say sưa”, tức là không quá mê mẩn những đam mê hưởng thụ đời này. Tỉnh thức không “lo lắng sự đời”, nghĩa là không quá mê say danh, lợi, thú, là những giá trị đời này. Tỉnh thức biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng. Tỉnh thức tuy còn sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau.
Cầu nguyện vì tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện để biết tỉnh thức. Vì khi cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để vươn tới thế giới tâm linh. Nhất là cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát ra khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.
Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa. Tỉnh thức cầu nguyện, ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện ta sẽ gặp được Chúa trong ngày lễ Chúa Giáng sinh. Tỉnh thức cầu nguyện chắc chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến cứu con.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Chúa đã đến rồi sao ta vẫn còn chờ mong Chúa đến?
2. Chúa làm chủ lịch sử. Bạn có cảm nghiệm về điều này trong đời sống không?
3. Ta phải làm gì để được niềm vui trong ngày Chúa đến?
4. Tỉnh thức nghĩa là gì?
5. Tại sao phải cầu nguyện?
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Br 5,1-9
- Pl 1,4-6.8-11
- Lc 3, 1- 6
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Bài Tin Mừng mở đầu thật long trọng khi nêu tên tất cả những vị lãnh đạo cao cấp thời đó. Từ Tibêriô, hoàng đế của đế quốc La mã, quyền uy phủ trên toàn thế giới thời ấy, đến Philatô, tổng trấn, đại diện cho hoàng đế cai trị nước Do Thái. Từ Hêrôđê, dù là bù nhìn, cai trị miền Bắc, đến em của ông cai trị miền Nam. Từ Anna đến Caipha cùng trong gia đình làm thượng tế nắm giữ quyền đạo Do Thái. Tên tuổi những vị lãnh đạo cao cấp đầy quyền uy nói lên thực trạng của đất nước Do Thái thời đó: bị nô lệ. Chính vì thế, hơn bao giờ hết người Do Thái mong chờ Đấng Cứu Thế đến giải thoát dân người. Chúa đã đến, không phải bằng con đường phô trương nhưng bằng con đường nội tâm. Thánh Gioan Tẩy Giả hôm nay khi kêu gọi mở đường cũng nhắm đến con đường nội tâm. Chỉ những ai đi đường nội tâm mới gặp được Chúa. Qua lời rao giảng của thánh Gioan Tẩy Giả, đường nội tâm có những đặc điểm sau:
Đường nội tâm đi trong cô tịch. Thật lạ lùng. Một chương trình cứu thế lớn lao như thế mà Chúa chẳng ngỏ với các vị lãnh đạo cao cấp uy quyền, nhưng lại ngỏ với thánh Gioan Tẩy Giả. Một chương trình lớn lao như thế không khởi đầu từ thủ đô đất nước nhưng lại phát xuất từ vùng hoang địa xa xôi. Thực ra Chúa vẫn ngỏ lời với nhân loại. Nhưng tiếng Chúa nói âm thầm, sâu thẳm. Các vị lãnh đạo cao cấp sống trong ồn ào của đô thị phồn hoa, bị tiếng thét gào của đam mê, dục vọng, quyền lực lấn át, nên không nghe được tiếng Chúa. Thánh Gioan TẩyGiả nghe được tiếng Chúa nhờ đi vào con đường cô tịch. Sống ẩn thân nơi hoang địa. Chuyên chăm cầu nguyện trong tu viện. Bỏ ngoài tai tất cả những tiếng ồn ào thế tục. Chỉ khao khát lắng nghe Lời Chúa. Nên đã gặp được Chúa và được biết chương trình cứu độ của Chúa.
Đường nội tâm đi trong khiêm nhường. Chúa là Đấng vô cùng khiêm nhường. Chỉ những ai khiêm nhường mới gặp được Chúa. Các vị lãnh đạo uy quyền nói trên rất tự mãn. Tự mãn vì quyền uy bao trùm khắp mặt đất. Tự mãn vì dinh thự đền đài nguy nga. Tự mãn vì quần là áo lụa sang trọng. Tự mãn vì yến tiệc linh đình. Thánh Gioan TẩyGiả thật khiêm nhường. Khiêm nhường trong đời sống âm thầm nơi hoang địa. Khiêm nhường trong tu viện đơn sơ. Khiêm nhường trong thực phẩm tự nhiên rất đạm bạc: chỉ ăn châu chấu và mật ong rừng. Khiêm nhường trong trang phục giản dị bằng da thú, chỉ có mục đích che thân. Khiêm nhường xưng mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa. Nhờ thế đã gặp được Chúa, được Chúa tuyển chọn trở thành người mở đường cho Chúa.
Đường nội tâm đi trong chiến đấu. Không phải chiến đấu với người khác. Nhưng chiến đấu với chính mình. Cuộc chiến đấu được thánh Gioan Tẩy giả dùng lời tiên tri Isaia diễn tả trong việc sửa chữa con đường. Con đường là tâm hồn. Sửa chữa con đường vật chất tuy khó mà dễ. Sửa chữa con đường tâm hồn khó biết bao. Tâm hồn có những núi đồi kiêu ngạo tự mãn. Để sửa chữa phải bạt núi đồi xuống. Phải cắt đi một phần tâm hồn không phải dễ dàng. Tâm hồn có những khúc quanh co. Để uốn nắn lại phải vạt bớt chỗ quanh co. Gọt dũa tâm hồn đau đớn lắm. Từ bỏ mình là một cuộc chiến khốc liệt. Thắng được mình khó hơn thắng vạn quân.
Đời sống ta quá lo lắng bon chen nên thiếu chiều sâu nội tâm. Hôm nay ta hãy nghe lời thánh Gioan Tiền Hô dạy, biết ăn năn sám hối trở về với Chúa. Biết rửa sạch tội lỗi. Biết đổi mới tâm hồn bằng cuộc sống đi vào nội tâm. Tìm những giờ phút thanh vắng cô tịch để lắng nghe tiếng Chúa. Sống đơn sơ khiêm nhường để nên giống Chúa. Muốn được như thế ta phải chiến đấu để từ bỏ ý riêng. Chúa đã đến ở đầu đường. Ta chưa nhìn thấy chỉ vì con đường tâm hồn còn lồi lõm quanh co. Khi nào ta cắt bỏ được hết những lồi lõm quanh co trong tâm hồn, ta sẽ được thấy Chúa.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Đường nội tâm có những đặc điểm nào? Cô tịch, khiêm nhường và chiến đấu, đặc điểm nào cần thiết nhất cho đời sống bạn hiện nay?
2. Thánh Gioan Tẩy Giả có sống những lời Ngài rao giảng không?
3. Con đường nội tâm của bạn còn phải sửa chữa ở những đoạn nào? Có dễ không? Tại sao
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Xp 3,14-18a
- Pl 4,4-7
- Lc 3, 10 – 18
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Khi nghe thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng, hàng đoàn người lũ lượt kéo đến xin chịu phép rửa ăn năn sám hối. Hơn thế nữa, họ còn muốn thay đổi cuộc đời nên ai cũng hỏi thánh nhân: “Chúng tôi phải làm gì”? Thái độ của họ thành khẩn, đơn sơ, hiểu biết và đầy quyết tâm. Để trả lời, thánh nhân đưa ra những hướng dẫn thật cụ thể. Đó là
Phải làm những việc cụ thể. Hai thái độ cơ bản phải có là công bình và bác ái. Thái độ phải được thể hiện trong những việc cụ thể. Bác ái là chia sẻ: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Như thế, bác ái không phải là bố thí những gì dư thừa, nhưng phải là chia sẻ trong tinh thần “nhường cơm sẻ áo” “hạt gạo cắn đôi”. Chia cả những gì mình đang cần thiết. Trong tinh thần huynh đệ. Trong tinh thần yêu người khác như chính mình. Cơm ăn áo mặc là những gì rất cụ thể thiết thực và vừa tầm tay mọi người. Ai cũng có thể chia sẻ được. Chỉ cần muốn là có thể làm được. Công bình cũng không phải là điều gì quá phức tạp. Chỉ đơn sơ giữ đúng luật pháp: nhân viên thu thuế “Đừng đòi hỏi gì quá mức ấn định”. Và khi thi hành luật pháp binh lính phải có lòng nhân ái chứ đừng cậy quyền thế áp bức và nhất là bóc lột người khác: “Chớ dùng vũ lực, cũng đừng vu khống mà tống tiền người ta”. Tuy đơn sơ, thiết thực nhưng lại rất quan trọng để được ơn cứu độ.
Phải làm trong đời sống cụ thể. Những việc cụ thể đó không phải tìm những nơi xa xôi mới thực hiện được. Mỗi người hãy thực hiện công bình bác ái trong đời sống thường ngày của mình, với những người sống chung quanh mình. Thánh nhân không kêu gọi người ta phải ra khỏi môi trường cũ. Ngài chỉ kêu gọi người ta từ bỏ nếp sống cũ. Người thu thuế cứ thu thuế. Binh lính cứ làm nhiệm vụ của binh lính. Nhưng làm với tinh thần mới. Điều quan trọng không phải là đổi mới nơi ở, nhưng là đổi mới chính mình, đổi mới ý nghĩ, đổi mới lời ăn tiếng nói, đổi mới việc làm. Tục ngữ có nói: “Dù có đi xa vạn dặm mà không chịu thay đổi thì bạn vẫn chỉ là con người cũ”. Cứ ở nhà mà dám đổi mới là ta đã đi những bước rất xa, sẵn sàng gặp được Chúa và lãnh nhận được ơn cứu độ.
Những người Do Thái thời thánh Gioan Tẩy Giả thực lòng mong chờ Chúa đến. Nên đã hỏi ngay những việc cụ thể để làm. Và khi nhận được lời khuyên của thánh nhân, họ đã thực hành ngay tức khắc. Vì thế họ đã được gặp Chúa. Hôm nay ta cũng đang chờ mong Chúa đến. Hãy noi gương những người Do Thái tích cực sửa chữa đời sống theo tinh thần công bình và nhất là theo tinh thần bác ái. Biết sống tinh thần chia sẻ. Dám cho đi cả những gì cần thiết. Mẹ Têrêxa Calcutta dạy ta: hãy cho đi cho đến khi cảm thấy đau đớn xót xa, thì sự cho đi mới thực sự có ý nghĩa. Biết cho đi như thế, chắc chắn ta sẽ gặp được Chúa.
Ta luôn bất bình với thế giới quanh ta. Ta mong ước đổi mới thế giới. Hãy nghe lời thánh Gioan Tẩy Giả, đừng đòi hỏi người khác đổi mới nếu chính mình không đổi mới. Hãy đổi mới chính mình trước, rồi mọi người sẽ đổi mới. Khi mọi người đổi mới, thế giới sẽ đổi mới. Hãy bắt đầu sống tốt. Rồi mọi sự và mọi người quanh ta sẽ trở nên tốt. Sống tốt chính là bắt đầu thay đổi thế giới. Sống tốt chính là góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con bắt đầu cuộc đời mới ngay từ ngày hôm nay, để con được gặp Chúa.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Chia sẻ khác với bố thí thế nào? Thánh Gioan Tẩy Giả đòi ta chia sẻ hay bố thí?
2. Bạn có ước mong thế giới đổi mới nên tốt hơn không? Muốn thế bạn phải làm gì?
3. Bạn có mong ước Chúa đến với mọi người không? Muốn thế bạn phải dọn đường cho Chúa như thế nào?
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Mk 5,1-4a
- Dt 10,5-10
- Lc 1, 39-45
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Bài Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Bà Êlizabéth vui mừng vì được mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Đức Mẹ vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương. Thánh Gioan Tẩy Giả vui mừng vì được tha mọi tội ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Những niềm vui ấy hoà chung, biến buổi gặp gỡ thành một lễ hội vui mừng tạ ơn Thiên Chúa. Nguồn gốc của những niềm vui ấy là ơn Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã giúp chuẩn bị các tâm hồn đón nhận niềm vui ơn cứu chuộc. Ta thấy được ơn Chúa Thánh Thần qua những dấu hiệu sau đây.
Dấu hiệu thứ nhất: ơn khiêm nhường
Tâm hồn có Chúa Thánh Thần sẽ trở nên khiêm nhường. Khiêm nhường vì biết thân phận mình hèn yếu, bé nhỏ, tội lỗi. Khiêm nhường vì biết tất cả những ơn nhận được không phải do công trạng của mình nhưng là do lòng thương xót của Chúa. Vì thế, khi nhận được tin làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Mẹ đã xưng mình là “nữ tỳ của Thiên Chúa”. Bà Êlizabéth khiêm nhường tự hỏi: “Bởi đâu tôi được phúc đón tiếp Mẹ Thiên chúa đến viếng thăm tôi”. Và Đức Mẹ đã trả lời bằng một bài ca khiêm nhường ngợi khen Thiên Chúa vì tình yêu thương đã đoái thương đến phận hèn nữ tỳ của Chúa.
Dấu hiệu thứ hai: ơn bác ái
Thánh Thần là tình yêu. Đến đâu là đốt lên lửa bác ái ở đấy. Ngài đã rợp bóng trên Đức Mẹ và lập tức Đức Mẹ được tràn đầy lòng bác ái, đã nghĩ đến bà chị họ. Đức Mẹ không nghĩ phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng và chuẩn bị cho bản thân trong thời kỳ sinh nở sắp tới, nhưng đã nghĩ phải ra đi giúp bà chị họ neo đơn, yếu mệt. Đây là một lòng bác ái mạnh mẽ, nên Đức Mẹ vội vã lên đương ngay, không chần chừ, không tính toán. Lòng bác ái không chỉ hướng về những người thân trong gia tộc mà còn mở rộng ra tới cả dân tộc, cả đồng loại. Nên trong bài Magnificat, Đức Mẹ đã nhớ đến công ơn tổ tiên và nhớ đến cả dân tộc.
Dấu hiệu thứ ba: ơn quên mình
Được ơn Chúa Thánh Thần tác động, tâm hồn sẽ quên bản thân mình. Trước hết quên mình để hoàn toàn vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Đức Mẹ đã hoàn toàn quên mình khi thưa với thiên thần: “Này tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời thiên sứ truyền”. Không những quên mình cho thánh ý Chúa, Đức Mẹ còn quên mình vì tha nhân. Ngài quên mình cũng đang mang thai, cần được nghỉ ngơi, cần được chuẩn bị, chỉ nghĩ đến bà chị họ thai nghén ốm yêu, nên đã bỏ nhà ra đi thăm viếng. Ngài quên mình là khách mời trong tiệc cưới Cana, nên đã xuống bếp giúp đỡ việc bếp núc, và hoà vào cả nỗi lo của chủ nhà thiếu rượu. Ngài quên mình nên đã theo Chúa Giêsu và can đảm đứng dứới chân thập giá, cùng chịu đau đớn nhục nhã với Con.
Dấu hiệu thứ tư: ơn phục vụ
Lòng bác ái, sự khiêm nhường và sự quên mình được kết tinh ở cao điểm phục vụ. Tâm hồn được Chúa Thánh Thần tác động sẽ tìm phục vụ như tìm niềm vui, niềm hạnh phúc. Vì thế Đức Mẹ không quản thân phận làm Mẹ Thiên Chúa đã đến phục vụ cho bà Êlizabéth. Đức Mẹ cũng không nề hà mình đang thời kỳ thai nghén đã vui vẻ phục vụ người họ hàng cần sự giúp đỡ. Là Mẹ Thiên chúa, Đức Mẹ đã tự nguyện trở nên tôi tớ để phục vụ con người. Đó chính là kết tinh của ơn Chúa Thánh Thần.
Với tất cả những đặc điểm của ơn Chúa Thánh Thần, cuộc gặp gỡ giữa Đức Mẹ và bà Êlizabéth, cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và thánh Gioan Tẩy giả còn trong bào thai đã trở thành cuộc gặp gỡ của niềm vui: niềm vui ơn cứu độ. Nhờ những chuẩn bị của Chúa Thánh Thần, hai người mẹ và hai bào thai đã họp thành cộng đoàn biết đón nhận và trao tặng ơn cứu độ. Đã tập họp thành Nước Thiên Chúa, đã là cộng đoàn đầu tiên đón nhận được ơn cứu độ, tiên báo Giáo hội và Nước Thiên chúa sắp đến.
Chỉ còn vỏn vẹn mấy ngày nữa là đến lễ Giáng sinh, ta hãy noi gương Đức Mẹ, nài xin Chúa Thánh Thần biến đổi tâm hồn ta nên xứng đáng đón nhận Chúa Cứu Thế. Ta hãy xin Đức Mẹ dạy ta biết sống theo ơn Chúa Thánh Thần trong khiêm nhường, bác ái, quên mình và phục vụ, để ta được niềm vui đón nhận ơn cứu độ.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Có những dấu chỉ nào cho thấy ơn Chúa Thánh Thần?
2. Nhờ đâu cuộc gặp gỡ giữa Đức Mẹ và bà Elizabéth tràn đầy niềm vui?
3. Những cuộc viếng thăm gặp gỡ của bạn có đem lại niềm vui cho người khác và cho chính bạn không?
MÙA GIÁNG SINH
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is 9,1-6
- Tt 2,11-14
- Lc 2, 1-14
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Mỗi khi gió mùa đông bắc thổi, tôi cảm thấy năm tháng qua nhanh. Năm cũ trôi qua, năm mới sắp tới. Trong niềm háo hức đón chào năm mới tôi thường băn khoăn tự hỏi: tôi phải làm gì để năm mới này trở thành những ngày tháng tươi vui? Làm sao để năm mới này là thời gian của hạnh phúc? Làm sao để năm mới này chan chứa hồng ân của Thiên Chúa?
Trong niềm băn khoăn thao thức, tôi đến trước hang đá Bêlem để tìm câu trả lời. Việc Chúa Giêsu giáng trần đã mở ra một kỷ nguyên mới. Để bắt đầu một thời gian mới, không gì bằng đến học theo gương Người, nghe những lời giáo huấn của Người.
Chúa Giêsu bé thơ lặng im không nói, nhưng thái độ của Người trao gửi chúng ta biết bao sứ điệp, giúp định hướng cho những ngày tháng sắp tới.
Sinh ra trong cảnh nghèo hèn, Người muốn gửi đến cho ta sứ điệp tình yêu. Vì yêu thương con người, Chúa Giêsu đã tự nguyện sinh xuống thế làm người. Người đã đồng hành với con người, chia sẻ mọi nỗi vui, nỗi buồn của kiếp người. Tình yêu của Người đặc biệt hướng về những người bé nhỏ, nghèo hèn, yếu đuối, tội lỗi. Những người đầu tiên được mời gọi đến hang đá Bêlem là những mục đồng nghèo nàn, đơn sơ, chất phác. Trong tình hình kinh tế thế giới hiện nay, hố ngăn cách giàu – nghèo ngày càng lớn. Trong cuộc chạy đua kinh tế hiện nay, người nghèo ngày càng bị thua thiệt. Vì thế, sứ điệp tình yêu của Chúa Giêsu vẫn là một tín hiệu khẩn cấp cho nhân loại.
Hóa thân làm một trẻ sơ sinh yếu đuối trần trụi, Người mong gửi đến ta sứ điệp hoà bình. Là Thiên Chúa, Người mang thân phận con người để nối kết đất với trời, để con người được làm hoà với Thiên Chúa. Trở thành anh em của mọi người, Người kêu gọi con người hãy thương yêu nhau vì mọi người là anh em với nhau. Người không mang theo vũ khí, không mang theo quyền lực. Vũ khí của Người là đôi mắt thơ ngây. Quyền lực của Người là tấm thân trẻ thơ non nớt. Hai ngàn năm qua rồi, nhưng sứ điệp ấy vẫn còn mang tính thời sự, vì chiến tranh chưa một ngày vắng bóng trên hành tinh. Ngay tại Bêlem, nơi Chúa sinh ra, năm nay không có thánh lễ, vì cuộc chiến giữa Israel và Palestines vẫn còn tiếp diễn.
Nằm trong tấm vải thô đặt trên máng bò lừa, Người muốn gửi đến ta sứ điệp tự do. Là Thiên Chúa, Người không muốn sinh ra trong gia đình vua chúa giàu sang. Nhưng chọn sinh ra trong gia đình dân dã nghèo hèn. Người không chọn sinh ra tại một nơi đầy đủ tiện nghi. Nhưng chọn sinh ra trong chuồng bò lừa. Tâm hồn Người hoàn toàn tự do, không bị ràng buộc bởi bất cứ nhu cầu vật chất nào. Ngày nay chế độ nô lệ đã bị xóa sổ trên toàn thế giới. Nhưng con người đang vướng vào những vòng vây nô lệ mới. Có thứ nô lệ dục vọng. Có thứ nô lệ đam mê. Có thứ nô lệ chức quyền. Có thứ nô lệ danh vọng. Có thứ nô lệ vật chất tiền tài. Có thứ nô lệ sì ke ma tuý. Tất cả những thứ nô lệ mới trói buộc tâm hồn khiến con người mất hết tự do, nhân phẩm. Nhìn vào hang đá Bêlem, sứ điệp tự do của Chúa Giêsu như một lời nhắn nhủ ân cần, như một lời mời gọi tha thiết, như một ánh sáng soi đường cho ta bước vào vùng trời tự do của tâm hồn, của nhân phẩm, của con người, của con cái Thiên Chúa.
Năm mới đang mở ra một viễn tượng đầy hứa hẹn nhưng cũng đầy đe doạ. Cơn lốc kinh tế, khoa học kỹ thuật sẽ cuốn đi nhiều giá trị đạo đức, sẽ nhận chìm nhiều kiếp người lầm than. Cơn cám dỗ vật chất sẽ khiến nhiều tâm hồn mất phẩm chất, nhiều con người sẽ đánh mất chính mình. Những xung đột sẽ xô đẩy thế giới vào những cuộc chiến tàn sát.
Hãy đến với Hài nhi Giêsu nằm trên máng cỏ trong hang đá Bêlem. Người là hiện thân của tình yêu, của hòa bình, của tự do. Nhìn ngắm Người, ta sẽ học được những bài học giải đáp cho những vấn đề của thế giới, của con người, và nhất là của chính bản thân ta. Sống theo gương Người, ta sẽ góp phần xây dựng một thế giới tươi đẹp, không chỉ ấm áp tình người mà còn cao đẹp với những giá trị tinh thần, những phẩm chất đạo đức.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin thương xót chúng con.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Trong những sứ điệp của Chúa Giêsu bé thơ, sứ điệp nào được nhắn riêng cho bạn?
2. Bạn có tự do thật không? Hay là có thứ nô lệ nào đang trói buộc bạn?
3. Tình yêu, tự do, hòa bình. Thế giới hiện nay cần gì nhất? Bạn sẽ làm gì để đóng góp vào hạnh phúc của thế giới?
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- 1S 1,20-22.24-28
- 1Ga 3,1-2.21-24
- Lc 2, 41-52
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Những tranh ảnh về Thánh Gia thường diễn tả một gia đình ấm êm hạnh phúc. Thánh Giuse làm thợ mộc trong nhà. Đức Mẹ ngồi may vá. Chúa Giêsu phụ giúp thánh Giuse. Phải chăng Thánh Gia luôn sống trong êm đềm thư thái, không hề biết đến khổ đau? Phải chăng cuộc sống gia đình thánh cứ phẳng lặng trôi như mặt nước mùa thu không gợn sóng gió? Không phải, trái lại, Thánh Gia đã biết đến rất nhiều sóng gió, thử thách.
Còn thử thách nào lớn hơn cảnh nghèo. Vì nghèo mà biết bao gia đình sinh ra bất hòa. ấy thế mà Thánh Gia đã phải trải qua những kinh nghiệm đớn đau của kiếp nghèo. Bị xua đuổi, bị hất hủi đến nỗi phải trú ngụ trong chuồng bò lừa. Thê thảm hơn nữa, phải sinh con giữa bầy súc vật, không giường chiếu chăn màn.
Còn gì buồn hơn là bị thù ghét, bị săn đuổi? Thánh Gia sống hiền lành khiêm nhường, thế mà phải chịu đựng sự thù ghét của Hêrôđê. Vừa sinh ra, còn non nớt đã phải bồng bế nhau chạy trốn, xa quê hương đất nước.
Còn cảnh nào bi đát bằng cảnh vợ chồng hiểu lầm nhau? Thế mà thánh Giuse đã hiểu lầm Đức Mẹ khi Đức Mẹ thụ thai bởi quyền phép Đức Chúa Thánh Thần. Ai đã trải qua cảnh nghi ngờ bị phản bội sẽ hiểu thánh Giuse đã bị dày vò đau đớn đến mức nào.
Còn gì khiến cha mẹ buồn hơn khi thấy con cái không ngoan ngoãn vâng lời, bỏ nhà ra đi? Vậy mà thánh Giuse và Đức Mẹ đã phải chứng kiến cảnh đứa con ngoan ngoãn của mình tự động ở lại đền thờ mà không xin phép cha mẹ. Các ngài vất vả lo âu tìm kiếm thì ít, nhưng buồn phiền đau khổ thì nhiều. Làm sao các ngài tránh khỏi buồn phiền khi nghĩ rằng người con mà các ngài rất mực yêu quí đã cãi lời cha mẹ?
Những sóng gió mà Thánh Gia phải đương đầu như thế có lẽ nhiều và nặng nề hơn những gia đình bình thường. Thế nhưng các ngài vần giữ được hạnh phúc gia đình. Nhờ bí quyết nào các ngài đã vượt qua được biết bao cơn sóng gió như thế?
Trước hết các ngài luôn luôn tìm thánh ý Chúa. Mỗi khi gặp gian nan thử thách, các ngài không tìm ý riêng mình, cũng không tìm ý thích của người đời, nhưng luôn đi tìm ý Thiên Chúa. Tìm ý Chúa mạc khải trong Kinh Thánh, qua các biến cố xảy đến. Tâm sự với Chúa trong các giờ cầu nguyện. Hỏi ý kiến Chúa nơi các vị đại diện.
Khi biết được thánh ý Chúa, các ngài lập tức mau mắn vâng lời. Đức Mẹ muốn giữ mình đồng trinh, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người làm mẹ Đấng Cứu thế, Đức Mẹ liền thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng lời thiên sứ truyền”. Thánh Giuse đang muốn bỏ đi, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người ở lại, Người đã vâng lời ngay không ngần ngại.
Sau cùng, các ngài luôn quên mình vì hạnh phúc của mọi người trong gia đình. Thánh Giuse tuy là gia trưởng, nhưng đã hết tình phục vụ Đức Mẹ và Chúa Giêsu. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng lại xưng mình là tôi tớ của Thiên chúa. Còn Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhưng lại trở thành người con bé nhỏ nhất trong gia đình.
Ngày nay, nhiều gia đình gặp khủng hoảng, lâm vào cảnh cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, vì đã không biết áp dụng những bí quyết của Thánh Gia. Mỗi khi gặp khó khăn, thay vì cầu nguyện, đọc Phúc Âm để tìm ý Chúa thì lại đi tìm ý kiến ở những nơi mê tín dị đoan. Thay vì vâng lời Chúa qua các vị bề trên thì lại chỉ tìm ý riêng mình. Thay vì khiêm nhường quên mình thì lại kiêu ngạo tự ái, bắt người khác phải phục vụ mình.
Hôm nay, gia đình chúng ta hãy biết noi gương Thánh Gia: Bỏ ý riêng để tìm thánh ý Thiên Chúa; mau mắn vâng lời Chúa; và hạ mình khiêm nhường, quên mình để phục vụ người khác. Có như thế chúng ta mới hy vọng giữ được hạnh phúc gia đình, nhất là khi phải đối phó với những khó khăn ngày càng nhiều trong đời sống hiện nay.
Lạy Thánh Gia, xin nâng đỡ gia đình chúng con.
III. TẤM BÁNH CHIA SẺ
1. Mỗi khi gia đình có việc rắc rối, tôi thường làm gì trước: cầu nguyện, đọc Phúc âm, hay là đi xem bói?
2. Mỗi khi có bất đồng ý kiến, tôi thường khiêm nhường xét mình, hay là tự ái bắt người khác phải nhận lỗi?
3. Qua tấm gương của Thánh gia, tôi có quyết tâm gì để xây dựngh hạnh phúc gia đình trong năm mới?
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is 60,1-6
- Ep 3,2-3a.5-6
- Mt 2, 1-12
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Hôm nay, Ba Vua trên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế giáng sinh. Ba Vua là những người phương xa, không có đạo. Các Ngài tìm đến Chúa theo ánh sáng của ngôi sao lạ. Theo ngôi sao, các Ngài đến được Giêrusalem và được nghe giải nghĩa Thánh Kinh. Theo ngôi sao đưa đường dẫn lối các Ngài đã gặp được Chúa. Ánh sao đã chiếu sáng bầu trời đen tối, giúp các Ngài nhận định được hướng đi. Lời Thánh Kinh là một ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp họ sáng lên niềm tin. Nhưng chính Chúa Giêsu mới là ngôi sao mai dẫn họ đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến.
Ngày nay có nhiều người đang tìm kiếm Chúa. Nhiều người muốn biết Chúa để theo Chúa. Nhưng họ không biết đường biết hướng. Cũng như Ba Vua, họ cần có những ánh sao soi đường dẫn lối.
Tìm đâu ra ngôi sao xưa đã soi đường cho Ba Vua? Ngày nay, Chúa không dùng ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi người chúng ta trở thành một vì sao soi dẫn mọi người đến với Chúa.
Là ngôi sao có nghĩa là phải có ánh sáng. Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi chính bản thân nó có ánh sáng. Người Kitô hữu chỉ chiếu sáng khi chính cuộc sống của họ mang ánh sáng, phản chiếu ánh sáng nhận từ nơi Thiên Chúa.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng hi vọng. Niềm hi vọng vào ơn cứu độ của Chúa giúp ta vững bước trên đường lý tưởng. Niềm hi vọng vào một trời mới đất mới cho ta thêm sức mạnh góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp. Niềm hi vọng vào hạnh phúc thiên đàng giúp ta đánh giá đúng mức của cải vật chất đời này. Hi vọng là ánh sáng làm tươi đẹp con người và cuộc đời.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng tin yêu. Tin yêu Chúa và tin yêu người. Tin yêu để xây dựng một cuộc sống chan hoà tình người. Tin yêu để tha thứ hoà giải. Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối thù hận, chia rẽ, bất hoà. Tin yêu là làn ánh sáng ấm áp làm cho thế giới trở nên gần gũi, con người trở nên thân thiện, cuộc đời trở thành đáng yêu đáng mến.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng công bình, bác ái. Niềm hi vọng, niềm tin yêu được chứng minh bằng đời sống công bình, bác ái. Tin Chúa được biểu lộ qua sự công bình trong đời sống. Yêu Chúa được thể hiện qua tình bác ái với tha nhân.
Tất cả những làn ánh sáng nói trên góp lại thành ánh sáng đạo đức. Đắm chìm vào vật chất sẽ khiến con người rơi vào bóng tối tuyệt vọng, không lối thoát. Nghi ngờ con người sẽ khiến cuộc đời chìm vào bóng tối cô đơn. Thiếu công bình bác ái sẽ phủ lên thế giới một bóng tối phi nhân, tàn nhẫn. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới đủ sức phá tan những bóng tối ấy. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới làm cho thế giới thành vui tươi hạnh phúc.
Thế giới đang mong chờ ánh sao dẫn đường. Chúa đang mời gọi chúng ta trở thành một ngôi sao chiếu lên làn ánh sáng đạo đức. Chính qua làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và yêu mến Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp con sống xứng đáng là người con của Chúa sự sáng.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Bạn nghĩ gì về cuộc tìm kiếm của Ba Vua? Bạn có kiên trì tìm Chúa như Ba Vua không?
2. Bạn nghĩ gì về bổn phận làm chứng cho Chúa? Bạn có mong ước trở thành ngôi sao dẫn đưa mọi người đến với Chúa không?
3. Đâu là những ánh sáng người Kitô hữu phải có để dẫn người khác tới Chúa? Trong năm mới này, bạn sẽ làm gì để làm chứng cho Chúa?
MÙA THƯỜNG NIÊN SAU MÙA GIÁNG SINH NĂM C
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is 40,1-5.9-11
- Tt 2,11-14 ; 3,4-7
- Lc 3, 15-16.21-22
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Sông
Giođăng, tiếng Do thái là "Yarad"
có nghĩa là đi xuống. Sông Giođăng phát nguồn từ ngọn núi Hécmon ở
độ cao 520 m. Suốt 220 km đường dài dòng sông không ngừng đi xuống.
Thoạt tiên sông chảy vào hồ Hulê chỉ còn 68 m trên mực nước biển. Kế
đó sông chảy vào biển hồ Galilê, nơi Chúa Giêsu thường qua lại, và các
tông đồ thường chài lưới. Ở đây lòng hồ sâu 212 m dưới mực nước biển.
Sông tiếp tục chảy xuống miền Nam, đổ vào Biển Chết. Ở đây là độ sâu
394m dưới mực nước biển. Có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa
cầu.
Khi Chúa
Giêsu bước xuống sông Giođăng để chịu phép rửa, Người đã xuống chỗ
thấp nhất không chỉ về chiều sâu theo không gian địa lý mà còn về
chiều sâu tâm lý xã hội. Bước xuống để Gioan Tẩy giả làm
phép rửa tội, Chúa Giêsu đã hoà mình vào dòng thác người tội lỗi,
cần thống hối ăn năn. Tuy đến để cứu độ người tội lỗi, nhưng Chúa
Giêsu không cho mình quyền đứng trên kẻ tội lỗi. Người đã hạ mình
xuống ngang hàng với họ, liên đới với họ và trở nên anh em của họ.
Không ai nhận ra Người. Mọi người đều cho rằng Người là một trong
những kẻ tội lỗi.
Trong đêm Giáng sinh, ta được chứng kiến một Thiên
Chúa hạ mình xuống làm người. Làm một người bé nhỏ nghèo hèn hình
như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa, nên hôm nay
người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận đáy xã hội nhân
loại khi nhận mình tội lỗi.
Hôm nay, bắt đầu cuộc đời công khai
của Chúa Giêsu. Người bắt đầu xuất hiện để rao giảng Tin Mừng. Trước
khi tiến ra gặp gỡ quần chúng, Chúa Giêsu đã tới gìm mình trong dòng
sông Giođăng. Để chuẩn bị ra gặp loài người Chúa Giêsu cảm thấy cần
phải thanh tẩy. Mặc lấy xác phàm, Chúa Giêsu chưa cảm thấy mình gần
với nhân loại cho đủ. Người còn hạ mình xuống làm một người tội
lỗi. Người gìm mình xuống lòng sông Giođăng, dường như muốn mượn làn
nước trong xanh tẩy sạch đi tất cả dáng vẻ cao quý của Thiên Chúa còn
vương vấn nơi thân xác nhân loại của Người. Tẩy sạch đi tất cả những
gì ngăn cách, để Người được thực sự là một người anh em của mọi
người.
Dòng nước sông Giođăng có trong xanh đến mấy cũng đâu đủ sức rửa Thiên
Chúa làm người. Thực ra chính Người tự rửa mình bằng sự khiêm nhường
thẳm sâu. Khiêm nhường là một phép rửa. Vì khiêm nhường là sự quên
mình, là chết đi một chút. Gìm mình vào dòng sông là chấp nhận đau
khổ và chết đi. Cái chết chính là phép rửa như Chúa Giêsu đã nói
với các môn đệ: "Thầy còn phải chịu một phép rửa, và Thầy những
bồn chồn chờ đến lúc hoàn tất" (Lc 12, 50). Người còn hỏi hai ông
Gioan và Giacôbê khi hai ông này đến xin được ngồi bên tả, bên hữu trong
nước người: "Các ngươi có thể uống chén Ta uống và chịu thanh tẩy
thứ thanh tẩy Ta phải chịu không?" (Mc 10, 38). Khi nói thế Chúa
Giêsu có ý nói đến cái chết Người sẽ phải chịu.
Một câu châm ngôn nói: Không ai thấy
được tình yêu. Người ta chỉ thấy được những bằng chứng của tình yêu.
Bằng chứng tình yêu của Chúa Giêsu đối với ta đó là sự hạ sinh làm
một em bé nghèo hèn yếu ớt. Đó là sự khiêm nhường hoà mình vào
đoàn lũ những tội nhân tới gìm mình trong dòng sông Giođăng. Tình yêu
đã thúc đẩy Người đi những bước táo bạo, bất ngờ. Mượn dòng nước
sám hối xoá đi mọi khoảng cách còn lại giữa Thiên Chúa và con người.
Cử chỉ khiêm nhường của Người là một lời mời gọi ta. Nếu ta cảm
thấy mình còn xa cách Chúa. Nếu ta cảm thấy mình cần được thanh tẩy.
Đừng ngần ngại thay đổi đời sống. Hãy mạnh dạn tiến đến lãnh nhận
phép rửa của Chúa Giêsu để trở nên gần gũi với Người. Nếu ta chưa
thể lãnh nhận phép rửa trong cái chết tủi nhục như Chúa Giêsu, ta vẫn
có thể được thanh tẩy trong phép rửa khiêm nhường. Hãy rửa mình trong
dòng lệ sám hối. Hãy tắm mình trong dòng nước khiêm cung. Như lời vua
Đavít nói: "Lễ dâng Chúa là tâm hồn sám hối. Một tấm lòng tan nát
giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê" (TV 50).
Khiêm nhường sám hối là bước khởi đầu để ta đón nhận Phúc Âm.
Khiêm nhường sám hối là quay trở về nhà Cha, sống trọn tâm tình của
người con thảo hiếu. Khi khiêm nhường trở về, ta sẽ gặp được người Cha
nhân hậu đang đứng chờ ta. Người sẽ nói về ta như nói về CHÚA GIÊSU: "Đây
là con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về con".
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết đến
với Chúa và đến với anh em bằng sự khiêm nhường sám hối.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Chúa Giêsu không ngừng đi xuống. Còn bạn, bạn có tự hạ, hay là lúc nào bạn cũng muốn gìm người khác xuống?
2- Làm thế nào để trở nên “Con yêu dấu” của Đức Chúa Cha?
3- Hằng ngày, bạn có cảm thấy cần phải chịu phép rửa khiêm nhường của Chúa Giêsu không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
-
Is 62,1-5
- 1Cr
12,4-11
-
Ga 2, 1-12
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Những ngày tháng cuối năm các đám cưới đua nhau tổ chức. Mùa cưới rộ
lên làm cho mùa đông bớt vẻ ảm đạm tiêu điều. Đám cưới nào thường
cũng vui. Trong đám cưới người ta chỉ nói chuyện vui. Nhưng niềm vui
kéo dài được bao lâu? Những lời chúc trăm năm hạnh phúc có thật sự
đem hạnh phúc đến cho đôi tân hôn và làm cho họ hạnh phúc suốt đời
không? Nhìn vào thực trạng đời sống gia đình hôm nay, ta thấy có được
hạnh phúc gia đình là một điều rất khó, hạnh phúc trăm năm thì lại
càng khó lắm.
Đám cưới Cana hôm nay cũng suýt lâm vào cảnh bế tắc. Tiệc đang nửa
chừng thì hết rượu. Hết rượu là một bất trắc không ngờ. Trong gia
đình, những bất trắc có thể đưa đến bất đồng. Bất đồng dễ đưa tới
bất hoà. Đã bất hoà thì đường đến bất hạnh không xa.
Đám cưới Cana thực khôn ngoan nên đã mời Chúa Giêsu đến dự tiệc. Việc
Chúa Giêsu đến tham dự bữa tiệc cưới nói lên sự quan tâm của Thiên
chúa đối với con người. Thiên chúa yêu thương con người nên đã đến ở
giữa loài người. Không những đến ở giữa loài người, Thiên chúa còn
trở nên một người bạn thân thiết của con người, đồng hành với con
người, chia vui sẻ buồn với con người. Chưa bao giờ người ta thấy một
Thiên chúa gần gũi đến thế, thân tình đến thế. Với tình thân, Thiên
chúa đã đến chia vui với gia đình trong dịp đại hỉ. Và việc Thiên
chúa đến nhà đã cứu gia đình mới khỏi cảnh bất hạnh ngay trong ngày
đầu tiên chung sống.
Có lẽ ai trong chúng ta cũng muốn mời Chúa đến nhà. Sự hiện diện
của Chúa giúp ta vượt qua được những bất trắc trong đời sống gia
đình. Những bất trắc thì nhan nhản trong đời sống hằng ngày.
Việc thiếu rượu của gia đình Cana nói lên những thiếu thốn của gia
đình chúng ta. Có những thiếu thốn về vật chất: cơm không đủ ăn, áo
không đủ mặc, thiếu tiền cho con đi học, thiếu thuốc men khi bệnh tật.
Có những thiếu thốn về tinh thần: thiếu quan tâm chăm sóc lẫn nhau,
thiếu khuyên bảo dạy dỗ con cháu, thiếu kính trọng trong đối xử,
thiếu tế nhị trong lời nói. Nhưng trầm trọng nhất là những thiếu
thốn về đời sống đạo đức: thiếu đức tin, thiếu lòng đạo đức sốt
sắng, thiếu công bằng bác ái, thiếu trách nhiệm duy trì đời sống đức
tin trong gia đình.
Đời sống gia đình lúc đầu rất vui, nhưng sau đó, nếu không khéo gìn
giữ sẽ trở nên nhạt nhẽo như nước lã. Nhạt nhẽo vì tình nghĩa phai
dần. Nhạt nhẽo vì những bổn phận nặng nề, nhàm chán. Nhạt nhẽo vì
những khuyết điểm không tránh được của mọi người.
Những thiếu thốn và những nhạt nhẽo ấy hầu như vượt ngoài khả năng
giải quyết của ta, nên ai cũng muốn mời Chúa đến nhà để Chúa cứu gia
đình khỏi sự tan vỡ, sụp đổ.
Thế nhưng mời Chúa đến không phải là tổ chức làm phép nhà cho long
trọng, ăn tân gia cho linh đình. Mời Chúa đến không phải chỉ là làm
bàn thờ cho đẹp, treo thật nhiều ảnh tượng. Muốn mời Chúa đến, việc
đầu tiên cần thiết là phải làm theo ý Chúa. Như Đức Mẹ dạy các gia
nhân: “Người bảo gì thì phải làm
theo”. Nhờ làm theo lời Chúa mà gia đình Cana thoát khỏi cảnh xấu
hổ, hạnh phúc gia đình được bền vững.
Gia đình muốn sống trong vui tươi, muốn giữ vững được hạnh phúc hãy
làm theo Lời Chúa. Đọc
Phúc
Âm, học hỏi và đem ra thực hành. Để Lời Chúa hướng dẫn mọi lời ăn
tiếng nói của mình. Để Lời Chúa soi sáng những suy nghĩ của mình.
Để Lời Chúa điều khiển mọi việc làm của mình. Lộc Xuân mà chúng ta
rút được trong ngày Tết phải là châm ngôn hướng dẫn toàn bộ đời sống
gia đình trong suốt năm mới này.
Sống theo Lời Chúa, gia đình sẽ được Chúa dẫn dắt vượt qua những
thiếu thốn. Sống với Chúa, hạnh phúc gia đình sẽ luôn nồng nàn tươi
mới như chất rượu ngon. Sống trung thành kết hiệp với Chúa, gia đình
sẽ được Chúa đưa vào dự bữa tiệc cưới trên trời, lúc đó chàng rể
đích thật là Chúa Kitô sẽ cho ta nếm thứ rượu tuyệt ngon trên thiên
đàng, đó là hạnh phúc không bao giờ tàn phai.
Lạy Chúa, xin đến với chúng con. Lạy Chúa, xin hướng dẫn chúng con.
Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Gia đình bạn có kinh nghiệm gì về những thiếu thốn?
2- Gia đình bạn có kinh nghiệm gì về sự nhạt nhẽo tình nghĩa?
3- Bạn đã có kinh nghiệm về việc thực hành Lời Chúa trong gia đình
chưa?
4- Có bao giờ bạn cảm thấy gia đình bạn được Chúa cứu thoát khỏi
hiểm nguy, thử thách, thất bại?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Nk 8,2-4a.6.8-10
- 1Cr 12.12-30
-
Lc 1, 1-4 ; 4,
14-21
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Chúa Giêsu luôn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Tin mừng
nhiều lần đề cập đến điều này. Chẳng hạn như: được Chúa Thánh Thần
thúc đẩy, Người vào sa mạc ăn chay cầu nguyện. Hôm nay, được Chúa
Thánh Thần thúc đẩy, Người đi rao giảng khắp miền Galilêa. Trở về
Nazareth, Người đọc Sách Thánh trong Hội đường đúng đọan nói về Ơn
Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Nhiều lần Tin Mừng nói Chúa Giêsu tràn
đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần. Nhờ đâu được như thế? Một phần
nhờ việc đọc Sách Thánh.
Chúa Giêsu
thường xuyên đọc Sách Thánh. Tin Mừng hôm nay diễn tả: “Rồi
Chúa Giêsu đến Nazareth, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường
như Người vẫn quen làm trong ngày sabbat, và đứng lên đọc Sách Thánh”.
Yêu mến và gắn bó với hội đường, nên Chúa Giêsu thường xuyên đến sinh
họat với mọi người trong hội đường. Yêu mến và gắn bó với Sách
Thánh nên Chúa Giêsu thường xuyên đọc Sách Thánh. Còn hơn thế nữa, sau
khi đọc, Người đứng ra giải nghĩa cho mọi người. Đó là nếp sinh họat
bình thường của Người. Nếp sinh họat này đã thành thói quen từ khi
Người còn nhỏ bé. Nên ngay từ khi lên 12 tuổi, Người đã có thể đối
đáp với các bậc tiến sĩ trong đền thờ Giêrusalem.
Chúa Giêsu
kính cẩn đọc Sách Thánh. Chúa Giêsu không đọc Sách
Thánh theo thói quen. Người đọc một cách trịnh trọng kính cẩn. Ta hãy
chiêm ngắm thái độ của Người theo lời diễn tả của thánh Luca: “Họ
trao cho Người cuốn sách tiên tri Isaia. Người mở ra và đọc... Người
cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai
nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với
họ”. Thật là trang nghiêm kính cẩn. Thái độ của Người ảnh hưởng
đến cả hội đường. Nên khi Người đọc mọi người đều chăm chú nhìn
Người. Chúa Giêsu trân trọng việc đọc Sách Thánh vì Người luôn thao
thức tìm thánh ý Chúa Cha. Người đọc Sách Thánh để tìm hướng dẫn
cho cuộc đời. Người đọc Sách Thánh để mong chu toàn thánh ý Chúa Cha.
Người nhận biết thánh ý Chúa Cha qua những trang Sách Thánh. Người cố
đọc giữa những hàng chữ để tìm thánh ý Chúa Cha.
Chúa Giêsu
nghiêm túc thực hành lời Sách Thánh. Khi nói với mọi
người rằng: “Hôm nay đã ứng nghiệm
lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe”, Chúa Giêsu muốn nói hai điều.
Điều thứ nhất: Người tìm thấy thánh ý Chúa Cha qua đọan Sách Thánh.
Với thái độ kính cẩn, với lòng khiêm tốn hiếu thảo lắng nghe, Chúa
Giêsu đã đọc được thánh ý Chúa Cha qua đoạn sách tiên tri Isaia. Biết
lời tiên tri Isaia ứng nghiệm vào sứ mạng của mình. Điều thứ hai:
Biết được thánh ý Chúa Cha rồi, Chúa Giêsu cương quyết thực hành.
Người coi đó là chương trình hành động. Người coi đó là chỉ nam hướng
dẫn. Dù sứ mạng của Người vừa mới khởi đầu, Người cũng cương quyết
hoàn thành. Suốt đời Người sẽ thực hành chương trình này. Vì thế
đọan sách Isaia ứng nghiệm vừa do thánh ý Chúa Cha vừa do ý chí của
Chúa Giêsu quyết tâm thực hành thánh ý Chúa Cha.
Đây là mẫu gương cho ta. Đó là kết quả của Ơn Chúa Thánh Thần. Hãy
thường xuyên đọc Kinh Thánh để ta luôn được tiếp xúc với Thiên Chúa.
Hãy kính cẩn tìm thánh ý Chúa trong Kinh Thánh chắc chắn ta sẽ được
ơn Chúa soi sáng cho biết đường đi. Nhất là hãy quyết tâm thực hành
Lời Chúa mà ta đã đọc. Ta sẽ được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần. Thật
vậy, chẳng ai có thể say mê Kinh Thánh nếu không được Ơn Chúa Thánh
Thần lôi cuốn. Chẳng ai tìm được thánh ý Thiên Chúa nếu không được Ơn
Chúa Thánh Thần soi sáng. Chẳng ai có thể thực hành Lời Chúa nếu
không được Ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Như một tác động hai chiều.
Càng được Ơn Chúa Thánh Thần ta càng say mê Kinh Thánh. Càng say mê Kinh
Thánh ta lại càng để Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời. Cuộc đời
sống theo Ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn sẽ hoàn toàn ứng nghiệm ý
định của Thiên Chúa cho bản thân và cho tha nhân. Đó chính là cuộc đời
đạt được mục đích cao quí nhất.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Bạn có thường xuyên đọc Kinh Thánh không?
2. Bạn tìm gì trong sách Kinh Thánh: khôn ngoan, lịch sử hay thánh ý
Thiên Chúa cho đời bạn?
3. Khi đọc Kinh Thánh bạn có nghĩ rằng Chúa đang nói với bạn không?
4. Bạn có thấy một câu Kinh Thánh ứng nghiệm vào bạn và bạn quyết
tâm thực hiện không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Gr
1,4-5.17-19
- 1Cr 12,31
– 13,13
-
Lc 4, 21-30
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Sau khi rao giảng một thời gian, Chúa Giêsu trở về làng cũ. Thọat nghe
Chúa giảng, họ khâm phục tán thành. Nhưng sau đó họ lại xua đuổi và
muốn giết Chúa. Thật là đáng buồn. Đúng như lời thánh Gioan đã viết:
“Người đã đến nhà nhưng người nhà
không nhận biết Người”. Tại
sao có cảnh trái ngang đau lòng như thế? Thưa vì tư tưởng của Thiên
Chúa khác với tư tưởng của họ.
Chúa đi tìm đức tin còn họ đi tìm lợi lộc.
Khi đi rao giảng, Chúa muốn đem đến cho ta niềm tin. Niềm tin đã là
khởi điểm của nhiều phép lạ. Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta có
niềm tin. Niềm tin đã là kết quả của nhiều phép lạ. Chúa chỉ làm
phép lạ khi phép lạ dẫn đến niềm tin. Nhưng dân làng Nazareth không
nhìn thấy điều đó. Họ không tin Người là Đấng Cứu Thế. Lời giảng
của Người không đưa họ tới đức tin và Thiên Chúa, vào Nước Trời. Họ
chỉ mong được có phép lạ. Vì họ chỉ mong được lợi lộc vật chất:
được khỏi bệnh; được ăn no. Mong ước của họ không gặp được mong ước
của Chúa.
Chúa sống trong khiêm nhường nhưng họ sống trong kiêu căng.
Chúa không bao giờ làm phép lạ với mục đích biểu diễn. Chúa chỉ làm
phép lạ để giải nghĩa mầu nhiệm Nước Chúa. Chúa không làm phép lạ
khi ma quỉ cám dỗ Chúa trong hoang địa. Chúa không xuống khỏi thập giá
khi dân chúng thách thức Chúa trên Núi Sọ. Nên hôm nay Chúa cũng không
làm phép lạ để thỏa mãn tính hiếu kỳ và tính kiêu căng của dân làng
Nazareth. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ được vinh dự có người
đồng hương quyền phép. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ cũng
được nở mày nở mặt với Capharnaum. Suy nghĩ của họ rất khác với suy
nghĩ của Chúa.
Chúa có tâm hồn mở rộng trong khi tâm hồn họ hẹp hòi.
Họ mong ước Chúa là người làng Nazareth thì phải dành mọi ưu tiên cho
dân làng từ việc rao giảng cho đến việc làm phép lạ. Tất cả phải
bắt đầu và chỉ bó gọn trong làng. Nhưng Chúa Giêsu, khi trích dẫn
chuyện tiên tri Elia ở nhà bà góa Sarepta trong thời hạn hán, làm cho
bình dầu và hũ bột của gia đình bà không bao giờ vơi và chuyện tiên
tri Elisa chữa tướng Naaman, người Syria khỏi bệnh phong, đã cho thấy
Nước Chúa không chỉ bó hẹp lại trong phạm vi người thân thuộc nhưng
phải mở rộng tới tất cả mọi người. Không chỉ những người trong đạo
Do Thái mà cho cả những người ngoại đạo nữa. Hai nhãn quan khác hẳn
nhau.
Tôi là người có đạo. Nhưng
biết đâu tôi không đón nhận được Chúa vì tôi cũng giống như dân làng
Nazareth, đến với Chúa chỉ mong được lợi lộc vật chất, đến với Chúa
chỉ vì hư danh, đến với Chúa với tâm hồn hẹp hòi. Hôm nay tôi xinh
Chúa thanh tẩy tâm hồn tôi khỏi thói ham mê lợi lộc, thói phô trương bề
ngoài và thói hẹp hòi khép kín, để tôi được đón nhận Chúa và để
tôi trở nên tông đồ của Chúa.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Giữ đạo tốt để được may mắn. Bạn có ý nghĩ như thế không?
2. Ban khó chịu khi người ngoại đạo được may mắn. Thái độ này có
đúng không?
3. Thường thường, bạn đi tìm Chúa, tha thiết cầu nguyện để đạt được
điều gì? Để được may mắn, khỏi tai họa, hay để được hiểu biết, yêu
mến Chúa?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Is 6,1-2a.3-8
- 1Cr 15,1-11
-
Lc 5, 1-11
II.TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Bài Tin mừng hôm nay tường thuật về mẻ cá lạ lùng mà Phêrô và các
bạn được chứng kiến. Đây không phải chỉ đơn thuần là một phép lạ lớn
lao cho ta ngưỡng phục quyền năng của Thiên chúa. Nhưng qua dấu lạ này,
Chúa Giêsu còn muốn mời gọi ta ra khơi truyền giáo. Và qua tiến trình
của phép lạ, Chúa Giêsu đã áp dụng một chương trình đào tạo các môn
đệ, đặc biệt là Phêrô, người đứng đầu các môn đệ.
Chương trình đào tạo này gồm 4 điểm.
Điểm thứ nhất:
cảm nghiệm về sự nghèo nàn của bản thân. Phêrô và các
bạn đang giặt lưới. Các ông mệt mỏi sau một đêm thức trắng vật lộn
với biển khơi. Tâm trạng các ông chán nản sau thất bại chua cay não
nề. Thế mà giờ đây, Chúa Giêsu lại bảo các ông ra khơi. Ra tận chỗ
nước sâu. Nước sâu là chỗ nguy hiểm. Nước sâu là chỗ Phêrô đã gặp
thất bại. Chúa Giêsu muốn Phêrô trở lại chỗ nước sâu để nhận thức rõ
sự vô tài bất lực của bản thân. Chúa Giêsu muốn Phêrô nhìn rõ những
thất bại để ông biết khiêm nhường. Khiêm nhường là bài học đầu tiên
Chúa Giêsu muốn gửi đến các môn đệ của Người.
Điểm thứ hai:
cảm nghiệm về sự cao cả của Thiên chúa. Người tông đồ
phải làm chứng về Thiên chúa. Muốn làm chứng phải có kinh nghiệm. Ai
chưa từng gặp được Thiên chúa, chưa từng tiếp xúc với Người thì không
thể làm chứng về Người. Trong những trường hợp đặc biệt, Thiên chúa
thường chủ động tỏ mình ra. Chúa tỏ mình ra cho Môsê trong bụi gai
cháy đỏ. Chúa tỏ mình ra cho thánh Phaolô qua làn ánh sáng chói lọi
trên đường đi Đamát. Hôm nay Chúa tỏ mình ra cho Phêrô qua mẻ lưới lạ
lùng. Lập tức Phêrô nhận biết sự cao cả, sự thánh thiện của Chúa.
Sợ hãi vì thấy mình tội lỗi, Phêrô vội quì xuống xin Chúa rời xa.
Phêrô đã sống bên cạnh Chúa. Ông đã được tiếp xúc với Chúa. Ông đã
cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả của Chúa. Sau này ông đi rao
giảng chỉ là để kể lại những gì ông đã mắt thấy tai nghe.
Điểm thứ ba trong chương trình đào tạo môn đệ của Chúa đó là
sự
vâng lời tuyệt đối. Phêrô hẳn là rất ngạc nhiên khi Chúa Giêsu
bảo ông ra khơi đánh cá, lại còn chỉ rõ nơi thả lưới. Không ngạc nhiên
sao được khi Phêrô là người miền biển trong khi Chúa Giêsu là người
miền núi. Phêrô làm nghề chài lưới lâu năm kinh nghiệm trong khi Chúa
Giêsu chỉ làm nghề thợ mộc. Thế mà khi Chúa Giêsu bảo ông thả lưới
bên phải thuyền, ông đã tăm tắp làm theo. Phêrô đã vâng lời tuyệt đối.
Phêrô đã học được thái độ vâng lời của người môn đệ. Ông đã thành
công. Ông đã thấy kết quả rõ ràng. Và Chúa đã đặt ông làm tông đồ
trưởng.
Điểm sau cùng mà Chúa muốn người môn đệ phải có đó là
sẵn sàng ra đi. Ra đi
là một thái độ liều lĩnh. Vì vượt qua những khoảng không gian vật lý
cheo leo. Ra khơi là chấp nhận đối đầu với phong ba bão táp.
Vượt qua những khoảng không gian vật lý đã khó. Vượt qua những khoảng
không gian tâm lý còn khó hơn. Ra đi là bỏ nơi an toàn để đến nơi bấp
bênh. Ra đi là bỏ nơi quen biết để đến nơi xa lạ. Lên đường truyền giáo
là bỏ lại tất cả: gia đình, thuyền bè, chài lưới. Bỏ cả nghề
nghiệp cũ đã thành thạo để bắt tay vào nghề mới còn chập chững. Bỏ
lưới cá để chài người.
Nhưng khó nhất chính là ra khỏi chính mình. Dù có đi xa ngàn dặm
nhưng vẫn giữ những thói tật xưa cũ thì người ta vẫn còn ở khởi
điểm. Muốn lên đường người môn
đệ phải ra khỏi tính tự ái tự mãn của mình. Ra khỏi những quan niệm
xưa cũ hẹp hòi. Ra khỏi những ảo tưởng viễn vông. Ra khỏi thói ích
kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.
Khi đã từ bỏ tất cả, người môn đệ sẽ trở nên hoàn toàn nghèo nàn.
Gia tài chỉ có niềm cậy tin phó thác hoàn toàn vào Đấng kêu gọi ta.
Vũ khí chỉ có lòng vâng phục tuyệt đối vào Đấng sai ta.
Mỗi người đang được Chúa huấn luyện. Bao lâu ta chưa cảm nghiệm được
sự hèn kém của bản thân, chưa cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả
cũng như tình yêu của Thiên chúa, chưa có niềm vâng phục tuyệt đối,
chưa ra đi trong tự do và khó nghèo, ta vẫn chưa thực sự trở thành môn
đệ của Chúa. Chưa được đào tạo kỹ lưỡng mà đã làm việc thì phần
thành công chắc chắn sẽ ít hơn phần thất bại.
Lạy Chúa, xin hãy dạy bảo con theo đường lối của Chúa.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Bạn có tuyệt đối vâng lời Chúa trong mọi hoàn cảnh không?
2- Bạn có cảm nghiệm về sự vô tài bất lực của mình không?
3- Bạn đã ra đi khỏi chính mình chưa?
4- Bạn có cảm thấy Chúa có chương trình đào tạo mình không?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
-Gr 17,5-8
-1Cr 15,12.16-20
-
Lc 6,17.20-26
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Bầu khí ngày Tết vẫn chưa tan, nhất
là tại miền Bắc giàu truyền thống lễ hội. Ta vẫn còn nghe những lời
chúc thịnh vượng, khang ninh cho năm mới. Đầu năm mới, các nước trên
thế giới đều phấn đấu để kinh tế phát triển, tăng thu nhập cho toàn
dân. Thế nhưng Lời Chúa hôm nay lại nói: “Hỡi anh em là những kẻ nghèo khó, anh em thật có phúc, vì
Nước Thiên Chúa là của anh em”. Phải chăng Chúa Giêsu phản lại tiến
bộ, muốn nhân loại tụt hậu?
Để thấu hiểu Lời Chúa, ta cần ghi nhận mấy điểm sau đây:
Trước hết ở đây Chúa Giêsu không nói về kinh tế, nhưng nói về hạnh
phúc. Vật chất có thể góp phần vào hạnh phúc, nhưng vật chất tự nó
chưa phải là hạnh phúc. Câu chuyện về công nương Diana là một minh hoạ
rõ nét.
Mùa hè năm 1997, cả thế giới xôn xao về cái chết của công nương Diana.
Công nương Diana là một phụ nữ xinh đẹp. Từ khi kết hôn với thái tử
Charles, con của nữ hoàng nước Anh, công nương trở thành người có danh
vọng và đồng thời cũng có nhiều tiền của vào bậc nhất trên thế
giới. Có lẽ ai cũng nghĩ rằng một phụ nữ đẹp đẽ, giàu sang, phú
quí như thế phải là người hạnh phúc nhất trên đời. Nhưng không đúng
như thế. Công nương rất đau khổ vì cảnh gia đình thiếu tình yêu thương
chân thực. Thái tử Charles vẫn lén lút quan hệ với người tình cũ. Đau
khổ mà chẳng thể nói ra, vì cả gia đình bên chồng muốn giữ gìn uy
tín cho hoàng gia. Chán nản với đời sống gia đình, công nương đã tìm
vui bên người bạn trai mới. Trong một chuyến đi chơi ở Paris, cả hai bị
thiệt mạng trong một tai nạn xe hơi. Có nhiều người cho rằng chính
hoàng gia Anh đã gây ra tai nạn. Không ai nghĩ rằng cuộc đời công nương
có hạnh phúc, dù bà có tất cả: sắc đẹp, tiền của, danh vọng.
Thứ đến, Chúa không lên án vật chất, nhưng chỉ lên án thái độ sử
dụng vật chất. Vật chất do Chúa dựng nên để phục vụ con người. Chúa
dựng nên và Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Nhưng con người đã làm sai
chương trình của Chúa. Thay vì sử dụng vật chất như phương tiện, người
ta đã biến nó thành mục đích. Thay vì sử dụng vật chất phục vụ
đồng loại, người ta đã sử dụng đồng loại để phục vụ vật chất. Đó
là những thái độ bị Chúa lên án. Những thái độ ấy biến vật chất
thành chướng ngại ngăn cản ta đạt đến hạnh phúc Nước Trời.
Sau cùng, Chúa không khuyến khích cảnh nghèo, càng không khuyến khích
những người vì lười biếng mà trở nên nghèo. Chúa chỉ khuyến khích
những người vì Nước Trời mà tự nguyện sống nghèo.
Những người vì Nước Trời mà tự nguyện trở nên nghèo là những người
hiểu biết giá trị thực sự của tiền bạc. Biết rõ tiền bạc chỉ là
phương tiện nên họ dùng tiền bạc mà không dính bén, có tiền mà không
nô lệ cho đồng tiền, nhất là biết dùng tiền vào những việc hữu ích
cho đồng loại. Vì tha nhân, vì Nước Trời mà tự nguyện sống nghèo.
Những người tự nguyện sống nghèo như thế không làm cho xã hội tụt
hậu, trái lại giúp phát triển xã hội, đưa nhân loại tiến lên. Không
chỉ tiến lên về văn minh vật chất mà còn tiến về nền văn minh tình
thương.
Những người tự nguyện sống nghèo như thế giúp nâng cao nhân phẩm con
người, đem niềm vui cho người sầu khổ, gieo niềm hi vọng cho những
người bị bỏ quên, đem tình thương đến cho những người bị gạt ra ngoài
lề xã hội.
Những người tự nguyện sống nghèo như thế không phải là những người
lười biếng, hèn nhát, uỷ mị, bạc nhược. Trái lại đó là thái độ
của những tâm hồn dũng mạnh, luôn phấn đấu với chính mình để nâng tâm
hồn mình và nâng cả thế giới lên.
Tự nguyện sống nghèo như thế là một mối phúc cho thế giới, cho nhân
loại. Thế giới sẽ tốt đẹp biết bao nếu có nhiều người tự nguyện như
thế.
Sau đám tang của công nương Diana 1 tuần lễ, thế giới lại xôn xao về
một đám tang khác: đám tang của mẹ Terexa Cancutta. Khác hẳn với công
nương Diana, mẹ Terexa là một nữ tu già nua, sống một đời sống nghèo.
Trong phòng của mẹ chỉ có một chiếc ghế và một chậu thau đựng nước.
Người ta cho mẹ nhiều tiền, nhưng mẹ tự nguyện sống nghèo, dành hết
tiền của để giúp những người nghèo, những trẻ mồ côi, tàn tật. Khi
Đức Giáo hoàng sang thăm Ấn độ, thấy mẹ đi lại công tác nhiều, tặng
mẹ một xe ô-tô sang trọng. Nhưng khi Đức Giáo hoàng về, mẹ đã bán xe
lấy tiền giúp người nghèo. Có 40 nguyên thủ quốc gia đến tham dự đám
tang của mẹ. Và Ấn độ, một nước không ưa gì đạo Công giáo, đã cử
hành quốc táng cho mẹ. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh
hồn mẹ trong khi các vị nguyên thủ quốc gia quyền uy đứng cúi đầu
kính cẩn trước thi hài vị nữ tu già nua, nghèo khó. Mẹ đã thực hành
Lời Chúa: “Phúc cho anh em là người
nghèo khó, vì nước Trời thuộc về anh em”.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Bạn có kinh nghiệm vui buồn gì về tiền bạc? Vì tranh chấp tiền
bạc mà mất tình nghĩa? Nhờ biết nhường nhịn về tiền bạc mà thêm
bạn hữu?
2- Lời Chúa hôm nay có chúc phúc và chúc dữ. Bạn thuộc diện nào?
Được chúc phúc hay bị chúc dữ?
3- So sánh cuộc đời của công nương Diana và cuộc đời của mẹ Terẽa,
bạn rút ra được quyết định nào cho đời bạn?
4- Tiền bạc và hạnh phúc. Bạn thấy chúng có liên hệ gì với nhau?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- 1S 26,2.7-9.12-13.22-23
- 1Cr 15,45-49
-
Lc 6, 27-38
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Bài đọc I và bài Tin mừng hôm nay đều nói về sự tha thứ. Nhưng ở mức
độ khác nhau.
Bài đọc I tường thuật sự tha thứ của David. David làm ơn mà mắc oán.
Sau khi chiến thắng Goliath, giải phóng dân Do thái khỏi tay người
Philistin, ông được dân chúng ca ngợi. Sự ngưỡng mộ của dân chúng đối
với David khiến vua Saul ghen tỵ. Saul tìm bắt David để giết đi. Hôm nay,
sau một cuộc săn lùng mệt mỏi, Saul ngủ thiếp đi trong hang đá. David
đến mà không ai hay biết. Có thể giết Saul, nhưng David đã không làm.
Trong David có cái mà ta gọi là bao dung, độ lượng, cao thượng. Tuy
nhiên sự tha thứ của David vẫn chưa hoàn toàn tự phát. Ông không dám
giết Saul một phần vì sợ xúc phạm đến “người được Thiên chúa xức
dầu”.
Trong quan hệ giữa người với người, nếu tha thứ bạn sẽ được tiếng là
độ lượng, còn người được tha thứ bị coi là thua kém bạn. Bạn được
lợi còn người kia bị thiệt.
Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu
đòi hỏi người môn đệ phải vượt qua cái thường tình. Người muốn môn
đệ vươn đến sự tha thứ hoàn hảo. Sự tha thứ hoàn hảo của Tin mừng
phải biểu lộ bằng hành động cụ thể: “Ai vả anh em má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt
áo ngoài của anh em, thì cũng đừng cản họ lấy áo trong. Ai xin thì
hãy cho, ai lấy cái gì của anh em, thì đừng đòi lại”.
Không chỉ dừng lại ở hành động bên ngoài, sự tha thứ hoàn hảo phải
thấm sâu vào lý trí, không lấy ác báo ác, nhưng cũng không nghĩ xấu
về người khác: “Anh em đừng xét
đoán, thì sẽ khỏi bị Thiên chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ
khỏi bị Thiên chúa lên án”.
Thấm vào lý trí đã là một bước tiến dài nhưng vẫn chưa đủ, sự tha
thứ còn phải lan đến tận trái tim là trung tâm của tình yêu. Khi đã
chiếm lĩnh được trái tim, sự tha thứ trở nên một sức mạnh kỳ diệu
dẫn đến những hành động tích cực, lấy đức báo oán, đem yêu thương
xoá bỏ hận thù. Khi ấy ta mới có thể thực hành Lời Chúa dạy: “Anh
em phải yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét mình, phải chúc
lành cho kẻ nguyền rủa mình và cầu nguyện cho kẻ nhục mạ mình”.
Với những lời dạy dỗ trên, Chúa Giêsu muốn cho môn đệ của Người tha
thứ và yêu thương không phải như người thường nhưng như Thiên Chúa “Người
nhân hậu cả với những phường vô ân, với những quân độc ác”. Người
muốn cho các môn đệ của Người “từ bi như Cha trên trời là Đấng từ bi”.
Với những lời dạy dỗ trên, Chúa Giêsu muốn thanh tẩy thế giới sạch
mọi oán thù. Không phải chỉ sạch oán thù ngoài mặt nhưng sạch từ
trong thâm tâm mỗi người. Không phải chỉ bằng mặt mà còn phải bằng
lòng. Sào huyệt vững chắc nhất của oán thù không phải ở nơi người
khác nhưng ở trong lòng ta. Muốn thế giới hết oán thù, chính bản thân
ta phải từ bỏ oán thù trước. Muốn thế giới sống trong yêu thương,
chính ta phải yêu thương trước. Yêu thương giống như ngọn lửa thắp lên
rồi sẽ cháy lan mạnh mẽ. Yêu thương giống như bầu khí toả ra sẽ lan
tới từng buồng phổi, sẽ thấm vào từng mạch máu. Yêu thương chính là
sức mạnh biến đổi thế giới sâu xa nhất. Yêu thương là cuộc cách mạng
bền vững nhất.
Chúa Giêsu không chỉ nói suông. Chính Người đã thực hành những điều
Người nhắn nhủ các môn đệ. Người để cho quân lính bắt đi như con chiên
hiền lành đứng trước người thợ xén lông. Người chữa lành tai cho kẻ
đến bắt Người. Người không nói một lời nào trách móc những kẻ làm
điều ác cho Người. Sau cùng, lúc bị treo trên thánh giá, Người còn
cầu nguyện cho những kẻ giết Người. Người đã minh chứng một tình yêu
nguyên tuyền không bợn chút oán thù. Người đã minh chứng một tình yêu
mãnh liệt vượt qua mọi ghen ghét.
Hạt giống yêu thương Người đã gieo xuống. Người mong ta tiếp tục vun
tưới cho cây yêu thương kết trái đơm hoa. Ngọn lửa yêu thương Người đã
thắp lên. Người mong ta hãy đem lửa ấy chiếu soi khắp thế giới.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn
lòng con nên giống Trái Tim Chúa.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Khi có người xúc phạm đến bạn, bạn thường tìm cách báo thù hay
tìm cách tha thứ?
2- Mỗi khi mang mối oán thù trong lòng, bạn cảm thấy thế nào? Thanh
thản hay bứt rứt?
3- Bạn đã tha thứ cho ai bao giờ chưa? Bạn cảm thấy thế nào sau khi đã
tha thứ?
4- Sự tha thứ hoàn hảo mà Chúa dạy ta là gì?
5- Chúa Giêsu đã thực hành sự tha thứ như thế nào?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Hc 27,4-7
- 1Cr 15,54-58
-
Lc 6, 39-45
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Tục ngữ nói: Đôi mắt là cửa sổ linh hồn. Là cửa sổ cho ta nhìn ra
thế giới bên ngoài. Nhìn ra để hiểu biết thế giới. Nhìn ra để đón
nhận thông tin. Nhưng khổ một nỗi, thông tin lọc qua ánh mắt nhiều khi
sai lạc. Có nhiều lý do.
Có ánh mắt sai lạc vì bị bệnh. Mắt bị bệnh sẽ nhìn không chính
xác. Nhìn không chính xác sẽ cho thông tin sai. Thông tin sai sẽ dẫn đến
phán đoán sai. Phán đoán sai sẽ dẫn đến hành động sai. Mắt hỏng mà
tưởng là còn tốt, mắt nhìn không thấy mà tưởng là thấy sẽ đưa đến
những hậu quả nguy hiểm như Chúa nói trong Tin mừng hôm nay: “Mù
mà dắt mù thì cả hai sẽ rơi xuống hố”.
Có ánh mắt sai lạc vì đeo kính mầu. Đeo kính mầu đen sẽ nhìn mọi sự
bằng mầu đen. Đeo kính mầu hồng mọi vật đều trở nên hồng. Kính lúp
có khả năng phóng đại tối đa sẽ làm cho ta có cái nhìn khác hẳn trên
một vật bình thường.
Mắt là cửa sổ linh hồn. Cửa sổ mở ra cũng là để người bên ngoài
nhìn vào linh hồn ta. Thật vậy, tâm hồn con người lộ hết trong đôi
mắt. Có những ánh mắt ngây thơ trong trắng bộc lộ tâm hồn tinh khiết
của trẻ thơ. Có những ánh mắt cao thượng cho thấy một tâm hồn luôn
hướng tới những lý tưởng cao đẹp. Có những ánh mắt tươi vui mở ra
một tâm hồn tràn trề nhựa sống. Có những ánh mắt ấm áp của một tâm
hồn bao dung độ lượng. Có những ánh mắt chiếu toả sự nhân từ của
trái tim yêu thương.
Nhưng cũng có những ánh mắt vẩn đục từ một tâm hồn nặng nề dục
vọng. Có những ánh mắt hằn lên tia lửa hận thù cuả một tâm hồn bị
thói ghen ghét thiêu đốt. Có những ánh mắt vụng trộm lén lút của
một tâm hồn ấp ủ những ý định xấu xa. Có những ánh mắt ham hố bộc
lộ một tâm hồn tham lam. Có những ánh mắt chán nản của một tâm hồn
thất vọng. Có những ánh mắt lờ đờ bạc nhược của một tâm hồn mất
hết sức sống. Có những ánh mắt soi mói của một tâm hồn nghi kị.
Thì ra những gì biểu lộ trong đôi mắt đều phát xuất từ đáy tâm hồn.
Khi tâm hồn bị bóng tối tội lỗi vây phủ, ánh mắt làm sao sáng suốt
nhìn rõ đường đi? Khi tâm hồn chìm trong đêm tối u mê, ánh mắt làm sao
tìm được con đường tươi sáng? Khi tâm hồn mù quáng, thì mắt sẽ chẳng
thấy được đường lối. Và “mù mà lại dắt
mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố”?
Mắt nhìn là phản ảnh tâm hồn. Người làm sao chiêm bao làm vậy. Ai hay
xét đoán người khác về nết xấu nào, chính là vì mình nghiêng chiều
rất mạnh về nết xấu ấy. Trong lòng có đầy miệng mới thốt ra. Có
cái xà trong mắt mình thì nhìn đâu cũng thấy rác. Tâm hồn đã xấu
thì nhìn ai cũng thành xấu cả.
Chính vì thế hôm nay Chúa dạy ta hãy xét mình trước khi xét người.
Hãy sửa lỗi mình trước khi sửa lỗi người. Hãy lấy cái xà ra khỏi
mắt mình trước rồi mới lấy được cái rác ở mắt người khác. Hãy
thanh tẩy đôi mắt của mình trước. Mắt mình thấy rõ rồi mới có thể
rửa mắt cho người.
Vì ánh mắt phản chiếu tâm hồn, nên muốn mắt trong sáng, ta phải thanh
tẩy tâm hồn. Muốn mắt nhìn rõ ràng, ta phải có tâm hồn đơn sơ. Muốn
mắt nhìn chính xác, ta phải có tâm hồn chính trực. Muốn mắt nhìn xây
dựng, ta phải có tâm hồn yêu thương. Muốn mắt nhìn lý tưởng, ta phải
có tâm hồn vươn cao. Muốn mắt nhìn tha thứ, ta phải có tâm hồn độ
lượng. Muốn mắt nhìn thân thiện, ta phải có tâm hồn rộng mở. Muốn
mắt nhìn thanh thoát phải có tâm hồn từ bỏ.
Lạy Chúa, xin thanh tẩy tâm hồn con, để con nhìn rõ bản thân con, nhờ
đó hiểu được anh em.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Mỗi khi xét đoán ai, bạn có để ý rằng mình cũng có những nết
xấu đó không?
2- Mỗi khi gặp một người lầm lỗi, bạn có thử đặt mình vào địa vị
người đó để thông cảm không?
3- Bạn nghĩ sao về thái độ của Chúa Giê-su đối với người phụ nữ
ngoại tình?
4- Phê bình bản thân cách nghiêm ngặt
và tự sửa lỗi chính mình là cách phê bình người khác có hiệu qủa
nhất. Bạn nghĩ sao về ý kiến này?
5- Muốn ánh mắt trong sáng ta phải
làm gì?
MÙA CHAY
&
PHỤC SINH
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
-
Ge 2, 12 – 18
- 2Cr 5,20 –
6,2
- Mt
6,1-6.16-18
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Nghi thức này
bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do thái. Trong Cựu ước, mỗi
khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do thái thường xức tro trên
đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra.
Cựu ước nói nhiều đến tập tục này. Nhưng dễ nhớ nhất là truyện dân
thành Ninivê. Ninivê là một thành phố lớn. Nhưng dân chúng ăn chơi truỵ
lạc, phạm nhiều tội lỗi. Thiên chúa muốn tiêu diệt thành này. Trước
khi phạt, Chúa sai tiên
tri
Giona đến báo động. Nghe vị ngôn sứ nói Chúa sắp trừng phạt, dân
thành sợ hãi bảo nhau bỏ đàng ăn chơi tội lỗi, tha thiết ăn chay cầu
nguyện, mặc áo vải thô, ngồi trên đống tro. Thấy dân chúng có lòng ăn
năn sám hối, Chúa đã tha phạt cho thành.
Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì
đã phạm nhiều tội lỗi. Tội nhân tự nhận mình không xứng đáng được
kính trọng, chỉ xứng đáng với tro bụi nhơ bẩn, với áo rách tồi tàn,
đáng bị khinh miệt, bị chà đạp như cát bụi bên đường.
Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con
người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người
như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết
tích. Cuộc đời giống như manh áo, hôm qua còn mới còn đẹp, hôm nay đã
cũ kỹ xấu xí, hôm qua còn lành lặn, hôm nay đã sờn rách.
Như thế, việc xức tro và xé áo có một nội dung ý nghĩa rất sâu xa.
Nhưng với thời gian, do những cử hành máy móc, các việc này dần dần
rơi vào thái độ hình thức bên ngoài. Người ta làm cho qua lần chiếu
lệ, chẳng còn có ý thức thống hối. Chính vì thế, tiên tri Giôen đã kêu
gọi dân chúng: “Hãy ăn chay, khóc
lóc, và thống thiết than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo” (Ge 2,
12b-13a). Nghi thức phải diễn tả
tâm tình thì việc cử hành mới có ích lợi. Việc xức tro sẽ vô ích
nếu trong lòng ta không dâng lên tâm tình sám hối. Việc xé áo sẽ trở
thành giả dối nếu tâm hồn ta không tan nát vì hối hận tội lỗi.
Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức
tro vào tâm hồn cho tâm hồn xót xa đau đớn vì tội lỗi. Hãy xức tro
vào thói kiêu căng để nó biết hạ mình xuống trong khiêm nhường bé
nhỏ. Hãy xức tro vào thói phô trương để nó biết chìm vào âm thầm
nghèo hèn. Hãy xức tro vào thói hận thù ghen ghét để nó đau đớn vì
đã không biết yêu thương. Hãy xức tro vào những mối chia rẽ bất hoà
để tẩy sạch vết thương, hàn gắn tình hiệp nhất. Hãy xức tro vào
tính ích kỷ để nó biết mở ra chia sẻ. Hãy xức tro vào thói lười
biếng để nó tỉnh thức chăm lo việc đạo đức. Xức tro như thế có khác
gì xát muối vào lòng, sẽ gây nên đau đớn xót xa, nhưng sẽ tẩy rửa
linh hồn nên trong trắng.
Xé áo chẳng có ích lợi gì nếu ta không xé lòng ra. Lòng ta bấy lâu
đã gắn bó với tội lỗi Tội lỗi ăn sâu dính chặt hầu như trở thành
một phần của tâm hồn. Muốn dứt lìa tội lỗi, phải xé nó ra. Hãy xé
lòng ra khỏi những đam mê dục vọng bất chính. Hãy xé lòng ra khỏi
thói tham lam tiền bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói nô lệ danh vọng chức
quyền. Hãy xé lòng ra khỏi thói ham mê ăn uống, rượu chè, cờ bạc.
Hãy xé lòng ra khỏi thói tự mãn tự tôn. Biết bao thứ đã trở thành
thiết thân. Những quan hệ, những tiền bạc của cải, những chức tước
danh vị, những thú ăn chơi, những tự ái, những giận hờn, tất cả đã
gắn chặt vào đời ta. Giờ đây phải xé nó ra. Đau đớn lắm. Vết thương
sẽ nặng lắm. Máu sẽ chảy nhiều lắm. Nhưng khi đã cắt bỏ được hết
những ung nhọt độc hại, linh hồn sẽ nhẹ nhàng, trong sạch và lớn
mạnh vì được đầy tràn ơn phúc và tình yêu của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy ban thêm sức mạnh cho con, để mùa Chay năm nay con
thực sự biết xức tro vào tâm hồn, biết xé tâm hồn trong đau đớn vì
tội lỗi. Lạy Chúa, xin đổi mới tâm hồn con.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Mỗi lần dự lễ tro, bạn có ý thức ý nghĩa sâu xa của việc xức tro
không?
2. Mỗi khi mùa Chay về, bạn có quyết tâm đổi mới đời sống không?
3. Hôm nay nếu phải xức tro vào tâm hồn, bạn sẽ xức vào nết xấu nào
trong bạn?
4. Hôm nay nếu phải xé lòng mình, vết thương nào sẽ làm bạn đau đớn
nhất. Bạn có dám xé nó ra không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Đnl
26,4-10
- Rm 10,8-13
-
Lc 4, 1-13
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Cám dỗ là chuyện xưa như trái đất. Từ khi có con người, đã có cám
dỗ. Hẳn ta không thể quên chuyện hai ông bà nguyên tổ sa chước cám dỗ
của ma quỉ. Dân Do thái, khi bị nô lệ dưới ách người Ai cập thì muốn
được tự do. Nhưng khi lang thang 40 năm trong sa mạc, phải chịu đói khát,
lại bị cám dỗ quay trở lại Ai cập để đựơc no ấm. Nhưng có thể nói,
3 cơn cám dỗ mà Chúa Giêsu phải đương đầu hôm nay gồm tóm tất cả mọi
thứ cám dỗ mà ta thường gặp.
Cơn cám dỗ thứ nhất: thoả mãn tức
khắc mọi nhu cầu. Sau khi Chúa Giêsu ăn chay 40 đêm ngày. Ma quỉ đề nghị
Người biến đá thành bánh mà ăn. Thật là một đề nghị hợp lý. Đói
thì phải ăn. Muốn ăn phải có bánh. Nhưng có bánh bằng cách nào mới
là vấn đề. Không phải cứ có nhu cầu là phải thoả mãn ngay. Và nhất
là không được dùng những cách không hợp đạo lý để thoả mãn những nhu
cầu của mình. Cơm bánh tượng trưng cho những nhu cầu thiết yếu của con
người. Nhu cầu của con người thì có nhiều và có khuynh hướng ngày
càng gia tăng. Vì thế cơn cám dỗ thoả mãn nhu cầu ngày càng lớn.
Cơn cám dỗ thứ hai: muốn có
quyền lực thống trị. Ma quỉ biết Chúa
Giêsu
muốn cứu độ loài người, nên đề nghị tặng Người tất cả các nước trên
trần gian. Có lẽ nhiều người nghĩ rằng đề nghị của ma quỉ là hợp
lý. Cứ có quyền thống trị trên hết mọi dân nước rồi nói gì người ta
chẳng nghe. Chúa sẽ không phải mất công chịu đau khổ chịu chết. Chỉ
cần quì xuống thờ lạy ma quỉ, vua quan dân chúng các nước sẽ răm rắp
tuân theo. Thật là tiện lợi. Quyền lực là một cơn cám dỗ muôn đời
của nhân loại. Từ ngàn xưa, vua chúa các nước đã không ngừng gây chiến
để tranh dành quyền lực. Ngày nay, trong các cuộc chiến mới, người ta
không còn giết nhau bằng gươm đao, súng đạn, nhưng bằng quyền lực kinh
tế, khoa học, kỹ thuật. Tuy êm đềm nhưng cuộc chiến vô cùng khốc liệt.
Cơn cám dỗ về quyền lực thống trị không những không suy giảm mà còn
mãnh liệt hơn.
Cơn cám dỗ thứ ba: tìm những điều
kỳ la. Muốn những chuyện thần kỳ. Muốn làm được những việc kinh thiên
động địa. Muốn có những thành công lẫy lừng. Cơn cám dỗ này thúc
đẩy người ta đổ xô đi tìm phép lạ. Cơn cám dỗ xây tháp Baben từ ngàn
xưa vẫn còn tiếp diễn.
Xuyên qua những cơn cám dỗ ấy ta thấy ma quỉ thật vô cùng tinh khôn và
hiểm độc.
Với cơn cám dỗ thứ nhất, ma quỉ muốn xô đẩy con người làm nô lệ cho
dục vọng. Xúi giục con người
chỉ tìm thoả mãn những bản năng thấp hèn. Giới hạn con người vào sự
sống xác thịt. Chúa
Giêsu
đã vạch trần âm mưu của ma quỉ khi Người cho biết con người không chỉ
có đời sống thể lý mà còn có đời sống tâm linh. Người nâng cao phẩm
giá con người khi quyết tâm chống lại cơn cám dỗ thoả mãn những nhu
cầu thân xác để chăm lo cho sự sống tâm linh.
Với cơn cám dỗ thứ hai, ma quỉ muốn biến con người thành nô lệ cho
tham vọng, nô lệ cho ma quỉ. Vì ham hố chức quyền, vì mưu cầu danh
vọng mà đánh mất tự do của mình, cam tâm làm nô lệ cho ma quỉ. Vì
tham vọng mà đánh mất chính mình. Chúa Giêsu vạch trần âm mưu đen tối của
ma quỉ khi cương quyết chối từ danh vọng quyền thế. Người còn chỉ cho
ta con đường duy nhất phải theo đó là thờ phượng Thiên chúa. Chỉ có
thờ phượng Thiên chúa mới đem đến cho con người tự do đích thực, tự do
trong tâm hồn, không bị nô lệ một tham vọng nào.
Với cơn cám dỗ thứ ba, ma quỉ đẩy con người vào nô lệ cho cuồng vọng.
Điên cuồng đến chống lại Thiên chúa. Dùng Thiên chúa để phục vụ cho
những ước vọng ngông cuồng của mình. Không đến với Chúa trong tâm tình
của người con thảo đối với Cha hiền. Chúa Giêsu
đã vạch trần
âm mưu của ma quỉ. Người chỉ cho ta con đường của người con hiếu thảo.
Người con hiếu thảo tin cậy phó thác và luôn làm theo ý Cha, chứ không
bao giờ dám thách thức Cha. Người con hiếu thảo vâng lệnh Cha sai bảo
chứ không bao giờ dám sai bảo Cha.
Cám dỗ của ma quỉ hiểm độc vì nó tiến từng bước: Từ hạ thấp phẩm
giá con người khi khiến con người làm nô lệ cho dục vọng đến cướp mất
tự do của con người khi xui giục con người nô lệ cho ma quỉ. Và sau
cùng đi đến chỗ tận cùng là chối bỏ Thiên chúa, không coi Thiên chúa
là cha. Cám dỗ cang hiểm độc vì ma quỉ đã khéo léo bọc những âm mưu
thâm hiểm trong lớp vỏ nhung lụa, êm ái, hợp lý và đầy quyến rũ của
những nhu cầu, quyền lực và uy tín.
Ngày nay, những cơn cám dỗ của ma quỉ vẫn như những chiếc bẫy giăng ra
để trói buộc con người trong vòng nô lệ. Cám dỗ càng ngày càng tinh
vi và càng ngọt ngào hơn nên càng hiểm độc hơn. Muốn chống trả được
những cơn cám dỗ, ta phải bắt chước Chúa Giêsu dùng những
vũ khí sắc bén, đó là ăn chay cầu nguyện, thấm nhuần Lời Chúa và
luôn sống tâm tình của người con thảo đối với Chúa.
Lạy Chúa, xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con
cho khỏi sự dữ.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Bạn đã gặp nhiều cơn cám dỗ, Bạn đã chống trả những cơn cám dỗ
như thế nào?
2- Có những việc lúc đầu bạn thấy là tốt. Mãi sau này bạn mới biết
là xấu. Bạn có nghĩ đó là âm mưu của ma quỉ không?
3- Bạn có ý thức rằng ma quỉ vẫn đang hoạt động mạnh mẽ trong thế
giới ngày nay không?
4- Mùa Chay này, bạn sẽ làm gì để phòng chống âm mưu ma quỉ?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- St
15,5-12.17-18
- Pl 3,17 –
4,1
-
Lc 9, 28b
– 36
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Mùa Chay mang mầu tím ảm đạm. Mầu tím buồn để ta nhớ đến thân phận
tội lỗi yếu hèn của mình. Mầu tím buồn để ta nhớ đến cuộc sống
mong manh chóng tàn nơi cõi thế. Mầu tím buồn đưa ta đi theo bước Chúa
Giêsu trên đường khổ nạn. Mầu tím buồn nhắc ta nhớ đến cái chết đau
khổ của Người trên thánh giá.
Giữa bầu khí ảm đạm của mùa Chay, hôm nay bỗng bừng lên làn ánh sáng
chói chan từ đỉnh núi Tabo. Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện. Đang khi cầu
nguyện, dung mạo Người bỗng dưng đổi khác. Thần tính phát lộ khiến
dung mạo Người trở nên sáng láng.
Ánh sáng rực rỡ
làm say mê tâm hồn các môn đệ. Được sống trong khung cảnh thần thiêng
thánh thiện, các ông không muốn rời bỏ đỉnh núi nữa.
Ta hãy nhớ lại, trước đó 8 ngày, khi Chúa Giêsu loan báo Người đi lên
Giêrusalem
để chịu đau khổ và chiụ chết, Phêrô đại diện cho các môn đệ đã phản
đối. Ông không muốn chấp nhận thánh giá. Ông không muốn Thầy mình dấn
thân vào con đường chịu chết khổ nhục. Thế mà hôm nay, đứng trước vinh
quang của Thầy, ông đã say mê và đề nghị Thầy trò cùng ở lại trên
ngọn núi hạnh phúc. Trốn khổ tìm sướng vẫn là cái thường tình của
con người. Nhưng Chúa Giêsu đã dẫn các môn đệ xuống núi để tiếp tục
con đường lên Giêrusalem chịu chết.
Việc Chúa Giêsu biến hình trên núi như thế là có chủ đích. Người hé
lộ thần tính của Người để các môn đệ thêm niềm tin tưởng. Người cho
các ông thấy vinh quang của thần tính để các ông chấp nhận con đường
đau khổ Người sắp trải qua.
Việc Chúa biến hình ban cho các môn đệ niềm
hi vọng. Hi vọng đó
là: con đường đau khổ sẽ dẫn đến hạnh phúc. Cái chết tủi nhục sẽ
dẫn đến ngày Phục sinh hân hoan. Thiếu niềm hi vọng không ai có thể
sống ở đời. Người nông phu chăm bẵm mảnh ruộng, thức khuya dậy sớm,
dãi nắng dầm mưa cấy cầy, vì hi vọng vào mùa gặt bội thu. Người học
sinh kiên nhẫn ngày ngày cắp sách đến trường, đêm đêm chong đèn đọc
sách, vì hi vọng vào kết quả mùa thi tốt đẹp. Người cha, người mẹ
tần tảo sớm hôm, quên mình để lo cho con cái, vì hi vọng tương lai con
cái sẽ tốt đẹp hơn. Niềm hi vọng vào vinh quang Phục sinh sẽ giúp các
môn đệ can đảm chấp nhận cuộc khổ nạn thương đau và cái chết tủi
nhục của Thầy chí thánh.
Việc Chúa Giêsu biến hình đã biến đổi
cách nhìn của các môn đệ về con người và cuộc đời. Từ nay
các ông sẽ không nhìn ở bề mặt mà biết nhìn vào bề sâu. Bên trong
thân xác phàm nhân của Chúa Giêsu có ẩn chứa bản tính Thiên chúa. Bên
trong cuộc khổ nạn tủi nhục có gieo sẵn mầm mống Phục sinh vinh quang.
Cũng thế, bên trong mỗi thân xác có hiện diện của một linh hồn. Bên
trong mỗi con người phàm trần có ẩn tàng mầm mống thần linh. Bên trong
những thửa ruộng khổ đau có gieo sẵn hạt mầm hạnh phúc. Trong những
vất vả nhọc nhằn tăm tối hôm nay đã hứa hẹn thành công tươi sáng của
ngày mai.
Việc Chúa biến hình giúp các môn đệ
hiểu biết định mệnh con người. Bản tính Thiên chúa nơi Chúa
Giêsu đã chiếu sáng trên xác phàm con người. Con người được rạng ngời
vinh quang Thiên chúa. Đó là điềm báo trước: mang sẵn trong mình mầm
mống thần linh, con người sẽ trở về với Thiên chúa. Cuộc trở về phải
vượt qua những đớn đau, những gian nan, những thử thách. Nhưng đã biết
được đích đến, ta sẽ vui lòng đón nhận tất cả. Vì thế, đạo Công
giáo tuy đề cao đau khổ, nhưng không rơi vào yếm thế, bi quan. Đau khổ
chỉ là phương tiện. Chấp nhận thánh giá, vì đó là nhịp cầu cần
thiết để con người vượt qua từ sự chết đến sự sống, từ khổ đau đến
hạnh phúc, từ tủi nhục đến vinh quang.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Những đau khổ góp phần rèn luyện bạn nên người. Bạn có kinh nghiệm
gì về điều đó?
2- Bạn thường đánh giá người khác theo tiêu chuẩn nào? Qua diện mạo
bên ngoài, hay qua giá trị bên trong?
3- Qua thập giá tới vinh quang. Bạn có quyết tâm gì để thực hiện điều
đó trong mùa Chay năm nay?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Xh 3,1-8a.13-15
- 1Cr 10,1-6.10-12
-
Lc 13, 1-9
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Mùa Chay là mùa sám hối. Sám hối là đổi mới tâm hồn. Muốn đổi mới
tâm hồn, phải đổi mới cách nhìn về con người và cuộc đời, về bản
thân và tha nhân. Hôm nay, Chúa Giêsu dạy ta những cách nhìn thời cuộc
và biến cố theo tinh thần của Người.
Thông thường, trước một biến cố, ta dễ có cái nhìn
chính trị. Hôm nay,
người ta thuật lại việc Philatô giết những người Do thái trong Đền
thờ. Thời ấy, đế quốc Rôma đang thống trị nước Do thái. Philatô là
viên tổng trấn của Rôma. Tường thuật biến cố đau thương này, người ta
mong Chúa Giêsu có cái nhìn chính trị, dấn thân vào chính trị. Người
ta mong Chúa Giêsu kết án Philatô. Không bàn chính trị, không làm chính
trị, cho dù sau này Chúa Giêsu vẫn bị kết án vì một tội chính trị.
Không kết án Philatô, dù sau này chính Người bị viên tổng trấn này
kết án.
Trước mọi biến cố, Chúa Giêsu muốn ta có một cái nhìn tôn giáo, vượt
lên trên lĩnh vực chính trị. Từ một câu hỏi thuộc bình diện chính
trị, Chúa Giêsu đã đưa ra một giải đáp thuộc bình diện tôn giáo. Từ
một biến cố gây xôn xao dư luận, Chúa Giê-su mời gọi ta hãy ăn năn sám
hối. Từ cái chết của thể xác, Chúa Giê-su hướng suy nghĩ ta tới cái
chết của linh hồn:
“Các ông tưởng mấy người Galilê đó bị như vậy là vì họ tội lỗi hơn
những người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế
đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như
vậy”.
Đối với người khác, ta dễ có cái nhìn
kết án. Khi gặp một người mù từ thuở mới sinh, người ta hỏi
Chúa Giêsu: “Đây là do tội nó hay tội của cha mẹ nó”? Gặp người phụ nữ
phạm tội ngoại tình, người ta muốn kết án chị. Người ta có thói quen
cho rằng thành công là ân huệ Chúa thưởng cho người đạo đức, còn tai
hoạ là hình phạt Chúa dành cho kẻ tội lỗi. Hôm nay, chứng kiến những
nạn nhân bị thiệt mạng, những người tường thuật đều nghĩ rằng những
nạn nhân ấy chết vì họ tội lỗi, còn tôi vô sự, điều đó chứng tỏ tôi
vô tội. Chúa Giêsu lên tiếng cảnh báo họ: Các ông cũng là kẻ tội
lỗi. Nếu các ông không ăn năn hối cải, các ông sẽ chết thảm khốc hơn
những nạn nhân kia nữa. Chúa Giêsu dạy ta có cái nhìn bao dung. Nếu có
phải xét đoán, hãy xét mình trước khi xét người. Nếu có phải lên
án, hãy lên án chính bản thân mình trước khi lên án người khác: “Hãy
lấy cái đà ra khỏi mắt ngươi trước, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái
rác ra khỏi mắt anh em”. “Ai trong
các ông vô tội hãy ném đá chị này trước đi”.
Sau cùng, ta thường có cái nhìn
ảo tưởng. Ta xây dựng những
chương trình to lớn, những tham vọng đổi mới xã hội. Chúa Giêsu dạy ta
hãy có cái nhìn thực tế: Đừng ảo tưởng với những chương trình to
tát, lấp biển vá trời. Hãy bắt đầu bằng những việc nhỏ bé. Đừng
có ảo tưởng đổi mới xã hội, cải tạo thế giới. Trước hết, hãy đổi
mới chính mình, cải tạo bản thân mình. Tục ngữ Trung quốc có câu:
Nếu mỗi người trồng hoa trước cửa nhà mình, cả thế giới sẽ biến
thành một vườn hoa đẹp. Đổi mới chính mình đó là góp phần vào đổi
mới thế giới.
Với những bài học ấy, Chúa Giêsu hướng ánh mắt ta lên cao, vượt thoát
lĩnh vực tự nhiên để vươn tới lĩnh vực siêu nhiên. Với những bài học
ấy, Chúa Giêsu hướng cái nhìn của ta xuyên qua những lớp bì phu bên
ngoài để soi chiếu vào chiều sâu nội tâm. Với những bài học ấy, Chúa
Giêsu hướng cái nhìn của ta ra khỏi những ảo tưởng, đối diện với
thực tế bản thân để trước mỗi biến cố ta tự xét và đổi mới chính
mình.
Lạy Chúa, xin đổi mới trái tim con.
III. KIỂM ĐIỂM
ĐỜI SỐNG
1- Trong các biến cố, bạn có tìm thấy ý Chúa không?
2- Bạn có nghĩ rằng hễ ai gặp may thì đó là người đạo đức, ai gặp
tai nạn thì đó là người tội lỗi không?
3- Muốn đổi mới gia đình, xã hội, phải đổi mới bản thân trước. Bạn
nghĩ sao về điều này?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Gs
5,9a.10-12
- 2Cr
5,17-21
-
Lc 15, 11-32
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Ta thường gọi là dụ ngôn “Người con hoang đàng”. Cách gọi này không
được chính xác. Trước hết vì sự trở về của đứa con không đáng làm
khuôn mẫu cho ta. Hơn nữa, xét theo bối cảnh và nội dung, Chúa Giêsu,
khi kể dụ ngôn này, có ý đề cao tình yêu thương, lòng khoan dung nhân
hậu của người cha.
Bối cảnh: Nhóm Pharisêu và các kinh sư chê trách Chúa Giêsu vì Người
ngồi ăn với những kẻ tội lỗi. Để trả lời họ, Chúa Giêsu kể một
chuỗi 3 dụ ngôn: Con chiên đi lạc, Đồng bạc bị mất và Người cha nhân
hậu.
Nội dung: Có thể coi đây là một vở kịch 2 màn.
MÀN 1: NGƯỜI
CHA VÀ ĐỨA CON ÚT.
Đứa con ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.
Sự ích kỷ được biểu lộ trước hết trong việc xin chia gia tài.
Ở nhà chung mà chỉ
nghĩ đến vun quén riêng. Không đóng góp mà chỉ muốn rút rỉa. Không
làm việc mà chỉ muốn hưởng thụ. Sự ích kỷ đạt đến mức tồi tệ
đáng kinh tởm khi nó dám mở miệng xin chia gia tài. Theo truyền thống
phương đông, gia tài chỉ được chia sau khi cha mẹ đã qua đời. Xin chia gia
tài lúc cha mẹ còn sống có khác nào cầu mong cha mẹ mau chết đi!
Có tiền bạc trong tay, nó bắt đầu ăn tiêu phung phí. Cách ăn tiêu nói
lên tính ích kỷ của đứa con. Nó tiêu tiền mà không nghĩ gì đến mồ
hôi nước mắt của cha mẹ. Nó tiêu tiền chỉ để thoả mãn dục vọng. Nó
dùng tiền bạc để cung phụng bản thân. Khi có tiền nó chẳng nghĩ đến
ai, nên khi hết tiền, chẳng còn ai gắn bó, sẵn sàng giúp nó qua cơn
túng thiếu. Túng cùng quá mới phải trở về.
Sự ích kỷ vẫn còn đó trong toan tính trở về. Nó không hề nghĩ đến
cha mẹ. Nó không hề nghĩ đến tình thương. Nó chỉ nghĩ đến cái bụng.
Về nhà để được ăn no. Chỉ có thế.
Người cha hoàn toàn quên mình vì con.
Khi đứa con xin chia gia tài, ông đã chia ngay, không so đo tính toán,
không hạch sách khó khăn. Ông không nghĩ đến bản thân, không tự ái, chỉ
mong sao con cái được vui lòng.
Khi con đã ra đi, ông ngày đêm thương nhớ, ngày nào cũng ra ngõ đứng
chờ. Thật tội nghiệp, con ra đi chẳng nhớ nhung gì đến cha mà cha không
phút giây nào ngừng thương nhớ con. Con chỉ biết tìm vui cho bản thân
trong khi cha mỏi mòn trông đợi. Con chỉ biết đến tiền bạc, còn cha
chẳng quan tâm gì đến tiền của, nhưng chỉ cần có con.
Cảm động nhất và cũng chan chứa tình thương nhất là phút giây gặp
gỡ. Một phút giây vắn vỏi mà nói lên bao nhiêu điều về tình thương
của cha. “Anh ta còn ở đàng xa thì
người cha đã trông thấy”. Khi con chưa nhìn thấy cha thì cha đã nhìn
thấy con. Mắt chàng trai trẻ hẳn phải tinh anh hơn mắt ông cụ đã nhoà
dòng lệ vì thương nhớ chứ. Thế mà cha đã nhìn thấy con trước. Vì cha
không nhìn bằng mắt nhưng nhìn bằng trái tim. Trái tim yêu thương có đôi
mắt tinh tường giúp nhận ra ngay bóng người yêu dấu. Trái tim con không
còn yêu thương nên nhìn mà chẳng thấy cha. Trái tim con khô cằn nên mắt
vẫn sáng mà chẳng khác mù loà. Trái tim cha đầy ắp yêu thương nên đã
loà rồi mà vẫn thấy rõ con ngay từ đàng xa.
“Ông
chạnh lòng thương”. Trái tim dạt dào yêu thương quên hết tất cả lầm
lỗi của đứa con. Tình cảm đầu tiên dâng lên trong tim ông không phải là
tiếc xót nửa gia tài đã mất, cũng không phải là tức giận thằng con
phá gia chi tử, nhưng lại là chạnh lòng thương. Yêu quá nên người cha
chẳng còn nhìn thấy gì khác hơn là đứa con tiều tuỵ rách rưới. Yêu
quá nên người cha chẳng nhìn thấy lầm lỗi mà chỉ nhìn thấy nỗi khổ
của con. Trong trái tim ông, chỉ có tình thương dành cho con, nên vừa
gặp con là tim đã rộn ràng xúc động.
“Chạy lại ôm cổ con”. Lại một cử
chỉ lạ lùng. Cha không chờ con tới theo đúng lễ phép mà đã vội vàng
chạy lại ôm con. Tình yêu thương thúc đẩy, niềm vui dâng dạt dào khiến
người cha không chần chờ được nữa. Bất chấp thân phận cao quý của
mình, ông chạy đi như một đứa trẻ được quà. Bất chấp tuổi tác của
mình, ông nhanh nhẹn như một thanh niên sung sức. Đứa con tuổi còn trẻ
mà sao chẳng nhanh nhẹn bằng ông già? Vì trong tim nó thiếu tình yêu.
Trái tim không tình yêu cũng giống như cơ thể không sức sống. Ông già
mà nhanh nhẹn vì ông không chạy bằng sức lực của đôi chân. Ông chạy
bằng trái tim. Ông bay bằng tình yêu. Tình yêu chắp cánh cho ông.
“Hôn
lấy hôn để”. Chẳng còn bút nào tả xiết niềm vui của người cha khi
gặp lại đứa con. Những nụ hôn không ngớt đủ nói lên tình cảm dạt dào
ông dành cho nó. Ông ôm chặt như để giữ không cho nó ra đi nữa.
Trong một thoáng, khi đứa con chưa có một động tác nào thì người cha
đã có 4 động tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn.
Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn bất động thì
ông lão già nua đã thực hiện 4 động tác rất nhanh nhẹn. Ông thật là
người cha phung phí. Ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với
đứa con trở về. Ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách
dễ dãi. Ông đã phung phí khi đem áo mới, giầy mới, nhẫn vàng, lại
còn tổ chức một bữa tiệc mừng có bê béo, có cả đàn hát múa nhảy
để đón đứa con đi hoang trở về. Làm thế chẳng sợ hàng xóm cười cho!
Nói tóm lại ông đã phung phí tình yêu thương. Yêu thương quá độ. Yêu
thương đến vô lý. Mà có lý lẽ nào giải nghĩa được yêu thương? Chỉ có
tình yêu thương mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.
MÀN 2: NGƯỜI
CHA VÀ ĐỨA CON CẢ.
Đứa con cả đi hoang trong tâm hồn.
Đứa con cả vẫn ở nhà, nhưng thực ra chỉ có thân xác ở nhà, còn tâm
hồn nó đã đi hoang từ lâu. Tuy ở trong gia đình, nhưng tâm hồn nó không
thuộc về gia đình. Nó làm việc không phải với tâm tình của một người
con hiếu thảo coi “mọi sự của cha là của con”. Nó muốn vun quén riêng
tư. Nó làm việc với tinh thần nô lệ, mong được trả công, chỉ nghĩ đến
con “bê nhỏ”, đến “bạn bè” riêng của nó.
Sống bên cha mà tâm hồn nó xa tâm hồn cha biết bao. Nó không sao chia sẻ
được những tình thương, những ưu tư, hoài bão của cha. Cha là tình
thương nhưng con chỉ là ích kỷ. Cha là bao dung nhưng con chỉ là hẹp
hòi. Tâm hồn cha rộng mở bao nhiêu thì tâm hồn con khép kín bấy nhiêu.
Cha chỉ biết tha thứ trong khi con chỉ biết kết án. Thật là khác biệt
ngàn trùng.
Cha đi tìm con
Một lần nữa, người cha lại phải bỏ nhà ra đi, bỏ dở bữa ăn để tìm
đứa con đi hoang trong tâm hồn. Vẫn với cử chỉ dịu dàng cố hữu; vẫn
với những lời lẽ ôn tồn; vẫn với ánh mắt chan chứa cả một trời bao
dung, cha cố gắng thuyết phục đứa con cả trở về.
Nếu đứa con út cần một cuộc trở về thì đứa con cả cần tới hai cuộc
trở về: về với cha và về với em. Đi hoang trong tâm hồn xa xôi diệu
vợi thế!
Qua dụ ngôn này Chúa cho thấy dù tôi là con út hay con cả, tôi vẫn cần
trở về. Vì nếu tôi chưa đi hoang trong đời sống, chắc chắn đã rất
nhiều lần tôi đi hoang trong tâm hồn: suy nghĩ và hành động của tôi
khác hẳn với đường lối của Thiên chúa là Cha; tôi vẫn không muốn chấp
nhận anh em tôi.
Nhưng dụ ngôn cũng cho tôi an tâm trở về. Hình ảnh người cha hiền đứng
đợi mời gọi tôi mau bước. Chúa là người Cha yêu thương tôi trước khi tôi
yêu Người, đi tìm tôi trước khi tôi đi tìm Người, tha thứ cho tôi trước
khi tôi xin lỗi Người.
Lạy Chúa là Cha nhân từ, con cảm tạ tình yêu thương vô vàn của Cha. Xin cho con biết mau mắn trở về với Cha.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Xét mình, bạn thấy mình giống ai trong hai người con trong bài Tin
mừng?
2. Bạn có thấy tình yêu thương của người cha không?
3. Bạn có cảm nghĩ gì sau khi đọc dụ ngôn “Người Cha nhân hậu” này?
4. Bạn có cần sám hối để trở về với Chúa là Cha không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Is
43,16-21
- Pl 3,8-14
-
Ga 8, 1 – 11
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Càng đi sâu vào mùa Chay, ta càng đi sâu vào tình yêu của Thiên chúa.
Tuần trước ta đã được tắm gội trong tình yêu tràn trề của người cha
nhân hậu. Tuần này ta lại được hưởng nếm lòng khoan dung nhân hậu của
Chúa Giêsu.
Bài Tin mừng hôm nay trình bày một phiên toà. Bị cáo là người phụ
nữ. Nguyên cáo là các kinh sư và những người Pharisêu. Tội phạm là
tội ngoại tình. Bản án là tử hình bằng cách ném đá. Thực ra họ
không cần đến Chúa Giêsu làm quan toà. Họ có thể căn cứ vào luật Môsê
để thi hành án. Họ đến hỏi ý kiến Chúa Giêsu không phải với thiện ý
nhưng nhằm gài bẫy Người. Tha cho người phụ nữ là Người chống lại
luật Môsê. Kết án người phụ nữ là Người mâu thuẫn với chính mình vì
Người vẫn giảng dậy về lòng nhân từ thương xót. Cái bẫy thật hiểm
độc. Đằng sau bản án của người phụ nữ chính là bản án dành cho
Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu im lặng, cúi xuống viết trên đất. Người im lặng vì không
đồng tình với thái độ của họ. Người im lặng để mọi người có thời
gian lắng đọng tâm hồn. Người không trả lời vì câu hỏi họ đặt chưa
đúng chỗ. Người không trả lời câu hỏi của họ để đưa ra cho họ một câu
hỏi khác cơ bản hơn.
Người cúi xuống để người phụ nữ khỏi xấu hổ. Người cúi xuống để
những kinh sư và những người Pharisêu biết nhìn vào tâm hồn mình.
Người cúi xuống buồn phiền vì sự độc ác của con người.
Vì họ cứ hỏi mãi nên Người đành ngẩng lên. Họ chờ đợi Người lên
tiếng thì Người lên tiếng. Nhưng lời Người khiến họ chới với. “Ai
trong các ông sạch tội, cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Họ mời
Chúa Giêsu làm quan toà xét xử người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại
trở thành quan toà xét xử họ. Họ đợi chờ Chúa Giêsu
kết án người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại kết án họ. Họ mang đá
đến để ném vào người phụ nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại ném một hòn
đá vào lương tâm họ.
Có điều, họ muốn Chúa Giêsu làm quan toà giết chết, nhưng Chúa Giêsu
lại là quan toà cứu sống. Hòn đá họ mang đến với mục đích ném chết
người phụ nữ. Hòn đá Chúa Giêsu ném vào lương tâm giúp lương tâm họ
sống lại, bừng tỉnh khỏi mê muội, nhận biết mình tội lỗi, nên họ đã
lần lượt rút lui không dám kết án người phụ nữ nữa.
Xét xử các kinh sư và những người Pharisêu rồi, Chúa Giêsu mới xét xử
người phụ nữ. Với ánh mắt dịu dàng, lời lẽ hiền từ, Người đã đưa
ra lời phán xét: “Tôi không kết án
chị đâu! Thôi, chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Thật
là một lời phán xét lạ lùng. Lời phán xét của Chúa không tàn nhẫn
độc đoán nhưng dịu dàng nhân hậu. Lời phán xét của Chúa không soi mói
xét nét nhưng đại lượng bao dung. Lời phán xét của Chúa không cay đắng
trách móc nhưng ân cần vỗ về. Lời phán xét của Chúa không sỉ nhục
con người tội lỗi nhưng phục hồi nhân phẩm cho ta. Lời phán xét của
Chúa không giam cầm tội nhân trong quá khứ, nhưng mở cho ta một tương
lai. Chúa đã dứt bỏ và quên hết quá khứ lầm lỗi của ta. Chúa không
nghi ngờ ta vốn hay phản bội. Chúa hoàn toàn tin tưởng khi trao tương
lai vào tay người phụ nữ: “Hãy về
đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng tình yêu và sự tha thứ
của Chúa là vô điều kiện. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu
rằng con người đáng quí đáng trọng không phải ở quá khứ nhưng ở tương
lai, không phải ở cái họ đã là nhưng ở cái họ sẽ là. Với lời tha
thứ của Chúa Giêsu tôi yên tâm đóng lại quá khứ để bắt đầu một tương
lai mới, bước đi trong tình yêu thương và niềm tin tưởng của Thiên chúa.
Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu rằng lòng thương xót của Chúa
là vô biên. Người không lên án người phụ nữ phạm tội, cũng không lên
án những người tố cáo chị.
Lạy Chúa, con cảm tạ lòng thương xót vô biên của Chúa.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Lên án và tha thứ, bạn làm điều nào nhiều hơn?
2- Mỗi khi xét người, bạn có xét mình trước không?
3- Bạn có cảm nhận được lòng thương xót của Chúa trong đời sống của
bạn không?
4- Khi đã tha thứ cho ai, bạn có hoàn toàn tin tưởng vào thiện chí
của người đó không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Is 50,4-7
- Pl 2,6-11
-
Lc 22,14 - 23,5
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Ngày lễ Lá cho ta chứng kiến những đổi thay bất ngờ của cuộc đời và
của lòng người. Dân chúng vừa mới hân hoan cầm cành lá đón tiếp Chúa
đã lập tức quay lại la ó kết án Chúa. Chúa Giêsu vừa mới long trọng
vào thành như một ông vua nay đã phải đứng trước toà Philatô như một
tử tội. Giuđa vừa ăn chung một bánh, uống chung một chén với Thầy đã
vội vàng ra đi nộp Thầy. Các môn đệ vừa mới ngồi đồng bàn với Thầy
nay đã bỏ trốn. Phêrô vừa mới hăng hái thề sống chết bên Thầy đã mau
chóng hèn nhát chối Thầy.
Những biến cố dồn dập, những đợt sóng thù hận giận dữ dâng cao đến
tột đỉnh như muốn nghiền nát Chúa Giêsu. Nhưng Người vẫn luôn giữ được
tâm hồn bình an thanh thản, thái độ quan tâm ân cần và trái tim chan
chứa yêu thương.
Trước hết ta thấy Người thanh thản và chủ động bước vào cuộc Thương
khó khi Người nói với các môn đệ: “Thầy
ước ao dự bữa tiệc Vượt qua với các con”. Trước cái chết ai cũng
run sợ. Nếu chết là hết thì cái chết thật là đáng sợ. Nhưng với
Chúa Giêsu, chết là về cùng Chúa Cha. Người yêu mến Chúa Cha, khao
khát kết hợp
với Chúa Cha, nên Người thanh thản bước vào cuộc khổ nạn để được về
cùng Cha.
Quân lính hung hãn đến bắt Chúa Giêsu, nhưng Người vẫn hiền hoà không
kháng cự.
Bị vây bọc trong bầu khí sắt máu, Người vẫn cư xử với lòng nhân hậu
khoan dung. Không lo cho an nguy của bản thân, giữa lúc khó khăn khốn đốn
vẫn mở rộng bàn tay nhân ái chữa lành vành tai bị đứt của người đày
tớ vị thượng tế.
Khi Giuđa đến hôn mặt Chúa Giêsu, Người vẫn đối xử một cách lịch sự,
tế nhị. Đối lại tội phản nghịch tày trời, Người chỉ nhẹ nhàng nhắc
nhở, hi vọng đánh thức lương tâm người học trò mê tiền mà đi đến phản
bội.
Lúc đang xét xử, dù phải chịu nhục nhã cay đắng, Người vẫn quan tâm
đưa mắt nhìn Phêrô. Vị đại diện các môn đệ, sau khi chối Thầy, đã
nhận được ánh mắt âm thầm của Thầy.
Ánh
mắt hiền dịu mà đau khổ. Anh mắt trách móc thì ít mà tha thiết van
xin thì nhiều.
Ánh
mắt nhân từ tha thứ đã khiến Phêrô ray rứt khôn nguôi.
Trên đường lên Núi Sọ, dù vai phải mang cây thánh giá nặng nề, dù bản
thân yếu mệt và tủi nhục, Người vẫn còn đứng lại an ủi những người
phụ nữ khóc lóc, an ủi đám dân đã tố cáo, đã kết án Người.
Trên thập giá, lúc đớn đau đã thấm vào đến tận xương tuỷ, lúc sức
lực đã cạn mòn, Người vẫn còn quan tâm lắng nghe người trộm lành.
Còn hơn thế nữa, Người tha thứ cho những sĩ quan, những binh lính đã
hành hạ Người. Người không chỉ tha thứ mà còn cầu nguyện xin Chúa Cha
tha cho tất cả mọi người có dính líu vào việc xử án Người.
Tình yêu thương của Người là làn ánh sáng xé tan bóng đêm thù hận,
chiếu soi cả những người ghét ghen. Tình yêu thương của Người giống như
loài gỗ quí nhuốm cả hương thơm vào lưỡi búa đã đốn ngã nó (Fulton
Sheen). Tình yêu của Người như đoá hoa sen. Bùn lầy có dậy lên cũng
không nhiễm được vào đoá hoa tinh khiết thánh thiện. Tình yêu của
Người là tình yêu nguyên tuyền không vẩn một chút oán hờn giận ghét,
vượt lên trên tất cả những hận thù, nhỏ nhen, hèn nhát, phản bội.
Giữa những hung hãn tàn bạo, Người vẫn hiền lành khiêm nhường. Giữa
những hận thù, Người vẫn yêu thương. Giữa những phản bội, Người vẫn
tha thứ. Tình yêu của Người đã thắng.
Lạy Chúa Giê-su hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con
nên giống Trái Tim Chúa.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Thời nay người ta thay đổi tất cả thật nhanh chóng. Thay đổi quần
áo, giầy dép, điện thoại và cả bạn bè, vợ chồng nữa. Bạn có bị
cuốn theo nếp sống thay đổi nhanh chóng này không?
2. Tình yêu của Chúa Giêsu đã chiến thắng. Bạn hiểu điều này thế nào
qua cuộc thương khó của Chúa?
3. Đạo Công giáo là đạo bác ái. Bạn sống đạo như thế nào khi bị
phản bội, bị oan ức và thiệt thòi?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Is
61,3a.6a.8b-9
- Kh 1,5-8
-
Lc 4, 16-21
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Thứ Năm Tuần Thánh là ngày của tình yêu. Trong những giây phút cuối
cùng còn ở bên các môn đệ, Chúa Giêsu như muốn bộc lộ hết tình yêu
thương ấp ủ nơi Thánh Tâm Người. Người đã nói những lời chan chứa yêu
thương. Đặc biệt Người đã làm 4 việc bày tỏ tình yêu thương thiết
thực của Người.
1- Ban bố giới răn yêu thương: “Thầy
ban cho anh em một giới răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã
yêu thương anh em”.
2- Thực hiện cử chỉ yêu thương khi Người quì xuống rửa chân cho các môn
đệ.
3- Thiết lập bí tích yêu thương ban cho ta chính Máu Thịt của Người.
4- Trao trách nhiệm phục vụ yêu thương cho các linh mục trong bí tích
Truyền Chức Thánh.
Tất cả làm thành một di chúc yêu thương. Cả một biển yêu thương đổ
tràn xuống nhân loại. Chúa Giêsu muốn mãi mãi ở lại với nhân loại.
Chúa Giêsu muốn mãi mãi bày tỏ tình yêu thương với nhân loại. Trong ý
định đó, Người đã tuyển chọn các linh mục. Các linh mục có chỗ quan
trọng trong trái tim Người. Các linh mục sẽ tiếp tục sứ mạng yêu
thương của Người. Các linh mục sẽ là tình yêu của Người đối với nhân
loại.
Nhìn lại cuộc đời của Người, đặc biệt những giây phút cuối đời, ta
thấy tình yêu của Người có những đặc điểm như sau:
Trước hết tình yêu của Người là tình yêu
hạ
mình. Vì yêu thương, Người đã từ trời xuống thế làm người.
Làm người chưa đủ, Người còn tự nguyện sống nghèo. Chưa hết, Người
còn tự nhận thân phận của kẻ tội lỗi, bị chối bỏ, bị khinh chê, bị
kết án. Trên đời có bao nhiêu bậc thang thì Người đã đi xuống hết,
xuống đến tận cùng để yêu thương, gặp gỡ, chia sẻ với nhân loại. Trên
đời có bao nhiêu khoảng cách thì Người đã vượt qua hết để đến ở với
nhân loại. Những khoảng cách đó, Người đã vượt qua nhờ khiêm nhường
hạ mình thẳm sâu.
Thứ đến, tình yêu của Người là tình yêu
quên mình. Người quên ý riêng mình để luôn tìm ý Chúa Cha.
Người quên ăn uống vì phần rỗi các linh hồn. Người quên sự an nguy của
bản thân để lên đường tìm con chiên bị lạc trong rừng. Người liều lĩnh
chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên yêu quí. Nhất là Người quên
cả phẩm giá, cả địa vị để quì xuống rửa chân cho các môn đệ. Người
đã quên tất cả chỉ vì yêu thương say mê nhân loại. Tình yêu của Thiên
chúa thật lạ lùng không thể tưởng tượng được!
Sau cùng, tình yêu của Người là tình yêu
huỷ mình. Đây không phải là thứ tự huỷ để trốn tránh đau khổ.
Trái lại đây là tình yêu tự huỷ mình vì sự sống của người yêu. Chịu
chết để người yêu được sống. Chịu khổ để người yêu được hạnh phúc.
Chịu nhục nhã để người yêu được tôn vinh. Chịu tàn lụi để người yêu
được sống dồi dào. Đây là tình yêu lớn lao cao quí nhất như chính
Người đã nói: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hi sinh
mạng sống vì bạn hữu”.
Tình yêu của Chúa
Giêsu
luôn luôn là một lời mời gọi nhưng cũng là một lời chất vấn linh
mục. Chúa
Giêsu
muốn linh mục là tình yêu chứ không là quyền uy. Chúa Giêsu
muốn linh mục là tình yêu của Chúa chứ không là tình yêu phàm tục.
Tình yêu hạ mình chứ đừng nâng mình. Tình yêu quên mình chứ đừng tìm
mình. Tình yêu huỷ mình vì người khác chứ đừng huỷ người khác vì
mình.
Chúa Giêsu
mong muốn tình yêu của Người được tiếp tục nơi trần gian. Người đặt
niềm hi vọng nơi các linh mục. Niềm hi vọng ấy khiến các linh mục ray
rứt khôn nguôi. Niềm hi vọng ấy thôi thúc các linh mục phấn đấu không
ngừng. Vì thế, mỗi năm, vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh, các linh mục
nhắc lại lời tuyên hứa trung thành, gắn bó với Chúa Giêsu, phục vụ quên
mình. Xin Anh Chị Em cầu nguyện nhiều, để chúng tôi biết luôn phấn đấu
vượt qua bản thân, đáp ứng niềm hi vọng của Chúa Giêsu, trở thành
tình yêu của Chúa ở giữa trần gian.
Lạy Chúa Giêsu là Linh Mục Thượng Phẩm, xin thanh luyện chúng con trở
thành những linh mục như lòng Chúa mong ước.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Tình yêu của Chúa Giêsu là hạ mình, quên mình và hủy mình. Tình
yêu của tôi thế nào so sánh với tình yêu của Chúa?
2. Đạo Chúa là đạo tình yêu. Sống đạo là sống trong tình yêu bày tỏ
ra trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Tôi có thực sự ý thức điều này
và cố gắng thực hiện không?
3. Tất cả những gì Chúa Giêsu làm trong ngày thứ năm tuần thánh là
một di chúc. Tôi có trân trọng thực hiện di chúc này không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Xh 12,1-8.11-14
- 1Cr 11,23-26
-
Ga 13, 1-15
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Trong bữa Tiệc ly, Chúa
Giêsu
làm nhiều việc quan trọng: lập bí tích Thánh Thể, lập bí tích
Truyền Chức Thánh, rửa chân cho các môn đệ. Thế mà bài Tin mừng hôm
nay chỉ tường thuật việc Người rửa chân. Chắc hẳn việc rửa chân phải
có một tầm quan trọng đặc biệt.
Để hiểu ý nghĩa và tầm quan trọng của việc rửa chân, trước hết ta
hãy xem những người được rửa chân là những người nào.
Đó là các tông đồ, những môn đệ thân tín của Chúa Giêsu. Trong số đó,
có Giuđa, kẻ sẽ phản bội, bán Thày với giá 30 đồng bạc. Có Phêrô là
môn đệ rất thân tín, nhưng cuối cùng đã chối Thày 3 lần. Có các tông
đồ thân tín, nhưng cuối cùng khi gặp nguy nan, tất cả đều trốn chạy
bỏ mặc Người cô đơn đương đầu với cơn khốn khó.
Tuy đã thấu rõ lòng các môn đệ, Chúa Giêsu
vẫn
rửa chân cho họ, không loại trừ người nào.
Việc rửa chân nói lên sự
quan tâm. Rửa chân là một chăm
sóc. Có quan tâm mới chăm sóc. Chẳng ai rửa chân người dưng. Chỉ rửa
chân người thân. Rửa chân là một việc làm tỉ mỉ. Phải rất quan tâm
mới làm công việc tỉ mỉ này. Chúa Giêsu
quan
tâm tới từng người. Người quan tâm tới môn đệ yêu dấu. Người quan tâm
tới môn đệ hèn nhát. Người quan tâm tới môn đệ chối Thày. Người quan
tâm tới cả môn đệ sẽ phản bội, vì ham tiền mà bán Thày.
Việc rửa chân nói lên sự
tha thứ. Chúa Giêsu
biết các môn đệ tội lỗi, nhưng Người vẫn rửa chân cho các ông. Người
đã tha thứ cho các ông rồi. Rửa chân các ông, Người muốn rửa cả tâm
hồn các ông nữa. Để các ông sạch mọi thói ham mê tiền bạc coi rẻ
tình nghĩa. Để các ông sạch mọi thói tị hiềm ích kỷ, tranh nhau chỗ
cao chỗ thấp. Để các ông sạch mọi thói huênh hoang hời hợt.
Việc rửa chân nói lên sự
phục vụ. Rửa chân là công
việc của người giúp việc nếu không là công việc của bà mẹ. Chúa Giêsu
là Thày, là Chúa nhưng đã làm công việc của người giúp việc. Người
muốn thực hành nguyện ước của Người: “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ”.
Người phục vụ không lựa chọn đối tượng. Người phục vụ tất cả, kẻ
thánh thiện cũng như người tội lỗi, kẻ thân thiết cũng như người xa
lạ, kẻ trung tín cũng như người phản bội.
Nhưng trên hết, việc rửa chân nói lên tình
yêu
thương. Quan tâm, tha thứ, phục vụ chính vì yêu thương. Yêu thương
cho đến cùng. Đến cùng của bản thân Chúa, không còn có thể làm gì
hơn được nữa. Đến cùng của các môn đệ. Dù các ông có phản bội Người
vẫn yêu thương. Dù các ông có chối bỏ Người, Người vẫn yêu thương. Dù
các ông có bỏ rơi Người, Người vẫn yêu thương.
Hôm nay, nếu Chúa hiện diện ở đây, Người sẽ rửa chân cho từng người
chúng ta. Trước tình yêu thương vô biên của Người, ta không khỏi hối hận
ăn năn. Biết bao lần ta đã vì đồng tiền mà trở thành Giuđa, bán rẻ
lương tâm công giáo. Biết bao lần ta đã vì sợ sệt, sợ mất danh vọng
chức quyền, sợ mất lợi lộc vật chất mà chối Chúa trước mặt người
đời. Biết bao lần vì sợ liên luỵ mà ta trốn chạy, bỏ mặc Chúa, mặc
Giáo hội lâm nguy, hoạn nạn. Biết bao lần ta đã nhỏ nhen ghen ghét mà
chia rẽ, bất hoà với anh em.
Hôm nay, ta hãy bắt chước thánh Phêrô thưa với Chúa: Lạy Chúa xin hãy
rửa không chỉ chân con, mà còn rửa cả linh hồn con nữa. Rửa linh hồn
con cho sạch những phản bội. Rửa linh hồn con cho sạch những tham lam,
dục vọng. Rửa linh hồn con cho sạch những chia rẽ bất hoà. Rửa linh
hồn con để con biết yêu mến Chúa và yêu mến anh em. Rửa linh hồn con
để con biết phục vụ Chúa và phục vụ anh em.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Yêu thương cho đến cùng. Bạn có cảm nhận được tình yêu Chúa trong
đời bạn như thế không?
2. Đã bao giờ bạn cúi xuống rửa chân cho một người?
3. Giuđa đã được rửa chân nhưng rồi vẫn cứ theo đường cũ. Bạn có
quyết tâm đi vào đường mới không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Is 52,13 – 53,12
- Dt 4,14-16 ; 5,7-9
-
Ga 18,1 – 19, 42
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Buổi chiều Thứ Sáu Tuần Thánh thật buồn thảm.
Buồn ở sự
thay đổi của tình đời. Biết bao người đã chịu ơn Chúa.
Nhưng khi Chúa chịu khổ hình, không thấy bóng dáng một ai. Nào đâu
những người được Chúa cho ăn uống no nê, khi Chúa làm phép lạ hoá
bánh ra nhiều? Nào đâu những người mù, què, câm điếc, bị quỉ ám được
Chúa chữa lành? Nào đâu những môn đệ thân tín? Bảy mươi hai môn đệ mà
không được người nào ở lại bên Chúa. Nào đâu các Tông đồ đã được
Chúa tuyển chọn, yêu thương dạy dỗ trong ba năm trời? Mười hai người mà
nay dưới chân thánh giá chỉ còn một mình Gioan.
Buồn ở sự
vô tâm của con người. Một người vô tội chịu hành hình.
Những cực hình thật là ghê sợ. Thế mà đám đông đứng xem như xem một
màn kịch. Tệ hơn nữa có người còn châm chọc mỉa mai. Lòng người không
những dửng dưng mà còn chai đá đến độ vô cảm trước nỗi đau đớn của
Đấng vô tội.
Buồn ở sự
độc ác của lòng người. Các Thượng tế chỉ vì ghen ghét
mà tìm cách cáo gian, xách động dân chúng chống đối và áp lực quan
quyền kết án Chúa. Quân lính chỉ vì thi hành mệnh lệnh mà hành hạ
không chút xót thương, không nhưng đánh đập mà còn lôi kéo dọc đường
và nhất là đóng đinh tàn nhẫn.
Buồn nhất là
cái chết đau đớn của Chúa. Đấng đã ban sự sống cho con
người nay bị con người giết chết. Đấng vô cùng thánh thiện nay bị
chết khổ nhục như kẻ tội lỗi nhất trong thiên hạ. Đấng suốt đời đem
tình thương đi gieo rắc mà nay chết vì bị thù ghét. Đấng làm chủ vũ
trụ mà nay chết như kẻ nghèo nàn không manh áo che thân. Đấng cầm
quyền trên trời dưới đất mà nay chết như kẻ yếu đuối nhất trên đời.
Nhưng trong tất cả tấn bi kịch đau thương ấy, tình yêu thương của Chúa
vẫn hiển hiện, vượt lên trên tất cả.
Tình yêu thương toả ra trong
phong thái nhẹ nhàng bình
thản. Trước quân lính đằng đằng sát khí, Chúa vẫn bình tĩnh nhẹ
nhàng. Trước đám đông hò la kết án, Chúa vẫn an nhiên tự tại. Trước
mặt thày cả và quan Philatô kết án, Chúa lặng thinh không nói lời
nào. Chúa không để cho thù hận ghen ghét lôi cuốn làm mất tâm hồn
bình an.
Tình yêu thương toả ra trong
lời nói nhân từ. Đứng trước
những thù hận ghen ghét, Chúa chỉ nói những lời lẽ ôn tồn điềm đạm.
“Giuđa, anh lấy cái hôn để nộp con
người ư”? “Hãy xỏ gươm vào bao,
chén Cha Ta đã trao, lẽ nào Ta không uống”? “Hỡi thiếu nữ thành
Giêrusalem, chớ khóc thương Ta làm chi. Hãy khóc thương các ngươi và con
cái các ngươi ngày sau phải khốn”. Nhất là những lời tha thứ: “Lạy
Cha, xin Cha tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Và “Ta bảo
thật, hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với ta”. Thật là những
lời lẽ yêu thương dịu dàng.
Nhưng nhất là tình yêu thương toả ra trong
hành động. Trước khi bị bắt Chúa còn có thời giờ nghĩ đến
các môn đệ nên đã rửa chân cho các ông. Khi bị quân lính xông vào bắt,
Chúa vẫn còn bình tĩnh yêu thương chữa lành tai người đày tớ bị Phêrô
chém đứt. Dù vác thánh giá nặng nề, Chúa vẫn còn đứng lại yên ủi
những phụ nữ thành Giêrusalem. Bị đóng đinh tàn ác mà Chúa vẫn còn
cầu nguyện cho những kẻ giết mình. trong cơn hấp hối, Chúa vẫn nhớ
đến chăm lo cho Đức Mẹ và thánh Gioan. Sắp tắt hơi mà Chúa vẫn còn
lắng nghe và tha thứ cho người trộm lành.
Người đúng là tình yêu nguyên tuyền không vương chút hận thù. Tình yêu
đó vẫn nảy nở trong đau thương. Tình yêu đó không bị thù hận vùi lấp.
Tình yêu đó càng gặp đau khổ lại càng mãnh liệt. Như Đức Hồng Y
Fulton Sheen nói: Tình yêu Chúa giống như loài gỗ quí phả cả hương thơm
vào lưỡi rìu đốn nó. Tình yêu Chúa giống như bông hoa vẫn ngát hương
trong lòng bàn tay kẻ vò nát nó. Trong hận thù, tình yêu của Chúa đã
chiến thắng. Chúa đã sống vì yêu và đã chết vì yêu.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ tình yêu thương vô biên của Chúa. Lạy Chúa,
xin tha thứ tội lỗi chúng con.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Bạn có cảm nhận được tình yêu của Chúa qua những cử chỉ lời nói,
hành động của Người trong cuộc Khổ Nạn không?
2. Bạn có cảm nhận được tình yêu của Chúa dành cho chính bạn không?
3. Chúa đã sống cao đẹp và đã chết cao đẹp. Chúa mong ước có những
môn đệ tiếp bước chân Chúa. Bạn có dám bước theo Chúa không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- St 1,1 – 2,2
- St 22,1-18
- Xh 14,15 – 14,1a
- Is 54,5-14
- Is 55,1-11
- Br 3,9-15.32 – 4,4
- Ez 36,16-17a.18-28
- Rm 6,3-11
-
Lc 24, 1-12
II.TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Ngày Chúa Giêsu
phục sinh là ngày thứ nhất trong tuần lễ của người Do thái. Ngày thứ
nhất trong tuần nhắc ta nhớ lại ngày đầu tiên trong lịch sử thế giới.
Thuở ấy chưa có con người, cũng chưa có thế giới. Vũ trụ chỉ là một
khối hỗn mang, một cõi u mê mờ mờ ảo ảo. Thánh Thần Chúa xuất hiện
bay là là trên mặt nước và lập tức vũ trụ được định hình: sáng tối
phân biệt, núi đồi mọc lên, biển khơi sóng vỗ. Thế giới mặc lấy hình
dáng rõ ràng và có sự sống. Đó chính là ngày thứ nhất của thế
giới, ngày Chúa sáng tạo vũ trụ.
Tương tự như thế, khi Chúa
Giêsu
chịu chết, tâm hồn các môn đệ như một khối hỗn mang vô định hình. Cả
một bầu trời sụp đổ. Những mộng ước không thành. Những dự tính tan
theo mây khói. Niềm tin chao đảo. Các ông chìm đắm trong một nỗi buồn
chán mênh mông pha lẫn hoài nghi, thất vọng. Các ông bơ vơ như người lạc
đường, mất phương hướng, không còn biết đi về đâu.
Nhưng khi Chúa
Phục
Sinh, mọi sự bắt
đầu lại ở một khởi điểm mới. Được tiếp xúc với Chúa
Phục
Sinh, tâm hồn các
ông cảm nghiệm một sức mạnh tươi mới chưa bao giờ có. Tâm hồn Tôma đang
cứng cỏi vì hoài nghi bỗng trở nên mềm mại ngoan ngoãn và tràn đầy
tin tưởng. Hai môn đệ Emmau mệt mỏi muốn bỏ cuộc nhận được sức mạnh
hăng hái tiếp tục lên đường dù giữa đêm khuya. Mađalêna đang than thở
khóc lóc bỗng bật lên tiếng reo cười. Phêrô bị dày vò vì tội lỗi
phản bội nhận được ơn tha thứ ngọt ngào vỗ về. Gioan đang quay quắt
vì nhớ thương được niềm vui tràn đầy khi gặp lại người Thầy yêu quý.
Tất cả các môn đệ bối rối hoang mang như bầy ong vỡ tổ nhận được ơn
bình an. Cả một thế giới hỗn mang giờ đây trở nên trật tự, có đường
nét rõ rệt.
Sau khi Chúa
Giêsu
tắt thở, thân xác các Tông đồ tuy còn sống mà tâm hồn như đã chết.
Khi an táng Người trong huyệt đá, các ông cũng an táng tâm hồn mình
trong những nấm mồ buồn sầu, nghi ngờ, đau khổ, mệt mỏi, thất vọng.
Chúa Kitô Phục Sinh đã
phá tung các phiến đá lấp cửa mộ. Người phá tan ngôi mộ buồn sầu,
cho tâm hồn các ông phục sinh trong niềm vui. Người phá tan ngôi mộ nghi
ngờ, cho tâm hồn các ông phục sinh trong đức tin vững mạnh. Người phá
tan ngôi mộ đau khổ, cho tâm hồn các ông phục sinh trong hạnh phúc vô
biên. Người phá tan ngôi mộ tuyệt vọng, cho tâm hồn các ông phục sinh
trong niềm hi vọng tràn đầy. Người
đã phục sinh các tâm hồn.
Tình trạng tâm hồn ta cũng giống như tình trạng tâm hồn các Tông đồ
trong ngày Chúa chịu chết. Những thất bại, những khổ đau, những nghi
nan, những chán chường, những khó khăn trong cuộc sống giống như những
nấm mồ giam kín hồn ta trong thế giới sự chết. Làm sao ta có thể
thoát ra? Ta phải gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh.
Thật vậy, cuộc phục sinh tâm hồn của các Tông đồ đến từ những cuộc
gặp gỡ với Chúa Kitô Phục sinh. Các ngài đã cùng ăn uống, trò chuyện,
tiếp xúc thân mật với Chúa. Còn cảnh nào thân thương hơn cảnh Thầy trò
quây quần bên bếp lửa, cùng nướng cá, nướng bánh? Còn cảnh nào ấm
cúng hơn cảnh Thầy trò chia sẻ với nhau bữa cơm chiều thanh đạm? Còn
cảnh nào đẹp hơn cảnh một buổi sáng bên bờ hồ, Chúa đã hỏi Phêrô: Con
có mến Thầy không? Những gặp gỡ thân mật ấy đã đổ vào tâm hồn các
ông một nguồn sống mới đầy tình yêu và hi vọng. Các ông được sinh lại
trong ân phúc. Ngày ấy thực là ngày thứ nhất, ngày đầu tiên của cuộc
sống mới trong ân nghĩa Chúa Phục Sinh.
Tôi cũng phải đến gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh. Gặp gỡ Người trong thánh
lễ. Gặp gỡ Người trong các bí tích. Gặp gỡ Người trong các giờ cầu
nguyện. Gặp gỡ Người khi thăm viếng những anh em bệnh tật. Gặp gỡ
Người khi chia sẻ vật chất và tinh thần với những anh em túng thiếu.
Những cuộc gặp gỡ đó sẽ khiến tâm hồn tôi được phục sinh. Chúa Kitô
sẽ đưa bản thân tôi, gia đình tôi, xứ đạo tôi, giáo phận tôi và đất
nước tôi vào một đời sống mới, một đời sống chan hoà niềm bình an,
niềm tin yêu và niềm hi vọng.
Hôm nay, một số anh chị em tân tòng sẽ được lãnh nhận phép rửa tội.
Chúa sẽ rửa tâm hồn anh chị em sạch mọi tội lỗi. Chúa sẽ ban cho tâm
hồn anh chị em một sự sống mới: sự sống của con cái Chúa. Hôm nay,
anh chị em thực sự bắt đầu ngày thứ nhất trong đời sống mới của linh
hồn. Xin chúc mừng anh chị em. Chúng tôi hân hoan đón nhận anh chị em
gia nhập vào gia đình Chúa Kitô.
Sau cùng, tôi thân ái cầu chúc tất cả anh chị em một mùa Phục sinh
tràn đầy ơn Chúa và niềm vui.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Nghi nan, buồn chán, đau khổ, thất bại là những cái chết dần mòn.
Hiện nay trong bạn đang có những cái chết nào?
2- Mùa Phục sinh năm nay, còn những khúc mắc nào ngăn cản tâm hồn bạn
sống lại với Chúa?
3- Gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh là việc quan trọng nhất giúp bạn đổi
mới cuộc đời.
Trong mùa Phục Sinh này, bạn quyết tâm làm gì để gặp được Chúa Kitô
phục sinh?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 10,34a.37-43
- Cl 3,1-4
-
Ga 20, 1-9
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Sau ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào một tình trạng thê thảm:
buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.
Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy yêu dấu. Còn đâu niềm an ủi
khi thấy những người đói khát được ăn no, người bệnh tật được chữa
lành, kẻ tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu
niềm hi vọng tràn trề khi chứng kiến ma quỉ bị xua đuổi.
Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã chiến thắng, sự dữ
đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin
Chúa. Tâm hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hi vọng của các ngài
như cùng bị chôn táng trong mộ với người Thầy yêu quí.
Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa Giêsu phục sinh đã khiến
cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ.
Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc tâm hồn các ngài thoát
khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa phục sinh, tâm hồn các ngài
bừng lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt
sáng. Miệng tươi.
Các ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa Giêsu đã phục sinh tâm
hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các ngài. Ơn phục
sinh đã được ban cho các ngài Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự
yếu đuối đã trở nên mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hi vọng.
Nỗi sầu khổ đã biến thành niềm vui.
Cảm nghiệm ơn phục sinh rồi, các môn đệ không còn có thể ngồi yên
trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung cửa, hăng hái ra đi
đem Tin Mừng phục sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn vực dậy
những mảnh đời đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm
hồn đang héo úa. Các ngài muốn thế giới biến đổi trong một đời sống
mới, tươi vui, hạnh phúc, dồi dào hơn.
Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng ta, noi gương các Thánh
Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn phục sinh đến với mọi
người.
Có những người đang chết dần mòn vì không đủ cơm ăn áo mặc. Có những
cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền. Có những tấm thân gầy
mòn vì lao lực vất vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín trong
tăm tối thất học, nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được phục sinh.
Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền. Có những mạch máu như
ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang tan nát vì bị phản
bội. Có những cuộc đời cay đắng vì thất bại. Có những tương lai bị
chôn kín trong những nấm mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi
chờ ơn phục sinh.
Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu trong vũng lầy tội lỗi. Có
những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền bạc, quyền lợi, danh
vọng. Có những niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời sống đang
rỉ máu vì chia rẽ bất hoà. Có những cuộc đời đang chao đảo vì gặp
khó khăn thử thách. Tất cả đang đợi chờ ơn phục sinh.
Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời anh em thoát khỏi những bế
tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao thượng và khôi phục niềm
tin yêu của anh em vào Thiên chúa, vào con người và vào cuộc đời.
Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh đến với mọi người, bản
thân ta cần được phục sinh trước. Trong chính bản thân ta cũng đang chất
chứa những mầm mống chết chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục
vọng. Trong chính bản thân ta cũng đang ấp ủ những lực lượng tàn phá
đó là thói kiêu căng, ích kỷ, chia rẽ, bất hoà, tham lam, bất công.
Trong chính bản thân ta đức tin đang héo úa, lòng mến đang nguội lạnh,
niềm hi vọng đang lụi tàn.
Để đón nhận được ơn phục sinh và để ơn phục sinh có thể thấm vào
mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa, tẩy trừ mọi
lực lượng sự chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt
vì ta phải chiến đấu với chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục
Sinh trợ giúp, chắc chắn ta sẽ toàn thắng.
Lạy Chúa Phục Sinh, xin ban ơn cho con được sống lại thật về phần linh
hồn.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Bạn có nhận thấy những lực lượng sự chết đang ở trong người bạn
không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?
2- Bạn có thấy ơn phục sinh là cần thiết không?
3- Bạn có sẵn sàng đem ơn phục sinh cho mọi người không?
4- Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thế nào?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 5,12-16
- Kh
1,9-11a.12-13.17-19
-
Ga 20, 19-31
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Mỗi khi nói đến Tông đồ Tôma, người ta thường kèm theo biệt hiệu “Cứng
lòng tin”.
Thật ra Tôma không cứng lòng tin hơn các Tông đồ khác. Khi Chúa đã chết
rồi, các ngài hoang mang sợ hãi. Khi nghe tin Chúa sống lại, các ngài
bàng hoàng bỡ ngỡ nhưng nửa tin nửa ngờ. Vì thế hai môn đệ đi đường
Emmau vẫn còn buồn bã. Dù đã nghe các phụ nữ tường thuật việc Chúa
sống lại, các ngài vẫn không tin, nên muốn bỏ về làng cũ.
Vì thế, Chúa phải hiện ra nhiều lần. Và mỗi lần hiện ra, Người phải
trấn an các môn đệ, cho các ngài xem các vết thương, cùng ăn uống để
các ngài tin tưởng.
Tuy các môn đệ chưa hoàn toàn tin nhưng không ai trong các ngài phát
biểu câu nào. Chỉ có Tôma nói một câu quyết liệt: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón
tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng
có tin”. Chính vì câu nói mạnh mẽ này mà ông bị mang biệt danh
“Cứng lòng tin”.
Tô-ma đại diện cho những người thời nay, cái gì cũng muốn xem tận
mắt, bắt tận tay. Chỉ tin những gì thấy được. Chỉ chấp nhận những
gì sờ được. Đòi kiểm nghiệm tất cả. Đòi tự mình chứng nghiệm tất
cả. Không chỉ tin vào lời nói suông.
Nhưng ta phải cám ơn thánh
Tôma, vì nhờ Ngài mà các môn đệ khác được chứng kiến tỏ tường Chúa
sống lại, được nhìn thấy những vết thương ở tay chân và cạnh sườn
Người. Vì nhờ Ngài mà Chúa
Giêsu
lại hiện ra một lần nữa. Và nhất là nhờ Ngài mà ta được nghe mối
phúc cuối cùng Chúa hứa cho ta: “Phúc
cho những ai không thấy mà tin”.
Việc thánh Tôma đòi xem vết thương ở tay chân và cạnh sườn của Chúa
đặt ra cho ta những tiêu chí mới cho việc truyền giáo hôm nay.
Người thời nay không còn tin vào những lý thuyết đẹp, những lời nói
hay, những hứa hẹn xa vời thực tế. Những lý thuyết đẹp phải được
kiểm nghiệm bằng những kết quả đẹp. Những lời nói hay chỉ có giá
trị khi đi đôi với những việc làm tốt.
Vì thế, muốn làm chứng
cho Chúa, người tín hữu phải có một đời sống đạo gương mẫu. Đời
sống đạo gương mẫu không phải chỉ là siêng năng đi đọc kinh, đi lễ.
Nhưng nhất là phải gương mẫu trong cách ăn nết ở.
Làm sao người ngoài đạo mến đạo nếu những người trong đạo cũng chia
rẽ bất hoà? Làm sao đạo có sức thuyết phục khi người theo đạo vẫn
còn ham hố danh vọng chức quyền đến nỗi bán rẻ cả lương tâm của mình
và tìm cách chà đạp bôi nhọ người khác? Làm sao làm chứng được đạo
là tốt trong khi những người tin đạo vẫn còn bất công, gian tham của
cải không phải của mình?
Năm 2003 tôi về làm việc ở Hà nội. Và được quen biết bác
sỹ Trần hữu Ngoạn. Bác sỹ Ngoạn là một người suốt đời phục vụ bệnh nhân phong.
Ông đã từng làm giám độc bệnh viện phong Quỳnh Lập. Tại đây ông đổi mới phong
cách quản lý. Coi bệnh nhân như người nhà. Cùng ăn cùng ở cùng làm với bệnh
nhân. Ông nghiên cứu và viết nhiều sách về bệnh phong. Muốn cho xã hội không còn
kỳ thị bệnh nhân phong, bác sỹ Ngoạn đã lấy trùng Hansen cho vào cơ thể để minh
chứng bệnh phong không lây nhiễm.
Năm 1984 khi được điều chuyển vào phục vụ trại phong Quy
Hoà, nơi thi sỹ Hàn mặc Tử đã từng ở và qua đời, bác sỹ gặp các nữ tu dòng Phan
Sinh. Đó là thời bao cấp đầy khó khăn. Nhưng các nữ tu đã hi sinh tất cả, phục
vụ bệnh nhân với tâm tình yêu thương trân trọng. Vì các nữ tu tâm niệm phục vụ
bệnh nhân là phục vụ Chúa. Không chỉ làm tốt công việc phục vụ, các nữ tu còn có
tấm lòng yêu thương quý mến bệnh nhân thực sự. Khiến các bệnh nhân cảm thấy được
yêu thương như ở gia đình. Và bầu khí trại phong thật đầm ấm không tìm thấy ở
nơi đâu khác. Từ đó bác sỹ yêu mến các sơ. Rồi yêu mến đạo.
Năm 2002, sau khi được nghỉ hưu, bác sỹ quyết định theo
đạo. Việc học đạo kéo dài hơn một năm. Năm 2003 một lễ rửa tội long trọng dự
tính được diễn ra. Bác sỹ công khai mời các bạn bè, đa số là quan chức cao cấp.
Nhưng tình hình chưa thuận lợi, nên chúng tôi khuyên bác sỹ nên chờ thêm một
thời gian. Nhưng ít lâu sau ông bị tại biến. Và đã được rửa tội âm thầm,
lấy tên thánh là Phanxicô Assisi, vị
thánh mà bác sỹ yêu mến cách đặc biệt. Bị tai biến nặng. Nhưng bác sỹ còn sống
hơn mười năm mới qua đời. Gia đình đều nói rằng nhờ các bí tích mà bác sỹ còn
hồi phục sau tai biến.
Những anh em ngoài Công
giáo cũng nhìn vào đời sống của chúng ta. Nếu người Công giáo thật
sự sống tốt thì không cần rao giảng mọi người cũng tin. Đời sống công
bình bác ái, khiêm nhường nhịn nhục, đoàn kết yêu thương có sức
thuyết phục hơn tất cả mọi lời nói hay đẹp.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Chứng kiến cuộc thương khó của Chúa Giê-su, niềm tin của các Tông
đồ bị chao đảo. Đời bạn cũng đã gặp nhiều thử thách, niềm tin của
bạn có bị chao đảo không?
2- Lời nói hay và việc làm tốt, đàng nào có sức thuyết phục hơn?
3- Trong mùa Phục sinh này, bạn quyết định làm gì để góp phần vào
việc truyền giáo?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
-
Cv 5,27b-32.40b-41
- Kh 5,11-14
-
Ga 21, 1-19
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Sau khi phục sinh, Chúa Giêsu quan tâm đến việc thiết lập Giáo hội để
tiếp tục công cuộc cứu chuộc của Người trên trần gian. Bài Tin Mừng
hôm nay cho thấy hình ảnh về Giáo hội mà Người mong muốn khi thiết
lập.
Hình ảnh về một Giáo hội có
nền tảng là yêu thương. Chúa
Giêsu không thiết lập một cơ chế, nhưng thiết lập một gia đình. Người
đứng đầu Giáo hội không phải là người chỉ huy ra lệnh, nhưng là người
chăm sóc. Sức mạnh của Giáo hội vì thế không phải ở kỷ luật, uy
quyền, nhưng ở tình yêu thương. Mọi người yêu thương nhau vì là anh chị
em trong một gia đình. Để duy trì tình yêu thương, người đứng đầu phải
là người yêu thương nhiều nhất. Chính vì thế, trước khi tuyển chọn
thánh Phê-rô làm Giáo hoàng, Chúa Giêsu đã 3 lần hỏi: “Phêrô,
con có mến Thầy không”? Có yêu mến thì Chúa mới trao cho trách
nhiệm chăm sóc đoàn chiên. Vì có yêu mến Chúa thì mới biết yêu mến
anh chị em mình. Tình yêu mến là nền tảng của Giáo hội. Bao lâu tình
yêu mến còn, Giáo hội còn vững vàng. Khi nào tình yêu mến suy giảm,
Giáo hội sẽ suy yếu.
Hình ảnh về một Giáo hội có
sức sống là truyền giáo.
Giáo hội như con thuyền của ngư phủ. Ngư phủ sinh sống bằng nghề đánh
bắt tôm cá. Sức sống của Giáo hội là truyền giáo, là đánh bắt các
linh hồn như Chúa Giêsu, khi kêu gọi các Tông đồ đầu tiên đã nói: “Hãy
theo Thầy, Thầy sẽ đào tạo anh em thành những tay chài lưới linh hồn
người ta”. Muốn đánh bắt được tôm cá, ngư phủ không được neo
thuyền, ngồi trên bờ mà nghỉ ngơi nhàn nhã, nhưng phải dong buồm ra
khơi, ra chỗ nước sâu mới có nhiều cá. Cũng vậy, muốn cứu được nhiều
linh hồn, Giáo hội không được ngồi yên ngơi nghỉ, mà phải lên đường,
phải ra đi đến những nơi xa xôi, phải nỗ lực tìm kiếm. Ra khơi là phải
mệt nhọc, phải làm việc và nhất là phải đương đầu với sóng to gió
lớn, có khi nguy hiểm đến tính mạng. Cũng vậy, lên đường truyền giáo
là phải vất vả, khổ cực và chấp nhận những nguy hiểm, rủi ro. Phải
ra đi vì đó là ước nguyện của Chúa. Phải lên đường vì đó chính là
sứ mạng Chúa trao cho Giáo hội.
Hình ảnh về một Giáo hội có
hiệu quả nhờ tuân theo lời Chúa.
Giáo hội qui tụ những con người. Giáo hội hoạt động với những cố
gắng của con người. Nhưng chỉ với sức con người, Giáo hội không làm
được việc gì. Phêrô và các bạn mệt nhọc suốt đêm mà chẳng bắt được
con cá nào là hình ảnh của những hoạt động không có Chúa hướng dẫn.
Khi nghe lời Chúa dạy, các ngài đã đánh được một mẻ cá lớn lạ
lùng. Hôm nay Chúa không còn ở với các Tông đồ. Không còn ngồi chung
thuyền với các ngài. Không còn dẹp yên sóng gió cho các ngài. Chúa
đã về trời. Chúa đứng ở một bến bờ khác. Nhưng Chúa vẫn theo dõi
những hoạt động của các ngài. Chúa sẽ đưa ra những chỉ dẫn để hoạt
động của các ngài có kết quả tốt đẹp. Tuy không hữu hình, nhưng Chúa
vẫn hiện diện bên Giáo hội như lời Người hứa: “Thầy
sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”.
Giáo hội thật là một mầu nhiệm vì xét theo bề ngoài chỉ gồm những
con người hữu hình, nhưng thật sự bên trong có sự hiện diện của Thiên
chúa vô hình. Sự vững mạnh của Giáo hội không nhờ luật lệ, quân đội,
hay vũ khí, nhưng nhờ tình yêu thương. Càng yêu thương, càng tha thứ thì
Giáo hội càng mạnh mẽ. Hiệu quả của Giáo hội không ở tại việc ổn
định, yên vị, nhưng ở tại mạo hiểm ra đi. Chính khi ra đi, Giáo hội
thâu lượm được nhiều kết quả. Càng gặp khó khăn, Giáo hội càng vững
mạnh vì Chúa hằng ở với Giáo hội luôn mãi.
Lạy Chúa, con yêu mến Chúa. Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Bạn có nghĩ rằng Giáo hội mạnh nhờ có nhiều tiền bạc, có nhiều
người tài giỏi không? Bạn suy nghĩ thế nào về bài Tin Mừng hôm nay?
2- Trong đời sống đạo, bạn có bao giờ quan tâm làm cho người khác biết
và yêu mến Chúa không?
3- Giáo hội đã trải qua rất nhiều khó khăn thử thách, nhưng vẫn bền
vững qua 2000 năm. Bạn nghĩ gì về điều này?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Cv
13,14.43-52
- Kh
7,9.14b-17
-
Ga 10, 27-30
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Hình ảnh chiên cừu dễ gây
ngộ nhận vì người ta cho rằng chiên cừu chẳng biết làm gì hơn là
ngoan ngoãn vâng lời. Nhưng con chiên trong bài Tin mừng ta vừa nghe hoàn
toàn không có tính cách thụ động như thế. Trái lại phải tích cực,
chủ động. Sự tích cực chủ động của đoàn chiên được Chúa Giêsu diễn
tả bằng những từ “nghe” và “theo”: “Con chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Ta
biết chúng và chúng theo Ta”.
Nghe. Chúa Giêsu chính là
Lời của Thiên Chúa, nên ta phải nghe Người. Nhưng nghe được Lời của
Thiên Chúa không phải dễ.
Không dễ, vì Lời Thiên
Chúa nhẹ nhàng như lời thì thầm của mây gió, sâu thẳm như tiếng nói
của đáy đại dương, im lặng và bí hiểm như tiếng vỗ của một bàn tay.
Trong khi đó lời của trần gian, của ma quỉ lại ồn ào như một ngày
hội, gào thét như cuồng phong và điên loạn như chiến tranh.
Không dễ, vì Lời Thiên
Chúa mời gọi người ta vào con đường chật hẹp của từ bỏ mình, dẫn ta
lên ngọn đồi gai góc của thập giá hi sinh và thách thức ta phục vụ
đến hi sinh cả mạng sống. Trong khi đó lời của trần gian, của ma quỉ
mở ra đại lộ thênh thang của danh vọng, dẫn ta đến
gìm mình trong đại
dương hưởng thụ và hứa ban tặng cho ta tất cả vinh hoa phú quí trên
đời.
Vì thế, để nghe được Lời
Chúa, ta phải có một đôi tai thật bén nhạy, được hướng dẫn bởi trí
phán đoán sáng suốt và một trái tim yêu mến nồng nàn. Nghe Lời Chúa
với một thái độ như thế sẽ dẫn ta đến chỗ theo Chúa.
Theo. Theo ai là quyến
luyến, gắn bó và ràng buộc đời mình vào đời người đó. Như thế theo
ai là từ bỏ chính mình, cuộc đời mình để chia sẻ cuộc sống với
người khác.
Theo tâm lý học, trong tình
yêu có ba mức độ. Mức độ thứ nhất: Thích nhìn, nghe người mình yêu.
Mức độ thứ hai: Trong mọi chương trình, tính toán của đời mình đều
có bóng dáng của người yêu. Mức độ cuối cùng: Chia sẻ tất cả những
gì mình có, kể cả cuộc sống vì người yêu.
Như thế, theo tức là yêu
thương ở cao độ. Con chiên đi theo Chúa như thế phải hoàn toàn chủ động
và nhất là thiết lập một quan hệ mật thiết với Chúa là Chủ đoàn
chiên. Hành động của Chúa chiên tốt lành được Chúa Giêsu tóm gọn trong
hai động từ: “biết” và “cho”.
Biết. Người chăn chiên tốt
lành biết rõ từng con chiên. Ông biết tên từng con. Ông biết tình trạng
sức khoẻ cũng như nhu cầu của từng con chiên. Tương tự như thế, Chúa
Giêsu biết rõ mỗi người chúng ta. Người không chỉ biết mà còn thông
cảm với mọi hoàn cảnh của ta. Ta buồn vì bị người yêu phụ bạc ư?
Người cũng đã biết thế nào là nỗi đau của người bị phản bội. Ta cay
đắng với kiếp nghèo đeo đẳng ư? Chúa Giêsu cũng đã sinh ra không nhà,
sống ngoài đường và chết trần truồng trên thập giá. Ta tuyệt vọng vì
cuộc đời không lối thoát ư? Chúa Giêsu đã trải qua những giờ phút đen
tối trong vườn Giếtsimani và trên thánh giá. Ta cô đơn vì bị mọi người
xa lánh ư? Chúa Giêsu cũng đã bị mọi người chối bỏ, và Người cảm
thấy như Đức Chúa Cha cũng từ bỏ Người. Ta bị sỉ nhục mất hết uy
tín ư? Chúa Giêsu đã bị nhục nhã và mất hết uy tín khi phải chết như
kẻ tội đồ nô lệ.
Chúa Giêsu là người chăn
chiên tốt lành, hiểu biết mọi ngõ ngách u ẩn trong đáy lòng người,
nên có thể chăm sóc an ủi từng người chúng ta.
Cho. Chúa Giêsu là mục tử
tốt lành vì đã tặng ban cho tất cả đoàn chiên món quà quí giá nhất
là sự sống đời đời, sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa, sự sống của
chính bản thân Người. Sống sự sống của Thiên Chúa rồi, đoàn chiên sẽ
kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Không ai cướp được đoàn chiên khỏi
tay Người, vì Người dùng chính mạng sống mình mà bảo vệ. Người ràng
buộc đời mình vào sinh mạng của đoàn chiên. Từ nay đoàn chiên và chủ
chiên trở thành một cộng đồng sinh mệnh, sống chết có nhau, kết hợp
với nhau trong một tình yêu thương không có gì có thể tách lìa được.
Chúng ta đang sống trong một thời đại đầy thay đổi. Cuộc sống đang mở
ra những chân trời mới đầy quyến rũ nhưng cũng đầy nguy hiểm cho đời
sống tâm linh chúng ta. Những giá trị bị đảo lộn. Những con chiên đang
bị lôi kéo rời xa đoàn chiên. Nhu cầu cuộc sống xô đẩy chúng ta ra
khỏi cộng đoàn khiến nhiều người trở thành những con chiên bơ vơ không
người chăn dắt. Trong một hoàn cảnh mới mẻ như thế, chúng ta rất cần
có những vị mục tử thực sự hiểu rõ nhu cầu của đoàn chiên và thực
sự hiến mình phục vụ đoàn chiên. Chúng ta hãy cầu nguyện cho có
nhiều người trẻ biết đáp lời Chúa mời gọi, hiến mình cho Chúa để
phục vụ anh chị em trong nhiệm vụ mục tử. Chúng ta cầu nguyện cho các
linh mục của chúng ta trở thành những mục tử tốt lành noi gương Vị
Mục Tử duy nhất là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Lạy Chúa là Mục Tử chăn
giữ đời con, xin cho con biết lắng nghe tiếng Chúa và bước theo Chúa.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Đã bao giờ bạn nghe được tiếng
Chúa nói trong sâu thẳm tâm hồn bạn chưa?
2- Có lần nào bạn cảm nghiệm được
sự ngọt ngào được sống thân mật với Chúa chưa?
3- Bạn cũng là Mục Tử của gia đình
bạn, xóm bạn ở, sở nơi bạn làm việc. Bạn có là Mục Tử tốt lành
không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 14,21b-27
- Kh 21,1-5a
-
Ga 13,31-33a.34-35
II. SUY NIỆM
Bề trên một tu viện Công giáo đến tìm vị ẩn sĩ trên vùng núi cao để
trình bày về tình trạng bi đát của tu viện.
Trước kia tu viện này là một trung tâm sầm uất. Khách hành hương tấp
nập. Nhà thờ lúc nào cũng vang lừng tiếng hát ca cầu nguyện. Tu viện
không còn chỗ nhận thêm người vào tu.
Vậy mà giờ đây tu viện chẳng khác một ngôi nhà hoang phế. Nhà thờ
vắng lặng. Tu sĩ thưa thớt già nua. Cuộc sống buồn tẻ.
Cha Bề trên hỏi vị ẩn sĩ nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã khiến tu
viện rơi vào tình trạng suy sụp như hiện nay. Vị ẩn sĩ ôn tồn bảo:
“Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình”. Ông
giải thích thêm: “Đấng Cứu thế đã cải trang thành một người trong quí
vị, nhưng quí vị không nhận ra Người”.
Nhận được lời giải đáp, Cha Bề trên hớn hở ra về. Cha tập họp các tu
sĩ lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu thế đang ẩn mình giữa cộng
đoàn. Nghe nói thế, mọi người mở to mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng
Cứu thế cải trang? Nhưng chắc chắn nếu Đấng Cứu thế đã cải trang thì
chẳng ai có thể nhận ra Người. Mỗi người sống chung với ta đều có
thể là Đấng Cứu thế.
Từ ngày ấy mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu thế. Mọi
người kính trọng nhau. Mọi người quan tâm chăm sóc nhau. Mọi người phục
vụ nhau. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm
vui trở lại với tu viện. Khách hành hương bốn phương lại tấp nập tuốn
về. Lời kinh tiếng hát lại vang lừng trong tu viện. Bị cuốn hút bởi
bầu khí vui tươi thánh thiện, nhiều thanh niên đến xin gia nhập cộng
đoàn.
Trước kia tu viện mất hết sức sống vì mọi người không thực hành Lời
Chúa dạy. Sống cá nhân chủ nghĩa, thờ ơ lãnh đạm với nhau. Nay tu
viện tràn đầy niềm vui và sức sống nhờ mọi người biết quan tâm đến
nhau, yêu mến và phục vụ nhau.
Trước kia khách hành hương không muốn đến tu viện, các bạn trẻ không
muốn vào tu viện vì tu viện không là dấu chỉ môn đệ của Chúa. Không
sống theo Lời Chúa, các tu sĩ trở thành những hình ảnh mờ nhạt,
không phản chiếu được nét đẹp của Thiên chúa. Nay khách hành hương
nườm nượp kéo đến, các bạn trẻ xếp hàng xin nhập tu, vì họ đã thấy
nơi các tu sĩ có dấu chỉ của người môn đệ Chúa Kitô, có lòng yêu
thương nhau. Lòng yêu thương đã khiến các tu sĩ trở nên hình ảnh của
rõ nét của Thiên chúa, chiếu toả sức sống của Thiên chúa, loan báo
hạnh phúc Thiên đàng. Lòng yêu thương ấy có sức hấp dẫn, có sức
thuyết phục, có sức mời gọi mãnh liệt vì qua đó, mọi người nhận ra
sự hiện diện của Thiên chúa.
Yêu thương nhau đó là giới răn mới của Chúa. Nhưng không phải yêu thương
theo kiểu phàm trần. Người đời thường chỉ yêu những ai yêu mình, có
lợi cho mình, theo bản tính ích kỷ của mình. Thiên chúa muốn các môn
đệ của Người phải yêu nhau như Thiên chúa đã yêu.
Yêu như Thiên chúa nghĩa là phải hi sinh quên mình, hạ mình phục vụ anh
em. Yêu như Thiên chúa nghĩa là phải yêu những người bé nhỏ nghèo hèn.
Yêu như Thiên chúa là phải yêu thương cả những người ghét mình, những
người làm hại mình, những người khó thương khó ưa. Yêu như Thiên chúa
là phải không ngừng tha thứ, làm hoà với nhau.
Yêu như Thiên chúa đó là sức sống của Giáo hội. Yêu như Thiên chúa làm
nên nét đẹp của đạo. Nét đẹp ấy phản ánh dung nhan Thiên chúa. Nét
đẹp ấy có sức hấp dẫn mọi người đến cùng Chúa.
Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến anh em như Chúa đã yêu thương con.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Theo bạn, thế nào là một tập thể có tình yêu thương?
2- Bạn đã có tình yêu thương đoàn kết với những anh chị em trong Giáo
xứ chưa?
3- Yêu thương như Chúa là yêu thương theo cảm tính hay theo lý trí? Tuần
này, bạn sẽ làm gì để thực hiện điều răn mới của Chúa?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 15,1-2.22-29
- Kh 21,10-14.22-23
-
Ga 14, 23-29
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Trong những năm qua, nước ta phải trải qua hai thiên tai khốc liệt. Thiên
tai gây nên những thiệt hại trầm trọng về vật chất và tinh thần. Nhưng
cũng chính trong thiên tai đã xuất hiện những nét đẹp của tình người.
Qua báo đài, tôi đã thấy nhiều Đức Giám mục, Linh mục mặc quần soọc
áo may-ô chèo thuyền đi thăm viếng, khích lệ các nạn nhân.
Nhiều cao tăng hoà thượng vận động tín đồ Phật tử tham gia công
tác cứu trợ. Nhiều nữ tu đứng ra tổ chức công việc cứu trợ có khoa
học và hiệu quả. Nhiều nhà thờ, nhà chùa, tu viện trở thành nơi
tiếp đón các gia đình lâm nạn. Biết bao bộ đội, công an xả thân, liều
lĩnh vượt qua sóng to gió lớn để cứu hộ các nạn nhân. Cả nước hướng
về những nơi hoạn nạn đã đành. Cả những anh chị em ở nước ngoài
cũng đau đớn khi khúc ruột trong nước đau đớn. Nên Việt kiều ở nước
ngoài cũng đã vận động quyên góp, tổ chức những đoàn cứu trợ về
thăm viếng và uỷ lạo các nạn nhân bão lụt. Nhiều cơ quan thiện nguyện
nước ngoài cũng nhập cuộc. Tất cả mọi người, không phân biệt tôn
giáo, màu da, ngôn ngữ, khuynh hướng chính trị, giai cấp đang qui tụ
lại để khắc phục thảm hoạ. Toàn cầu hoá với sự bùng nổ thông tin
đang làm cho các nước xích lại gần nhau. Gần gũi không chỉ về không
gian, nhưng nhất là về tấm lòng. Mọi người liên đới với nhau trong
việc chống lại cái ác và cùng nhau đề cao sự thiện, lòng nhân ái.
Đó là dấu chỉ cho thấy Lời Chúa đang được thực hiện.
Tuần trước khi Chúa Giêsu nói: “Người
ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương
yêu nhau”, Người đã cấp thẻ quốc tịch cho những kẻ thuộc về
Người. Căn tính của những kẻ thuộc về Người không phải là mầu da,
ngôn ngữ hay phong tục tập quán, nhưng là trái tim. Người ta nhận ra
thần dân của Người không phải bằng chiều cao, sức nặng, nhưng bằng
tình yêu.
Hôm nay, khi nói: “Ai yêu mến Thầy thì
giữ Lời Thầy. Và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Và chúng ta sẽ đến
và ở trong người ấy”, Chúa Giêsu đang vẽ nên biên cương Nước Chúa.
Biên cương này không xác định bằng rừng núi, sông biển, nhưng bằng tấm
lòng. Chúa Giêsu không giới hạn Nước Chúa trong 4 bức tường nhà thờ
vì Nước Chúa là Tình Yêu. Vì thế, điều quan trọng không phải là ở
trong hay ngoài nhà thờ, nhưng là ở trong hay ở ngoài tình yêu. Ai ở
ngoài nhà thờ mà ở trong Tình Yêu thì người ấy đã ở trong Nước
Chúa. Trái lại, những ai ở trong nhà thờ mà không có Tình Yêu, người
ấy vẫn còn ở ngoài Nước Chúa.
Rồi xã hội sẽ chẳng còn phân biệt hữu thần với vô thần. Nhưng sẽ
chỉ có một phân biệt duy nhất: hữu tâm và vô tâm. Người hữu tâm là
người có trái tim rộng mở, biết chạnh lòng thương xót, biết chia sẻ,
phục vụ. Người vô tâm là người lòng chai dạ đá, trái tim khép chặt,
chỉ biết trau chuốt bản thân. Người vô thần mà có trái tim nhân ái
thì đã thuộc về Chúa. Hữu thần mà tâm hồn tàn nhẫn độc ác thì đã
bị loại trừ ra khỏi Nước Chúa rồi.
Nhìn như thế, Nước Chúa thực là rộng lớn. Những người thuộc về Nước
Chúa thực là đông đảo. Những người có trái tim yêu thương tạo nên
thành Giêrusalem
mới như ta nghe trong bài đọc thứ I hôm nay. Thành Giêrusalem mới có cửa
mở ra 4 phương tám hướng để đón nhận mọi người từ khắp nơi tuốn về.
Thành không có đền thờ vì thành được xây bằng yêu thương. Mà ở đâu có
yêu thương thì ở đó có Thiên chúa ngự trị. Thành không cần đèn đuốc
vì Thiên chúa tình yêu là ánh sáng cho thành. Gạch xây thành là những
trái tim chan chứa yêu thương nên thành trở nên một khối pha lê trong
suốt, như một viên ngọc quí toả ánh sáng tới khắp muôn dân.
Trong số những người có trái tim, xây dựng nên thành Giêrusalem mới ấy,
tôi thấy có nhiều người trong anh chị em. Trong những năm qua số người
tham gia công tác từ thiện bác ái ngày càng đông. Người âm thầm, kẻ
công khai. Người góp của, kẻ dâng công. Tôi thấy rõ là anh chị em đang
phấn đấu để ở trong tình yêu. Tôi thấy rõ là anh chị em đang rèn
luyện để trở nên người hữu tâm.
Xin tình yêu Chúa thanh luyện trái tim ta không ngừng, để mỗi trái tim
chúng ta trở thành một viên gạch trong suốt như pha lê, góp phần xây
dựng thành Giêrusalem mới cho tình yêu Thiên chúa ngự trị.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Chỉ đi lễ, đi đọc kinh thôi, đã đủ làm công dân trong Nước Trời chưa?
Bạn có quan tâm giúp đỡ những người kém may mắn chung quanh bạn không?
2- Bạn có phấn đấu để hãm dẹp tính ích kỉ, chia rẽ và phát triển
tình yêu thương tha thứ trong tâm hồn bạn không?
3- Bạn nghĩ gì về những người ngoại đạo tốt? Họ có phải là con
Chúa không?
4. Trong và ngoài Giáo hội. Trong và ngoài tình yêu. Bạn quan tâm tới
điều nào hơn?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 1,1-11
- Dt 9,24-28 ; 10,19-23
-
Lc 24, 46 – 53
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Có nhiều người nghĩ thế giới chỉ bó gọn trong trái đất và con người
chỉ thuộc về mặt đất. Nhưng không phải thế. Hôm nay, Chúa Giêsu lên
trời là một bằng chứng cho niềm hi vọng của ta.
Việc Chúa Giêsu lên trời bảo cho ta biết rằng ngoài đất còn có trời.
Ngoài cõi nhân sinh nhỏ hẹp còn có cõi thần linh bao la. Ngoài cuộc
sống trần gian mau qua còn có cuộc sống thiên đàng vĩnh cửu.
Chúa Giêsu về trời là niềm hi vọng cho ta. Mai sau ta cũng sẽ được về
trời với Người. Vì chính Người đã hứa: “Thầy
đi để dọn chỗ cho anh em, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó với Thầy”.
Chúa Giêsu đã liên kết ta thành một thân thể với Người. Người là đầu.
Chúng ta là chi thể. Đầu tiến đến đâu thì chi thể cũng sẽ tiến đến
đấy.
Chúa Giê-su dạy ta biết rằng ta là con của Thiên Chúa Cha, Đấng ngự
trên trời. Con sẽ được ở trong nhà cha mẹ. Chúng ta sẽ được ở nhà Cha
trên trời là tự nhiên.
Tuy nhiên Chúa Giêsu chỉ về trời sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ Đức
Chúa Cha trao phó cho Người ở trần gian. Nhiệm vụ đó là loan báo cho
mọi người biết Chúa là Cha yêu thương mọi người. Nhiệm vụ đó là làm
chứng về tình yêu thương của Cha đối với mọi người.
Hôm nay, trước khi về trời, Chúa Giêsu uỷ thác nhiệm vụ đó lại cho ta.
Ta phải tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu loan Tin Mừng yêu thương cho
mọi người. Đem niềm hi vọng đến cho kiếp người.
Với niềm hi vọng đó, người Kitô hữu chân đạp đất nhưng lòng vẫn hướng
về trời cao. Niềm hi vọng đó giải thoát ta khỏi nô lệ vào mặt đất
nhờ đã biết rõ vật chất chỉ là phương tiện sẽ mau chóng qua đi. Niềm
hi vọng đó nâng cuộc sống con người lên vì từ nay ta hiểu rằng định
mệnh loài người không phải như loài súc vật, nhưng ngang hàng với thần
linh. Niềm hi vọng đó làm cho cuộc sống của có ý nghĩa, vì Chúa tạo
dựng nên con người không phải để con người tàn lụi đi theo qui luật của
vật chất mà để con người phát triển, tồn tại đến vô biên, không phải
bị kết án vào những đau khổ vất vả trần gian, nhưng đã được tiền
định hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Niềm hi vọng đó cho ta
thêm động lực phục vụ tha nhân tận tâm hơn vì đó chính là sứ mạng
Chúa trao phó. Niềm hi vọng đó khuyến khích ta tích cực xây dựng xã
hội tốt đẹp hơn, vì đó chính là điều kiện cho ta được vào Nước
Trời.
Lạy Chúa, xin giúp con chu toàn nhiệm vụ ở trần gian để sau này con
được về trời với Chúa.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Ham hố tiền bạc, danh vọng, chức quyền, khoái lạc làm đời sống ta
nặng nề, không vươn lên cõi tâm linh được. Bạn thấy mình bị nặng nề
về ham mê nào?
2- Đời sống là một nỗ lực bay lên cao. Có khi nào bạn cảm thấy mình
thoát khỏi những ràng buộc tầm thường để nhẹ nhàng bay lên không?
3- Đời sống là một bổn phận phải chu toàn. Bạn nghĩ gì về điều
này?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 7,55-60
- Kh
22,12-14.16-17.20
-
Ga 17, 20-26
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Trong lịch sử Việt nam, tôi thích nhất tướng Trần hưng Đạo. Trần hưng
Đạo không những có tài thao lược mà lại có đức độ hơn người. Người
ta gọi ngài là Đức Thánh Trần thật xứng đáng. Thời nhà Trần có hai
tướng tài: Trần hưng Đạo và Trần quang Khải. Nhưng hai gia đình có mối
thù không đội trời chung. Trần
Liễu, cha
của Trần hưng Đạo trước khi tắt thở còn dặn Trần hưng Đạo phải thay
cha trả thù. Nhưng giặc Nguyên sang xâm lăng nước ta. Trần hưng Đạo suy
nghĩ: Giặc ngoại xâm đang đe doạ. Nếu trong nước các tướng tá không
đoàn kết thì không phá nổi thế giặc đang rất mạnh. Nghĩ thế, Trần
hưng Đạo gạt bỏ thù nhà, đến làm hoà với Trần quang Khải. Một hôm,
Trần hưng Đạo sang thăm Trần quang Khải, tự tay nấu nước và tắm cho
Trần quang Khải và nói: “Hôm nay được hân hạnh tắm cho Ngài quốc công”.
Trần quang Khải vui vẻ trả lời: “Hôm nay hân hạnh được tướng công tắm
cho”. Từ đó hai người hoà thuận. Cùng chung vai sát cánh phục vụ đất
nước. Nhờ sự đoàn kết của hai tướng tài, quân ta đã đánh thắng giặc
Nguyên
(ĐVSKTT, Quyển VI, Kỷ Nhà Trần, t.1b )
.
Sự đoàn kết của Trần hưng Đạo và Tran quang Khải rất phù hợp vơi bài
Tin mừng của Chủ nhật 7 Phục sinh. Hôm nay, Chúa tha thiết cầu nguyện
cho con cái Chúa được hiệp nhất.
Chúa tha thiết với sự hiệp nhất vì Chúa biết rằng: Có hiệp nhất
mới xây dựng được cộng đoàn vững mạnh. Tục ngữ Việt nam có câu:
“Thuận vợ thuận chồng, tát bể đông cũng cạn”. Có đoàn kết làm việc
gì cũng xong. Chia rẽ làm suy yếu cộng đoàn. Làm cho công việc trì
trệ. Và có khi làm tan rã cộng đoàn.
Chúa tha thiết với sự hiệp nhất vì Chúa biết rằng có hiệp nhất
trong nội bộ mới có thể truyền giáo thành công. Hiệp nhất chính là
dấu chỉ của môn đệ Chúa như lời Chúa dạy: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thày,
là các con thương yêu nhau”. Qua dấu chỉ hiệp nhất, người ngoài mới
nhận biết Chúa. Thời sơ khai, khi nhìn thấy các tín hữu đầu tiên sống
đoàn kết yêu thương, người ngoại đạo đã bảo nhau: “Kìa
xem họ yêu thương nhau biết bao”. Từ đó có nhiều người xin vào đạo
để được sống trong cộng đoàn hiệp nhất yêu thương.
Sau cùng, Chúa tha thiết với sự hiệp nhất, vì Chúa muốn ta được hạnh
phúc. Có hiệp nhất mới có hạnh phúc. Hạnh phúc của ta là được sống
sự sống của Thiên chúa. Sự sống bắt nguồn từ Thiên chúa ba ngôi. Ba
ngôi hiệp nhất với nhau đến nỗi trở thành một. Như lời Chúa Giê su
nói: “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong
Thày. Thày và Cha Thày là một”. Cho đến độ: “Ai
thấy Thày là thấy Cha”.
Sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi là nguồn mạch sự sống, nguồn mạch hạnh
phúc của ta. Tuy nhiên để được thông phần vào sự sống hạnh phúc đó,
ta phải hiệp nhất yêu thương nhau. Thiên chúa là Tình Yêu, là sự Hiệp
Nhất. Muốn được hoà nhập vào nguồn mạch hạnh phúc đó, ta cũng phải
đoàn kết yêu thương nhau. Chỉ những ai có tinh thần hiệp nhất yêu thương
mới có thể gia nhập cộng đoàn hiệp nhất yêu thương của Ba Ngôi Thiên
chúa.
Hiệp nhất yêu thương không là một món hàng làm sẵn, nhưng là một tiến
trình phải xây dựng dài lâu. Xây dựng bằng từ bỏ ý riêng. Xây dựng
bằng nhịn nhục tha thứ. Xây dựng bằng hi sinh quên mình. Vì thế để
đạt đến yêu thương đòi hỏi phải rất nhiều phấn đấu. Phấn đấu của
bản thân. Phấn đấu của cả tập thể.
Nếu biết phấn đấu để hiệp nhất, ta sẽ xây dựng được cộng đoàn vững
mạnh, ta sẽ truyền giáo thành công và nhất là ta sẽ được tham dự vào
sự sống và hạnh phúc của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin thương hiệp nhất
chúng con.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Tại sao người ta luôn chia rẽ. Chia rẽ đem đến những thiệt hại nào?
2. Tại sao Chúa Giêsu tha thiết với sự hiệp nhất?
3. Ba Ngôi Thiên Chúa đã thể hiện sự hiệp nhất thế nào?
4. Bạn phải làm gì để xây dựng sự hiệp nhất?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 2,1-11
- 1Cr 12,3b-7.12-13
- Ga 20,19-23
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Qua bài trích sách Công Vụ
Tông Đồ, ta thấy Đức Chúa Thánh Thần là Đấng đổi mới.
Người
đã
đổi mới trí khôn các Tông đồ.
Các Tông đồ là những người làm nghề chài lưới, ít học. Suốt 3 năm ở
bên cạnh Chúa Giêsu, các ngài đã được Chúa dạy dỗ nhiều điều. Nhưng
các ngài không hiểu. Nhưng sau khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, trí
khôn các ngài như được mở ra. Không những các ngài hiểu biết về Chúa,
hiểu biết giáo lý của Chúa, mà còn có thể đi giảng dạy cho người
khác nữa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng.
Đã
biến những con người thất học nên hiểu biết.
Đã đổi những tâm
trí u mê thành sáng suốt.
Người đã
đổi mới ý chí các
Tông đồ. Từ khi Chúa Giêsu bị bắt và bị kết án, các Tông đồ sống
trong sợ hãi. Các ngài đã trốn chạy. Các ngài đã chối Chúa. Các
ngài ẩn nấp trong nhà đóng kín cửa. Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh
Thần, con người các ngài hoàn toàn thay đổi. Các ngài mở tung cửa ra
đi rao giảng Tin mừng cho mọi người. Bị đe doạ, các ngài vẫn không sợ.
Bị đánh đòn, các ngài vẫn kiên cường. Không gì có thể ngăn cản các
ngài rao giảng, làm chứng cho Chúa Kitô phục sinh. Sau cùng tất cả các
ngài đã chịu đổ máu, hiến mạng sống mình để làm chứng cho Chúa.
Ơn
Chúa Thánh Thần thật lạ lùng.
Đã
biến những con người yếu đuối nên vững mạnh. Đã biến những con người
nhút nhát nên can đảm.
Người đã
đổi mới trái tim các
Tông đồ. Trước kia các ngài còn mang nặng những ước mơ trần tục. Theo
Chúa để mong được chức trọng quyền cao. Mong được ngồi bên tả bên hữu
Chúa. Tranh giành nhau chỗ cao chỗ thấp. Có thể nói, trước kia các
ngài theo Chúa vì bản thân, vì chính các ngài. Các ngài chưa yêu mến
Chúa bằng yêu mến bản thân. Nhưng từ khi được ơn Chúa Thánh Thần, trái
tim của các ngài đã hoàn toàn thay đổi. Từ nay các ngài không còn
tranh giành nhau chỗ cao chỗ thấp, ngồi bên tả hay bên hữu. Nhưng các
ngài biết sống nhường nhịn yêu thương. Từ nay các ngài giành trọn
trái tim cho Chúa, yêu mến đến sẵn sàng chịu mọi đau khổ, và nhất là
sẵn sàng chết vì Chúa. Ơn Chúa Thánh Thần thật lạ lùng. Đã biến
đổi những trái tim chai đá thành những trái tim bằng thịt. Đã biến
đổi những trái tim ích kỷ thành những trái tim yêu thương.
Đời sống ta có quá nhiều yếu đuối. Trí khôn ta u mê không hiểu Lời
Chúa, không nhận biết thánh ý Chúa. Ý chí ta bạc nhược không đủ sức
làm việc lành, hèn nhát không dám làm chứng cho Chúa. Trái tim ta nhơ
uế vì những ích kỷ nhỏ nhen, vì những ham muốn trần tục. Hôm nay ta
hãy tha thiết xin ơn Chúa Thánh Thần đến đổi mới con người xưa cũ của
ta. Để ta thấu hiểu Lời Chúa, thấu hiểu thánh ý Chúa muốn trong đời.
Để ta mạnh mẽ can đảm làm chứng cho Chúa trong đời sống và để trái
tim ta được thanh luyện luôn quảng đại cho đi, dâng hiến.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Đức Chúa Thánh Thần đã đổi mới các thánh Tông đồ như thế nào?
2. Trong tôi còn những gì xưa cũ cần đổi mới?
3. Ai cũng có nhu cầu đổi mới nhà cửa, đời sống vật chất. Bạn có
thấy có nhu cầu đổi mới tâm hồn không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 2,1-11
- 1Cr 12,3b-7.12-13
- Ga 20,19-23
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Hơi thở tượng trưng cho sự sống. Còn thở là còn sống. Hết thở là
hết sống. Hôm nay, Chúa
Giêsu
thổi hơi ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ. Thổi hơi để chỉ rằng Đức
Chúa Thánh Thần là hơi thở. Thở hơi để ban truyền sự sống. Ta vẫn
thường tuyên xưng trong kinh Tin Kính: Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần
là Đấng Ban Sự Sống.
Đức Chúa Thánh Thần là Đấng
Ban Sự Sống. Điều này được
diễn tả trong sách Sáng Thế. Thuở tạo thiên lập địa, cả vũ trụ chưa
nên hình nên dạng, chưa có sự sống. Trời đất là một khối hỗn mang.
Thánh Thần Chúa bay là là trên mặt nước (cf. St 1,1). Thánh Thần Chúa
bay lượn trên mặt nước để vũ trụ được định hình. Thánh Thần Chúa ban
cho trời đất một diện mạo. Và trên hết Thánh Thần Chúa ban sự sống
cho muôn loài.
Đức Chúa Thánh Thần
ban sự sống lại. Ngôn sứ Ezechiel đã được thấy trong một
thị kiến như sau: “Tay Đức Chúa đặt
trên tôi. Đức Chúa dùng thần khí đem tôi ra, đặt tôi giữa thung lũng;
thung lũng đầy xương cốt. Người đưa tôi đi ngang, đi dọc giữa chúng.
Những xương ấy nằm la liệt trên mặt thung lũng và đã khô đét. Người
bảo tôi: “Hỡi con người, liệu các xương này có hồi sinh được không?”.
Tôi thưa: “Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, chính Ngài mới biết điều
đó.” Bấy giờ, Người bảo tôi; “Ngươi hãy tuyên sấm trên các xương ấy;
ngươi hãy bảo chúng: Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời Đức Chúa. Đức
Chúa là Chúa Thượng phán thế này: Đây Ta sắp cho thần khí nhập vào
các ngươi và các ngươi sẽ được sống.... Ngươi hãy nói với thần khí:
Từ bốn phương trời, hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những người đã
chết này cho chúng được hồi sinh. Thần khí liền nhập vào những người
đã chết; chúng được hồi sinh và đứng thẳng lên” (Ez 37,1 – 10). Thánh
Phaolô quả quyết: Đức Chúa Thánh Thần đã làm cho Chúa Giêsu sống lại cũng sẽ làm cho
chúng ta sống lại trong ngày sau hết.
Đức Chúa Thánh Thần
ban sự sống mới. Sách Công vụ Tông đồ thuật lại: “Khi
đến ngày lễ Ngũ Tuần,
mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng
động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp.
Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu
xuống từng người một. Và ai nấy đều được đầy tràn ơn Chúa Thánh
Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh
Thần ban cho”
(Cv 2, 1-4).
Từ khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các tông đồ trở nên khác hẳn.
Trước kia các ngài nhút nhát sợ hãi, nay các ngài mạnh dạn hăng hái.
Trước kia các ngài chỉ là những ngư phủ thất học, không am hiểu giáo
lý, nay các ngài cất tiếng rao giảng Tin mừng cho mọi người thuộc đủ
mọi tầng lớp, mọi chủng tộc. Trước kia các ngài còn nghĩ đến bản
thân, tranh giành nhau chỗ cao chỗ thấp, nay các ngài chỉ nghĩ đến
Nước Chúa, sẵn sàng hi sinh mạng sống để làm chứng cho Chúa. Ơn Chúa
Thánh Thần đã đổi mới tâm hồn các ngài. Các ngài đã nhận được sự
sống mới, sự sống của Chúa, để sống vì Chúa và sống cho Chúa.
Ngày chịu phép rửa tội, ta đã nhận được sự sống của Chúa. Tuy nhiên
có nhiều chỗ trong linh hồn ta không có sự sống vì tội đã ngăn cản ơn
thánh và làm chết đi nhiều phần trong linh hồn. Những dục vọng, đam
mê, tham vọng, tinh thần thế tục giống như vi trùng len lỏi vào linh
hồn làm cho sự sống của Chúa bị tổn thương. Linh hồn suy nhược không
còn tha thiết làm việc lành. Hôm nay ta hãy xin Đức Chúa Thánh Thần
xuống phục sinh những thành phần chết chóc trong tâm hồn ta. Và nhất
là xin Người ban sức sống mới cho tâm hồn ta. Giúp ta biết tẩy bỏ lối
sống, lối suy nghĩ, lối cư xử xưa cũ theo tinh thần thế tục, để sống
một đời sống mới, sống nhiệt thành, sống bác ái, sống quên mình,
sống dấn thân phục vụ Thiên chúa và tha nhân hơn.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến sửa lại mọi sự trong ngoài chúng
con.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Đức Chúa Thánh Thần ban sự sống lại và ban sự sống mới. Bạn có
thấy linh hồn bạn cần những sự sống này không?
2- Sau khi nhận ơn Đức Chúa Thánh Thần, các Tông đồ đã thay đổi đời
sống. Bạn cũng đã nhận ơn Chúa Thánh Thần, đời sống bạn có thay đổi
gì không?
3- Đức Chúa Thánh Thần luôn sai đi. Hôm nay bạn cảm thấy Chúa Thánh
Thần sai bạn đi làm gì?
MÙA
THƯỜNG NIÊN
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
-
Is 62,1-5
- 1Cr
12,4-11
-
Ga 2, 1-12
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Những ngày tháng cuối năm các đám cưới đua nhau tổ chức. Mùa cưới rộ
lên làm cho mùa đông bớt vẻ ảm đạm tiêu điều. Đám cưới nào thường
cũng vui. Trong đám cưới người ta chỉ nói chuyện vui. Nhưng niềm vui
kéo dài được bao lâu? Những lời chúc trăm năm hạnh phúc có thật sự
đem hạnh phúc đến cho đôi tân hôn và làm cho họ hạnh phúc suốt đời
không? Nhìn vào thực trạng đời sống gia đình hôm nay, ta thấy có được
hạnh phúc gia đình là một điều rất khó, hạnh phúc trăm năm thì lại
càng khó lắm.
Đám cưới Cana hôm nay cũng suýt lâm vào cảnh bế tắc. Tiệc đang nửa
chừng thì hết rượu. Hết rượu là một bất trắc không ngờ. Trong gia
đình, những bất trắc có thể đưa đến bất đồng. Bất đồng dễ đưa tới
bất hoà. Đã bất hoà thì đường đến bất hạnh không xa.
Đám cưới Cana thực khôn ngoan nên đã mời Chúa Giêsu đến dự tiệc. Việc
Chúa Giêsu đến tham dự bữa tiệc cưới nói lên sự quan tâm của Thiên
chúa đối với con người. Thiên chúa yêu thương con người nên đã đến ở
giữa loài người. Không những đến ở giữa loài người, Thiên chúa còn
trở nên một người bạn thân thiết của con người, đồng hành với con
người, chia vui sẻ buồn với con người. Chưa bao giờ người ta thấy một
Thiên chúa gần gũi đến thế, thân tình đến thế. Với tình thân, Thiên
chúa đã đến chia vui với gia đình trong dịp đại hỉ. Và việc Thiên
chúa đến nhà đã cứu gia đình mới khỏi cảnh bất hạnh ngay trong ngày
đầu tiên chung sống.
Có lẽ ai trong chúng ta cũng muốn mời Chúa đến nhà. Sự hiện diện
của Chúa giúp ta vượt qua được những bất trắc trong đời sống gia
đình. Những bất trắc thì nhan nhản trong đời sống hằng ngày.
Việc thiếu rượu của gia đình Cana nói lên những thiếu thốn của gia
đình chúng ta. Có những thiếu thốn về vật chất: cơm không đủ ăn, áo
không đủ mặc, thiếu tiền cho con đi học, thiếu thuốc men khi bệnh tật.
Có những thiếu thốn về tinh thần: thiếu quan tâm chăm sóc lẫn nhau,
thiếu khuyên bảo dạy dỗ con cháu, thiếu kính trọng trong đối xử,
thiếu tế nhị trong lời nói. Nhưng trầm trọng nhất là những thiếu
thốn về đời sống đạo đức: thiếu đức tin, thiếu lòng đạo đức sốt
sắng, thiếu công bằng bác ái, thiếu trách nhiệm duy trì đời sống đức
tin trong gia đình.
Đời sống gia đình lúc đầu rất vui, nhưng sau đó, nếu không khéo gìn
giữ sẽ trở nên nhạt nhẽo như nước lã. Nhạt nhẽo vì tình nghĩa phai
dần. Nhạt nhẽo vì những bổn phận nặng nề, nhàm chán. Nhạt nhẽo vì
những khuyết điểm không tránh được của mọi người.
Những thiếu thốn và những nhạt nhẽo ấy hầu như vượt ngoài khả năng
giải quyết của ta, nên ai cũng muốn mời Chúa đến nhà để Chúa cứu gia
đình khỏi sự tan vỡ, sụp đổ.
Thế nhưng mời Chúa đến không phải là tổ chức làm phép nhà cho long
trọng, ăn tân gia cho linh đình. Mời Chúa đến không phải chỉ là làm
bàn thờ cho đẹp, treo thật nhiều ảnh tượng. Muốn mời Chúa đến, việc
đầu tiên cần thiết là phải làm theo ý Chúa. Như Đức Mẹ dạy các gia
nhân: “Người bảo gì thì phải làm
theo”. Nhờ làm theo lời Chúa mà gia đình Cana thoát khỏi cảnh xấu
hổ, hạnh phúc gia đình được bền vững.
Gia đình muốn sống trong vui tươi, muốn giữ vững được hạnh phúc hãy
làm theo Lời Chúa. Đọc
Phúc
Âm, học hỏi và đem ra thực hành. Để Lời Chúa hướng dẫn mọi lời ăn
tiếng nói của mình. Để Lời Chúa soi sáng những suy nghĩ của mình.
Để Lời Chúa điều khiển mọi việc làm của mình. Lộc Xuân mà chúng ta
rút được trong ngày Tết phải là châm ngôn hướng dẫn toàn bộ đời sống
gia đình trong suốt năm mới này.
Sống theo Lời Chúa, gia đình sẽ được Chúa dẫn dắt vượt qua những
thiếu thốn. Sống với Chúa, hạnh phúc gia đình sẽ luôn nồng nàn tươi
mới như chất rượu ngon. Sống trung thành kết hiệp với Chúa, gia đình
sẽ được Chúa đưa vào dự bữa tiệc cưới trên trời, lúc đó chàng rể
đích thật là Chúa Kitô sẽ cho ta nếm thứ rượu tuyệt ngon trên thiên
đàng, đó là hạnh phúc không bao giờ tàn phai.
Lạy Chúa, xin đến với chúng con. Lạy Chúa, xin hướng dẫn chúng con.
Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Gia đình bạn có kinh nghiệm gì về những thiếu thốn?
2- Gia đình bạn có kinh nghiệm gì về sự nhạt nhẽo tình nghĩa?
3- Bạn đã có kinh nghiệm về việc thực hành Lời Chúa trong gia đình
chưa?
4- Có bao giờ bạn cảm thấy gia đình bạn được Chúa cứu thoát khỏi
hiểm nguy, thử thách, thất bại?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Nk 8,2-4a.6.8-10
- 1Cr 12.12-30
-
Lc 1, 1-4 ; 4,
14-21
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Chúa Giêsu luôn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Tin mừng
nhiều lần đề cập đến điều này. Chẳng hạn như: được Chúa Thánh Thần
thúc đẩy, Người vào sa mạc ăn chay cầu nguyện. Hôm nay, được Chúa
Thánh Thần thúc đẩy, Người đi rao giảng khắp miền Galilêa. Trở về
Nazareth, Người đọc Sách Thánh trong Hội đường đúng đọan nói về Ơn
Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Nhiều lần Tin Mừng nói Chúa Giêsu tràn
đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần. Nhờ đâu được như thế? Một phần
nhờ việc đọc Sách Thánh.
Chúa Giêsu
thường xuyên đọc Sách Thánh. Tin Mừng hôm nay diễn tả: “Rồi
Chúa Giêsu đến Nazareth, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường
như Người vẫn quen làm trong ngày sabbat, và đứng lên đọc Sách Thánh”.
Yêu mến và gắn bó với hội đường, nên Chúa Giêsu thường xuyên đến sinh
họat với mọi người trong hội đường. Yêu mến và gắn bó với Sách
Thánh nên Chúa Giêsu thường xuyên đọc Sách Thánh. Còn hơn thế nữa, sau
khi đọc, Người đứng ra giải nghĩa cho mọi người. Đó là nếp sinh họat
bình thường của Người. Nếp sinh họat này đã thành thói quen từ khi
Người còn nhỏ bé. Nên ngay từ khi lên 12 tuổi, Người đã có thể đối
đáp với các bậc tiến sĩ trong đền thờ Giêrusalem.
Chúa Giêsu
kính cẩn đọc Sách Thánh. Chúa Giêsu không đọc Sách
Thánh theo thói quen. Người đọc một cách trịnh trọng kính cẩn. Ta hãy
chiêm ngắm thái độ của Người theo lời diễn tả của thánh Luca: “Họ
trao cho Người cuốn sách tiên tri Isaia. Người mở ra và đọc... Người
cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai
nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với
họ”. Thật là trang nghiêm kính cẩn. Thái độ của Người ảnh hưởng
đến cả hội đường. Nên khi Người đọc mọi người đều chăm chú nhìn
Người. Chúa Giêsu trân trọng việc đọc Sách Thánh vì Người luôn thao
thức tìm thánh ý Chúa Cha. Người đọc Sách Thánh để tìm hướng dẫn
cho cuộc đời. Người đọc Sách Thánh để mong chu toàn thánh ý Chúa Cha.
Người nhận biết thánh ý Chúa Cha qua những trang Sách Thánh. Người cố
đọc giữa những hàng chữ để tìm thánh ý Chúa Cha.
Chúa Giêsu
nghiêm túc thực hành lời Sách Thánh. Khi nói với mọi
người rằng: “Hôm nay đã ứng nghiệm
lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe”, Chúa Giêsu muốn nói hai điều.
Điều thứ nhất: Người tìm thấy thánh ý Chúa Cha qua đọan Sách Thánh.
Với thái độ kính cẩn, với lòng khiêm tốn hiếu thảo lắng nghe, Chúa
Giêsu đã đọc được thánh ý Chúa Cha qua đoạn sách tiên tri Isaia. Biết
lời tiên tri Isaia ứng nghiệm vào sứ mạng của mình. Điều thứ hai:
Biết được thánh ý Chúa Cha rồi, Chúa Giêsu cương quyết thực hành.
Người coi đó là chương trình hành động. Người coi đó là chỉ nam hướng
dẫn. Dù sứ mạng của Người vừa mới khởi đầu, Người cũng cương quyết
hoàn thành. Suốt đời Người sẽ thực hành chương trình này. Vì thế
đọan sách Isaia ứng nghiệm vừa do thánh ý Chúa Cha vừa do ý chí của
Chúa Giêsu quyết tâm thực hành thánh ý Chúa Cha.
Đây là mẫu gương cho ta. Đó là kết quả của Ơn Chúa Thánh Thần. Hãy
thường xuyên đọc Kinh Thánh để ta luôn được tiếp xúc với Thiên Chúa.
Hãy kính cẩn tìm thánh ý Chúa trong Kinh Thánh chắc chắn ta sẽ được
ơn Chúa soi sáng cho biết đường đi. Nhất là hãy quyết tâm thực hành
Lời Chúa mà ta đã đọc. Ta sẽ được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần. Thật
vậy, chẳng ai có thể say mê Kinh Thánh nếu không được Ơn Chúa Thánh
Thần lôi cuốn. Chẳng ai tìm được thánh ý Thiên Chúa nếu không được Ơn
Chúa Thánh Thần soi sáng. Chẳng ai có thể thực hành Lời Chúa nếu
không được Ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Như một tác động hai chiều.
Càng được Ơn Chúa Thánh Thần ta càng say mê Kinh Thánh. Càng say mê Kinh
Thánh ta lại càng để Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời. Cuộc đời
sống theo Ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn sẽ hoàn toàn ứng nghiệm ý
định của Thiên Chúa cho bản thân và cho tha nhân. Đó chính là cuộc đời
đạt được mục đích cao quí nhất.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Bạn có thường xuyên đọc Kinh Thánh không?
2. Bạn tìm gì trong sách Kinh Thánh: khôn ngoan, lịch sử hay thánh ý
Thiên Chúa cho đời bạn?
3. Khi đọc Kinh Thánh bạn có nghĩ rằng Chúa đang nói với bạn không?
4. Bạn có thấy một câu Kinh Thánh ứng nghiệm vào bạn và bạn quyết
tâm thực hiện không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Gr
1,4-5.17-19
- 1Cr 12,31
– 13,13
-
Lc 4, 21-30
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Sau khi rao giảng một thời gian, Chúa Giêsu trở về làng cũ. Thọat nghe
Chúa giảng, họ khâm phục tán thành. Nhưng sau đó họ lại xua đuổi và
muốn giết Chúa. Thật là đáng buồn. Đúng như lời thánh Gioan đã viết:
“Người đã đến nhà nhưng người nhà
không nhận biết Người”. Tại
sao có cảnh trái ngang đau lòng như thế? Thưa vì tư tưởng của Thiên
Chúa khác với tư tưởng của họ.
Chúa đi tìm đức tin còn họ đi tìm lợi lộc.
Khi đi rao giảng, Chúa muốn đem đến cho ta niềm tin. Niềm tin đã là
khởi điểm của nhiều phép lạ. Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta có
niềm tin. Niềm tin đã là kết quả của nhiều phép lạ. Chúa chỉ làm
phép lạ khi phép lạ dẫn đến niềm tin. Nhưng dân làng Nazareth không
nhìn thấy điều đó. Họ không tin Người là Đấng Cứu Thế. Lời giảng
của Người không đưa họ tới đức tin và Thiên Chúa, vào Nước Trời. Họ
chỉ mong được có phép lạ. Vì họ chỉ mong được lợi lộc vật chất:
được khỏi bệnh; được ăn no. Mong ước của họ không gặp được mong ước
của Chúa.
Chúa sống trong khiêm nhường nhưng họ sống trong kiêu căng.
Chúa không bao giờ làm phép lạ với mục đích biểu diễn. Chúa chỉ làm
phép lạ để giải nghĩa mầu nhiệm Nước Chúa. Chúa không làm phép lạ
khi ma quỉ cám dỗ Chúa trong hoang địa. Chúa không xuống khỏi thập giá
khi dân chúng thách thức Chúa trên Núi Sọ. Nên hôm nay Chúa cũng không
làm phép lạ để thỏa mãn tính hiếu kỳ và tính kiêu căng của dân làng
Nazareth. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ được vinh dự có người
đồng hương quyền phép. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ cũng
được nở mày nở mặt với Capharnaum. Suy nghĩ của họ rất khác với suy
nghĩ của Chúa.
Chúa có tâm hồn mở rộng trong khi tâm hồn họ hẹp hòi.
Họ mong ước Chúa là người làng Nazareth thì phải dành mọi ưu tiên cho
dân làng từ việc rao giảng cho đến việc làm phép lạ. Tất cả phải
bắt đầu và chỉ bó gọn trong làng. Nhưng Chúa Giêsu, khi trích dẫn
chuyện tiên tri Elia ở nhà bà góa Sarepta trong thời hạn hán, làm cho
bình dầu và hũ bột của gia đình bà không bao giờ vơi và chuyện tiên
tri Elisa chữa tướng Naaman, người Syria khỏi bệnh phong, đã cho thấy
Nước Chúa không chỉ bó hẹp lại trong phạm vi người thân thuộc nhưng
phải mở rộng tới tất cả mọi người. Không chỉ những người trong đạo
Do Thái mà cho cả những người ngoại đạo nữa. Hai nhãn quan khác hẳn
nhau.
Tôi là người có đạo. Nhưng
biết đâu tôi không đón nhận được Chúa vì tôi cũng giống như dân làng
Nazareth, đến với Chúa chỉ mong được lợi lộc vật chất, đến với Chúa
chỉ vì hư danh, đến với Chúa với tâm hồn hẹp hòi. Hôm nay tôi xinh
Chúa thanh tẩy tâm hồn tôi khỏi thói ham mê lợi lộc, thói phô trương bề
ngoài và thói hẹp hòi khép kín, để tôi được đón nhận Chúa và để
tôi trở nên tông đồ của Chúa.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Giữ đạo tốt để được may mắn. Bạn có ý nghĩ như thế không?
2. Ban khó chịu khi người ngoại đạo được may mắn. Thái độ này có
đúng không?
3. Thường thường, bạn đi tìm Chúa, tha thiết cầu nguyện để đạt được
điều gì? Để được may mắn, khỏi tai họa, hay để được hiểu biết, yêu
mến Chúa?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Is 6,1-2a.3-8
- 1Cr 15,1-11
-
Lc 5, 1-11
II.TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Bài Tin mừng hôm nay tường thuật về mẻ cá lạ lùng mà Phêrô và các
bạn được chứng kiến. Đây không phải chỉ đơn thuần là một phép lạ lớn
lao cho ta ngưỡng phục quyền năng của Thiên chúa. Nhưng qua dấu lạ này,
Chúa Giêsu còn muốn mời gọi ta ra khơi truyền giáo. Và qua tiến trình
của phép lạ, Chúa Giêsu đã áp dụng một chương trình đào tạo các môn
đệ, đặc biệt là Phêrô, người đứng đầu các môn đệ.
Chương trình đào tạo này gồm 4 điểm.
Điểm thứ nhất:
cảm nghiệm về sự nghèo nàn của bản thân. Phêrô và các
bạn đang giặt lưới. Các ông mệt mỏi sau một đêm thức trắng vật lộn
với biển khơi. Tâm trạng các ông chán nản sau thất bại chua cay não
nề. Thế mà giờ đây, Chúa Giêsu lại bảo các ông ra khơi. Ra tận chỗ
nước sâu. Nước sâu là chỗ nguy hiểm. Nước sâu là chỗ Phêrô đã gặp
thất bại. Chúa Giêsu muốn Phêrô trở lại chỗ nước sâu để nhận thức rõ
sự vô tài bất lực của bản thân. Chúa Giêsu muốn Phêrô nhìn rõ những
thất bại để ông biết khiêm nhường. Khiêm nhường là bài học đầu tiên
Chúa Giêsu muốn gửi đến các môn đệ của Người.
Điểm thứ hai:
cảm nghiệm về sự cao cả của Thiên chúa. Người tông đồ
phải làm chứng về Thiên chúa. Muốn làm chứng phải có kinh nghiệm. Ai
chưa từng gặp được Thiên chúa, chưa từng tiếp xúc với Người thì không
thể làm chứng về Người. Trong những trường hợp đặc biệt, Thiên chúa
thường chủ động tỏ mình ra. Chúa tỏ mình ra cho Môsê trong bụi gai
cháy đỏ. Chúa tỏ mình ra cho thánh Phaolô qua làn ánh sáng chói lọi
trên đường đi Đamát. Hôm nay Chúa tỏ mình ra cho Phêrô qua mẻ lưới lạ
lùng. Lập tức Phêrô nhận biết sự cao cả, sự thánh thiện của Chúa.
Sợ hãi vì thấy mình tội lỗi, Phêrô vội quì xuống xin Chúa rời xa.
Phêrô đã sống bên cạnh Chúa. Ông đã được tiếp xúc với Chúa. Ông đã
cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả của Chúa. Sau này ông đi rao
giảng chỉ là để kể lại những gì ông đã mắt thấy tai nghe.
Điểm thứ ba trong chương trình đào tạo môn đệ của Chúa đó là
sự
vâng lời tuyệt đối. Phêrô hẳn là rất ngạc nhiên khi Chúa Giêsu
bảo ông ra khơi đánh cá, lại còn chỉ rõ nơi thả lưới. Không ngạc nhiên
sao được khi Phêrô là người miền biển trong khi Chúa Giêsu là người
miền núi. Phêrô làm nghề chài lưới lâu năm kinh nghiệm trong khi Chúa
Giêsu chỉ làm nghề thợ mộc. Thế mà khi Chúa Giêsu bảo ông thả lưới
bên phải thuyền, ông đã tăm tắp làm theo. Phêrô đã vâng lời tuyệt đối.
Phêrô đã học được thái độ vâng lời của người môn đệ. Ông đã thành
công. Ông đã thấy kết quả rõ ràng. Và Chúa đã đặt ông làm tông đồ
trưởng.
Điểm sau cùng mà Chúa muốn người môn đệ phải có đó là
sẵn sàng ra đi. Ra đi
là một thái độ liều lĩnh. Vì vượt qua những khoảng không gian vật lý
cheo leo. Ra khơi là chấp nhận đối đầu với phong ba bão táp.
Vượt qua những khoảng không gian vật lý đã khó. Vượt qua những khoảng
không gian tâm lý còn khó hơn. Ra đi là bỏ nơi an toàn để đến nơi bấp
bênh. Ra đi là bỏ nơi quen biết để đến nơi xa lạ. Lên đường truyền giáo
là bỏ lại tất cả: gia đình, thuyền bè, chài lưới. Bỏ cả nghề
nghiệp cũ đã thành thạo để bắt tay vào nghề mới còn chập chững. Bỏ
lưới cá để chài người.
Nhưng khó nhất chính là ra khỏi chính mình. Dù có đi xa ngàn dặm
nhưng vẫn giữ những thói tật xưa cũ thì người ta vẫn còn ở khởi
điểm. Muốn lên đường người môn
đệ phải ra khỏi tính tự ái tự mãn của mình. Ra khỏi những quan niệm
xưa cũ hẹp hòi. Ra khỏi những ảo tưởng viễn vông. Ra khỏi thói ích
kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.
Khi đã từ bỏ tất cả, người môn đệ sẽ trở nên hoàn toàn nghèo nàn.
Gia tài chỉ có niềm cậy tin phó thác hoàn toàn vào Đấng kêu gọi ta.
Vũ khí chỉ có lòng vâng phục tuyệt đối vào Đấng sai ta.
Mỗi người đang được Chúa huấn luyện. Bao lâu ta chưa cảm nghiệm được
sự hèn kém của bản thân, chưa cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả
cũng như tình yêu của Thiên chúa, chưa có niềm vâng phục tuyệt đối,
chưa ra đi trong tự do và khó nghèo, ta vẫn chưa thực sự trở thành môn
đệ của Chúa. Chưa được đào tạo kỹ lưỡng mà đã làm việc thì phần
thành công chắc chắn sẽ ít hơn phần thất bại.
Lạy Chúa, xin hãy dạy bảo con theo đường lối của Chúa.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Bạn có tuyệt đối vâng lời Chúa trong mọi hoàn cảnh không?
2- Bạn có cảm nghiệm về sự vô tài bất lực của mình không?
3- Bạn đã ra đi khỏi chính mình chưa?
4- Bạn có cảm thấy Chúa có chương trình đào tạo mình không?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
-Gr 17,5-8
-1Cr 15,12.16-20
-
Lc 6,17.20-26
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Bầu khí ngày Tết vẫn chưa tan, nhất
là tại miền Bắc giàu truyền thống lễ hội. Ta vẫn còn nghe những lời
chúc thịnh vượng, khang ninh cho năm mới. Đầu năm mới, các nước trên
thế giới đều phấn đấu để kinh tế phát triển, tăng thu nhập cho toàn
dân. Thế nhưng Lời Chúa hôm nay lại nói: “Hỡi anh em là những kẻ nghèo khó, anh em thật có phúc, vì
Nước Thiên Chúa là của anh em”. Phải chăng Chúa Giêsu phản lại tiến
bộ, muốn nhân loại tụt hậu?
Để thấu hiểu Lời Chúa, ta cần ghi nhận mấy điểm sau đây:
Trước hết ở đây Chúa Giêsu không nói về kinh tế, nhưng nói về hạnh
phúc. Vật chất có thể góp phần vào hạnh phúc, nhưng vật chất tự nó
chưa phải là hạnh phúc. Câu chuyện về công nương Diana là một minh hoạ
rõ nét.
Mùa hè năm 1997, cả thế giới xôn xao về cái chết của công nương Diana.
Công nương Diana là một phụ nữ xinh đẹp. Từ khi kết hôn với thái tử
Charles, con của nữ hoàng nước Anh, công nương trở thành người có danh
vọng và đồng thời cũng có nhiều tiền của vào bậc nhất trên thế
giới. Có lẽ ai cũng nghĩ rằng một phụ nữ đẹp đẽ, giàu sang, phú
quí như thế phải là người hạnh phúc nhất trên đời. Nhưng không đúng
như thế. Công nương rất đau khổ vì cảnh gia đình thiếu tình yêu thương
chân thực. Thái tử Charles vẫn lén lút quan hệ với người tình cũ. Đau
khổ mà chẳng thể nói ra, vì cả gia đình bên chồng muốn giữ gìn uy
tín cho hoàng gia. Chán nản với đời sống gia đình, công nương đã tìm
vui bên người bạn trai mới. Trong một chuyến đi chơi ở Paris, cả hai bị
thiệt mạng trong một tai nạn xe hơi. Có nhiều người cho rằng chính
hoàng gia Anh đã gây ra tai nạn. Không ai nghĩ rằng cuộc đời công nương
có hạnh phúc, dù bà có tất cả: sắc đẹp, tiền của, danh vọng.
Thứ đến, Chúa không lên án vật chất, nhưng chỉ lên án thái độ sử
dụng vật chất. Vật chất do Chúa dựng nên để phục vụ con người. Chúa
dựng nên và Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Nhưng con người đã làm sai
chương trình của Chúa. Thay vì sử dụng vật chất như phương tiện, người
ta đã biến nó thành mục đích. Thay vì sử dụng vật chất phục vụ
đồng loại, người ta đã sử dụng đồng loại để phục vụ vật chất. Đó
là những thái độ bị Chúa lên án. Những thái độ ấy biến vật chất
thành chướng ngại ngăn cản ta đạt đến hạnh phúc Nước Trời.
Sau cùng, Chúa không khuyến khích cảnh nghèo, càng không khuyến khích
những người vì lười biếng mà trở nên nghèo. Chúa chỉ khuyến khích
những người vì Nước Trời mà tự nguyện sống nghèo.
Những người vì Nước Trời mà tự nguyện trở nên nghèo là những người
hiểu biết giá trị thực sự của tiền bạc. Biết rõ tiền bạc chỉ là
phương tiện nên họ dùng tiền bạc mà không dính bén, có tiền mà không
nô lệ cho đồng tiền, nhất là biết dùng tiền vào những việc hữu ích
cho đồng loại. Vì tha nhân, vì Nước Trời mà tự nguyện sống nghèo.
Những người tự nguyện sống nghèo như thế không làm cho xã hội tụt
hậu, trái lại giúp phát triển xã hội, đưa nhân loại tiến lên. Không
chỉ tiến lên về văn minh vật chất mà còn tiến về nền văn minh tình
thương.
Những người tự nguyện sống nghèo như thế giúp nâng cao nhân phẩm con
người, đem niềm vui cho người sầu khổ, gieo niềm hi vọng cho những
người bị bỏ quên, đem tình thương đến cho những người bị gạt ra ngoài
lề xã hội.
Những người tự nguyện sống nghèo như thế không phải là những người
lười biếng, hèn nhát, uỷ mị, bạc nhược. Trái lại đó là thái độ
của những tâm hồn dũng mạnh, luôn phấn đấu với chính mình để nâng tâm
hồn mình và nâng cả thế giới lên.
Tự nguyện sống nghèo như thế là một mối phúc cho thế giới, cho nhân
loại. Thế giới sẽ tốt đẹp biết bao nếu có nhiều người tự nguyện như
thế.
Sau đám tang của công nương Diana 1 tuần lễ, thế giới lại xôn xao về
một đám tang khác: đám tang của mẹ Terexa Cancutta. Khác hẳn với công
nương Diana, mẹ Terexa là một nữ tu già nua, sống một đời sống nghèo.
Trong phòng của mẹ chỉ có một chiếc ghế và một chậu thau đựng nước.
Người ta cho mẹ nhiều tiền, nhưng mẹ tự nguyện sống nghèo, dành hết
tiền của để giúp những người nghèo, những trẻ mồ côi, tàn tật. Khi
Đức Giáo hoàng sang thăm Ấn độ, thấy mẹ đi lại công tác nhiều, tặng
mẹ một xe ô-tô sang trọng. Nhưng khi Đức Giáo hoàng về, mẹ đã bán xe
lấy tiền giúp người nghèo. Có 40 nguyên thủ quốc gia đến tham dự đám
tang của mẹ. Và Ấn độ, một nước không ưa gì đạo Công giáo, đã cử
hành quốc táng cho mẹ. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh
hồn mẹ trong khi các vị nguyên thủ quốc gia quyền uy đứng cúi đầu
kính cẩn trước thi hài vị nữ tu già nua, nghèo khó. Mẹ đã thực hành
Lời Chúa: “Phúc cho anh em là người
nghèo khó, vì nước Trời thuộc về anh em”.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Bạn có kinh nghiệm vui buồn gì về tiền bạc? Vì tranh chấp tiền
bạc mà mất tình nghĩa? Nhờ biết nhường nhịn về tiền bạc mà thêm
bạn hữu?
2- Lời Chúa hôm nay có chúc phúc và chúc dữ. Bạn thuộc diện nào?
Được chúc phúc hay bị chúc dữ?
3- So sánh cuộc đời của công nương Diana và cuộc đời của mẹ Terẽa,
bạn rút ra được quyết định nào cho đời bạn?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- 1S 26,2.7-9.12-13.22-23
- 1Cr 15,45-49
-
Lc 6, 27-38
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Bài đọc I và bài Tin mừng hôm nay đều nói về sự tha thứ. Nhưng ở mức
độ khác nhau.
Bài đọc I tường thuật sự tha thứ của David. David làm ơn mà mắc oán.
Sau khi chiến thắng Goliath, giải phóng dân Do thái khỏi tay người
Philistin, ông được dân chúng ca ngợi. Sự ngưỡng mộ của dân chúng đối
với David khiến vua Saul ghen tỵ. Saul tìm bắt David để giết đi. Hôm nay,
sau một cuộc săn lùng mệt mỏi, Saul ngủ thiếp đi trong hang đá. David
đến mà không ai hay biết. Có thể giết Saul, nhưng David đã không làm.
Trong David có cái mà ta gọi là bao dung, độ lượng, cao thượng. Tuy
nhiên sự tha thứ của David vẫn chưa hoàn toàn tự phát. Ông không dám
giết Saul một phần vì sợ xúc phạm đến “người được Thiên chúa xức
dầu”.
Trong quan hệ giữa người với người, nếu tha thứ bạn sẽ được tiếng là
độ lượng, còn người được tha thứ bị coi là thua kém bạn. Bạn được
lợi còn người kia bị thiệt.
Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu
đòi hỏi người môn đệ phải vượt qua cái thường tình. Người muốn môn
đệ vươn đến sự tha thứ hoàn hảo. Sự tha thứ hoàn hảo của Tin mừng
phải biểu lộ bằng hành động cụ thể: “Ai vả anh em má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt
áo ngoài của anh em, thì cũng đừng cản họ lấy áo trong. Ai xin thì
hãy cho, ai lấy cái gì của anh em, thì đừng đòi lại”.
Không chỉ dừng lại ở hành động bên ngoài, sự tha thứ hoàn hảo phải
thấm sâu vào lý trí, không lấy ác báo ác, nhưng cũng không nghĩ xấu
về người khác: “Anh em đừng xét
đoán, thì sẽ khỏi bị Thiên chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ
khỏi bị Thiên chúa lên án”.
Thấm vào lý trí đã là một bước tiến dài nhưng vẫn chưa đủ, sự tha
thứ còn phải lan đến tận trái tim là trung tâm của tình yêu. Khi đã
chiếm lĩnh được trái tim, sự tha thứ trở nên một sức mạnh kỳ diệu
dẫn đến những hành động tích cực, lấy đức báo oán, đem yêu thương
xoá bỏ hận thù. Khi ấy ta mới có thể thực hành Lời Chúa dạy: “Anh
em phải yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét mình, phải chúc
lành cho kẻ nguyền rủa mình và cầu nguyện cho kẻ nhục mạ mình”.
Với những lời dạy dỗ trên, Chúa Giêsu muốn cho môn đệ của Người tha
thứ và yêu thương không phải như người thường nhưng như Thiên Chúa “Người
nhân hậu cả với những phường vô ân, với những quân độc ác”. Người
muốn cho các môn đệ của Người “từ bi như Cha trên trời là Đấng từ bi”.
Với những lời dạy dỗ trên, Chúa Giêsu muốn thanh tẩy thế giới sạch
mọi oán thù. Không phải chỉ sạch oán thù ngoài mặt nhưng sạch từ
trong thâm tâm mỗi người. Không phải chỉ bằng mặt mà còn phải bằng
lòng. Sào huyệt vững chắc nhất của oán thù không phải ở nơi người
khác nhưng ở trong lòng ta. Muốn thế giới hết oán thù, chính bản thân
ta phải từ bỏ oán thù trước. Muốn thế giới sống trong yêu thương,
chính ta phải yêu thương trước. Yêu thương giống như ngọn lửa thắp lên
rồi sẽ cháy lan mạnh mẽ. Yêu thương giống như bầu khí toả ra sẽ lan
tới từng buồng phổi, sẽ thấm vào từng mạch máu. Yêu thương chính là
sức mạnh biến đổi thế giới sâu xa nhất. Yêu thương là cuộc cách mạng
bền vững nhất.
Chúa Giêsu không chỉ nói suông. Chính Người đã thực hành những điều
Người nhắn nhủ các môn đệ. Người để cho quân lính bắt đi như con chiên
hiền lành đứng trước người thợ xén lông. Người chữa lành tai cho kẻ
đến bắt Người. Người không nói một lời nào trách móc những kẻ làm
điều ác cho Người. Sau cùng, lúc bị treo trên thánh giá, Người còn
cầu nguyện cho những kẻ giết Người. Người đã minh chứng một tình yêu
nguyên tuyền không bợn chút oán thù. Người đã minh chứng một tình yêu
mãnh liệt vượt qua mọi ghen ghét.
Hạt giống yêu thương Người đã gieo xuống. Người mong ta tiếp tục vun
tưới cho cây yêu thương kết trái đơm hoa. Ngọn lửa yêu thương Người đã
thắp lên. Người mong ta hãy đem lửa ấy chiếu soi khắp thế giới.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn
lòng con nên giống Trái Tim Chúa.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Khi có người xúc phạm đến bạn, bạn thường tìm cách báo thù hay
tìm cách tha thứ?
2- Mỗi khi mang mối oán thù trong lòng, bạn cảm thấy thế nào? Thanh
thản hay bứt rứt?
3- Bạn đã tha thứ cho ai bao giờ chưa? Bạn cảm thấy thế nào sau khi đã
tha thứ?
4- Sự tha thứ hoàn hảo mà Chúa dạy ta là gì?
5- Chúa Giêsu đã thực hành sự tha thứ như thế nào?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Hc 27,4-7
- 1Cr 15,54-58
-
Lc 6, 39-45
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Tục ngữ nói: Đôi mắt là cửa sổ linh hồn. Là cửa sổ cho ta nhìn ra
thế giới bên ngoài. Nhìn ra để hiểu biết thế giới. Nhìn ra để đón
nhận thông tin. Nhưng khổ một nỗi, thông tin lọc qua ánh mắt nhiều khi
sai lạc. Có nhiều lý do.
Có ánh mắt sai lạc vì bị bệnh. Mắt bị bệnh sẽ nhìn không chính
xác. Nhìn không chính xác sẽ cho thông tin sai. Thông tin sai sẽ dẫn đến
phán đoán sai. Phán đoán sai sẽ dẫn đến hành động sai. Mắt hỏng mà
tưởng là còn tốt, mắt nhìn không thấy mà tưởng là thấy sẽ đưa đến
những hậu quả nguy hiểm như Chúa nói trong Tin mừng hôm nay: “Mù
mà dắt mù thì cả hai sẽ rơi xuống hố”.
Có ánh mắt sai lạc vì đeo kính mầu. Đeo kính mầu đen sẽ nhìn mọi sự
bằng mầu đen. Đeo kính mầu hồng mọi vật đều trở nên hồng. Kính lúp
có khả năng phóng đại tối đa sẽ làm cho ta có cái nhìn khác hẳn trên
một vật bình thường.
Mắt là cửa sổ linh hồn. Cửa sổ mở ra cũng là để người bên ngoài
nhìn vào linh hồn ta. Thật vậy, tâm hồn con người lộ hết trong đôi
mắt. Có những ánh mắt ngây thơ trong trắng bộc lộ tâm hồn tinh khiết
của trẻ thơ. Có những ánh mắt cao thượng cho thấy một tâm hồn luôn
hướng tới những lý tưởng cao đẹp. Có những ánh mắt tươi vui mở ra
một tâm hồn tràn trề nhựa sống. Có những ánh mắt ấm áp của một tâm
hồn bao dung độ lượng. Có những ánh mắt chiếu toả sự nhân từ của
trái tim yêu thương.
Nhưng cũng có những ánh mắt vẩn đục từ một tâm hồn nặng nề dục
vọng. Có những ánh mắt hằn lên tia lửa hận thù cuả một tâm hồn bị
thói ghen ghét thiêu đốt. Có những ánh mắt vụng trộm lén lút của
một tâm hồn ấp ủ những ý định xấu xa. Có những ánh mắt ham hố bộc
lộ một tâm hồn tham lam. Có những ánh mắt chán nản của một tâm hồn
thất vọng. Có những ánh mắt lờ đờ bạc nhược của một tâm hồn mất
hết sức sống. Có những ánh mắt soi mói của một tâm hồn nghi kị.
Thì ra những gì biểu lộ trong đôi mắt đều phát xuất từ đáy tâm hồn.
Khi tâm hồn bị bóng tối tội lỗi vây phủ, ánh mắt làm sao sáng suốt
nhìn rõ đường đi? Khi tâm hồn chìm trong đêm tối u mê, ánh mắt làm sao
tìm được con đường tươi sáng? Khi tâm hồn mù quáng, thì mắt sẽ chẳng
thấy được đường lối. Và “mù mà lại dắt
mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố”?
Mắt nhìn là phản ảnh tâm hồn. Người làm sao chiêm bao làm vậy. Ai hay
xét đoán người khác về nết xấu nào, chính là vì mình nghiêng chiều
rất mạnh về nết xấu ấy. Trong lòng có đầy miệng mới thốt ra. Có
cái xà trong mắt mình thì nhìn đâu cũng thấy rác. Tâm hồn đã xấu
thì nhìn ai cũng thành xấu cả.
Chính vì thế hôm nay Chúa dạy ta hãy xét mình trước khi xét người.
Hãy sửa lỗi mình trước khi sửa lỗi người. Hãy lấy cái xà ra khỏi
mắt mình trước rồi mới lấy được cái rác ở mắt người khác. Hãy
thanh tẩy đôi mắt của mình trước. Mắt mình thấy rõ rồi mới có thể
rửa mắt cho người.
Vì ánh mắt phản chiếu tâm hồn, nên muốn mắt trong sáng, ta phải thanh
tẩy tâm hồn. Muốn mắt nhìn rõ ràng, ta phải có tâm hồn đơn sơ. Muốn
mắt nhìn chính xác, ta phải có tâm hồn chính trực. Muốn mắt nhìn xây
dựng, ta phải có tâm hồn yêu thương. Muốn mắt nhìn lý tưởng, ta phải
có tâm hồn vươn cao. Muốn mắt nhìn tha thứ, ta phải có tâm hồn độ
lượng. Muốn mắt nhìn thân thiện, ta phải có tâm hồn rộng mở. Muốn
mắt nhìn thanh thoát phải có tâm hồn từ bỏ.
Lạy Chúa, xin thanh tẩy tâm hồn con, để con nhìn rõ bản thân con, nhờ
đó hiểu được anh em.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Mỗi khi xét đoán ai, bạn có để ý rằng mình cũng có những nết
xấu đó không?
2- Mỗi khi gặp một người lầm lỗi, bạn có thử đặt mình vào địa vị
người đó để thông cảm không?
3- Bạn nghĩ sao về thái độ của Chúa Giê-su đối với người phụ nữ
ngoại tình?
4- Phê bình bản thân cách nghiêm ngặt
và tự sửa lỗi chính mình là cách phê bình người khác có hiệu qủa
nhất. Bạn nghĩ sao về ý kiến này?
5- Muốn ánh mắt trong sáng ta phải
làm gì?
Chúa nhật 9 Thường Niên
CHỈ MỘT CHÚA
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- 1V 8,41-43
-Gl 1,1-2.6-10
- Lc 7,1-10
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Thế giới có nhiều vị thần. Người La mã có rất nhiều vị
thần. Nhưng chỉ có một Chúa. Là Chúa Tể trời đất. Chúa Tể muôn loài muôn vật.
Thiên Chúa của Tình Yêu và Sự Sống. Chỉ có Người mới yêu thương vũ trụ muôn vật
muôn loài. Vì chỉ có Người mới ban cho chúng Sự Sống.
Từ xa xưa, Salomon đã tin tưởng điều đó. Nên ông đã xây
ngôi đền thờ lộng lẫy nguy nga. Và ông xin Chúa hãy bày tỏ Tình Yêu và Sự Sống
cho tất cả những ai, dù là dân ngoại, đến cầu khẩn trong ngôi đền thờ này. Niềm
tin và lời cầu khẩn của Salomon đã ứng nghiệm vào Chúa Giêsu.
Thiên Chúa quá yêu thương thế gian nên đã ban chính Con
Một Người là Chúa Giêsu Kitô. Là Tình Yêu và Sự Sống bằng xương bằng thịt. Đến ở
với chúng ta. Để cứu độ chúng ta. Trả lại cho ta Tình Yêu và Sự Sống.
Là Tình Yêu và Sự Sống nên hôm nay Người đã hạ cố đến nhà
viên đại đội trưởng. Thật bất ngờ. Các vị thần chỉ ở trong đền thờ. Mọi người
phải đến đền thờ dâng hương cầu nguyện. Nhưng Chúa Giêsu đã đến tận nhà người
bệnh. Quả thật chưa có vị thần nào lại gần gũi với dân như thế. Đó là tình yêu.
Tình yêu đi tìm, như Chúa đã bộc lộ trong dụ ngôn “con chiên lạc”. Tình yêu
không phân biệt. Vì viên sĩ quan là người ngoại đạo. Là con chiên lạc đích thực.
Viên đại đội trưởng là sĩ quan La mã. La mã có biết bao vị
thần. Nhưng chỉ có Chúa Giêsu hạ cố đến nhà ông vì Tình Yêu. Dù ông không xứng
đáng như lời ông thú nhận. Tất cả các vị thần không vị nào có thể trả lại sự
sống cho đầy tớ của ông. Chỉ có Chúa Giêsu. Vị Cứu Tinh. Đấng Cứu Thế. Người chỉ
cần phán một lời. Sự Sống trở lại.
Viên sĩ quan đại diện cho đế quốc La mã. Đại diện cho thế
giới. Vì đế quốc La mã trải rộng khắp địa cầu. Đế quốc La mã có tất cả. Nhưng
chỉ thiếu Tình Yêu và Sự Sống. Đế quốc hùng mạnh thống trị khắp địa cầu. Nhưng
chẳng có thể làm cho kẻ chết sống lại. Vì không là Sự Sống. Vì không có Sự Sống.
Chỉ Thiên Chúa, Chúa Tể trời đất mới có thể ban Tình Yêu và Sự Sống. Nên ông đã
tin tưởng và khiêm nhường cầu nguyện thiết tha. Đức tin của ông thật mãnh liệt.
Hơn cả những người có đạo trong Israel.
Thiên Chúa là Tình Yêu và Sự Sống. Chúa Giêsu là Tin Mừng
lớn lao. Vì là Tình Yêu và Sự Sống cụ thể của Thiên Chúa đến tận nhà con người.
Đó cũng là Tin Mừng duy nhất. Đó chính là điều Phaolo xác tín và khẳng định với
giáo dân Galat.
Phaolô đã cảm nghiệm điều đó. Vì Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh
đã gặp gỡ trực tiếp với ông trên đường đi Damas. Vì Chúa yêu thương và ban Sự
Sống cho ông. Nên ông tuyệt đối xác tín. Và hăng say loan Tin Mừng đó cho mọi
người. Chỉ Chúa Giêsu Kitô là Tin Mừng duy nhất. Vì là Tình Yêu và Sự Sống duy
nhất.
Dân Galat chưa có đức tin vững vàng. Nên khi Phaolô đi
khỏi, họ đã thay lòng đổi dạ. Hôm nay Phaolô khẳng định lại một lần nữa. Dù
thiên thần trên trời xuống nói một tin mừng khác, Phaolô cũng không tin. Chỉ
Chúa Giêsu Kitô là Tin Mừng duy nhất.
Đó thật là Tin Mừng lớn lao cho toàn thể nhân loại. Nên
cần loan báo cho toàn thể địa cầu. Để muôn dân nước biết chân lý này. Tin nhận
Chúa Giêsu Kitô. Để được Tình Yêu và Sự Sống. Đó là hạnh phúc vĩnh cửu.
Đó là nhiệm vụ của chúng ta. Hãy tin tưởng như Phaolô. Như
Salomon. Như viên đại đội trưởng Rôma. Và hãy loan Tin Mừng này cho khắp địa
cầu. Để mọi người cùng được hạnh phúc như chúng ta.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1.Làm thế nào để nhận biết Thiên Chúa duy nhất và chân
thật khi so sánh với các vị thần khác?
2.Tại sao nói Chúa Giêsu Kitô là Tin Mừng duy nhất và lớn lao?
3.Bạn có cảm nhận được Chúa Giêsu Kitô là Tình Yêu và Sự Sống trong đời
bạn không?
4.Bạn có muốn mọi người được hạnh phúc biết Chúa Giêsu là Tình Yêu và Sự
Sống không? Bạn phải làm gì?
Chúa nhật 10
Thường Niên
THIÊN CHÚA
VIẾNG THĂM
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- 1V 17,17-24
- Gl 1,11-19
- Lc 7,11-17
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Sau khi Chúa Giêsu làm cho con bà goá ở Nain sống lại, “mọi
người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: “Một
vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân
Người”.
Thiên Chúa viếng thăm. Đó là điều kỳ diệu. Con người luôn khao khát thần
linh. Luôn muốn diện kiến thần linh. Luôn muốn gần gũi thần linh. Thế mà hôm nay
Thiên Chúa đến tận nhà con người. Đến ở với con người. Đến chia vui sẻ buồn với
con người.
Thiên Chúa đến là niềm mong đợi. Vì chỉ Thiên Chúa mới giải quyết được
những bế tắc trong đời người. Đời sống con người quá đau khổ. Chỉ Thiên Chúa mới
có thể ủi an. Đời sống con người quá thiếu thốn. Chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp
đầy. Đời sống con người thiếu tình yêu. Chỉ Thiên Chúa mới là tình yêu thương
thật sự.
Hôm nay Thiên Chúa đến hiện thân trong Chúa Giêsu. Không chỉ đến thăm mà
còn chạnh lòng thương trước cảnh đau khổ của người mẹ goá mất đứa con trai duy
nhất. Thiên Chúa có một trái tim biết rung động, biết chạnh lòng thương. Ôi giọt
nước mắt của người mẹ già đã thấm vào trái tim Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là Tình
Yêu. Đó là điều kỳ diệu nhất con người từng chứng kiến. Thiên Chúa có trái tim.
Thiên Chúa có nước mắt. Thiên Chúa cùng đau nỗi đau của con người. Cùng khóc nỗi
khổ của con người.
Kỳ diệu hơn nữa. Chúa Giêsu làm cho người thanh niên chết sống lại. Tình
Yêu của Thiên Chúa biến thành Sự Sống. Đó không còn chỉ là niềm vui nữa. Đó là
niềm hi vọng. Chưa ai thấy người chết sống lại bao giờ. Đó là niềm hi vọng lớn
lao. Đó là đức tin. Là niềm trông cậy. Là niềm hi vọng. Con người còn có tương
lai. Còn có sự sống sau cái chết. Ôi Thiên Chúa. Tình Yêu và Sự Sống. Là Chúa
Tể. Là kỳ diệu. Là vĩ đại.
Thiên Chúa đến thăm. Bày tỏ Tình Yêu và Sự Sống. Làm sao để có Chúa viếng
thăm mỗi ngày? Thưa rất dễ dàng. Chỉ cần có đức tin. Như bà goá Sarepta thời
tiên tri Elia. Bà có đức tin lớn lao. Nên đã tin lời tiên tri. Dám lấy chỗ bột
và dầu cuối cùng làm bánh cho tiên tri ăn trước. Nên bà được Chúa thưởng công.
Cho con trai của bà đã chết được sống lại. Và còn cho hũ bột không bao giờ cạn.
Chai dầu không bao giờ vơi. Đức tin của bà khiến Chúa đến viếng thăm và làm
những điều kỳ diệu cho bà và con trai bà.
Đó cũng điều thánh Phaolô cảm nghiệm và chứng nghiệm qua chính cuộc đời
của ngài. Được Thiên Chúa viếng thăm. Thánh Phaolô vô cùng hạnh phúc. Choáng
ngợp trước biến cố kỳ diệu này, thánh nhân đã dành cả cuộc đời đi loan Tin Mừng
lớn lao này cho nhân loại. Đó là Tin Mừng Chúa trực tiếp dạy dỗ ngài. Như ngài
khẳng định: “Tin Mừng tôi loan báo không
phải là do loài người. Vì không có ai trong loài người đã truyền lại hay dạy cho
tôi Tin Mừng ấy, nhưng là chính Chúa Giêsu Kitô đã mặc khải”. Đó là Tin Mừng
ngài đã gặp, đã sống, đã hạnh phúc. Nên ngài muốn rao truyền để tất cả mọi người
cũng được hạnh phúc như ngài.
Ngày hôm nay Chúa vẫn tiếp tục viếng thăm chúng ta hằng ngày. Chúa vẫn
cảm thương những đau khổ của chúng ta. Chúa vẫn cứu chữa và giải thoát chúng ta.
Đó là hạnh phúc không dân tộc nào có được trừ dân của Chúa. Có biết bao người đi
lên đồng, cầu cơ, xem bói, lễ đền. Tất cả chỉ mong được tiếp xúc với thần linh.
Còn chúng ta thật hạnh phúc. Chúa đến thăm ta hằng ngày. Không những viếng thăm
mà còn ở lại. Chia vui sẻ buồn. Cảm thông. Chia sẻ. Và cứu vớt chúng ta. Hãy tin
tưởng. Hãy yêu mến. Hãy cậy trông. Và hãy chia sẻ hạnh phúc này với mọi người.
Để tất cả đều được diễm phúc lớn lao này.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1.Bạn có khao khát được tiếp cận với thế giới thần linh
không?
2.Hai câu chuyện của hai bà goá Sarepta và bà goá Nain,
nói với bạn điều gì về Thiên Chúa?
3.Qua chuyện bà goá Sarepta, bạn có thấy đâu là đức tính
khiến bà được Chúa viếng thăm không?
4.Thiên Chúa viếng thăm con người. Bạn có muốn chia sẻ Tin
Mừng này cho những người chung quanh không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- 2Sm 12,7-10.13
- Gl 2,16.19-21
-
Lc 7,36 -
8,3
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Bữa tiệc hôm nay diễn ra trong một khung cảnh đầy mâu thuẫn. Một bên là
căn nhà sang trọng của thủ lĩnh biệt phái, một bên là Chúa Giêsu ăn
mặc đơn sơ trong bộ quần áo của dân nghèo. Một bên là ông Simon người
được coi là đạo cao đức trọng, một bên là người phụ nữ bị coi là
đại tội nhân. Một bên là mâm cao cỗ đầy, mọi người vui tươi ănuống,
một bênlà người phụ nữ quì mọp sát đất, không dám ngẩng mặt lên,
gục đầu khóc lóc. Chính trong khung cảnh đầy mâu thuẫn, trái ngược
ấy, Chúa Giêsu bày tỏ tình yêu thương bao la của Người.
Đó là tình yêu bao dung chấp nhận mọi người. Chúa chấp nhận ông Simon
dù Chúa không ưa lối sống của ông và của những người biệt phái, vì
họ tự tôn cho rằng mình đạo đức mà khinh miệt những người khác. Hơn
nữa, lối sống đạo của họ chỉ là hình thức giả dối bề ngoài. Thế
nhưng Chúa vẫn chấp nhận ông, chấp nhận lời mời của ông, đến dự tiệc
với ông, ngồi đồng bàn với ông, chia sẻ món ăn và câu chuyện với ông.
Không chỉ chấp nhận ông Simon, Chúa còn chấp nhận người phụ nữ bị coi
là tội lỗi công khai. Chị vào nhà trong ánh mắt khinh thị của mọi
người. Nhưng Chúa vẫn điềm nhiên để chị khóc ướt chân mình. Chúa đã
để chị hôn chân mình. Chúa đã để chị lấy tóc lau chân mình. Chúa đã
để chị xức dầu tràn đầy trên chân mình. Còn hơn thế nữa, Chúa lên
tiếng công khai bênh vực chị. Nếu Chúa công khai bày tỏ thịnh tình với
ông Simon khi đến nhà ông dự tiệc thì Chúa cũng công khai bày tỏ thịnh
tình với người phụ nữ khi lên tiếng bênh vực chị. Chúa chấp nhận tất
cả mọi người.
Đó là tình yêu
bao dung tha thứ mọi tội lỗi. Thái độ của Chúa Giêsu
đối với người phụ nữ tội lỗi là thái độ bao dung tha thứ. Chúa để
cho chị vào nhà. Hơn thế nữa, Chúa để cho chị gục đầu vào chân Chúa,
khóc ướt chân Chúa, lấy tóc lau chân Chúa và xức dầu thơm lên chân
Chúa. Chị làm điều ấy ở nơi kín đáo còn đỡ gây chống đối, đằng này
chị làm điều ấy công khai trước mắt mọi người, mà lại là những
người ghen ghét, chống đối và kết án chị.
Ánh mắt và thái độ
của những người chung quanh, đặc biệt là của ông Simon không thoát khỏi tầm mắt
Chúa. Nhưng Chúa vẫn để chị làm những gì biểu lộ lòng thống hối,
lòng yêu mến của Chị. Sau đó Chúa còn công khai lên tiếng ca ngợi tình
yêu và niềm tin của Chị và công khai tha thứ cho chị.
Đó là tình yêu
bao dung hoán cải. Chúa không ưa thói hợm hĩnh, giả hình
của người
Biệt
phái. Nhưng Chúa vẫn tìm cách hoán cải họ. Vì thế hôm nay Chúa nhận
lời đến nhà ông Simon dự tiệc. Thấy thái độ của ông đối với người
phụ nữ và những ý nghĩ thầm kín của ông phê phán Chúa, Chúa không
để ông trong lầm lạc, nhưng đã lên tiếng giải thích cho ông hiểu những
điều then chốt trong đời sống đạo và những gì có giá trị thực sự
trước mặt Chúa. Chúa phải tốn công giải thích cặn kẽ vì Chúa yêu
thương ông, muốn ông hiểu và hoán cải tâm hồn.
Đó là tình yêu
ban ơn cứu độ. Tất cả những gì Chúa làm là mong đem ơn
cứu độ cho loài người, cho tất cả mọi người không loại trừ một ai.
Chúa muốn cứu độ cả ông Simon là người tưởng lầm mình đạo đức nhưng
chỉ là đạo đức bên ngoài. Chúa muốn cứu độ cả người phụ nữ bị mang
tiếng tội lỗi, bị mọi người khinh miệt, loại trừ. Tình yêu của Chúa
không phải là thứ cảm tính nhất thời, đem đến an ủi nhất thời. Đó
là tình yêu đem đến ơn cứu độ, đem đến hạnh phúc thực sự và vĩnh
cửu cho con người.
Lạy Chúa, con cảm tạ tình yêu vô biên của Chúa. Lạy Chúa, xin cứu độ
con.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Bạn có thường xét đoán và
khinh miệt, loại trừ người khác như ông Simon biệt phái không?
2. Bạn có thái độ khiêm nhường
thống hối, tha thiết yêu mến như người phụ nữ tội lỗi không?
3. Chúa Giêsu nêu gương gì cho bạn
trong cách đối xử với mọi người, người tội lỗi cũng như người tự
xưng mình công chính?
4. Khi yêu thương người khác, bạn
có dẫn người khác đến ơn cứu độ không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Zcr 12,10-11 ; 13,1
- Gl 3,26-29
-
Lc 9,18-24
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Đức Kitô là ai? Đó là câu hỏi sẽ còn làm nhiều người thuộc nhiều
thế hệ băn khoăn thắc mắc. Có rất ít người, kể cả những môn đệ thân
tín, dù đã quyết tâm theo Người, thực sự hiểu Người cho đúng.
“Mesiah” trong tiếng Do thái và “Kitô”
trong tiếng Hi lạp có nghĩa là Đấng Được Xức Dầu. Là Đấng được Thiên
Chúa sai đến. Là Đấng dân Do Thái mong đợi. Nhưng Đấng Kitô thực sự như
thế nào, sẽ sống như thế nào và sẽ làm gì thì vẫn còn trong vòng
mơ hồ. Tuy nhiên đa số người Do Thái ước mơ Đấng Kitô đến để khởi đầu
một thời kỳ mới, đưa nước Do Thái lên vị trí bá chủ thế giới. Người
sẽ trở thành vị Chúa Tể thống trị khắp địa cầu.
Chính vì thế, hôm nay Chúa Giêsu muốn các môn đệ hiểu Người cho đúng.
Thọat tiên Chúa hỏi các ông về luồng dư luận. Nhất là sau phép lạ
hóa bánh ra nhiều. Quả nhiên mọi người đều công nhận Chúa Giêsu là
một tiên tri vĩ đại. Nhưng chưa có ai dám quả quyết Người là Đấng
Kitô. Chúa hỏi thêm về ý kiến của các môn đệ thân tín. Phêrô đại diện
anh em tuyên xưng: “Thày là Đấng Kitô
của Thiên Chúa”. Chúa Giêsu hài lòng về lời tuyên xưng ấy. Tuy nhiên
khi tuyên xưng, Phêrô vẫn chưa thật sự hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì.
Có lẽ ông còn chịu ảnh hưởng của đám đông nghĩ đến một Đấng Kitô oai
nghi, vinh quang và quyền lực. Vì thế Chúa Giêsu đã phải giải thích
cho các môn đệ hiểu biết con đường của Người.
Trước hết, Chúa Giêsu “nghiêm giọng
truyền các ông không được nói điều ấy với ai”. Không được nói cho
họ biết Người là Đấng Kitô. Vì họ chưa hiểu Đấng Kitô là gì. Họ có
thể tôn vinh Người lên làm vua. Như họ đã muốn làm thế sau khi Chúa
làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Như thế là sai đường lối của Chúa.
Và có thể làm hỏng kế họach của Chúa.
Sau đó Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết con đường thực sự mà Đấng
Kitô phải đi là con đường đau khổ: “Con
Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư
loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”. Đó là con
đường tủi nhục. Con đường khổ nạn. Con đường chết chóc. Nhưng sau tủi
nhục sẽ đến vinh quang. Sau khổ nạn sẽ là hạnh phúc. Sau chết chóc
là phục sinh. Đó không phải là con đường vinh quang trần thế, nhưng là
con đường nhỏ hẹp thiêng liêng. Nhưng đó chính là con đường dẫn đến
hạnh phúc đích thực.
Rồi Chúa nói với các môn đệ: “Ai
muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày
mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu
mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi,
thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Muốn theo chân Chúa, các môn đệ
không thể đi con đường nào khác con đường của Chúa. Phải đi vào con
đường hẹp để dẫn đến Nước Trời. Đi vào con đường đau khổ để đến vinh
quang. Vượt qua cái chết để đến sự sống.
Bây giờ ta đã hiểu Đấng Kitô thực sự là gì. Bây giờ ta đã hiểu con
đường của Đấng Kitô phải đi là con đường nào. Và ta cũng đã hiểu
muốn theo Chúa ta phải đi vào con đường nào. Nhận diện Đấng Kitô đã
khó. Đi vào con đường của Người còn khó hơn. Ta hãy xin Chúa ban cho ta
được sức mạnh để đi theo con đường Chúa đã đi. Chính con đường đó dẫn
ta đến hạnh phúc đích thực.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Tại sao Chúa cấm các môn đệ tiết lộ Người là Đấng Kitô?
2- Con đường Đấng Kitô phải đi là con đường nào?
3- Các môn đệ Chúa phải đi con đường nào?
4- Qua bài Tin Mừng hôm nay, tôi nghĩ thế nào về con đường Hội Thánh
phải đi? Phô trương hay khiêm nhường? Quyền lực hay bé nhỏ?
5- Tôi có quyết tâm đi vào con đường Chúa đã chỉ cho tôi không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- 1V 19,16b.19-21
- Gl 5,1.13-18
-
Lc 9, 51-62
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Chuyện nhà Phật kể: Có một tu sĩ theo thầy học đạo đã lâu năm. Thấy
anh đã tiến bộ nhiều, Thầy cho anh sống tự lập. Anh dựng một túp lều
đơn sơ giữa cánh đồng. Ngày ngày ngoài thời gian khất thực, anh chuyên
tâm đọc kinh cầu nguyện. Anh chỉ có độc một manh áo. Cứ chiều tối,
anh giặt áo, phơi khô, để sáng hôm sau có áo mặc. Cạnh lều anh ở, có
con chuột đêm đêm bò ra cắn chiếc áo anh phơi. Buổi sáng, anh phải đi
tìm kim chỉ vá áo. Buổi tối, chuột lại bò ra cắn. Sau nhiều lần vá,
anh sợ manh áo sẽ nát, nên quyết định nuôi một con mèo. Con mèo ăn
khoẻ nên thức ăn xin được không đủ. Anh phải cấy lúa để có thêm thức
ăn nuôi mèo. Vì cấy lúa, anh phải nuôi bò để cầy ruộng. Bận rộn với
việc đồng áng, anh không còn giờ đọc kinh cầu nguyện. Một thiếu nữ
trong làng tình nguyện giúp, anh vui vẻ nhận lời. Vì có thêm người,
nên anh phải lo làm nhà cửa cho khang trang. Chẳng bao lâu anh trở thành
chủ gia đình có vợ, có con, có nhà cao cửa rộng, có ruộng đất, có
đàn bò. It lâu sau, Thầy anh trở lại, nhìn nhà cửa, ruộng nương, trâu
bò, Thầy ngạc nhiên hỏi anh: “Tất cả những thứ này, tại sao thế”? Anh
trả lời: “Tất cả chỉ vì con muốn giữ cho manh áo khỏi bị chuột
cắn”.
Câu chuyện trên cho thấy con người muốn vươn lên thật khó. Có nhiều thứ
vướng mắc ngăn cản bước chân. Vướng mắc kéo theo ràng buộc. Những
vướng mắc ràng buộc đan nhau thành một tấm lưới khổng lồ vây bọc con
người. Muốn tự do bay lên, phải có can đảm phá tung những mắt lưới
trói buộc.
Tiên tri Elisa là người biết phá vỡ những trói buộc đó. Ông là một
nhà nông. Khi
thày
Elia đến tìm, ông đang cày ruộng với 12 cặp bò. Có 12 đôi bò tức là
khá giàu có. Thế mà, khi nghe Thầy Elia kêu gọi, Elisa đã chẻ cày làm
củi, giết bò làm lễ vật, thiêu đốt tất cả để dâng tiến Chúa, rồi
lên đường theo Thầy.
Làm nghề nông thì tài sản là ruộng đất, trâu bò, cày cuốc. Đốt cày
cuốc, giết trâu bò có nghĩa là từ bỏ tài sản của mình. Đốt cày
cuốc, giết trâu bò cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với nghề nghiệp cũ
để theo đuổi nghề nghiệp mới. Đốt cày cuốc, giết trâu bò cũng có
nghĩa là đoạn tuyệt với quá khứ để phóng mình vào tương lai. Đó là
một lựa chọn dứt khoát. Ra đi không vướng bận, vì chẳng còn gì gắn
bó, ràng buộc. Ra đi không trở lại vì đốt cày, giết bò rồi thì đâu
còn chỗ trở về nữa.
Thái độ của tiên tri Elisa là thái độ mà Chúa Giêsu đòi hỏi trong bài
Tin mừng hôm nay.
Chúa Giêsu
mời gọi ta bước theo Người. Để theo Người, ta phải dứt khoát quyết
liệt. Không khoan nhượng. Không lưỡng lự dùng dằng.
Sở dĩ Chúa đòi chúng ta phải dứt khoát vì Chúa biết xác thịt chúng
ta yếu đuối. Tinh thần muốn vươn cao nhưng xác thịt cứ muốn kéo ghì
chúng ta xuống. Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy sống theo Thần Khí chứ
đừng theo xác thịt. Hơn nữa ma quỉ rất tinh khôn, nó cám dỗ ta từng
bước, đưa ra những lý do rất hợp lý để khiến ta nhượng bộ.
Nhượng bộ xác thịt một lần rồi sẽ dẫn đến những nhượng bộ
khác. Những nhượng bộ đó kéo ta dần dần xa Chúa. Đến khi tỉnh lại
thì đã muộn rồi. Như câu chuyện người đệ tử muốn giữ manh áo rách
mà ta đã nói ở đầu.
Xin Chúa ban cho chúng con được dứt khoát trên đường theo Chúa, đã cầm
cày rồi thì đừng quay lại sau lưng.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Ra đi rồi quay đầu lại. Bạn có kinh
nghiệm đau đớn về điều này chưa?
Nhất là đối với những ai quyết tâm từ bỏ rượu chè, cờ bạc,
tiêm chích. Bạn có thấy điều đó không?
2- Có nhiều trở ngại ngăn bạn tiến
bộ trên đường đạo đức. Hiện nay, điều gì cản trở bạn nhiều nhất?
3- Đã lần nào bạn có một thái độ
dứt khoát với tính mê tật xấu chưa?
4- Thái độ của Elisa dạy ta điều gì?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Is 66,10-14
- Gl 6,14-18
-
Lc 10, 1-12.17-20
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Ta thường nghĩ rằng: Việc truyền giáo là dành cho các Giám mục, các
Linh mục, Tu sĩ. Giáo dân không được học hỏi gì nhiều làm sao có thể
truyền giáo được? Truyền giáo phải có nhiều phương tiện vật chất.
Thiếu phương tiện không có thể làm gì được. Đó là những quan niệm sai
lầm mà Chúa vạch cho ta thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu cho ta thấy truyền giáo là công việc của mọi người khi
Người sai 72 môn đệ lên đường. Mười hai Tông đồ có tên tuổi rõ ràng.
Đó là thành phần ưu tuyển. Đó là các Giám mục, Linh mục, Tu sĩ. Còn
72 môn đệ không có tên tuổi rõ ràng. Đó là một đám đông không xác
định. Đó là tất cả mọi người giáo dân. Khi sai 72 môn đệ, Chúa Giêsu
muốn huy động tất cả mọi người thuộc đủ mọi thành phần tham gia vào
việc truyền giáo.
Giáo dân tham gia vào việc truyền giáo bằng cách nào?
Trước hết phải
ý thức sự cấp thiết của việc truyền giáo: “Lúa
chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Lúa đã chín vàng, phải nhanh
chóng gặt về không được chậm trễ, nếu không lúa sẽ hư hỏng. Biết bao
anh em đang chờ đợi được nghe Lời Chúa. Biết bao anh em đang tìm kiếm
Chúa. Biết bao tâm hồn đang mở cửa đón Chúa. Ta phải mau mắn để khỏi
lỡ mất cơ hội.
Thứ đến ta phải
cầu nguyện. Sau khi đã chỉ cho thấy đồng lúa chín vàng,
Chúa Giêsu không bảo lên đường ngay, nhưng Người dạy phải cầu nguyện
trước. Cầu nguyện là nền tảng của việc truyền giáo. Vì truyền giáo
phát xuất từ ý định của Thiên chúa. Ơn hoán cải tâm hồn là ơn Chúa
ban. Nên cầu nguyện chính là truyền giáo và kết quả của việc truyền
giáo bằng cầu nguyện sẽ rất sâu xa. Ta hãy noi gươngThánh nữ Têrêxa
Hài đồng Giêsu. Vị Thánh sống âm thầm, suốt đời chôn vùi trong 4 bức
tường Dòng Kín. Thế mà nhờ lời cầu nguyện, Thánh nữ đã đem được
nhiều linh hồn về với Chúa không kém thánh Phanxicô Xaviê, người suốt
đời bôn ba khắp nơi để rao giảng Lời Chúa.
Khi đi truyền giáo, hãy
trông cậy vào sức mạnh của
Chúa. Chúa dạy ta: “Đừng mang theo
túi tiền, bao bị, giày dép” để ta biết sống khó nghèo. Để ta
đừng cậy dựa vào tài sức riêng mình. Để ta đừng cậy dựa vào những
phương tiện vật chất. Biết mình nghèo hèn yếu kém, biết những phương
tiện vật chất chỉ có giá trị tương đối, ta sẽ biết trông cậy vào
sức mạnh của Chúa. Chính Chúa sẽ làm cho việc truyền giáo có kết
quả.
Sau cùng, truyền giáo là đem
bình an đến cho mọi người.
Niềm bình an đến từ thái độ quên mình, sống chan hoà với những người
chung quanh. Niềm bình an đến từ sự hiệp thông, có cho đi, có nhận
lãnh. Và nhất là, niềm bình an vì được làm con cái Chúa, luôn sống
dưới ánh mắt yêu thương của Chúa.
Như thế việc truyền giáo hoàn toàn nằm trong tầm tay của mọi người
giáo dân. Mọi người đều có thể ý thức việc truyền giáo. Mọi người
đều có thể cầu nguyện. Mọi người đều có thể trông cậy vào Thiên
chúa. Và mọi người đều có khả năng cho đi, nhận lãnh, sống chan hoà
với người khác.
Như thế mọi người, từ người già tới em bé, từ người bình dân ít học
đến những bậc trí thức tài cao học rộng, từ người khoẻ mạnh đến
những người đau yếu bệnh tật, tất cả đều có thể làm việc truyền
giáo theo ý Chúa muốn.
Hôm nay, Chúa đang than thở với mỗi người chúng ta: “Lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt”. Chúng ta hãy bắt
chước tiên tri Isaia thưa với Chúa: “Lạy
Chúa, này con đây, xin hãy sai con đi”.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Bạn có thấy việc truyền giáo là cấp thiết không?
2- Theo ý bạn, muốn truyền giáo thành công trong vùng này, người tông
đồ cần có những đức tính nào?
3- Bạn có bao giờ cầu nguyện cho việc truyền giáo, cho người làm việc
truyền giáo, cho những người chưa biết Chúa ở chung quanh bạn không?
4- Bạn đã bao giờ tham gia vào việc truyền giáo trong Giáo xứ, trong
Giáo phận chưa?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Đnl
30,10-14
- Cl 1,15-20
-
Lc 10, 25-37
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Trường sinh bất tử, muốn được hạnh phúc vĩnh viễn, muốn được sống
đời đời, đó là mơ ước muôn đời của mọi người. Hôm nay, một thày thông
luật nói lên mơ ước đó khi ông hỏi Chúa “làm cách nào để được hưởng
sự sống đời đời”.
Để trả lời ông, Chúa Giêsu kể câu chuyện, một câu chuyện bình thường
xảy ra hằng ngày: Một người đi đường từ Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc
đường bị cướp trấn lột, đánh nhừ tử, dở sống dở chết nằm rên rỉ
bên vệ đường. Thày tư tế đi ngang thấy thế tránh qua bên kia đường mà
đi. Thày Lêvi cũng thế. Nhưng một người xứ Samaria, một người ngoại
đạo, đã chạnh lòng thương, dừng lại băng bó cho nạn nhân. Chưa hết, ông
còn chở nạn nhân đến quán trọ. Hơn thế nữa, ông gửi tiền để nhờ chủ
quán chăm sóc nạn nhân cho đến khi bình phục.
Qua câu chuyện người xứ Samaria nhân hậu, Chúa Giêsu chỉ cho ta con đường
dẫn đến sự sống đời đời.
Đường Giêrikhô tượng trưng cho con đường về Nước Trời. Đó là con đường
gập ghềnh khó đi. Đó là con đường nguy hiểm vì có trộm cướp rình
rập. Đó là con đường thử thách. Để vượt qua thử thách, vũ khí duy
nhất hữu ích là trái tim. Trái tim chiến thắng có những phẩm chất
như sau:
Đó phải là một trái tim
nhạy bén. Người xứ Samaria
nhân hậu có một trái tim nhạy bén. Dù đang bận việc riêng, dù vó
ngựa phi nhanh, ông vẫn nhìn thấy người bị nạn nằm bên vệ đường. Dù
tiếng gió vù vù xen lẫn tiếng vó ngựa lộp cộp, ông vẫn nghe được
tiếng rên rỉ rất yếu ớt của người bị nạn. Trong khi đó, thầy Tư Tế
và Thầy Lêvi chỉ đi bộ lại không thấy, không nghe. Hay nói đúng hơn,
các thầy có nghe, có thấy nhưng trái tim các thầy đóng kín, nên các
thầy chẳng động lòng. Trái tim các thầy bị đóng kín vì những cánh
cửa lề luật: Sợ đụng chạm vào máu, vào người bị thương, sẽ trở
thành ô uế không được tới đền thờ dâng lễ vật. Người xứ Samaria không
nghe bằng đôi tai, không nhìn bằng đôi mắt, nhưng nghe và nhìn bằng trái
tim. Trái tim nhạy bén có đôi tai thính lạ lùng. Có thể nghe rõ tiếng
rên rỉ thì thầm tận đáy lòng. Trái tim nhạy bén có đôi mắt sáng lạ
lùng. Có thể nhìn thấy cả những nỗi đau âm thầm trong tâm khảm.
Đó phải là một trái tim
quan tâm. Trái tim quan tâm đưa
ta đến gần gũi anh em. Trái tim quan tâm biết làm tất cả để phục vụ
anh em. Các thầy Tư Tế và Lêvi không có trái tim quan tâm nên khi thấy
người bị nạn đã tránh sang bên kia đường mà đi. Người xứ Samaria có
một trái tim quan tâm nên ông lập tức đến gần nạn nhân. Vì có trái tim
quan tâm nên ông có thể làm tất cả để giúp nạn nhân. Vì quan tâm nên
ông đã mang sẵn bên mình nào là dầu, nào là băng vải. Chẳng học nghề
thuốc mà ông săn sóc vết thương một cách thành thạo. Chẳng luyện tập
mà ông đã lấy dầu xoa bóp rất nhanh, băng bó rất khéo. Chẳng có kỹ
thuật mà ông biết cách đưa được bệnh nhân lên lưng ngựa. Ông đã làm
tất cả theo sự hướng dẫn của trái tim. Với trái tim, ông đã làm tất
cả với sự chuẩn xác và nhất là với nhiệt tình để cứu nạn nhân.
Đó phải là một trái tim
chung thuỷ. Trái tim chung thuỷ
không làm việc nửa vời, nhưng làm đến nơi đến chốn. Trái tim chung
thuỷ không mỏi mệt buông xuôi, nhưng theo dõi giúp đỡ cho đến tận cùng.
Người xứ Samaria bận rộn công việc, nhưng vẫn lo lắng cho nạn nhân đầy
đủ, gửi gắm chủ quán tiếp tục thuốc thang. Và khi xong việc ông sẽ
trở lại thăm hỏi để tiếp tục săn sóc cho đến khi khỏi hẳn. Ông làm
tất cả với một trái tim chung thuỷ vẹn toàn.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu dạy ta hiểu rằng: đường đến sự sống đời đời
là con đường mọi người vẫn đang đi. Nhưng chỉ người đi với trái tim
mới mong đến đích. Thầy Tư Tế và Thầy Lêvi đã rẽ sang hướng khác vì
các thầy không mang theo trái tim. Người xứ Samaria đã đi đến nơi vì ông
đi đường với trái tim nhân hậu, trái tim rất nhạy bén, rất quan tâm và
rất chung thuỷ. Với trái tim ấy, ông đã yêu người thân cận như chính
mình ông. Với trái tim ấy, ông đã mở đường đi đến sự sống đời đời.
Chúa Giêsu dạy tôi bắt chước người xứ Samaria nhân hậu. Hãy lên đường
với trái tim. Hãy lắng nghe với trái tim. Hãy hành động với trái tim.
Hãy đi trên đường của trái tim. Hãy để trái tim tham dự vào mọi lời
nói, mọi cử chỉ, mọi suy nghĩ. Hãy mang theo trái tim theo trên khắp
mọi nẻo đường. Con đường đi với trái tim chính là con đường dẫn đến
sự sống đời đời.
Lạy Chúa Giê-su hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con
nên giống Trái Tim Chúa.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Theo ý bạn đâu là những dấu hiệu cho thấy một tình yêu đích thực
và đáng tin?
2- Mỗi khi gặp một người cần giúp đỡ, bạn có hăng hái ra tay giúp
ngay hay còn chần chờ, viện lý do để thoái thác?
3- Sau khi nghe dụ ngôn “Người xứ Samaria nhân hậu”, bạn có quyết tâm
gì?
4- Mang theo trái tim nghĩa là gì?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- St
18,1-10a
- Cl 1,24-28
-
Lc 10, 38-42
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Thoạt nghe bài Tin mừng hôm nay, có người đã trách móc: Sao Chúa quá
mâu thuẫn. Mới tuần trước, Chúa kể truyện người xứ Samaria nhân hậu
để dạy phải phục vụ. Vậy mà hôm nay, Chúa lại trách móc, tuy có nhẹ
nhàng, nhưng vẫn đau đau, bà Martha đã lăng xăng phục vụ đón tiếp Chúa.
Tại sao thế?
Nếu đọc kỹ bài tường thuật hôm nay cũng như toàn bộ Tin mừng, ta sẽ
thấy phục vụ tuy được Chúa đề cao, nhưng vẫn phải nằm trong một trật
tự toàn bộ của đời sống đạo.
Trật tự thứ nhất:
Phục vụ phải biết quên mình. Phục vụ mà không quên mình
sẽ đi đến khoe khoang tự mãn. Ta hãy nhớ lại chuyện hai người lên đền
thờ cầu nguyện. Ông Biệt phái đứng giữa đền thờ, lớn tiếng kể công:
“Lạy Chúa, con ăn chay mỗi tuần hai
lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc 18,12).
Thái độ khoe mình của ông không được Thiên Chúa chấp nhận vì ông phục
vụ mà không biết quên mình.
Phục vụ mà không quên mình sẽ đi đến ganh ghét, dòm ngó, lườm nguýt,
loại trừ người khác. Về điểm này, Đức cha Bùi Tuần có đưa ra một
hình ảnh rất ý nhị. Trên bàn thờ có ngọn nến và bông hoa. Cả hai
cùng phục vụ bàn thờ. Nhưng nếu ngọn nến đốt cháy bông hoa thì thật
đau lòng. Phục vụ mà không quên mình sẽ đưa đến loại trừ lẫn nhau.
Điều Chúa muốn là phục vụ quên mình. Phục vụ quên mình là phục vụ
kín đáo: “Tay trái không biết việc
tay phải làm” (Mt 6,3). Phục vụ quên mình chỉ cố ý làm vui lòng
Chúa chứ không so sánh hơn thua với anh em. Vì thế phục vụ quên mình
sẽ rất khiêm tốn. “Sau khi đã làm
tất cả thì hãy nói: Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng, tôi đã chỉ làm việc
bổn phận đấy thôi” (Lc 17,10).
Trật tự thứ hai:
Phục vụ phải biết lắng nghe. Trước hết phải biết lắng
nghe lòng mình xem có đức bác ái không. Nếu không có đức bác ái thì
mọi việc phục vụ dù có lớn lao cũng trở thành vô ích như lời thánh
Phao-lô nói: “Giả như tôi có đem hết
gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu
đốt, nếu tôi không có đức bác ái, cũng chẳng ích gì cho tôi” (1 Cr
13,3).
Thứ đến phải biết lắng nghe đối tượng phục vụ. Một phục vụ tốt
phải đúng lúc, đúng nơi, đúng cách, đúng nhu cầu.
Nhưng trên hết phục vụ phải biết lắng nghe Lời Chúa. Việc phục vụ
của ta chỉ tốt và có ý nghĩa khi ta làm đúng ý Chúa muốn. Muốn
biết ý Chúa, phải lắng nghe tiếng Chúa trong Tin mừng, qua cầu nguyện
và tiếp xúc tâm sự với Chúa trong bí tích Thánh Thể. Lời Chúa là
đèn soi bước chân ta, là ánh sáng hướng dẫn ta trong mọi hoạt động.
Lắng nghe Lời Chúa làm cho hoạt động được vững vàng. Đó là xây nhà
trên đá (cf. Lc 6, 47).
Trật tự cuối cùng:
Phục vụ phải biết nghỉ ngơi. Cuộc sống văn minh hiện
đại ngày càng cuốn con người vào cơn lốc hoạt động đến ngộp thở.
Người ta không còn thời giờ cho gia đình, cho bạn bè, và nhất là cho
đời sống tâm linh. Tại các nước phương Tây, con người đang biến thành
những cỗ máy làm việc, làm việc không ngừng. Đó là một đời sống
mất quân bình, rất nguy hiểm.
Trong Phúc âm, Chúa Giêsu nhiều lần nhắc nhở chúng ta: “Đừng quá băn khoăn lo lắng”. Hôm nay Chúa nhắc lại với bà
Martha một lần nữa: “Đừng băn khoăn lo
lắng quá”. Chúa không chê trách công việc bà làm, nhưng Chúa chê
trách thái độ lăng xăng, lo lắng thái quá. Chúa mời gọi bà hãy biết
nghỉ ngơi, biết giữ bình an nội tâm trong một đời sống quân bình bằng
cách biết cầu nguyện. Cầu nguyện là nghỉ ngơi bên Chúa. Cầu nguyện
tạo cho ta một khoảng không gian và thời gian, nhờ đó đời sống tâm linh
phát triển. Chính nhờ những giây phút cầu nguyện bên Chúa mà sinh lực
ta được phục hồi. Và ta có thể phục vụ tốt hơn.
Lời Chúa kêu gọi bà Martha, Chúa cũng muốn nói với mỗi người chúng
ta hôm nay: “Con đừng quá băn khoăn lo lắng cho cuộc sống. Hãy biết đến
bên Cha mà nghỉ ngơi. Cha sẽ bổ sức cho con. Hãy chọn lấy phần tốt
nhất như Maria. Đó là một kho tàng bền vững mãi mãi”.
Xin cho mỗi người chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa mời gọi, hãy đến
bên Chúa nghỉ ngơi. Để nhờ Chúa hướng dẫn, việc phục vụ của chúng ta
sẽ theo đúng ý Chúa muốn và để đời sống tâm linh ta được phát triển
toàn diện trong một nếp sống quân bình.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Cầu nguyện là lắng nghe Chúa nói với mình, là gặp gỡ Chúa trong
tình con thảo. Hiện nay bạn cầu nguyện thế nào? Có sốt sắng không?
Có nhiều thời gian cầu nguyện không?
2- Bạn đọc kinh nhiều, nhưng bạn có cầm trí không, hay chỉ đọc như
máy?
3- Khi phục vụ, bạn có thực sự quên mình, hay phục vụ để được tiếng
là người đạo đức, để hơn người?
4- Muốn việc phục vụ thực sự tốt đẹp, ta cần có thái độ nào?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- St
18,20-32
- Cl 2,12-14
-
Lc 11, 1-13
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Các Tông đồ đã nhiều lần thấy Chúa Giêsu cầu nguyện. Có lẽ khi Người
cầu nguyện, có một cái gì đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật
lôi cuốn toả ra. Vì thế, các Tông đồ xin Người dạy cách cầu nguyện.
Và Người đã dạy các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Kinh Lạy Cha
mạc khải cho ta hai điều quan trọng.
1. Thiên chúa là Cha chúng ta.
Có lẽ vì đã đọc thuộc lòng Kinh Lạy Cha một cách máy móc nên ít khi
ta cảm nhận được hết ý nghĩa thâm sâu nằm trong từ ngữ “Cha”.
Một người bạn có đứa con đầu lòng tâm sự: “Lần đầu tiên khi nghe đứa
con gọi “Ba ơi”, tôi bủn rủn cả tay chân. Một luồng điện cực mạnh chạy
khắp thân thể. Tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng”. Quả thực, mối liên hệ
Cha-Con là một mối liên hệ rất thâm sâu, huyền bí và thân thiết.
Gọi ai là Cha tức là nhận người ấy là ân nhân lớn nhất đời mình. Vì
nhờ Cha, ta nhận được món quà tặng quí giá nhất đó là sự sống. Có
những người cha không chỉ sinh con về mặt thể xác mà còn cho con một
đời sống tinh thần. Đó là những người Cha có nhân cách lớn, kiên trì
đúc nặn nên những đứa con có tâm hồn cao đẹp, có lý tưởng, có tư
cách làm người.
Cha không chỉ là nguồn cội phát sinh nhưng còn là vòng tay nâng đỡ, là
mái ấm chở che, là động lực thúc đẩy, là lý tưởng mời gọi. Nói
tóm lại, từ ngữ “Cha” gợi lên cả một trời yêu thương vừa thân thiết
vừa huyền nhiệm không bút nào tả xiết được.
Khi mạc khải cho biết Thiên chúa là Cha, Chúa Giêsu đã đưa ra một hình
ảnh về Thiên chúa hoàn toàn khác với hình ảnh các vị thần của các
tôn giáo khác. Không những Người cho ta thấy Thiên chúa Cha yêu thương ta
vô cùng, mà còn muốn ta đi vào tình nghĩa thâm sâu, tha thiết với Cha.
Vì thế, Người đã dạy ta tiếng “Abba” là tiếng gọi “Ba ơi” rất thân
thương của một đứa trẻ vừa nũng nịu, vừa tin tưởng, phó thác mọi sự
trong tay Cha.
2. Mọi người là anh em
Trong Kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy ta cầu nguyện: Lạy Cha chúng con...
Xin Cha cho chúng con... Chứ không dạy ta đọc: Lạy Cha của con...Xin Cha
cho con... Nghĩa là tất cả mọi người có cùng một Cha. Mọi người đều
thuộc về một gia đình Thiên chúa. Là anh em nên phải có tình yêu thương
đoàn kết, liên đới với nhau. Liên đới trong đời sống, liên đới trong cả
lời cầu nguyện.
Một lần dâng lễ chung với
những người bạn Mỹ, tôi đã hỏi họ trong giờ chia sẻ: Hằng ngày các
bạn vẫn đọc Kinh Lạy Cha. Vậy khi đọc câu “Xin Cha cho chúng con lương
thực hằng ngày” các bạn cầu xin điều gì? Vì ở Mỹ tôi thấy lương
thực dư thừa, không ai phải chết đói. Họ trả lời: Chúng tôi vẫn đọc
Kinh Lạy Cha. Và với câu “Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày”
chúng tôi vẫn cầu xin tha thiết. Vì tuy chúng tôi đã đủ ăn đủ mặc,
chúng tôi vẫn nhớ đến những anh em bên Phi châu, bên
Á
châu đang phải đói khát khổ sở.
Câu trả lời thật chính xác. Vâng, chúng ta là anh em nên phải liên đới,
có trách nhiệm về nhau. Trong bài đọc 1 hôm nay, tổ phụ Abraham đã nêu
gương liên đới khi tha thiết cầu nguyện cho thành Sođoma khỏi bị phạt.
Nếu trong gia đình đứa em út yếu đuối bệnh tật luôn đựơc thương yêu
cưng chiều, thì trong kinh nguyện, ta cũng phải ưu tiên cầu nguỵện cho
những anh em bé nhỏ trước hết.
Nếu lời cầu nguyện của ta là lời của đứa con nhỏ nói với Cha, và
là tâm tình liên đới yêu thương với mọi anh em trên khắp thế giới, lời
cầu nguyện ấy sẽ rất đẹp và Thiên chúa sẽ hài lòng.
Lạy Cha chúng con ở trên trời, xin thương xót chúng con.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Bạn có thực sự cảm thấy Chúa là Cha và sống với Người như người
con hiếu thảo không?
2- Thiên chúa là Cha tốt lành. Người chỉ ban cho ta những điều tốt. Có
khi nào Bạn gặp thất bại khổ đau mà bạn thấy lòng tốt của Thiên
chúa không?
3- Bạn cầu nguyện cho người kém may mắn, nhưng bạn có sẵn sàng chia
sẻ với họ không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
-
Cv 1,2 ; 2,21-23
- Cl 3,1-5.9-11
-
Lc 12, 13-21
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Từ khi cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới ít chú ý đến chính
trị. Mọi nỗ lực đều tập trung vào phát triển kinh tế. Xưa kia, nước
mạnh dùng sức mạnh quân sự để áp chế những nước yếu. Ngày nay những
nước giầu dùng sức mạnh kinh tế để chèn ép những nước nghèo. Kinh
tế trở thành một sức mạnh. Tiền bạc trở thành một vũ khí lợi hại.
Chính vì thế ai cũng mong làm ăn phát đạt để trở nên giầu có. Thế
mà Lời Chúa trong các bài đọc hôm nay dường như đi ngược chiều với xã
hội. Phải chăng Chúa chống lại sự phát triển, sự sung túc thịnh
vượng của xã hội?
Nếu đọc kỹ Lời Chúa và quan sát đời sống của Chúa Giêsu, ta sẽ thấy:
1- Chúa không đến
để giải quyết vấn đề kinh tế.
Khi người thanh niên đến xin Người phân xử vụ chia gia tài, Người đã
trả lời: “Ai đặt Ta làm quan án cho các ngươi?” Người đến không phải
để giải quyết các vấn đề kinh tế. Việc phân chia tài sản là việc
giữa con người với nhau.
Sau khi chứng kiến phép lạ bánh hoá ra nhiều, dân chúng muốn tôn Đức
Giêsu lên làm vua. Nhưng Người đã lánh đi nơi khác. Người muốn cho con
người thoát ra khỏi lãnh vực vật chất để nâng cao cuộc sống.
2- Chúa muốn nâng cao chất lượng cuộc sống.
Tuy không quan tâm đến vấn đề kinh tế, nhưng Chúa Giêsu không chống lại
việc làm giầu, tích luỹ của cải. Người chỉ muốn cho việc tích luỹ
của cải có một ý nghĩa.
Khi nói với đám đông: “Anh em phải coi
chừng, phải tránh xa mọi thứ tham lam, vì dẫu có dư giả thì mạng
sống con người cũng không nhờ của cải mà được bảo đảm đâu”, Chúa
Giêsu muốn cho ta hiểu: đời sống đâu chỉ gói gọn trong vấn đề cơm, áo,
gạo, tiền. Đời sống còn là cái gì cao hơn thế, đẹp hơn thế.
Triết học phân chia con người ra hai phạm trù: “avoir” (có) và “être”
(là). Tôi có gì thuộc phạm vi khối lượng. Tôi là gì thuộc phạm vi
chất lượng. Những gì tôi có như của cải, quần áo, chỉ là những gì
ở ngoài, không làm thành giá trị con người. Những gì tôi là mới tạo
thành bản thân tôi, gắn bó thân thiết với tôi, tạo thành giá trị đời
tôi.
Khối lượng không quí hơn chất lượng. Đừng lầm tưởng rằng ý nghĩa
cuộc đời sẽ tăng theo khối lượng của cải. Chúa Giêsu sống một đời
nghèo khổ, không của cải, nhưng không phải vì thế mà cuộc sống của
Người không có giá trị. Giuđa chết khi túi đầy tiền bạc, nhưng không
phải vì thế mà ông có giá trị hơn người khác.
Truyện kể: xưa có nhà hiền triết sống rất đơn sơ. Ông không cần quần
áo, nhà cửa. Nhà của ông là một chiếc thùng phuy. Một hôm, vị Hoàng
đế đến thăm ông và hỏi xem ông có cần gì không. Ông trả lời: “Tôi chỉ
cần nhà vua đứng tránh ra, kẻo che mất ánh mặt trời của tôi”. Trong
hai người ấy, ai cao quí hơn, ai đáng kính trọng hơn?
Chất lượng cuộc sống làm con người sống nên người hơn, cao quí hơn,
sung mãn nhân cách hơn. Của cải chỉ có ý nghĩa khi giúp con người đạt
được chất lượng cuộc sống. Của cải chỉ là phương tiện. Đừng biến
phương tiện thành mục đích.
3- Chúa mở tầm nhìn ra vô biên
Ông phú hộ trong bài Tin mừng hôm nay đã coi của cải là mục đích. Có
được của cải rồi, ông không còn biết làm gì hơn là hưởng thụ. Tầm
nhìn của ông quá hạn hẹp. Chỉ biết có vật chất. Chỉ nhìn thấy đời
này. Lời Chúa phán: “Hỡi đồ ngốc!
Nội đêm nay người ta sẽ đòi mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sửa đó
sẽ về tay ai” đã mở tầm nhìn ra vô biên. Người ta đâu sống mãi mà
hưởng thụ. Khi chết thì của cải dù nhiều cũng tan theo mây khói.
Nhưng chưa hết, chết rồi người ta còn phải ra trước toà Chúa mà chịu
phán xét. Chúa không đánh giá con người theo khối lượng những gì họ
có, nhưng đánh giá theo chất lượng của đời sống. Theo cách đánh giá
của Chúa, những gì ta thu tích cho bản thân sẽ hết, sẽ qua đi. Nhưng
những gì ta cho đi sẽ tồn tại.
Lời Chúa hôm nay dạy ta đừng hạ thấp đời sống con người trong một tầm
nhìn hạn hẹp vào việc thu tích của cải cho riêng mình. Nhưng hãy nâng
cao cuộc sống, mở rộng tầm nhìn để biết tích trữ những kho tàng nơi
Thiên chúa. Kho tàng ấy sẽ không bao giờ mất được.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Tiền bạc cần thiết cho cuộc sống, nhưng tiền bạc cũng nguy hiểm.
Theo bạn đâu là những nguy hiểm do tiền bạc?
2- Tham nhũng, hối lộ đang trở thành phổ biến, người tín hữu phải có
thái độ nào đối với tiền bạc?
3- Bạn nghĩ gì về lời Chúa: “Hãy dùng tiền của phi nghĩa mà mua lấy
bạn hữu trên trời”?
4- Tiền bạc có phải là tất cả? Hay đời sống con người còn cần nhiều
thứ khác cao quí hơn?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Kn 18,6-9
- Dt
11,1-2.8-19
-
Lc 12, 32-48
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Trong thời đại kinh tế thị trường, tiền bạc nắm vai trò quan
trọng. Vì tiền bạc quan trọng nên nhiều người dùng tiền để chi phối người khác.
Đó là nguyên nhân khiến tham nhũng hối lộ phát triển mạnh mẽ. Có những vụ tham
nhũng hối lộ mang tầm vóc toàn cầu. Như tổ chức Bóng đá Thế giới FIFA. Có những
vụ hối lộ mang tầm vóc quốc gia. Như các quan chức cấp cao. Có khi là
Tổng thống, Thủ tướng trong một
nước. Còn trong quảng đại quần chúng thì không kể xiết. Nhưng mỗi khi bị phanh
phui, các toà án thường cách chức những người tham nhũng hối lộ. Kể cả những nhà
lãnh đạo đất nước.
Tất cả chỉ vì họ đã làm sai nhiệm vụ. Họ chỉ là quản lý chứ không
làm chủ đất nước. Dân mới làm chủ. Nhưng họ đã không làm tốt nhiệm
vụ quản lý. Nên họ đã bị sa thải.
Chúng ta cũng là người quản lý của Thiên chúa. Thật vậy, sự sống,
tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp, tất cả đều là ơn Chúa
ban. Nói tóm lại, tất cả những gì ta có, tất cả những gì ta là đều
là của Chúa. Chắc chẳng có ai dám tự hỏi: Tại sao tôi không cao hơn,
không mập hơn? Tại sao tóc tôi không vàng hoe, mắt tôi không xanh biếc?
Tại sao tôi không có tài hội hoạ, có giọng ca hay? Ta không thể hỏi như
vậy, vì ta không có quyền gì trên đó. Tất cả đều là của Chúa. Chúng
ta chỉ là quản lý. Chúa trao sự sống, tài năng, trí thông minh cho ta
gìn giữ trong một thời gian. Nói theo ngôn ngữ Trịnh công Sơn tất cả
những thứ đó chỉ “ở trọ” nơi ta. Mọi thứ chỉ tạm trú trong ta trong một thời gian ngắn.
Đến lúc từ giã cõi đời là lúc chấm dứt nhiệm vụ. Đến mạng sống còn chẳng giữ
được. Nói gì đến những gì bên ngoài ta. Giữ được hay không ta cũng phải ra trước
toà Chúa mà chịu xét xử.
Một ngày kia Chúa
sẽ đòi ta tính sổ. Lúc đó ta phải nộp cho Chúa cả vốn lẫn lãi.
Là người quản lý, ta phải có những đức tính nào? Thưa, Chúa muốn ta
là người quản lý trung tín và khôn ngoan.
Là quản lý trung tín, ta
phải biết
sinh lợi những tài sản
Chúa trao. Phải biết phát triển sao cho thân xác ngày càng khoẻ mạnh,
trí thông minh ngày càng sáng suốt, những tài năng ngày càng đạt đến
mức tinh vi hoàn hảo.
Là quản lý trung tín, ta
phải biết
chia sẻ. Chúa ban sức
lực, tài năng không phải để ta ích kỷ vun quén cho bản thân, nhưng để
ta dùng mà phục vụ. Người có của mắc nợ người nghèo. Người có tài
mắc nợ xã hội. Nghệ sĩ mắc nợ khán giả. Giám đốc mắc nợ công nhân.
Bác sĩ mắc nợ bệnh nhân. Linh mục mắc nợ giáo dân. Cha mẹ mắc nợ con
cái.
Là quản lý trung tín, ta
không được phản bội. Không
được dùng những ơn Chúa ban để chống lại Chúa. Đừng dùng sức mạnh
mà áp bức người khác. Đừng dùng tài năng phục vụ lợi nhuận riêng
mình. Đừng dùng trí thông minh gieo rắc nọc độc tư tưởng. Đừng biến
thân xác thành món hàng mua bán. Nhưng dùng tất cả để phục vụ Chúa.
Dùng tất cả để làm cho Chúa được yêu mến, được vinh danh hơn.
Là quản lý khôn ngoan, ta
phải biết nhìn xa. Sự sống,
tài năng, sức lực, trí thông minh chỉ ở trọ nơi ta một thời gian. Phải
làm cho chúng biến thành vĩnh cửu. Nhiều lần Chúa Giêsu
đã dậy ta: “Hãy dùng tiền của chóng
qua ở đời này mà mua lấy bạn hữu. Để sau này họ sẽ đón rước ngươi
vào chốn đời đời”. Hôm nay Người dạy ta: “Hãy
sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng
thể hao hụt, là kho tàng ở trên trời, nơi không có trộm cắp bén mảng,
cũng không có mối mọt đục phá”. Lạ lùng hơn nữa, cách gây dựng
kho tàng trên trời khác hẳn với cách gây dựng kho tàng trần gian. Để
gây dựng kho tàng trần gian, ta phải hà tiện, ích kỷ, thu tích cho
mình. Trái lại, để gây dựng kho tàng trên trời, ta phải biết cho đi.
Càng cho đi lại càng giàu có. Càng phân phát lại càng dư thừa. Càng
ban tặng lại càng phong phú.
Là quản lý khôn ngoan, ta
phải tỉnh thức. Cuộc đời ở
trọ mau qua. Chúa lại hay đến bất ngờ. Nên ta phải tỉnh thức đợi chờ.
Đợi chờ không phải là thụ động ngồi đó khoanh tay. Đợi chờ là phải
tích cực làm việc. Thắt lưng vào, thắp đèn lên để làm việc cho minh
chính như giữa ban ngày. Để phục vụ không bao giờ ngừng. Dù Chúa có
đến lúc nào, Chúa cũng thấy ta đang mặc quần áo công nhân phục vụ.
Dù có bất ngờ như kẻ trộm, Chúa cũng thấy quản lý đang phục vụ anh
em, phân phát lúa thóc cho họ.
Lạy Chúa, xin nhắc cho con luôn luôn nhớ rằng con là người quản lý của
Chúa, để dù ở đâu, dù làm gì, con cũng luôn làm cho Chúa, luôn tỉnh
thức sống dưới ánh mắt của Chúa.
III.TẤM BÁNH
HOÁ NHIỀU
1- Bạn có lần nào nghĩ rằng thân xác cùng với những gì bạn có thực
sự không phải là của bạn không?
2- Trong quá khứ bạn đã là người quản lý trung tín và khôn ngoan của
Chúa chưa?
3- Phải làm thế nào để trở thành người quản lý trung tín và khôn
ngoan?
4- Làm sao để biến những gì ta đang có thành vĩnh cửu?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Gr
38,4-6.8-10
- Dt 12,1-4
-
Lc 12, 49-53
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Một đạo sĩ ấn độ hỏi các đệ tử: “Này các con, các con có biết khi
nào đêm tàn và ngày xuất hiện không?” Các môn đệ thi nhau trả lời. Có
người hỏi: “Thưa Thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi mà
nhìn một đoàn vật từ xa người ta có thể phân biệt được con nào là
con bò, con nào là con trâu không?” Thày lắc đầu: “Không phải”. Một đệ
tử khác lại hỏi: “Thưa Thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh
sáng tới và bóng tối lui, là khi từ xa nhìn vào vườn cây người ta có
thể phân biệt cây nào là cây xoài, cây nào là cây mít không?” Thầy vẫn lắc đầu.
Không đệ tử nào trả lời được câu hỏi. Lúc đó, đạo sĩ mới từ từ
nói: “Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là
khi nhìn vào mặt nhau, người ta nhận ra nhau là anh em”.
Thật kỳ lạ. Chúng ta đã biết nhiều loại ánh sáng như ánh sáng mặt
trời, mặt trăng, ánh sáng đèn điện, đèn pin, ánh sáng đèn dầu, đèn
cầy. Cả những ánh sáng tinh vi như tia hồng ngoại, tia X. Tất cả chỉ
soi sáng cho thấy sự vật như nó là. Không có ánh sáng nào soi vào
mặt một người xa lạ có thể biến người đó thành anh em mình cả. Thứ
ánh sáng ấy ở đâu?
Mẹ Têrêxa có thể trả lời
câu hỏi này. Một hôm, Mẹ ghé thăm một người đàn ông tội nghiệp. Ông
sống trong một túp lều tồi tàn, lụp xụp. Bên trong lều là cả một
bãi rác mênh mông. Mùng mền, chăn chiếu, quần áo hỗn độn, rách nát
và hôi hám. Nhà cửa, đồ đạc phủ một lớp bụi dầy. Thế mà ông lão
tự giam mình trong đống rác ấy. Ông ghét bỏ mọi người nên không lui
tới với ai. Ông sống cô độc. Mẹ Têrêxa và các chị vào chào ông. Ông
làm thinh không đáp. Thấy căn lều hỗn độn, bụi bặm, các chị xin phép
ông dọn dẹp, ông không trả lời. Mặc kệ! Các chị cứ bắt tay vào dọn
dẹp, xếp đặt, lau chùi.
Thấy trong góc lều có một cây đèn, mẹ Têrêxa lấy ra lau chùi.
Chùi sạch lớp bụi, mẹ kêu lên: “Ô,
cây đèn đẹp quá!” Ông lão bỗng lên tiếng: “Đó là cây đèn tôi tặng vợ
tôi nhân dịp đám cưới”. - “Ông không thắp đèn lên sao?” – “Không, từ khi
vợ tôi qua đời, tôi không bao giờ thắp đèn”. –
“Thế
ông có muốn chúng tôi tới thăm ông mỗi ngày và thắp đèn cho ông không?”
Thấy các nữ tu tử tế, ông đồng ý.
Từ đó, mỗi chiều các chị đều ghé thăm, truyện trò và thắp đèn cho
ông. Dần dà, ông trở nên vui vẻ yêu đời. Ông nói chuyện cời mở với
các nữ tu. Ông đi lại thăm viếng hàng xóm. Mọi người đến với ông. Căn
lều hiu quạnh trở lại ấm áp.
Trước kia, căn lều tăm tối không phải vì ông không thắp đèn, nhưng vì
ngọn lửa trong trái tim ông lịm tắt. Nay căn lều sáng lên niềm vui không
phải vì ánh sáng ngọn đèn dầu, nhưng vì ánh sáng trong trái tim ông
bừng lên. Trước kia ông thù oán, xa lánh mọi người vì ánh lửa trong
trái tim tàn lụi. Nay nhờ các nữ tu nhen nhúm, ngọn lửa trong trái tim
ông bừng lên và ông cảm thấy tha thiết yêu mến mọi người và mọi người
cũng tha thiết yêu mến ông.
Thứ ánh sáng kỳ diệu ấy phát xuất từ trái tim.
Ánh sáng ấy ta thấy
thấp thoáng khắp các trang sách Tin mừng. Khi người xứ Samaria nhân hậu
cúi xuống băng bó vết thương cho người bị nạn, ánh sáng bừng lên. Hai
người xa lạ nhìn vào mặt nhau và nhận ra nhau là anh em.
Chúa Giêsu mang ánh sáng này xuống trần gian. Và Người ước mong cho
ngọn lửa yêu thương cháy bừng lên soi sáng cho thế giới: “Thày đã đến ném lửa vào trái đất, và Thày những ước mong
phải chi lửa ấy đã bùng lên!” Lời ước mong thật tha thiết nhưng có
pha lẫn ngậm ngùi. Phải chi lửa ấy đã bùng lên có nghĩa là lửa ấy
chưa bùng lên cao, chưa lan ra xa.
Thật vậy, nhìn vào tình hình thế giới, chiến tranh không lúc nào
ngơi. Thế kỷ 20 đã biết đến 2 cuộc thế chiến với biết bao thiệt hại
về người về của và nhất là về tình đoàn kết. Trong thập niên 80,
chiến tranh lạnh giữa hai khối Đông - Tây chấm dứt, người ta tưởng rằng
giấc mơ hoà bình thê là đã thành sự thật. Nhưng không, chiến tranh vẫn
tiếp diễn ở Rwanđa, Kosovo, ở Trung đông... ánh sáng vẫn chưa soi tới
những vùng chiến tranh. Bóng tối hận thù vẫn còn vây phủ. Những
người anh em vẫn còn chém giết nhau.
Nhìn vào bản thân mình, ta thấy trong ta cũng còn nhiều vùng mà ánh
sáng Tin mừng chưa soi dọi tới. Trong lòng ta vẫn còn những ngõ ngách
chứa đầy bóng tối ghen ghét, hận thù. Nên ta nhìn ra chung quanh mà ít
gặp được anh em mình.
Lời Chúa hôm nay tha thiết kêu gọi ta. Hãy
khơi cho ngọn lửa yêu thương bừng sáng lên. Hãy đẩy lùi bóng tối chiến
tranh, chia rẽ, hận thù. Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận và ban phát yêu
thương, xoá đi những nhỏ nhen, ích kỷ. Để mọi người nhìn nhau là anh
em thực sự. Bấy giờ đêm mới tàn và ngày mới bắt đầu. Bóng tối
nhường chỗ cho ánh sáng, ánh sáng rực rỡ phát xuất từ những trái
tim chan hoà yêu thương.
Lạy Chúa, xin hãy nhóm lên trong trái tim con ngọn lửa yêu thương của
Chúa.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Bạn đang sống trong ánh sáng hay bóng tối?
2- Bạn có muốn góp phần đem ánh sáng của Chúa đi gieo rắc khắp nơi
không?
3- Bạn bắt đầu chiếu sáng bằng cách nào?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is
66,18-21
- Dt
12,5-7.11-13
-
Lc 13, 22-30
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Trong mùa thi vào đại học vừa qua, có nhiều bạn học sinh đã bị chứng
suy dinh dưỡng, mất ngủ, thậm chí bị tâm thần. Lý do là các bạn phải
học rất nhiều, phải phấn đấu để được vào đại học. Đại học hiện
tại là một khung cửa hẹp. Trường lớp có ít mà số lượng sinh viên
mỗi năm mỗi tăng. Thế nên các học sinh phải hết sức phấn đấu mới
được vào.
Cảnh các thí sinh chen chúc trước các cổng trường đại học làm tôi
nhớ đến bài Tin mừng hôm nay. Ai muốn vào Nước Trời cũng phải đi qua
khung cửa hẹp.
Cửa hẹp không phải vì Nước Trời chật hẹp. Nước Trời rộng mênh mông,
có thể đón tiếp tất cả mọi người. Nhưng không phải tất cả mọi người
vào được, vì vào Nước Trời đòi có những điều kiện cần thiết. Cửa
hẹp chính là để tuyển lựa những người có phẩm chất thích hợp với
Nước Trời. Ai muốn vào Nước Trời phải phấn đấu.
Trước hết phải phấn đấu
hạ mình xuống. Ở đời người
ta thường phấn đấu để vươn lên. Người ở địa vị thấp phấn đấu để
được địa vị cao. Người hèn kém phấn đấu để được trọng vọng. Người
phải phục vụ phấn đấu để được người khác phục vụ mình. Nhưng trong
Nước Trời thì ngược lại. Phải phấn đấu để đi xuống. Phải phấn đấu
để tìm chỗ thấp hèn nhất. Phải phấn đấu để phục vụ anh em. Như lời
Chúa dậy: "Ai nâng mình lên sẽ bị hạ
xuống. Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên" (Lc 14, 11). "Khi
anh được mời, hãy ngồi vào chỗ cuối" (Lc 14, 10). "Ai
lớn nhất trong anh em, thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và kẻ
làm đầu thì phải nên như người phục vụ" (Lc 22, 26). "Ai
không đón nhận Nước Thiên chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng
được vào" (Mc 10, 15).
Sau đó phải phấn đấu để
bé nhỏ lại. Thông thường ở
đời người ta phấn đấu để to ra. Ai có nhà nhỏ phấn đấu để có nhà
lớn hơn. Ai có ruộng vườn nhỏ cũng phấn đấu để vườn ruộng lớn rộng
thêm. Ai cũng phấn đấu để có nhiều của cải hơn, có nhiều bằng cấp
hơn, có nhiều đặc quyền đặc lợi hơn. Trái lại, người muốn vào Nước
Trời phải phấn đấu để trở nên bé nhỏ. Phải phấn đấu để trở nên
nghèo. Phải phấn đấu để bỏ bớt của cải đi. "Hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được
một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi" (Mt 19, 21). "Phúc
thay ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ" (Mt 5, 3).
Cửa vào Nước Trời hẹp vì được làm theo kích thước của Chúa Giêsu.
Cửa này thấp vì Chúa Giêsu đã hạ mình thẳm sâu. Là Thiên chúa, Người
đã tự nguyện trở nên người phàm. Từ trời cao, Người đã tự nguyện
xuống nơi đất thấp. Là Thày, nhưng Người đã tự nguyện trở nên người
phục vụ. Vô cùng thánh thiện nhưng Người đã để bị đối xử như một
đại tội phạm. Người đã bị vùi dập xuống tận bùn đen.
Cửa này bé vì Chúa Giêsu đã trở nên bé nhỏ. Người đã sinh ra nghèo,
sống nghèo và chết nghèo. Người đã bị bóc lột hết, không phải chỉ
quần áo mà cả uy tín và danh dự.
Chúa Giêsu đã mở đường về Nước Trời. Muốn vào Nước Trời chẳng có
con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã đi. Chẳng có cửa nào
khác ngoài khung cửa hẹp mà Chúa Giêsu đã qua. Ai muốn qua đó cũng
phải noi gương Người phấn đấu hạ mình thẳm sâu và thu mình thành bé
nhỏ nghèo hèn. Chỉ những ai hạ mình khiêm tốn và từ bỏ hết cái tôi
cồng kềnh ích kỷ mới qua được khung cửa hẹp mà vào Nước Thiên chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết "từ bỏ mình, vác thập giá mình" mà
theo Chúa.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Cửa Nước Trời rất hẹp. Bạn có thấy mình còn cồng kềnh không?
2- Bạn thấy mình cần phải từ bỏ những gì để có thể gọn nhẹ tiến
qua cửa hẹp?
3- Tuần này bạn sẽ phấn đấu làm gì để từ bỏ mình?
4- Chúa Giêsu đã làm thế nào để đi vào khung cửa hẹp?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Hc
3,17-18.20.28-29
- Dt
12,18-19.22-24a
-
Lc 14, 1.7-14
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
1- Nhân một bữa tiệc
Chúa Giêsu được một thủ lãnh nhóm Pharisêu mời dùng bữa. Thời Chúa
Giêsu, người Do thái chia thành nhiều nhóm. Có nhóm của Hêrôđê. Có
nhóm cách mạng chống đế quốc La-mã. Có nhóm Essenien khắc kỷ. Có
nhóm Sadduce tư tế. Nhóm
Pharisêu gồm các tiến sĩ và luật sĩ chuyên giải thích lề luật. Nhóm
này tự cho là mình thông hiểu lề luật, sống đạo đức, là mẫu mực và
là thày dạy của dân, nên họ tách biệt khỏi quần chúng. Như thế thủ
lãnh của nhóm Pharisêu phải là người có thế lực rất lớn.
Được mời dự bữa tiệc hôm nay, Chúa Giêsu quan sát thấy ai cũng muốn
ngồi cỗ nhất. Một phần vì theo thói thường, ai cũng muốn mình nổi
nang, được mọi người kính trọng. Phần khác vì chủ nhà là thủ lãnh
nhóm Pharisêu, là một người rất có thế lực, nên ai cũng muốn ngồi
gần ông hoặc để gây uy tín, hoặc có dịp nhờ vả ông giúp cho một việc
gì.
Vì ai cũng muốn ngồi gần ông chủ ở chỗ nhất nên cỗ nhất thiếu chỗ.
Có những bậc vị vọng đành phải xuống cỗ dưới. Có lẽ Chúa Giêsu,
vốn không muốn tranh giành, lại coi thường những chức danh phù phiếm,
nên đã tự động ngồi vào cỗ chót. Trong tình huống ấy, chủ nhà buộc
lòng phải mời những khách không mấy quan trọng xuống khỏi cỗ nhất.
Chủ nhà mời Chúa Giêsu lên cỗ nhất, một phần vì uy tín của Người,
nhưng cũng để nghe Người nói mà dò xét, bắt bẻ.
2- Chúa Giêsu đã dạy một chân lý trong đời sống xã hội.
Nhân hoàn cảnh đó, Chúa Giêsu đã lên tiếng dạy ta bài học khiêm tốn.
Kiêu ngạo là thói thường ở đời. Ai cũng muốn mình hơn người khác. Nổi nang hơn, giỏi
giang hơn, giàu có hơn, thế lực hơn. Vì muốn nổi hơn người, nhiều
người không ngần ngại tìm cách chà đạp người khác.
Kiêu ngạo chống lại kiêu ngạo. Nên không ai ưa người kiêu ngạo. Và nhất
là những người kiêu ngạo càng không ưa nhau. Trái lại, người khiêm tốn
được mọi người yêu mến. Sách Trang tử thuật chuyện: Dương Chu sang nước
Tống vào trọ một nhà kia. Chủ nhà có 2 nàng hầu, một đẹp, một xấu.
Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí trọng nàng hầu
xấu mà khinh rẻ nàng hầu đẹp. Lấy làm lạ, Dương Chu hỏi thằng bé
trong nhà. Chú bé nói: Người thiếp đẹp tự cho mình là đẹp nên mất
đẹp. Chẳng ai nhìn thấy cái đẹp của nàng nữa. Còn người thiếp xấu
tự biết mình xấu mà quên xấu. Không ai còn nhìn thấy cái xấu của
nàng nữa.
Dương Chu liền gọi học trò đến dặn: Các con nhớ ghi lấy. Giỏi mà bỏ
được cái thói tự cho mình là giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người ta
yêu quí tôn trọng.
Vì thế Chúa Giêsu đã khuyên ta nên biết khiêm nhường. Đi ăn tiệc cứ
chọn chỗ cuối cùng mà ngồi. Nếu được chủ nhà mời lên thì thật vinh
dự. Tự cho phép mình ngồi chỗ trên hết, lỡ bị chủ nhà mời xuống
thì thật xấu hổ.
3- Nhưng nhắm đến thực tại Nước Trời.
Lời Chúa Giêsu dạy, không chỉ nhắm sửa đổi một lề thói xã hội, nhưng
trên hết, Người nhắm tới những sự thực về Nước Trời.
Trong bàn tiệc Nước Trời, những ai càng khiêm tốn lại càng được nâng
lên cao. Vì khiêm tốn là đi vào con đường của Thiên chúa, là trở nên
giống Thiên chúa.
Hãy nhìn vào gương Chúa Giêsu. Người luôn luôn chọn chỗ cuối cùng. Là
Thiên chúa, nhưng Người không đòi cho mình được ngang hàng với Thiên
chúa, trái lại, Người đã tự huỷ mình, mặc lấy thân phận nô lệ hèn
yếu như ta, trừ tội lỗi.
Hãy nhìn vào hình ảnh bửa Tiệc ly. Trong bàn tiệc ai là người cao
trọng nhất? Thưa là Chúa Giêsu. Thế mà Người đã quì gối xuống rửa
chân cho các môn đệ. Thiên chúa đã quì trước mặt nhân loại. Thiên chúa
đã rửa chân nhân loại. Thiên chúa đã lau những bàn chân nhơ nhớp của
nhân loại. Thực là một sự khiêm tốn thẳm sâu. Trong khi con người kiêu
ngạo muốn
vươn lên làm Chúa, thì Thiên chúa lại khiêm tốn hạ mình xuống làm
người. Trong khi con người hèn hạ muốn nâng mình lên bằng cách chà đạp
người khác, thì Thiên chúa cao cả lại hạ mình xuống để nâng con người
lên. Hạ mình, đó là con đường của Thiên chúa. Khiêm nhường, đó là
khuôn mặt của Thiên chúa. Vì thế những ai khiêm tốn là trở nên giống
Thiên chúa, xứng đáng ngồi đồng bàn với Thiên chúa trên Nước Trời.
Nói xứng đáng không phải là do công phúc của ta, nhưng là do tình
thương của Chúa.
Ai tự nâng mình lên thì không có giá trị gì. Ai được người khác nâng
lên, giá trị có đó, nhưng rất mong manh. Ai được Thiên chúa nâng lên,
giá trị đó mới thực cao quí, bền vững. Mà Chúa chỉ nâng cao những
người khiêm tốn.
Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là hèn nhát. Trái laị chỉ những ai
dũng mạnh, can đảm mới dám hạ mình phục vụ anh em.
Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nô lệ. Trái lại khiêm tốn phục
vụ là một cử chỉ đầy tình yêu, một thái độ hoàn toàn tự do, cao
quí. Khiêm tốn hạ mình phục vụ là thoát ra khỏi cái tôi chật hẹp
ích kỷ để đi vào con đường tự do thênh thang của Thiên chúa, của Nước
Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết khiêm tốn phục vụ như Chúa đã làm
gương.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Có những khiêm nhường giả tạo. Theo ý bạn, khiêm nhường thực sự
phải như thế nào?
2- Bạn dễ quan tâm phục vụ người có địa vị chức quyền, hay bạn
thường quan tâm đến những người khốn khổ, bị bỏ rơi?
3- Bạn đã bắt đầu tập đi vào con đường khiêm nhường chưa?
4- Chúa Giêsu nêu gương khiêm nhường thế nào?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Kn 9,13-18
- Plm
9b-10.12-17
-
Lc 14, 25-33
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Ai trong chúng ta cũng mong ước được làm môn đệ của Chúa. Ai cũng muốn
theo chân Chúa. Nhưng ta có thực sự hiểu làm môn đệ Chúa là như thế
nào không? Hôm nay Chúa chỉ cho ta thấy rõ điều đó.
Làm môn đệ là một việc làm
nghiêm túc. Đây không phải là
một cảm tính bồng bột nhất thời. Nhưng là một việc lâu dài. Chúa
Giêsu ví việc làm môn đệ theo Chúa với việc “xây dựng một cây tháp”
và việc “chiến đấu với kẻ thù”. Xây dựng cây tháp là một việc làm
lớn lao. Chiến đấu với kẻ thù là việc làm nghiêm trọng. Vì thế cần
phải ngồi xuống suy tính cho cẩn trọng, chi li. Cũng thế việc làm môn
đệ của Chúa là một việc làm nghiêm túc, vừa lớn lao như sự nghiệp
cả đời, vừa nghiêm trọng vì ảnh hưởng tới cả định mệnh. Vì thế
phải ngồi xuống suy tính cho kỹ lưỡng để có thể theo Chúa đến cùng.
Phải suy tính kỹ lưỡng vì làm môn đệ là từ bỏ đến tận cùng.
Làm môn đệ là
từ bỏ đến tận cùng. Môn đệ không phải là kẻ hiếu kỳ
cưỡi ngựa xem hoa. Môn đệ không phải là kẻ tài tử nay làm mai không.
Môn đệ là người đi theo
Thày
suốt đời, sống như
Thày
trong mọi sự. Chính vì thế mà phải coi
Thày là thần tượng
duy nhất, không yêu mến ai hơn
Thày.
Chính vì thế mà phải từ bỏ tất cả, không chỉ người thân mà từ bỏ
cả chính bản thân với những ý nghĩ riêng tư. Để không những đi theo
Thày, sống như
Thày mà còn ăn nói
như
Thày, suy nghĩ như
Thày nữa. Kitô hữu
là người mang Chúa Kitô trong mình. Muốn có Chúa Kitô trong mình, ta
phải loại bỏ tất cả những gì không phải Chúa ra khỏi mình. Điều này
chắc chắn không dễ dàng. Nhưng ta an tâm, vì Chúa Giêsu không chỉ đòi
hỏi ta. Người đã đòi hỏi chính mình trước. Chúa Giêsu không chỉ đòi
ta vác thánh giá. Chính Người đã vác thánh giá trước. Ta sẽ cảm
thấy dễ dàng vì chỉ việc làm như Chúa Giêsu.
Làm môn đệ là làm
như Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu đòi hỏi ta từ bỏ, chính
Người đã từ bỏ trước. Người đã từ bỏ trời cao để xuống đất thấp.
Người đã từ bỏ địa vị làm Thiên Chúa để xuống thế làm người. Sự
từ bỏ được thấy rõ qua việc Chúa tự nguyện sống nghèo khổ, tự
nguyện nhận lấy tội lỗi của loài người và tự nguyện chết thay loài
người. Khốc liệt nhất là Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng
theo ý Chúa Cha. Cuộc chiến đấu khốc liệt đã thấy trong vườn
Giêtsimani, khi nhìn thấy trước cái chết đau đớn tủi nhục sắp tới,
Người run sợ muốn lẩn tránh bỏ cuộc, nên đã tha thiết cầu xin Chúa
Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin
cho con khỏi uống chén đắng này”. Nhưng cuối cùng, Chúa đã từ bỏ
ý riêng, vâng theo ý Chúa Cha, sẵn sàng ra đi chịu chết: “Nhưng
đừng theo ý con, xin vâng ý Cha mà thôi”.
Nhờ hoàn toàn từ bỏ ý riêng, vác thánh giá đi đến cùng, Chúa Giêsu
đã hoàn thành công việc của Chúa Cha trao phó, đem ơn cứu độ đến cho
mọi người. Người môn đệ, khi hoàn toàn từ bỏ chính mình, sẽ nên một
với Chúa Kitô, cộng tác vào công cuộc cứu độ của Chúa.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Làm môn đệ là gì?
2. Chúa Giêsu đã nêu gương từ bỏ thế nào?
3. Tại sao ta phải từ bỏ tất cả?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Xh
32,7-11.13-14
- 1Tm
1,12-17
-
Lc 15,1-32
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Bài Phúc Am vừa nghe là một trong những trang đẹp nhất của Tin Mừng.
Có thể gọi đó là Tin Mừng của Tin Mừng. Vì chương 15 Phúc
Âm Luca này được coi
như bản tóm tắt tất cả Phúc
Âm.
Tin Mừng đó là Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót. Lòng thương xót
của Thiên Chúa thực vô biên, dài, rộng, cao, sâu khôn lường, ta không thể
nào hiểu thấu. Những bài sách thánh hôm nay hé mở cho ta mấy nét của
lòng thương xót vô biên đó.
1. Nét thứ nhất của lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa là: sự tha
thứ.
Tình yêu đích thực không được đo bằng đam mê nồng cháy. Bởi những đam
mê nồng cháy mau qua như một cơn bão lốc. Bão lốc qua đi chỉ để lại
đổ vỡ điêu tàn.
Tình yêu đích thực không
được đo bằng hy sinh tận cùng. Người ta có thể hy sinh mạng sống vì
của cải, danh vọng. Hy sinh như thế có thể chỉ vì bản thân mình chứ
không phải vì người khác.
Tình yêu đích thực được đo
bằng sự tha thứ. Chỉ có yêu thực lòng, yêu tha thiết mới có thể tha
thứ. Khi yêu người ta dám cho đi tất cả. Nhưng ít có ai cho đi sự tha
thứ. Chính tha thứ mở cho ta cánh cửa dẫn vào thâm cung nhiệm mầu của
tình yêu.
Tha thứ là đặc tính của
tình yêu Thiên Chúa. Ta hãy đọc lại lịch sử dân Israel. Biết bao lần
dân chúng phản bội, chống lại Thiên Chúa. Nhưng Chúa vẫn nhân từ tha
thứ. Khi Môsê cầu nguyện trên núi, dân Do Thái đã phản bội, gom góp
vàng bạc đúc tượng bò mà thờ. Chúa nổi giận muốn phạt họ. Nhưng khi
Môsê nài xin Chúa, Chúa đã nguôi giận mà tha thứ cho dân.
Phaolô ghét đạo Chúa, đi
tìm bắt những người theo Chúa. Nhưng Chúa đã thương hoán cải ông. Hơn
nữa, Chúa còn chọn ông làm Tông đồ cho Chúa.
Người con bỏ nhà ra đi,
phung phí hết tiền của cha, nhưng người cha già vẫn yêu thương chờ đợi,
tha thứ hết khi nó trở về.
Sự tha thứ của Thiên Chúa
đối với con người, nhất là người tội lỗi thực là vô biên. Sự tha thứ
ấy minh chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người lớn lao biết
chừng nào.
2. Nét thứ hai
của lòng thương xót vô biên của ThiênChúa. Đó là: sự đi tìm.
Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ, nhưng Người không chỉ ngồi đó chờ kẻ có
tội trở về xin lỗi rồi mới thứ tha. Không, chính Thiên Chúa chủ động,
có sáng kiến đi tìm con người. Đó là nét độc đáo trong tình yêu
thương tha thứ của Thiên Chúa.
Chính Chúa đi tìm Phaolô khi ông đang trên đường lầm lạc, có sáng kiến
làm ông té ngựa để đưa ông trở lại với Chúa. Chính Chúa là người
chăn chiên đi tìm con chiên bị lạc. Là người phụ nữ quét nhà tìm đồng
bạc đánh rơi. Là người cha ngày ngày ra ngõ tìm đứa con bỏ nhà đi
hoang. Cuộc đi tìm không phải dễ dàng. Người chăn chiên phải băng đồi
vượt sông, luồn lách qua gai góc, dẫm đạp sỏi đá, chịu đựng nắng mưa,
bất chấp thú dữ rình rập. Người phụ nữ phải thắp đèn soi vào mọi
ngóc ngách trong nhà, lùa chổi vào những khe nứt nhỏ bé, kiên nhẫn
moi móc tìm kiếm niềm hy vọng mong manh. Người cha phải vượt qua những
thành kiến xã hội, lòng tự ái bị thương tổn, trái tim đau đớn vì yêu
thương.
Đi tìm là yêu thương. Còn
hơn thế, đi tìm là đã tha thứ. Quả thật Chúa đã yêu thương ta trước.
Người yêu thương ta trước khi ta biết Người. Người tha thứ cho ta trước
khi ta xin lỗi. Người đi tìm ta trước khi ta trở về.
3. Nét thứ ba
của lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó là: Thiên Chúa yêu thương
từng người, dù rất bé nhỏ.
Trong đời sống xã hội, những người bé nhỏ nghèo hèn thường bị bỏ
quên: sống cô đơn, chết cô độc, chìm vào quên lãng. Nhưng trong trái tim
Thiên Chúa, mỗi người đều chiếm một vị trí quan trọng. Mỗi người đều
là duy nhất độc đáo, không thể thay thế được đối với Thiên Chúa. Càng
bé nhỏ nghèo hèn lại càng chiếm vị trí quan trọng trong tình yêu
Thiên Chúa.
Một con chiên lạc có gì so
với 99 con chiên còn lại. Giữ 99 con còn lại vừa nhàn nhã lại vừa có
lợi. Đi tìm một con đi lạc vừa mệt nhọc lại vừa thiệt thòi. Nhưng
trong tình yêu làm gì có tính toán thiệt hơn. Một con chiên nhỏ bé
lạc loài đã chiếm hết trái tim của người mục tử nhân từ. Bao lâu chưa
tìm được con chiên nhỏ bé gầy gò, lạc bầy ấy, lòng người mục tử ấy
vẫn còn khắc khoải lo âu.
Đứa con bỏ nhà ra đi, xài
phí hết gia sản cha mẹ làm sao sánh được với đứa con trai ngoan ngoãn
ở nhà, biết chăm lo công việc, luôn hiếu thảo phụng dưỡng mẹ cha.
Ấy vậy mà người cha
ăn không ngon, ngủ không yên, tắt tiếng cười, mắt mờ lệ, bao lâu đứa con
hư hỏng chưa trở về.
Thật kỳ diệu tình thương
của Thiên Chúa. Chính vì những tâm hồn bé nhỏ, tội lỗi, yếu đuối ấy
mà Thiên Chúa đã sai Con Một Người xuống trần gian như lời Chúa Giêsu
nói: “Những người bệnh mới cần đến
thầy thuốc”.
Thực là vô biên lòng thương
xót của Thiên Chúa. Lòng thương xót ấy lớn hơn cả trái tim của ta. Ơn
lành của Thiên Chúa lớn hơn cả tội lỗi của ta. Sự tha thứ của Thiên
Chúa lớn hơn cả trí tưởng tượng của ta. Tất cả chúng ta hãy đến với
Người. Hãy mang theo những yếu đuối lỡ lầm của ta. Hãy cho Người xem
vết thương từ lâu gặm nhấm trái tim ta. Hãy tâm sự nỗi buồn vô vọng
của ta. Thiên Chúa Cha chúng ta là Đấng giàu lòng thương xót. Không có
tội lỗi nào Người không tha thứ.
Không có vết thương
nào Người không chữa lành. Không có nỗi buồn nào Người không an ủi.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Kể ra vài nét của lòng thương xót của Chúa.
2. Tại sao tha thứ là dấu chỉ rõ nhất của tình yêu?
3. Cảm nhận được tình yêu và đáp lại tình yêu của Thiên Chúa. Bạn có
coi điều này là hệ trọng nhất trong đời không?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Am 8,4-7
- 1Tm 2,1-8
-
Lc 16,1-13
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn nhiều. Một hôm sai Phùng Nguyên
sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi đi, Phùng Nguyên hỏi: “Ngài có muốn
mua gì không?” Mạnh Thường Quân trả lời: “Ngươi xem thứ gì nhà chưa có
thì mua”. Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng:
“Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân đều cho cả”. Rồi chẳng tính
vốn lời, đem văn tự ra đốt sạch. Khi trở về, Phùng Nguyên nói với
Mạnh Thường Quân: “Nhà Ngài không thiếu gì, có lẽ chỉ thiếu ơn nghĩa.
Tôi đã trộm mua ở đất Tiết cho Ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý Ngài”.
Về sau MạnhThường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đấy nhớ ơn
xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng
Nguyên: “Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước”.
Nghe chuyện này, có lẽ
mọi người đều đồng ý với Mạnh Thường Quân rằng Phùng Nguyên thực là
người quản lý trung thành và khôn ngoan. Trung thành vì ông đã biết
cách làm lợi cho chủ. Khôn ngoan vì ông biết nhìn xa trông rộng, đầu tư
vào những chương trình có ích lợi lâu dài. Nhờ sự khôn ngoan của
Phùng Nguyên, Mạnh Thường Quân đã vượt qua được những khó khăn gian
khổ.
Người quản lý trong bài
Phúc
Âm hôm nay khôn ngoan
nhưng không trung thành. Khôn ngoan nhanh nhẹn, trong một thời gian ngắn
đã tìm ra phương thế chuẩn bị cho tương lai. Nhưng ông đã không trung
thành vì ông đã phung phí, làm hại tài sản của chủ.
Khi khen người quản lý này
khôn khéo, Chúa Giêsu không khen ngợi tính gian giảo, thiếu trung thực
của ông, Người chỉ khen ngợi sự thông minh nhạy bén của ông. Người ước
mong con cái sự sáng cũng biết thông minh nhạy bén trong việc tìm kiếm
Nước Trời.
Quả thực chúng ta là
những người quản lý của Chúa. Tất cả những gì ta có đều là của
Chúa. Sự sống, sức khoẻ, tài năng, tiền bạc ... đều không phải của
ta. Ta chỉ quản lý chúng.
Hai đức tính quý ở người quản lý là trung thành và khôn ngoan.
Người quản lý trung thành
gìn giữ nguyên vẹn tài sản của chủ. Không phung phí, không làm mất
mát hao hụt. Người quản lý khôn ngoan sẽ tìm cách sinh lợi cho chủ,
làm cho tài sản ngày càng gia tăng.
Tiền bạc có thể sinh lợi
ở ba góc độ khác nhau.
Mức độ bình thường nhất
là: tiền đẻ ra tiền. Dùng tiền gởi ngân hàng để lấy tiền lời. Dùng
tiền đầu tư vào công việc thương mại, kinh doanh để kiếm được nhiều
tiền hơn nữa.
Mức độ thứ hai cao hơn là: dùng tiền đầu tư vào chất xám, vào giáo
dục, vào nghiên cứu khoa học kỹ thuật. Nhật Bản và Hàn Quốc là hai
nước đầu tư rất nhiều vào giáo dục. Vì thế họ đã đào tạo được một
đội ngũ trí thức đông đảo có kiến thức, có khoa học kỹ thuật. Nhờ
thế, không những họ làm cho đất nước giàu mạnh mau chóng, mà còn nâng
cuộc sống nhân dân lên cao hơn, giàu có sung túc về của cải vật chất
và nhất là cao đẹp vì có văn hóa, đạo đức.
Mức độ thứ ba, cũng là
mức độ cao nhất là: dùng tiền mua hạnh phúc vĩnh cửu. Biến tiền của
hay hư nát ở đời này thành gia sản vĩnh viễn ở trên trời. Để làm
được việc này, ta phải vượt qua sự khôn ngoan, nhạy bén đầy tính toán
của người đời để đạt tới sự khôn ngoan nhạy bén đầy quảng đại theo
tinh thần Phúc Am.
Tạo lập gia sản trên trời
khác với tạo lập gia sản nơi trần gian.
Gia sản nơi trần gian được
tạo lập bằng tích luỹ. Gia sản trên trời được tạo lập bằng cho đi.
Để tích luỹ tài sản nơi trần gian, ta phải tiện tặn, chắt bóp, nghĩ
đến lợi nhuận của bản thân hơn đến người khác. Để tích luỹ gia sản
trên trời, ta phải rộng rãi, hào phóng nghĩ đến người khác hơn bản
thân mình. Càng cho đi ở đời này, ta càng giàu có ở trên trời. Người
nghèo là Chúa Giêsu hóa trang. Khi ta giúp đỡ người nghèo là ta chuyển
tiền về Thiên quốc. Qua trung gian người nghèo, đồng tiền trần gian hay
hư nát sẽ biến thành tài sản vĩnh cửu trên trời.
Chúng ta là con cái sự
sáng. Hãy biết sống theo con đường sự sáng của Phúc
Âm. Hãy xin Chúa ban
cho ta sự khôn ngoan của Phúc Am. Hãy rèn luyện cho ta có sự nhạy bén
đối với những thực tại vĩnh cửu trên trời.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người
đồng loại. Bạn nghĩ gì về câu này.
2. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được.
Bạn đã coi thường chủ nào và đã yêu mến chủ nào hơn?
3. Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết
tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. Bạn hiểu
câu này thế nào. Bạn đã thực hành chưa?
4. Làm sao để trở thành người quản lý trung thành và khôn ngoan của
Chúa?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Am
6,1a.4-7
- 1Tm
6,11-16
-
Lc 16,19-31
II.TẤM BÁNH
CHIA SẺ
Toàn cầu hoá đã giúp đã giúp nhân loại phát triển tình liên đới.
Nhân loại trở nên một cộng đồng sinh mệnh. Sự an nguy không còn của
riêng ai mà là của tất cả mọi người. Cứu người chính là cứu mình.
Vì một thảm hoạ nếu không sớm được ngăn chặn, sẽ mau chóng lan tràn
khắp thế giới. Liên đới đang trở thành đức tính không thể thiếu được
trong đời sống hiện tại. Nó không chỉ là một việc làm thiện nguyện
mà còn là một nhiệm vụ cấp bách của mọi công dân trên hành tinh.
Biết sống liên đới, nhân loại đang đi vào con đường Phúc
Âm.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc đến tình liên đới. Phải
liên đới vì mọi người đều là anh em với nhau. Phải liên đới vì đó là
điều kiện vào Nước Trời.
Bài Phúc Âm hôm nay cho ta thấy điều đó. Có lẽ khi đọc bài dụ ngôn
này, có nhiều người bất mãn tự hỏi: Ông nhà giàu đâu có tội gì mà
phải xuống hoả ngục. Ong không gian tham, trộm cắp, bóc lột. Tiền của
do công sức mồ hôi nước mắt ông làm ra, ông có quyền ăn xài chứ? Giàu
có đâu phải là tội?
Vâng, giàu có đâu phải là một tội. Tuần trước Chúa Giêsu đã cho ta
thấy giá trị tích cực của tiền bạc khi dạy ta hãy dùng tiền của mua
lấy bạn hữu để họ đưa ta vào cuộc sống vĩnh cửu. Tiền bạc, nếu
biết sử dụng, sẽ có giá trị tích cực. Nhưng nếu không biết sử dụng,
sẽ trở thành nguy cơ.
Nguy cơ thứ nhất là: tiền
bạc có thể
mê hoặc tâm hồn. Khi đó tiền
bạc sẽ trở thành sợi dây trói buộc. Tâm hồn mê tiền bạc giống như con
chim bị cột, không cất cánh bay cao, bay xa được. Đó là trường hợp
chàng thanh niên đạo đức trong Phúc Âm. Anh đến hỏi
Chúa Giêsu làm thế nào để được sống đời đời. Anh muốn vươn lên, muốn
tiến bộ trên đường đức hạnh. Nhưng tiền bạc đã ngăn cản bước tiến
của anh. Chúa Giêsu cất tiếng gọi anh. Nhưng tiền bạc đã trói buộc
bước chân. Và anh bỏ cuộc quay về. Đành cam chịu với nếp sống tầm
thường xưa cũ.
Nguy cơ thứ hai là: tiền
bạc dễ làm cho
trái tim thành xơ cứng, chai
đá. Người có nhiều tiền bạc dễ rơi vào tình trạng tự mãn. Tự mãn
với những gì mình có, người giàu sẽ không cần tới ai khác và vì
thế sẽ không chú ý đến những người chung quanh. Đó là trường hợp ông
nhà giàu trong bài Phúc
Âm hôm nay.
Ông có nhà cao cửa
rộng, mặc toàn gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Chỉ
mải mê hưởng thụ, ông không có thì giờ nghĩ đến người khác. Lazarô nằm thoi thóp
bên cửa nhà mà ông không nhìn thấy. Lazarô
có rên rỉ vì đau đớn, đói khát ông cũng không nghe thấy. Tự mãn đã
khiến trái tim ông khép chặt lại, biến ông thành vô cảm trước những
đau khổ của tha nhân. Những mẩu bánh dư thừa, ông đâu có tiếc gì. Thế
nhưng ông chẳng có thời giờ nghĩ đến Lazarô. Và người ta
vất những mẩu bánh dư thừa vào thùng rác trong khi Lazarô mơ ước được
những mẩu bánh dư ăn cho đỡ đói. Tự mãn đã biến ông nhà giàu thành
ích kỷ, thiếu tình liên đới.
Nguy cơ lớn nhất mà tiền
bạc có thể dẫn tới: đó là làm cho ta
mất hạnh phúc đời đời. Hạnh phúc trên Nước Trời là một cuộc
sống hiệp tthông trong tình yêu của Chúa Ba Ngôi. Tình yêu của Chúa Ba
Ngôi là một tình yêu dâng hiến trọn vẹn. Cho đi tất cả để nhận lãnh
được tất cả. Những người ích kỷ không biết cho đi, không biết chia sẻ,
không thể tham dự vào sự sống hiệp thông này. Vì thế, người ích kỷ
là người tự chọn con đường xuống hoả ngục. Kẻ khép cửa lòng trước
nỗi khốn cùng của tha nhân, là người tự đào huyệt chôn mình. Người
sống thiếu tình liên đới là người tự trục xuất mình ra khỏi Nước
Trời.
Bây giờ thì chúng ta hiểu
tại sao ông nhà giàu lại bị đày đoạ trong hoả ngục.
Ông nhà giàu không
có tội gì.
Ông chỉ có tội
thiếu sót: thiếu sót tình liên đới, thiếu sót sự chia sẻ. Trước đây
ông đóng kín cửa để tự ngăn mình với Lazarô.
Nay cánh cửa đó biến thành vực sâu thăm thẳm chia cắt hai người. Trước
kia ông chỉ cần xoay nắm mở cửa là gặp được Lazarô. Nay ông không
tài nào vượt qua được vực thẳm ngăn cách. Trước kia ông nghĩ sẽ không
bao giờ cần tới Lazarô.
Nay ông biết mình cần Lazarô
cho mình một giọt nước thì đã trễ. Tình liên đới nếu không tạo lập
ở thế gian, khi chết rồi sẽ không còn cơ hội nữa.
Qua dụ ngôn này, Chúa muốn
dạy ta biết: Ta sống trong cuộc đời không đơn lẻ, nhưng sống với người
khác. Người ta không phải là những đường thẳng song song không bao giờ
gặp nhau. Trái lại vận mệnh chúng ta đan xen vào nhau. Vì thế trách
nhiệm liên đới là không thể thiếu được. Do đó cần phải quan tâm đến
những người chung quanh mình. Sự quan tâm này không phải tự nhiên có
được, nhưng phải tập luyện hằng ngày. Phải rèn luyện một trái tim
nhạy bén biết cảm thương những cảnh ngộ bất hạnh. Phải rèn luyện
một trái tim quảng đại sẵn sàng chia sẻ với những anh em thiếu thốn.
Lạy Chúa, xin mở mắt con
để con nhìn thấy Chúa trong những anh em sống chung quanh con. Xin mở tai
con để con nghe được tiếng họ đang than van đau khổ. Xin mở trái tim con
để con biết chia sẻ với mọi người những niềm vui, nỗi buồn của họ.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Tôi có quan tâm đến những người sống chung quanh tôi, đặc biệt những
người nghèo khổ không?
2. Đời sống tôi cần đến người khác cả về phương diện tự nhiên lẫn
phương diện siêu nhiên. Tôi có ý thức điều đó không?
3. Một đời sống quá đầy đủ có thể là nguy cơ cho đời sống thiêng
liêng. Tôi làm cách nào để tránh rơi vào nguy cơ này?
4. Tại sao ông nhà giàu phải vào hỏa ngục?
Chúa nhật 27 Thường Niên
ĐỨC TIN
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
-Kb 1,2-3 ; 2,2-4
- 2Tm 1,6-8.13-14
- Lc 17,5-10
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Đời sống trần gian rất nhiều thử thách. Đó là một cuộc
chiến khốc liệt. Với rất nhiều đau khổ. Trần gian thực là một “thung lũng nước
mắt”, là bể khổ. Khiến con người yếu đuối ngã gục. Những đau khổ như bóng tối
phủ vây. Khiến con người hầu như lạc lối. Không còn biết đi đâu về đâu. Biến
trần gian thành bến mê. Để có thể vượt biển trần gian, đạt tới bến quê Thiên
đàng bình an, cần có đức tin vững mạnh. Lời Chúa hôm nay cho ta hiểu đức tin
giúp ta vượt qua đêm tối trần gian thế nào.
Đức tin giúp ta
vững tin vào Lời Chúa.
Tiên tri Khabacuc cho thấy thế giới là một bóng tối khủng
khiếp. Vì tội ác tràn ngập. Bạo tàn khắp nơi. Kẻ ác thắng thế. Không có ngày nào
bình an. Không có nơi nào yên ổn. “Trước
mắt con, toàn là cảnh phá phách, bạo tàn, chỗ nào cũng thấy tranh chấp và cãi cọ”.
Trong khi đó Thiên Chúa dường như vắng mặt. Hoặc có mặt cũng chỉ đứng nhìn.
Trong bóng tối dầy đặc ấy, Lời Chúa hứa là ngọn đèn soi
bước. Cho vị tiên tri vững vàng lần mò trong đêm tối. Tin tưởng “thị
kiến ấy sẽ xảy ra vào thời ấn định. Nó đang tiến nhanh tới chỗ hoàn thành”.
Vì tin tưởng nên dù đau khổ, vị tiên tri cũng vẫn sống
công chính. Trong khi những kẻ thiếu niềm tin ngã gục thì người vững tin sẽ đứng
vững. “Này đây, ai không có tâm hồn ngay
thẳng sẽ ngã gục, còn người công chính thì sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của
mình.”
Đức tin giúp ta kết hợp với Chúa Giêsu.
Thánh Phaolô lại nhìn thế giới đầy bóng tối đau khổ là một
cuộc chiến đấu. Chiến đấu với đau khổ để vượt qua. Chiến đấu với chính mình để
không nản lòng.
Hãy an tâm chiến đấu. Vì khi chịu phép rửa tội ta đã được
nhận Thánh Thần. Nhất là những người được đặt tay đặc biệt. Chúa Thánh Thần sẽ
ban ơn sức mạnh. Giúp ta đủ bình tĩnh đối đầu với đau khổ. Và giúp ta đủ sức
chiến thắng bóng tối.
Khi ta quyết tâm lao vào cuộc chiến không nhượng bộ, không
sợ hãi, kỳ tích phát sinh. Khi ấy ta được đồng lao cộng khổ với Chúa Giêsu. Chúa
Giêsu cho ta được kết hợp với Người. Chính trong đức tin và đức mến này mà ta đủ
sức chiến đấu. Và với Chúa Giêsu ta sẽ chiến thắng.
Đức tin giúp ta chiến thắng nhờ Chúa Giêsu
Khi kết hợp nên một với Chúa Giêsu, ta không phải làm gì
nữa. Chính Chúa làm việc trong ta. Khi ta từ bỏ mình hoàn toàn, Chúa hoàn toàn
chiếm ngự trong ta. Bấy giờ lời nói và hành động của ta là của Chúa. Nên phát
sinh hiệu quả tối đa. Như Chúa dạy hôm nay: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em bảo cây dâu này:
‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em.”
Đó là trường hợp của Phêrô khi chữa người què bẩm sinh. Sách Công vụ Tông đồ
thuật lại: “Bấy giờ ông Phêrô nói: “Vàng
bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Chúa Giêsu
Kitô người Nazareth, anh đứng dậy mà đi!” rồi ông nắm chặt lấy tay mặt anh, kéo
anh trỗi dậy. Lập tức bàn chân và xương mắt cá của anh trở nên cứng cáp. Anh
đứng phắt dậy, đi lại được”. (Cv 3,5-7)
Khi ta hoàn toàn từ bỏ bản thân. Hoàn toàn để Chúa sử
dụng. Ta trở nên dụng cụ của Chúa. Trở nên tôi tớ vô dụng của Chúa. Chúa sẽ làm
việc. Và đức tin đưa đến chiến thắng.
Nhưng có lẽ đức tin của ta còn yếu kém. Mà những gian nan
khốn khó trong đời sống còn rất nhiều. Vậy ta hãy noi gương các tông đồ tha
thiết cầu xin Chúa: “Lạy Thầy, xin thêm
lòng tin cho chúng con”.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1.Khabacuc đã làm gì để vượt qua thung lũng đầy nước mắt?
2.Timôthê đã nhờ bí quyết nào để chiến đấu với đau khổ?
3.Người đầy tớ vô dụng là gì?
4.Bạn đã sống đức tin chưa?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- 2V 5,14-17
- 2Tm 2,8-13
-
Lc 17, 11-19
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Chúa Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem để chịu khổ hình, hoàn thành
việc cứu độ. Chính lúc đi ngang qua Samaria, nhất là qua việc cứu chữa
10 người bệnh nhân phong, Chúa cho thấy một vài đặc điểm của ơn cứu
độ.
Ơn cứu độ là
phổ quát. Chúa muốn cứu độ
hết mọi người không loại trừ ai. Nên Chúa đi qua Samaria. Samaria là
vùng đất cấm kỵ đối với người Do Thái. Đó là vùng đất ngoại đạo.
Đó là vùng đất ô uế. Người Do Thái và người Samaria không giao thiệp
với nhau. Nhưng Chúa đã vượt qua ranh giới cấm kỵ đó. Chúa muốn đem ơn
cứu độ đến cho mọi người. Tại Samaria Chúa còn gặp gỡ 10 người phong
cùi. Lại một cấm kỵ nữa. Người phong cùi vốn bị coi là hạng người
tội lỗi, ô uế. Ai gặp họ đều trở nên ô uế. Họ bị loại trừ ra khỏi
đời sống xã hội. Tại Samaria, những người phong cùi là những người ở
tầng lớp cuối cùng của xã hội. Họ trở thành cặn bã của những
người bị loại trừ. Chúa Giêsu đã gặp hạng người ở tầng lớp cuối
cùng của xã hội. Chúa đem ơn cứu độ cho mọi người, kể cả những
người bị khinh miệt nhất, bị quên lãng nhất, bị hất hủi nhất. Ơn cứu
độ Chúa ban cho tất cả mọi người. Trước mặt Chúa mọi người đều bình
đẳng.
Ơn cứu độ là
nhưng không. Không ai dám nghĩ đến việc mời Chúa xuống
trần gian. Không ai có công trạng gì khiến Chúa phải xuống trần gian
để tưởng thưởng hay để đền đáp. Chúa xuống trần gian hoàn toàn do
lòng nhân từ yêu thương của Chúa. Cũng thế, người Samaria hoàn toàn
bất ngờ khi Chúa đến miền đất của họ. Những người phong cùi lại
càng không bao giờ dám mơ tưởng tới. Bản thân họ đã bị lên án, bị
loại trừ rồi. Ngay việc gặp một người bình thường đã không được
phép, huống chi là gặp gỡ Chúa. Nhưng Chúa đã đến gặp gỡ họ, ban ơn
cứu chữa họ. Hoàn toàn nhưng không. Họ chẳng có công gì. Họ chẳng có
quyền đòi hỏi gì. Họ chỉ có nỗi đau khổ tột cùng. Chính nỗi đau
khổ đó đã khơi dậy lòng yêu thương của Chúa. Vì Chúa là tình yêu
thương.
Ơn cứu độ phải được đón nhận với
niềm tin. Tuy ơn cứu độ được
ban rộng rãi và nhưng không, nhưng để đón nhận đòi phải có niềm tin.
Những người phong cùi hôm nay đã bày tỏ niềm tin qua hai thái độ. Thái
độ thứ nhất là đồng thanh lớn tiếng kêu cầu danh Chúa Giêsu: “Lạy
Thày Giêsu, xin cứu chúng tôi”. Danh Thánh Giêsu có nghĩa là Thiên
Chúa cứu. Từ cùng tận nỗi đau khổ, những người phong cùi đã kêu van
bằng tất cả tấm lòng tha thiết và với niềm tin vững chắc. Chỉ có
Chúa mới thương xót họ. Chỉ có Chúa mới đủ quyền năng cứu chữa họ.
Thái độ thứ hai là đi trình diện với thày tư tế. Chúa không chữa họ
ngay nhưng bảo họ đi trình diện với thày tư tế. Dù chưa được khỏi,
nhưng họ vẫn tin tưởng lên đường. Đang khi đi đường thì họ được khỏi.
Đức tin đã chữa họ.
Ơn cứu độ phải được đón nhận với
niềm vui. Đây là niềm vui trong
mối tương giao giữa Thiên chúa với con người. Cốt lõi của ơn cứu độ
là thiết lập mối tương giao, cho con người được trở nên con cái Thiên
Chúa, đồng hưởng hạnh phúc với Chúa. Đó là cội rễ của niềm vui,
niềm hạnh phúc. Chín người bệnh không trở lại chỉ có niềm vui được
khỏi bệnh, nhưng không có niềm vui trong mối tương giao với Thiên Chúa.
Họ có đức tin cầu xin nhưng thiếu đức tin gặp gỡ với Thiên Chúa. Niềm
vui được khỏi bệnh rồi cũng sẽ nhạt phai. Chỉ có một người trở lại
tạ ơn. Anh trở lại vì mối tương giao. Anh nhận biết nguồn gốc niềm vui
của mình. Anh sụp lạy Chúa vì biết nguồn gốc hiện hữu của mình. Anh
đã tìm thấy nguồn cội ý nghĩa đời mình. Niềm vui của anh sẽ còn
mãi mãi. Đời anh sẽ là một đời tạ ơn không ngừng.
Lạy Chúa, xin cho con biết tìm đến gặp gỡ Chúa để tạ ơn Chúa. Chính
niềm vui tạ ơn này đem đến cho con hạnh phúc suốt đời con.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Vì sao Chúa ban ơn cứu độ cho ta và ta phải đón nhận với thái độ
thế nào?
2. Đức tin cầu xin và đức tin gặp gỡ Chúa khác nhau thế nào? Bạn đã
tiến đến đâu trong đời sống đức tin?
3. Có những miền đất, những con người nào mà bạn coi là cấm kỵ
khiến bạn chưa dám tiếp cận không? Với gương Chúa Giêsu hôm nay, bạn sẽ
làm gì?
4. Biết ơn rất cần trong đời sống tự nhiên. Bạn có biết ơn trong đời
sống siêu nhiên không?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Xh 17,8-13
- 2Tm 3,14 –
4,2
-
Lc 18,1-8
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Đây là một dụ ngôn dễ hiểu. Chúa Giêsu đưa ra hai hình ảnh trái ngược.
Một bên là bà góa nghèo khổ, bé nhỏ, không có tiếng nói trong xã
hội. Một bên là ông quan bất nhân, chẳng sợ trời mà cũng chẳng nể
người. Thật là một hoàn cảnh tuyệt vọng cho người phụ nữ không có
tiếng nói. Nhưng nhờ kiên trì, bà đã đạt được ý nguyện. Chúa kể dụ
ngôn này với mục đích: dạy các môn đệ hãy noi gương bà góa, cầu
nguyện luôn không được nản chí. Bà góa nêu gương cầu nguyện cho ta ở 4
thái độ sau:
1. Thái độ khiêm nhường.
Người đàn bà này rất khiêm nhường vì bà tự biết mình bé nhỏ nghèo
hèn. Bị người ta ức hiếp mà chẳng thể tự bảo vệ. Không có sức khỏe
để chống lại người ác. Không người bênh vực chống lại bất công. Không
có cả tiền bạc để mua lấy sự bình an. Bà mất tất cả. Chẳng còn
gì. Chẳng có gì. Noi gương bà, khi cầu nguyện ta phải rất khiêm
nhường. Khiêm nhường vì biết mình nghèo nàn yếu đuối, biết mình chỉ
là thân phận tro bụi. Khiêm nhường biết mình đã cùng đường, không còn
nơi nương tựa. Khiêm nhường biết mình bất tài bất lực không thể thóat
khỏi hoàn cảnh bi đát này.
2. Thái độ phó thác. Bà góa này
không còn nơi nương tựa. Chỉ còn trông cậy vào ông quan tòa như lối
thóat duy nhất. Bà đặt niềm tin vào ông quan tòa. Đó là niềm hi vọng
duy nhất và cuối cùng. Bà bám víu lấy ông quan tòa. Bà phó thác vận
mạng trong tay ông quan tòa. Sự sống của bà ở nơi ông quan tòa. Cũng
thế, khi ta cầu nguyện, hãy hoàn toàn phó thác vận mệnh cho Chúa.
Chúa là lối thoát duy nhất. Chỉ có Chúa mới có thể cứu giúp ta. Hơn
nữa Chúa là người Cha toàn năng và giầu lòng thương xót. Ta là đứa
con bé nhỏ, yếu ớt. Hãy đặt vận mệnh ta trong tay Chúa. Hãy tin tưởng
Chúa sẽ sắp xếp cho ta những gì tốt đẹp nhất.
3. Thái độ kiên trì. Chỉ còn một
con đường duy nhất để sống, nên bà kiên trì theo đuổi cho đến cùng.
Thất bại không làm bà nản lòng. Bị hất hủi không làm bà bỏ cuộc.
Niềm tin của bà thật lớn lao. Sự kiên trì của bà thật bền bỉ. Bà
đã đi đến cùng và bà đã thành công. Cũng thế, khi cầu nguyện ta hãy
kiên trì. Kiên trì chứng tỏ sự phó thác của ta trong tay Chúa. Kiên
trì chứng tỏ ta hoàn toàn yếu hèn chỉ biết trông cậy vào Chúa. Kiên
trì chứng tỏ lòng ta yêu mến Chúa tha thiết. Chắc chắn Chúa sẽ dủ
lòng thương ta.
4. Thái độ khao khát. Bà khao khát
vì đó là con đường sống duy nhất. Bà khao khát được sống. Bà không
ngồi đó chờ đợi. Nhưng làm hết cách, hết sức mình để đạt được khao
khát đó. Bà không chán nản an nghỉ. Nhưng bà làm việc liên lỉ cho ước
nguyện của mình. Cũng thế, khi cầu nguyện ta phải có lòng khao khát
cháy bỏng. Lòng khao khát đó được biểu lộ trong hành động. Ta không
ngồi chờ, nhưng đứng lên, ra đi và bắt tay hành động. Không lùi bước
trước khó khăn, nhưng tìm hết cách để đạt được ước nguyện. Lòng khao
khát chứng tỏ ta tha thiết với lời cầu nguyện. Lòng khao khát cùng
với nỗ lực phấn đấu sẽ được Chúa thương chấp nhận.
Chiêm ngắm tấm gương của bà góa, ta nhận thấy rất nhiều khi ta chưa
cầu nguyện cho đủ. Chưa thực sự khiêm nhừờng nhận biết sự thực về
mình. Chưa hoàn toàn phó thác vận mệnh trong tay Chúa. Chưa kiên trì
đủ. Và nhất là chưa tha thiết tới mức ta tích cực làm hết sức mình
cho nguyện ước đó. Hôm nay với bài học của Chúa, ta sẽ biết cầu
nguyện hơn. Khi biết cầu nguyện hơn, chắc chắn lời cầu nguyện của ta
sẽ đẹp lòng Chúa và đem lại nhiều lợi ích cho linh hồn ta hơn.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Kể ra những thái độ của bà góa mà ta cần noi theo khi cầu nguyện.
2. Đối với bạn Chúa là gì? Có phải là nguồn hi vọng duy nhất? Hay
chỉ là một chỗ cậy nhờ như những chỗ khác?
3. Bạn có phấn đấu làm việc cho ước nguyện của mình không? Hay bạn
chỉ ngồi chờ Thiên Chúa ban tặng?
4. Trong 4 thái độ cần có, bạn thiếu thái độ nào nhất?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Hc
35,12-14.16-18
- 2Tm
4,6-8.16-18
-
Lc 18, 9-14
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Hai người cùng lên đền thờ cầu nguyện. Nhưng kết quả thật bất ngờ.
Người mà ai cũng kính trọng thì lại không được nhận lời. Người mà ai
cũng khinh miệt thì lại được Chúa nhận lời và được công chính hoá.
Qua dụ ngôn này, Chúa cho thấy lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa phải là
lời cầu nguyện khiêm nhường.
Khiêm nhường không tự mãn. Người biệt
phái tự mãn vì những việc tốt mình làm được. Làm được việc tốt
thật đáng khen. Nhưng cần phải nhận biết nguồn gốc việc tốt của
mình. Biết nguồn gốc việc tốt phải khởi đi từ nhận biết nguồn gốc
bản thân mình. Tôi có mặt ở đời là ơn Chúa ban. Tôi thừa hưởng một
sức khoẻ, một gia đình, một nền giáo dục, một nề nếp đạo đức, đó
là ơn Chúa ban. Vì thế tôi làm được việc tốt cũng là ơn lành Chúa
ban. Nếu tôi rơi vào một hoàn cảnh xấu, tôi có làm được việc tốt
không? Rất khó. Vì thế đừng tự mãn khi làm được việc tốt.
Khiêm nhường không khinh người.
Người khiêm nhường nhận biết thân phận mình sẽ không dám khinh người.
Tôi làm được việc tốt vì tôi có hoàn cảnh tốt. Người kia làm việc
xấu vì họ không có hoàn cảnh tốt như tôi. Vì thế không nên khinh
người. Hơn nữa, trong tinh thần bác ái huynh đệ, thấy người hèn kém
tôi càng phải yêu thương, nâng đỡ. Thấy người tội lỗi yếu đuối tôi
càng phải tế nhị kính trọng. Chúa Giêsu vẫn làm gương trân trọng
người tội lỗi như đối với người phụ nữ ngoại tình, đối với Giakêu
và cả đối với Giuđa nữa.
Khiêm nhường nhận biết thân phận tội lỗi.
Con người đâu có ai hoàn hảo. Huống hồ có những nết xấu đeo đẳng ta
mãi không thể dứt ra được. Ta đã ngã đi ngã lại nhiều lần. Biết bao
quyết tâm. Biết bao ơn Chúa. Biết bao lời cầu nguyện. Nhưng “một cái
dằm” cứ nằm mãi trong thịt khiến ta đau nhức khôn nguôi. Ta không thể
nào thoát khỏi tội lỗi. Vì thế tâm tình xứng hợp là khiêm nhường
nhận biết thân phận tội lỗi của mình. Khiêm nhường nhận trước mặt
Chúa. Khiêm nhường nhận trước mặt anh em. Đó là thái độ trung thực và
đúng đắn.
Khiêm nhường xin Chúa ban ơn cứu độ.
Vì không thể tự mình thoát khỏi tội lỗi, không thể đạt tới ơn cứu
độ, nên ta cần ơn Chúa. Không thể tự giải thoát, nên ta cần Chúa giải
thoát ta khỏi ách nô lệ tội lỗi. Thân phận ta thật khốn cùng. Sức
lực ta thật yếu đuối. Nên lời cầu nguyện đúng nhất là: “Lạy Chúa, xin thương xót con”. Tương truyền đó là lời cầu
nguyện liên lỉ suốt đời của thánh Phêrô, vị Tông đồ
trưởng, vị Giáo hoàng tiên khởi.
Với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin
thương xót con” ta nhận biết mình không thể sống công chính tự sức
riêng, nhưng chỉ được “công chính hoá” nhờ ơn Chúa. Với lời cầu
nguyện: “Lạy Chúa, xin thương xót con”,
ta nhận biết ta được ơn Chúa không phải vì ta xứng đáng nhưng vì được
Chúa thương yêu. Với lời cầu nguyện: “Lạy
Chúa, xin thương xót con” ta nhận biết rằng lời cầu nguyện khiêm
nhường là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa.
“Lạy Chúa, xin thương xót con”.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Tôi có hay tự mãn vì mình sống tốt hơn người khác không? Thái độ
này có đúng không?
2. Tôi có hay khinh miệt, lên án người khác không? Thái độ này có đúng
không?
3. Tại sao tôi phải khiêm nhường khi cầu nguyện?
4. Tôi có một nết xấu thường phạm. Tôi đã xưng tội nhiều lần và
quyết tâm chừa cải. Nhưng chứng nào tật ấy. Bạn có cảm nghiệm được
điều này nơi bản thân không?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Kn 11,22 –
12,2
- 2Tx 1,11 –
2,2
-
Lc 19, 1-10
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Mỗi khi đọc câu chuyện ông Giakêu, tôi ngỡ ngàng trước ánh mắt của
Chúa Giêsu khi Ngài nhìn lên ông Giakêu trên cây sung.
Ánh mắt ấy có sức
mạnh kỳ lạ.
Ánh mắt ấy chất
chứa bao tâm tình. Chỉ trong một ánh mắt cuộc đời Giakêu hoàn toàn
biến đổi.
Đó là ánh mắt quan tâm. Chúa Giêsu
vào thành Giêricô. Giêricô
là một thành phố rộng lớn, người đông đúc, buôn bán sầm uất. Một
đám đông lớn đi theo Chúa Giêsu. Trong khi đó ông Giakêu thật bé nhỏ. Nên
ông phải leo lên cây sung để nhìn Chúa. Thật lạ lùng. Giữa đám đông
mênh mông ấy, Chúa vẫn nhìn thấy ông Giakêu, dù ông thấp lùn. Giữa muôn
người, Chúa chỉ tìm Giakêu. Lại còn biết rõ tên ông. Điều đó chứng
tỏ Chúa quan tâm tới Giakêu, dù ông bé nhỏ trong một đám đông hỗn độn.
Giakêu chắc chắn cảm thấy ấm lòng vì ánh mắt quan tâm của Chúa.
Đó là ánh mắt khiêm nhường.
Hãy tưởng tượng cảnh Chúa ngước lên nhìn Giakêu. Chúa nhìn lên. Giakêu
nhìn xuống. Thật là một cảnh tượng phi thường. Người có tầm vóc cao
lớn phải ngước nhìn lên mới gặp ánh mắt người thấp bé. Thiên chúa
phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được phàm nhân. Đấng vô cùng thánh
thiện phải ngước mắt nhìn lên mới gặp kẻ tội lỗi tầy trời. Tạo hoá
phải ngước mắt nhìn lên mới gặp được thụ tạo. Đấng Cứu Độ phải
ngước mắt nhìn lên mới gặp được kẻ cần được cứu. Đấng tha tội phải
ngước mắt nhìn lên mới gặp được kẻ cần được thứ tha. Thật là một
sự khiêm nhường thẳm sâu. Giakêu chắc chắn phải choáng váng vì ánh
mắt khiêm nhường của Chúa.
Đó là ánh mắt tha thứ. Nguyên một
việc quan tâm tìm kiếm cũng đã chứng tỏ Chúa tha thứ cho ông rồi.
Huống hồ Chúa còn khiêm tốn ngước nhìn lên. Hơn thế nữa Chúa còn ngỏ
lời muốn đến thăm nhà ông. Giakêu chưa tìm Chúa thì Chúa đã tìm
Giakêu. Gia kêu chưa gọi Chúa thì Chúa đã gọi Giakêu. Gia kêu chưa mời
thì Chúa đã ngỏ ý đến nhà. Gia kêu chưa xin lỗi thì Chúa đã tha thứ.
Ánh mắt tha thứ mới
khoan dung độ lương và ấm áp làm sao. Giakêu chắc chắn tràn đầy niềm
hối cải khi nhìn vào ánh mắt tha thứ của Chúa.
Đó là ánh mắt tin tưởng.
Chúa Giêsu nhìn Giakêu bằng ánh mắt tin tưởng. Tin tưởng nên không nhìn
về quá khứ mà chỉ hướng về tương lai. Chúa quên hết tội lỗi của ông.
Hơn thế nữa Chúa tin rằng ông sẽ nên người tốt. Chúa tin rằng ông sẽ
làm lại cuộc đời. Chúa tin vào tương lai của ông. Nên Chúa đã nhìn
ông. Nên Chúa tha thứ cho ông. Nên Chúa kết thân với ông. Trước ánh mắt
tin tưởng của Chúa, chắc chắn Giakêu sẽ cương quyết làm lại cuộc đời.
Đó là ánh mắt yêu thương.
Tất cả sẽ không thể giải thích được nếu không có tình yêu. Chúa quan
tâm tới Giakêu vì Chúa yêu thương ông. Như người mục tử tốt lành đi tìm
con chiên lạc. Chúa khiêm nhường vì Chúa yêu thương ông. Như người cha
cõng con trên vai. Chúa tha thứ vì Chúa yêu thương ông. Như người cha sẵn
sàng chờ đón đứa con hoang đàng. Chúa tin tưởng vì Chúa yêu thương ông.
Như người mẹ không khi nào nói rằng con mình xấu, dù nó phạm tội trăm
lần. Chúa nhìn ông bằng ánh mắt yêu thương. Ngập tràn trong yêu thương,
trái tim Giakêu bừng lên ngọn lửa yêu thương. Đời ông được đốt cháy
trong yêu thương. Nên ông đã đáp lại tình yêu thương của Chúa. Vì yêu
mến Chúa mà ông yêu thương đồng loại. Yêu thương nên đền bù thiệt hại.
Yêu thương nên chia sẻ chân thành.
Lạy Chúa, Chúa luôn nhìn con bằng ánh mắt yêu thương. Xin cho con biết
nhìn vào mắt Chúa, nhận ra tình yêu thương của Chúa và biến đổi cuộc
đời như ông Giakêu.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Chúa nhìn Giakêu bằng ánh mắt thế nào?
2. Giakêu đã đáp lại ánh mắt của Chúa ra sao?
3. Bạn có bao giờ nhìn thấy ánh mắt Chúa nhìn bạn chưa?
4. Bạn có muốn nhìn tha nhân bằng ánh mắt của Chúa không?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- 2Mcb 7,1-2.9-14
- 2Tx 2,16 – 3,5
-
Lc 20, 27-38
III.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Trong chương trình "Những điều bạn có thể chưa biết" của đài VTV3 tuần
rồi có tường thuật một trường hợp lạ lùng: Một phụ nữ bị nhồi máu
cơ tim. Chị tắt thở. Chị đã chết. Nhưng nhiều giờ sau, chị tỉnh lại.
Các bác sĩ hỏi chị đã thấy gì trong thời gian ấy. Chị trả lời: chị
thấy mình như bay bổng lên cao, và từ trên cao chị nhìn xuống thấy các
bác sĩ, các y tá đang chăm sóc cho mình, nhìn thấy thân xác mình nằm
bất động, nhìn thấy thuốc men, dụng cụ y tế. Chị cũng nhìn thấy một
chiếc giày tennis cũ màu xanh da trời, đế giày bị mòn ở mép trong
bàn chân, giây giày màu trắng, đầu một sợi dây thòng xuống dưới đáy
giày. Nghe lời tả rất chi tiết của chị, vị bác sĩ chuyên điều tra băn
khoăn để ý tìm kiếm. Một hôm vị bác sĩ đi qua toà nhà đối diện nhìn
sang bệnh viện, bà giật mình kinh hãi vì thấy ở tầng ba của bệnh
viện, trên một gờ xi măng rất cheo leo, có một chiếc giày tennis cũ ai
đã đặt ở đó tự hồi nào. Vị bác sĩ quan sát kỹ lưỡng và thấy
chiếc giày giống từng chi tiết với chiếc giày mà người chết kể lại:
chiếc giày vải cũ màu xanh, đế giày mòn ở mép trong, dây giày màu
trắng, đầu một dây thòng xuống nằm ở dưới đáy giày.
Đó là một trong 1370
trường hợp trở về từ cõi chết mà các bác sĩ Đức và Mỹ đã điều
tra. Theo những người có kinh nghiệm về cái chết này thuật lại thì:
Cuộc sống ở "cõi bên kia" hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này. Và sau
khi "chết đi sống lại", không ai còn sợ chết nữa, không ai muốn kiếm
tiền bạc, danh vọng, lạc thú gì nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là
sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người. Tất nhiên đây chưa phải
là bằng chứng chắc chắn về việc người chết sống lại. Nhưng nó rất
gần với mạc khải của Lời Chúa hôm nay. Và kinh nghiệm hiếm có của
họ rất có thể hữu ích cho ta. Kinh nghiệm của họ nói với ta hai
điều:
1. Có cuộc sống khác ở bên kia cái chết.
Kinh nghiệm của họ phù hợp với niềm tin dân gian, nhất là của người
Việt nam vẫn tin rằng: thác là thế phách, còn là tinh anh. Vì tin có
sự sống ở bên kia cái chết mà chúng ta mới thờ kính tổ tiên, cúng
quảy, giỗ chạp.
Niềm tin ấy phù hợp với
giáo lý của Chúa. Khi Môsê thấy Chúa hiện ra trong bụi gai cháy đỏ.
Ông hỏi Chúa là ai. Chúa trả lời: "Ta
là Thiên Chúa của Abraham, Isaác, Jacob". Vào thời của Môsê, Abraham
đã qua đời được 5, 6 trăm năm. Vậy mà Chúa vẫn tự giới thiệu là Thiên
Chúa Abraham, tức là Abraham vẫn sống, đang sống bên Chúa. Vì Thiên
Chúa là Thiên Chúa của người sống chứ không phải Thiên Chúa của kẻ
chết.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu
nhiều lần nhắc đến cuộc sống sau cái chết như dụ ngôn người giàu có
và Lazarô, trong dụ ngôn về ngày phán xét, dụ ngôn lúa đồng và cỏ
dại.
Theo thánh Phaolô, cuộc
sống đời sau mới là đích điểm mà mọi tạo vật nhắm tới. Trong thư
Rôma, Ngài viết: "Muôn loài thọ tạo
những ngong ngóng chờ ngày Thiên Chúa mạc khải vinh quang của con cái
Người. Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng
muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt phải chịu vậy. Thật vậy, chúng ta
biết rằng: cho đến nay, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại
như sắp sinh nở" (Rm 8, 19-23).
Chúng ta rên siết vì cuộc
sống hiện tại đầy khổ ải. Chúng ta mong chờ cuộc sống đích thực ở
mai sau. Đời sống này là thời kỳ thai nghén. Ta phải chịu đau đớn để
sinh vào đời sau.
2. Cuộc sống ở bên kia rất khác với cuộc sống hiện tại.
Khi Chúa Giêsu trả lời người Sadducêô, Chúa Giêsu đã mạc khải ba chân
lý.
Chân lý thứ nhất: Chỉ
những ai được
tuyển chọn mới được vào Nước
Chúa. Sự sống đời sau có đó. Nhưng không phải ai cũng vào được. Chỉ
có những người được xét là xứng đáng mới được vào. Trong Phúc Âm,
nhiều lần Chúa đã nói tới việc tuyển chọn này. Chúa sẽ loại chiên
ra khỏi dê, lúa tốt ra khỏi cỏ dại, cá tốt ra khỏi cá xấu. Tiêu
chuẩn để chọn lựa là Tám mối phúc, nhất là giới răn bác ái yêu
thương.
Chân lý thứ hai: Người ta
sẽ giống như
thiên thần. Đời sống trên trời
sẽ không có gì giống với đời sống dưới đất. Sẽ không còn đói khát
nên sẽ không cần ăn uống. Sẽ chẳng có lấy vợ lấy chồng, sẽ chẳng
cần sinh con để nối dõi vì người ta không bao giờ chết nữa. Nếu vậy,
trên trời ta có còn là ta nữa không hay ta trở thành một người khác,
một kiếp khác? Thưa, tuy có khác nhưng ta vẫn là ta. Đứa bé bụ bẫm
hôm nay chẳng có gì giống với cái bào thai ngọ nguậy trong bụng mẹ
hôm qua. Nhưng cả hai chỉ là một. Bà cụ 90 tuổi hôm nay chẳng còn gì
giống với cô thiếu nữ mà bà đã là cách nay 70 năm. Nhưng cả hai vẫn
là một. Chú bướm xinh đẹp nhởn nhơ bay lượn trên khóm hoa hôm nay chẳng
có gì giống với gã sâu xấu xí lê la trên đất hôm qua. Nhưng cả hai vẫn
chỉ là một.
Trên trời, ta sống một cuộc sống khác, không ăn uống, không lấy vợ lấy
chồng. Nhưng ta vẫn là ta. Có khác biệt nhưng vẫn có liên tục.
Chân lý thứ ba: Ta sẽ trở thành
con Thiên Chúa. Sống lại rồi,
ta như đứa con bấy lâu phiêu bạt xa quê nay được trở lại nhà cha mẹ. Tâm
hồn luôn bị dằn vặt vì niềm khao khát vô biên, nay mới được no thoả:
Thiên Chúa chính là hạnh phúc lấp đầy được vực thẳm khao khát vô biên
của ta. Là con Thiên Chúa, hạnh phúc lớn nhất của ta là được tham dự
vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi là
cội nguồn hạnh phúc, nên thánh Phaolô đã nói: "Những
đau khổ ta chịu bây giờ không thấm gì với so với hạnh phúc sau này ta
sẽ được. Và mọi tạo vật mong tới ngày được giải thoát, không phải
lệ thuộc vào cảnh hư nát, để được cùng con cái Thiên Chúa chung hưởng
tự do và vinh quang" (Rm 8, 22). Vì hạnh phúc ấy mà tám mẹ con
trong bài đọc thứ nhất đã cam chịu mọi khổ hình.
Lời Chúa hôm nay đem lại cho ta bao niềm hy vọng. Chúa cho ta biết, đời
ta sẽ không đi trong bất định, lạc vào hư vô, nhưng đời ta có một cùng
đích, đó là trở về với Thiên Chúa là cội nguồn của ta. Đời ta sẽ
không chìm đắm trong đau khổ, nhưng sẽ vươn lên hạnh phúc, hạnh phúc
làm con Thiên Chúa, hạnh phúc chia sẻ sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Đời ta như vậy sẽ không đi vào mạt kiếp lụi tàn, nhưng sẽ triển nở
trong vinh quang tự do. Đúng như lời thánh Phaolô nói: "Gieo
xuống thì hư nát, mà chỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ,
mà chỗi dậy thỉ vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì
mạnh mẽ; gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy là thân thể
có thần khí" (1Cr 15, 43-44).
Lạy Chúa, xin cho con biết sống ở đời này theo đúng lời Chúa dạy, để
mai sau con xứng đáng được trở nên con của Chúa.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Cái chết là một thành phần của đời sống. Bạn chuẩn bị và đón
nhận cái chết thế nào?
2. Con người sinh ra không phải để chết nhưng để sống. Bạn hiểu câu này
thế nào?
3. Đời sau ta sẽ sống với Chúa. Ngay từ bây giờ bạn phải làm già để
chuẩn bị cho cuộc sống với Chúa?
Chúa nhật 33 Thường Niên
CÙNG TẬN
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Ml 3,19-20a
- 2Tx 3,7-12
- Lc 21,5-19
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Càng sống lâu người ta càng cảm thấy cuộc đời thật vắn
vỏi. Vì thế nhiều người chủ trương yêu cuồng sống vội. Hưởng thụ tối đa. Nhà thơ
Cao bá Quát đồng quan điểm ấy trong bài Uống rượu tiêu sầu: Ba vạn sáu ngàn ngày
là mấy. Cảnh phù du trông thấy đã nực
cười. Thôi công đâu chuốc lấy sự đời. Tiêu khiển một vài chung lếu láo.
Trước cảnh đời mau chóng trôi qua, Lời Chúa hôm nay đưa ra
những hướng dẫn quan trọng để ta biết chuẩn bị sống tốt cho những khoảnh khắc
cùng tận.
1.Cùng tận của ta quan trọng hơn cùng tận của vũ trụ
Vũ trụ sẽ tiêu tan. Những công trình lớn lao như đền thờ
Giêrusalem cũng sẽ bị tàn phá. Không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Thế giới bị
ôn dịch hoành hành. Các nước nổi lên chống nhau. Chiến tranh tàn sát. Đến cả mặt
trời mặt trăng và các ngôi sao trên trời cũng rung chuyển.
Tuy nhiên Chúa cho biết tất cả những tai ương trên trần
gian mới chỉ là bản nhạc dạo mở đầu cho những tai ương khốn khó của chính bản
thân ta. Ta sẽ bị bắt bớ, giam cầm, tra tấn, hành hạ, xét xử. Ta sẽ cư xử thế
nào? Chối Chúa hay làm chứng cho Chúa? Gục ngã hay kiên vững? Và quan trọng nhất
là ta mất mạng hay giữ được mạng sống? Mạng sống ở đây không hiểu về đời này, mà
về đời sau. Không phải sự sống mau qua ở thế gian. Nhưng là sự sống vĩnh cửu
trên trời.
2.Toà án của Chúa quan trọng hơn toà án thế gian
Vũ trụ qua đi. Sẽ đến thời của Nước Chúa. Thế giới cũ tàn
lụi. Thế giới mới xuất hiện. Quyền lực thế gian qua đi. Sẽ tới quyền lực của
Thiên Chúa. Chúa cũng sẽ mở phiên toà xét xử mọi người và mọi việc ở trần gian.
Như Thánh vị Đáp ca loan báo: “Vì Người
ngự đến xét xử trần gian, Người xét xử địa cầu theo đường công chính, xét xử
muôn dân theo lẽ công bình.” (Tv 97,9)
Bấy giờ công lý mới hoàn toàn tỏ hiện. Thiện ác mới hoàn
toàn tách bạch. Công tội mới hoàn toàn phân minh. Số phận mới thực sự vĩnh viễn.
Malachi đã tiên báo: “Này Ngày của Đức
Chúa đến, đốt cháy như hoả lò. Mọi kẻ kiêu ngạo và mọi kẻ làm điều gian ác sẽ
như rơm như rạ. Ngày ấy sẽ thiêu rụi chúng…Nhưng đối với các ngươi là những kẻ
kính sợ Danh Ta, mặt trời công chính sẽ mọc lên.”
Toà án của Chúa quan trọng hơn. Vì toà án thế gian chỉ xét
xử ở đời này. Toà án của Chúa xét xử ở đời sau. Công lý của toà án thế gian là
tương đối. Công lý của toà án của Chúa là tuyệt đối. Phán quyết của toà án trần
gian chỉ ảnh hưởng trong thời gian. Phán quyết của toà án của Chúa là vĩnh viễn.
Vì thế ta không sợ toà án thế gian. Chỉ cần chuẩn bị ra
trước toà án của Chúa. Đó là phải kính sợ Danh Thánh Chúa. Phải sống công chính
trước mặt Chúa.
3.Cùng tận khởi đầu quan trọng hơn cùng tận chấm dứt
Như vậy thế giới này sẽ qua đi. Nhưng sự qua đi của thế
giới sẽ là gì với bản thân ta. Nếu ta sống không công chính, ta sẽ như rơm rạ.
Và ngày của Chúa đến như lò lửa. Ta sẽ vô cùng kinh hãi. Vì lửa là cùng tận của
rơm. Chúa là cùng tận của gian ác. Cùng tận của thế giới cũng chấm dứt đời ta.
Nhưng nếu ta sống noi gương thánh Phaolô. Sống công chính
trước mặt Chúa. Chăm chỉ làm việc. Và giúp đỡ tha nhân. Thì ngày Chúa đến ta sẽ
được như mặt trời. Sẽ tồn tại. Sẽ được ban thưởng. Sẽ được vào Nước Chúa. Sẽ là
một khởi đầu mới trong hạnh phúc vô biên. Trong cuộc sống vĩnh cửu.
Sống công chính, khi tất cả những biến cố kinh hoàng ấy
xảy đến, ta không sợ hãi. Trái lại ta “đứng
thẳng và ngẩng cao đầu lên. Vì sắp được ơn cứu độ”.
Ta sẽ vui mừng ra đón Chúa: “Đàn
lên mừng Chúa khúc hạc cầm dìu dặt, nương khúc hạnc cầm réo rắt giọng ca. Kèn
thổi vang xen tiếng tù và, tung hô mừng Chúa, vị Quân Vương”. Vì Chúa đến
cứu độ ta. Ban thưởng cho ta. Khai mạc cuộc sống mới hạnh phúc trong Nước Chúa.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1.Thế giới sẽ tiêu tan. Bạn sẽ sống thế nào với chân lý
ấy?
2.Toà án người đời và toà án của Chúa. Bạn thấy toà án nào
quan trọng hơn?
3.Khi Chúa đến bạn sẽ thế nào? Sợ hãi hay vui mừng? Tại
sao?
Chúa nhật 34
Thường Niên
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- 2Sm 5,1-3
- Cl 1,12-20
-
Lc 23, 35-43
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Nghe bài Tin Mừng hôm nay, có lẽ nhiều người thắc mắc: Giáo hội có
nhầm không? Ngày lễ Chúa làm Vua mà lại đọc bài tường thuật cái
chết tủi nhục của Chúa. Thật khó hiểu.
Ta không hiểu, vì trí ta luôn vẽ ra hình ảnh một ông Vua theo kiểu trần
gian. Trong khi Chúa Giêsu đã cho biết: “Nước
tôi không thuộc trần gian này” (Ga 18,36). Bài Tin Mừng hôm nay cho ta
thấy 3 tính cách của Vương quốc Đức Kitô.
Đó là Vương quốc của lòng hiếu thảo.
Thiên chúa muốn thiết lập Vương quốc này ngay từ buổi sơ khai. Nhưng ma
quỉ phá hoại bằng cách xúi giục con người chống lại Thiên chúa. Chúa
Giêsu xuống thế để tái lập mối liên hệ Cha – Con giữa Thiên chúa với
loài người. Người đã sống như một người Con Hiếu Thảo của Đức Chúa
Cha. Sống kết hiệp với Đức Chúa Cha. Trong Phúc âm, lời đầu tiên Người
nói là nói về Đức Chúa Cha: “Cha mẹ
không biết con phải lo việc của Cha con ư?” (Lc 2,49). Lời cuối cùng
của Người cũng hướng về Đức Chúa Cha: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Trọn
cuộc đời Người luôn thi hành thánh ý Cha, cho dù có những lúc phải
đổ mồ hôi máu mới bỏ được ý riêng mình. Người đã sống đến cùng tâm
tình của người con hiếu thảo. Trên thập giá, Người đã hoàn tất việc
thiết lập Vương quốc ban đầu theo ý định của Thiên chúa: qui tụ những
người con hiếu thảo trong nhà Cha trên trời.
Đó là Vương quốc của sự tự do.
Con người rời xa Thiên chúa rơi vào vòng tay ma quỉ. Ma quỉ trói buộc
con người bằng những sợi dây nô lệ: nô lệ cho danh vọng, nô lệ cho tiền
bạc, nô lệ cho thú tính. Chúa
Giêsu
xuống trần để giải thoát con người khỏi ách nô lệ ma quỉ. Người cứu
con người khỏi mọi thứ sợ hãi. Người giải phóng ta khỏi mọi áp lực,
mọi mặc cảm. Trọn đời Người nêu gương một đời sống tự do. Thoát khỏi
sự ràng buộc của của cải vật chất, Người sống như một người nghèo:
“Con chim có tổ, con chồn có hang,
nhưng Con Người không có hòn đá gối đầu” (Mt 8,20). Người đã chống
lại những cơn cám dỗ về quyền lực từ ngày đầu tiên trong sa mạc cho
đến phút cuối đời trên thập giá: “Nếu
Ông
là Con Thiên Chúa, hãy biến đá thành bánh mà ăn”
(Mt 4,3). “Nếu
Ông
là Đấng Kitô, hãy xuống khỏi thập giá, chúng tôi sẽ tin”. Rất tự do,
Người đã đi vào cái chết. Chính khi bị treo trên thập giá, thân trần
trụi, mất hết mọi uy tín, danh dự, Người đã phá tung hết mọi thứ
xiềng xích nô lệ, khai mạc một triều đại tự do cho con người.
Đó là Vương quốc của tình yêu.
Chúa Giêsu xuống trần để làm chứng về tình yêu. Rao giảng, thi ân, tha
thứ. Tình yêu lên đến cực điểm trong những giây phút cuối đời khi
Người quì xuống rửa chân cho môn đệ, khi Người chữa lành tai cho kẻ
đến bắt Người, khi Người tha thứ cho kẻ phản bội, và nhất là khi
Người cầu xin Đức Chúa Cha tha thứ cho những kẻ giết Người. Thật là
một tình yêu nguyên tuyền không hề vương chút hận thù. Một tình yêu bao
la lan tới mọi góc biển chân trời. Một tình yêu cao cả đáp lại hận
thù. Thánh giá diễn tả tình yêu Chúa Giêsu dành cho Đức Chúa Cha.
Thánh giá diễn tả tình yêu Chúa Giêsu dành cho nhân loại. Thánh giá
diễn tả tình yêu tha thứ Chúa Giêsu dành cho những kẻ thù ghét Người.
Cái chết trên thập giá là một cuộc chiến thắng. Chiến thắng của tâm
tình hiếu thảo. Chiến thắng của sự tự do nội tâm. Chiến thắng của
tình yêu. Chính trên cây thập giá, Chúa Giêsu đã lên ngôi vua. Chính khi
hứa cho người trộm lành vào thiên đàng, Chúa Giêsu đã khai mạc vương
quốc của Người.
Vương quốc Chúa
Kitô
đã rộng mở chào đón tất cả mọi người. Chúng ta hãy mặc lấy tâm
tình của người con hiếu thảo hoàn toàn vâng phục thánh ý Đức Chúa
Cha, hãy sống tự do, dứt bỏ mọi ràng buộc của danh, lợi, thú, hãy
mở rộng trái tim yêu thương. Như thế ta mới xứng đáng trở thành công
dân trong Nước Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Vua của tâm hồn con, xin nhận con vào Vương quốc của
Người.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Đã bao giờ bạn cảm nghiệm được sự tự do hoàn toàn, không còn ham
hố tiền tài, danh vọng, lạc thú chưa?
Nếu có, bạn cảm thấy thế nào?
2- Hình ảnh về Vua Giêsu nghèo hèn, khiêm nhường, chịu thiệt thòi, luôn
tha thứ gợi lên trong bạn tâm tình nào?
3- Tuần này bạn sẽ làm gì để Vương quốc Chúa Giêsu lan rộng tới
những người chung quanh?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Ds 6,22-27
- Gl 4,4-7
-
Lc 2, 16-21
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Hôm nay các mục đồng vào hang đá và nhận thấy một hài nhi sơ sinh nằm
trong máng cỏ. Hài nhi Giêsu chào đời khai sinh một thế giới mới. Đức
Mẹ đã sinh ra một con người mới.
Đức Mẹ sinh ra một thế giới mới để sửa chữa thế giới cũ do Evà sinh
ra. Thế giới cũ của bà Evà là một thế giới đổ vỡ. Từ chỗ bất tuân
lệnh Thiên chúa, thế giới đã đi đến chỗ bất hoà với nhau: ông Adong
đổ lỗi cho bà Evà, bà Evà đổ lỗi cho con rắn. Không những bất hoà
với nhau mà còn bất hoà cả với súc vật, cỏ cây, ruộng đất. Và từ
chỗ bất hoà đi đến bất hạnh: Anh em Cain và Aben giết lẫn nhau. Con
người phân tán, chia rẽ. Thế giới đổ vỡ này phát sinh từ lòng kiêu
ngạo và thói ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình.
Thế giới mới mà Đức Mẹ sinh ra là một
thế giới vâng phục Thiên chúa. Chúa Giêsu hoàn toàn vâng phục
thánh ý Chúa Cha nên đã sinh xuống thế làm người và từ bỏ ý riêng,
sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết
trên thập giá. Đức Mẹ vâng phục thánh ý Thiên chúa khi thưa “Xin
vâng” với thiên thần. Thánh Giuse vâng phục Thiên chúa nên trở về
nhận Đức Mẹ làm bạn. Các mục đồng vâng theo lời thiên thần đến hang
Bêlem tìm Chúa. Ba Vua vâng phục theo ánh sáng ngôi sao đến thờ lạy
Chúa.
Thế giới mới mà Đức Mẹ sinh ra là một
thế giới hài hoà. Sự hài hoà không phải chỉ có giữa Chúa
Giêsu với Đức Mẹ và thánh Giuse. Cảnh Chúa Giêsu nằm giữa thiên nhiên,
trong hơi ấm của bầy chiên bò, với đoàn mục đồng và ba vua quây quần
chung quanh nói lên một thế giới chung sống hoà bình. Chúa sống hoà
hợp với trời đất, với con người và với thiên nhiên. Con người sống
hoà hợp với Chúa và với nhau.
Thế giới mới mà Đức Mẹ sinh ra là một
thế giới quên mình. Chúa Giêsu đã quên địa vị mình là Thiên
chúa để xuống ở với nhân loại. Chúa Giêsu đã quên mình là Đấng thánh
thiện để đến với người tội lỗi. Chúa đã quên mình là Thầy, là Cha,
nên đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ, các con cái của mình. Và
nhất là Chúa đã quên mình là vô tội đến nỗi sẵn lòng hiến thân chịu
chết cho loài người tội lỗi. Thánh Giuse và Đức Mẹ quên mình để đi
vào chương trình của Thiên chúa. Mục đồng quên mình, giữa đêm khuya
lạnh lẽo, bỏ giấc ngủ đến tìm Chúa. Ba Vua quên mình bỏ nhà cửa
tiện nghi, lên đường, chịu vất vả khó nhọc đến thờ lạy Chúa. Sự quên
mình, quan tâm lo lắng chăm sóc cho người khác đã khai sinh một thế
giới mới chan chứa tình yêu thương và ấm áp sự hoà thuận. Đó chính
là cảnh thái bình đáng mong ước.
Ngày đầu năm mới, Giáo hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên chúa, với
mong muốn thế giới luôn được sinh lại, được đổi mới. Chỉ khi sinh lại
trong Chúa và trong Đức Mẹ, thế giới mới thực sự có hoà bình.
Ngày đầu năm mới, Giáo hội mừng kính Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, với
mong muốn đặt thế giới vào tay Đức Mẹ để thế giới luôn được sinh
lại, được đổi mới. Chỉ khi sinh lại trong Chúa và trong Đức Mẹ, thế
giới mới thực sự có hòa bình.
Ngày đầu năm mới, Giáo hội cầu nguyện cho hòa bình thế giới, ước
mong con người hãy biết sống hài hòa với nhau trong vâng phục Thiên
Chúa, trong quên mình vì người khác để có một nền hòa bình thực sự
trường cửu. Vì hòa bình không chỉ là vắng bóng chiến tranh nhưng còn
là con người sống hài hòa trong tình tương thân tương ái.
Ngày đầu năm mới, Giáo hội cũng mời gọi tất cả mọi người chúng ta
hãy cùng với Đức Mẹ cưu mang và góp phần sinh hạ một thế giới mới.
Cưu mang chắc chắn phải nặng nhọc. Sinh hạ chắc chắn phải đớn đau.
Nhưng nếu mỗi người đều noi gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ, thánh Giuse, Ba
Vua, các mục đồng và cả súc vật trong háng đá Bêlem biết vâng phục
Thiên Chúa, biết sống hài hòa và quên mình thì mới mong kiến tạo
được một nền hòa bình viên mãn.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con trở
nên con người mới, góp phần cưu mang và sinh hạ một thế giới mới như
lòng Chúa mong ước. Amen.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Bạn có mơ ước một thế giới mới không? Thế giới đó phải bắt đầu
từ đâu trước? Từ chính bạn hay từ người khác?
2. Thế giới mới của Đức Mẹ có gì khác thế giới của bà Evà?
3. Đầu năm mới này, bạn dự tính làm gì để đổi mới thế giới chung
quanh bạn?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Cn 8,22-31
- Rm 5,1-5
-
Ga 16, 12-15
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Hôm nay chúng ta mừng mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi. Gọi là mầu nhiệm vì
đo là điều vượt quá trí hiểu của loài người. Tuy chúng ta không thể
hiểu thấu mầu nhiệm đó. Nhưng may thay qua Chúa Giêsu, chúng ta thấy
được biểu hiện của mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm
của tình yêu.
Đó là tình yêu hiệp thông. Ba
Ngôi Thiên Chúa liên kết với nhau trong tình yêu. Tình yêu đó khiến cho
Ba Ngôi trở nên một. Đây là điều Chúa Giêsu nhiều lần khẳng định: “Ta và Cha Ta là một”; “Xin
cho chúng nên một như Cha ở trong Con và như Con ở trong Cha” (Ga 17,
21). Nên một trong tư tưởng. Nên một trong hành động. Nên Chúa Giêsu luôn
làm theo thánh ý Chúa Cha: “Nếu anh
em giũ các điều răn của Thày, anh em sẽ ở lại trong tình thương của
Thày, như Thày đã giữ các điều răn của Cha Thày và ở lại trong tình
thương của Người” (Ga 15, 10). Và Đức Chúa Thánh Thần cũng không
làm gì ngoài ý muốn của Chúa Giêsu như Chúa Giêsu khẳng định trong
bài Tin mừng hôm nay: “Người sẽ tôn
vinh Thày, vì Người sẽ lấy những gì của Thày mà loan báo cho anh em”.
Sự hiệp thông trọn vẹn đến nỗi một Ngôi chính là biểu hiện của cả
Ba Ngôi như Chúa Giêsu cho biết: “Ai
thấy Thày là thấy Chúa Cha” (Ga 14, 9). Thật là một sự kết hiệp
trọn vẹn.
Đó là tình yêu dâng hiến.
Chúa Cha có gì thì ban cho Chúa Con tất cả. Như lời Chúa Giêsu nói
trong bài Tin mừng hôm nay: “Mọi sự
Chúa Cha có đều là của Thày”. Chúa Cha ban cho Chúa
Con cả chính bản thân mình nên Chúa Con là hình ảnh hoàn hảo của
Chúa Cha. Đến nỗi ai thấy Chúa Con là thấy Chúa Cha. (cf. Ga 14, 9).
Ngược lại, nhận được gì thì Chúa Con dâng lại cho Chúa Cha. Dâng cả
bản thân. Dâng cả
ý
muốn. Dâng cả mạng sống. Khi hấp hối trong vườn Giệtsimani, Chúa Giêsu
sợ hãi cái chết và muốn bỏ cuộc, nhưng Người vẫn can đảm chấp nhận
cái chết theo thánh ý Chúa Cha. Người đã tha thiết cầu nguyện: “Ábba, Cha ơi, Cha
làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con
muốn, mà làm điều Cha muốn” (Mc 14, 36). Quả
thật tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa là một tình yêu dâng hiến hoàn
toàn. Dâng hiến đến không còn giữ gì cho bản thân mình.
Đó là tình yêu tác sinh. Sự dâng hiến
không làm cho tình yêu nghèo nàn đi. Trái lại càng làm cho tình yêu
thêm sung mãn. Càng cho đi lại càng thêm phong phú. Càng nhận lãnh lại
càng thêm năng lực cho đi. Tình
yêu đó lan toả đển cả muôn loài muôn vật trong vũ trụ. Tình yêu tràn
trề sung mãn nơi Ba Ngôi Thiên Chúa tuôn đổ xuống muôn loài, làm cho muôn
loài được hiện hữu, được sống, được tham dự vào nguồn tình yêu vô
biên để được hạnh phúc vĩnh cửu.
Chúng ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là
tình yêu. Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết yêu thương.
Chúng ta chỉ được hạnh phúc khi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba
Ngôi. Nhưng tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa tình yêu của Chúa. Sự ghen
ghét hận thù làm cho khuôn mặt chúng ta lem luốc méo mó, không còn
giống khuôn mặt Thiên chúa.
Hôm nay ta hãy biết sống theo khuôn mẫu của Chúa Ba Ngôi. Biết sống
hiệp nhất với nhau. Biết dâng hiến bản thân mình, biết cho đi, biết
chia sẻ, biết sống chan hoà tình bác ái. Để thực hiện những điều
ấy, ta phải biết bỏ mình, bỏ sở thích riêng, bỏ của cải và nhất là
phải biết bỏ ý riêng, hoàn toàn sống theo thánh ý Thiên chúa. Khi
biết bỏ mình như thế, ta sẽ nên giống hình ảnh Thiên chúa. Khi hoàn
toàn quên mình để sống cho tình yêu ta sẽ được kết hiệp với tình yêu
của Thiên chúa. Đó chính là hạnh phúc thiên đàng. Đó chính là đích
điểm của đời chúng ta.
Lạy Ba Ngôi Thiên chúa, xin cho con ngày càng trở nên giống hình ảnh
của Chúa.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Về lý thuyết, Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thật khó hiểu. Nhưng
thực ra Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi rất cụ thể trong đời sống ta. Bạn
hiểu điều này thế nào?
2. Ta được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi. Ta phải sống thế
nào để là hình ảnh trung thực của Người?
3. Thiên Chúa Ba Ngôi là nguồn mạch hạnh phúc. Muốn được hạnh phúc ta
phải kết hiệp với nguồn mạch hạnh phúc này. Nhưng để kết hiệp với
Chúa Ba Ngôi, ta phải làm gì?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- St 14,18-20
- 1Cr 11,23-26
-
Lc 9, 11b-17
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Đức Hồng Y Helder Camara về ban phép Thêm sức cho trẻ em trong một xứ
đạo. Khi đến nơi, Ngài thấy cả xứ đạo đang quỳ gối lăn lộn trên đất,
đấm ngực khóc lóc than van như trong cơn đại hoạ. Đêm trước, trong khi
mọi người mê mải chuẩn bị đón Đức Hồng Y, kẻ trộm đã lẻn vào nhà
thờ ăn trộm những bình đựng Mình Thánh. Kẻ trộm đổ Mình Thánh Chúa
ra vườn, lấy đi những bình mà họ tưởng làm bằng vàng. Thật là một
sự phạm thánh ghê gớm.
Thế nhưng trong bài giảng hôm ấy, Đức Hồng Y đã làm mọi người kinh
ngạc khi Ngài nói: Tại sao hôm nay anh chị em mới than khóc. Hằng ngày
biết bao lần Chúa Giêsu bị nhục mạ, bị hành hạ, bị chà đạp, bị
giết chết trong những anh chị em nghèo khổ, vô gia cư, trong các trẻ em
không cha mẹ, không gia đình, sao chẳng thấy ai than khóc? Anh chị em
không biết sao, những anh chị em ấy chính là Chúa Giêsu, là Thân Mình
Chúa Giêsu, là Thánh Thể Chúa.
Nói như thế, Đức
Hồng Y
không có ý coi thường phép Mình
Thánh Chúa. Nhưng Ngài có ý nhắc cho ta
một khía cạnh thường hay bị lãng quên trong khi cử hành bí tích. Đó
là phải cử hành bí tích không chỉ trong nhà thờ mà còn phải cử
hành cả ngoài cuộc đời nữa.
Đọc bài Tin Mừng hôm nay, ta hãy lưu ý hai điểm:
1- Diễn tiến phép lạ hoá bánh ra nhiều giống hệt như diễn tiến 1
Thánh lễ. Nếu Thánh lễ gồm hai phần Phụng vụ Lời Chúa và Phụng vụ
Thánh Thể, thì trong bài tường thuật hôm nay, Chúa Giêsu cũng đã giảng
dạy dân chúng trước rồi mới ban bánh sau. Dân chúng được nuôi dưỡng
bằng Lời Chúa trước khi được nuôi dưỡng bằng bánh bánh đã được chúc
phúc. Đây quả là một Thánh lễ cử hành giữa đời thường. Một Thánh
lễ không có nhà thờ, chẳng có bàn thờ.
2- Cử chỉ và lời nói của Chúa Giêsu khi hoá bánh ra nhiều, khi lập
phép Mình
Thánh Chúa
và khi dùng bữa với các môn đệ làng Emmau giống y như nhau. Cả 3 đoạn
văn trên đều tả Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, rồi trao cho các môn
đệ.
Tại sao có sự trùng hợp thế? Thưa vì Chúa Giêsu muốn cho ta hiểu
rằng: Bí tích không chỉ là một nghi lễ, nhưng là một sự thực. Sự
thực ấy phải đâm rễ sâu nơi cuộc đời, phản chiếu đời sống và đem lại
lợi ích cho đời sống.
Nếu trong Thánh lễ Chúa Giêsu ban phát lương thực nuôi linh hồn, thì
ngoài cuộc đời, Người đã ban phát lương thực nuôi thân xác.
Nếu Thánh lễ là một bữa tiệc huynh đệ, thì trong sa mạc hôm nay, Chúa
Giêsu cũng đã tổ chức một bữa tiệc long trọng, mỗi bàn ăn gồm 50
người để họ chia sẻ với nhau không chỉ cơm bánh mà còn tâm tư tình
cảm nữa.
Nếu trong Thánh lễ, Chúa Giêsu dâng mình cho Đức Chúa Cha dưới hình
bánh rượu, thì ngoài cuộc đời, Chúa Giêsu đã tự hiến mình trên thánh
giá.
Nếu trong Thánh lễ, Chúa Giêsu dưới hình bánh bị bẻ ra để phân phát,
thì ngoài cuộc đời, thân xác Người cũng đã bị bẻ ra trong những sỉ
nhục, đòn vọt, đóng đinh.
Quả thật Chúa Giêsu đã dâng Thánh lễ không chỉ trong nhà thờ, mà
Người còn dâng Thánh lễ ngoài cuộc đời. Người không chỉ dâng một lễ
vật nào đó, nhưng đã dâng chính bản thân mình. Người không chỉ cử
hành một bí tích, nhưng chính bản thân Người đã trở thành bí tích.
Người không chỉ bẻ một tấm bánh mà còn bẻ chính thân mình ra để ban
phát cho mọi người. Chính vì thế mà lễ dâng của Người có giá trị.
Thái độ của Chúa Giêsu khiến ta phải suy nghĩ.
Làm sao ta có thể gọi Thánh lễ là một bữa tiệc huynh đệ nếu ta vẫn
còn giữ trong lòng những thù hận ghen ghét? Làm sao ta có thể đi dự
tiệc Thánh lễ nếu chung quanh ta còn biết bao anh em đói khổ, thiếu
thốn? Làm sao ta có thể dâng Thánh lễ nếu trong cuộc đời ta không hiến
mình cho anh em?
Khi truyền lệnh: “Các con hãy làm
việc này mà nhớ đến Thày”, Chúa Giê-su không chỉ truyền cho ta cử
hành Thánh lễ trong nhà thờ. Người còn muốn cho ta dâng Thánh lễ cả
ngoài cuộc đời. Nghĩa là phải chia sẻ, chịu mọi đau khổ, biết khiêm
nhường nhịn nhục, biết sống đoàn kết yêu thương, biết hiến mình cho
anh em.
Việc cử hành Thánh lễ ngoài cuộc đời cũng quan trọng như việc cử
hành Thánh lễ trong nhà thờ. Hơn nữa, nếu thiếu việc cử hành ngoài
cuộc đời, những nghi lễ trong nhà thờ sẽ trở thành bùa chú, giả dối
và phản chứng.
Xin cho bí tích Thánh thể trở thành một sự thực trong đời sống. Xin
cho chúng ta biết tôn
kính
Chúa Giêsu không phải chỉ trong hình bánh mà còn nơi những anh em bé
mọn trong cuộc đời. Xin cho chính đời sống ta trở thành một bí tích,
chịu bẻ ra để đem lại lợi ích cho anh em.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Theo bạn, thế nào là tích cực tham dự Thánh lễ?
2- Rước lễ đem lại những ơn ích nào cho đời sống thiêng liêng của bạn?
3- Bạn đã dâng Thánh lễ trong cuộc đời chưa?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Ez 34,11-16
- Rm 5,5b-11
-
Lc 15, 3-7
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Dụ ngôn “Con chiên lạc” nằm trong chương 15 của Tin mừng Luca. Chương này
gồm một loạt 3 dụ ngôn: Con chiên lạc, Đồng tiền đánh mất và Người
Cha nhân hậu. Đây có thể được coi là những trang đẹp nhất của Tin
mừng. Đây là Tin mừng của Tin mừng, tóm tắt toàn bộ Tin mừng Luca. Tin
mừng đó là: Thiên chúa giàu lòng thương xót. Những bài đọc hôm nay hé
mở cho ta mấy nét về lòng thương xót vô biên đó.
Lòng thương xót vô biên của Chúa được biểu lộ qua sự
tha thứ.
Tình yêu đích thực không được đo bằng đam mê. Đam mê mau qua như một cơn
bão lốc. Bão lốc qua đi chỉ để lại đổ vỡ điêu tàn. Tình yêu đích
thực không được đo bằng hi sinh tận cùng. Người ta có thể hi sinh cả
mạng sống vì của cải, danh vọng. Hi sinh như thế có thể chỉ vì bản
thân mình chứ không vì người khác.
Tình yêu đích thực được đo
bằng sự tha thứ. Chỉ yêu thực lòng, yêu tha thiết mới có thể tha thứ.
Khi yêu, người ta dám cho đi tất cả. Nhưng ít có ai dám cho đi sự tha
thứ. Chính tha thứ mở cho ta cánh cửa dẫn vào thâm cung nhiệm mầu của
tình yêu.
Tha thứ là đặc tính của tình yêu Thiên chúa. Lịch sử dân Chúa là
lịch sử của những tha thứ. Con người luôn luôn lỗi phạm và Chúa luôn
luôn tha thứ. Người con bỏ nhà ra đi, phung phí hết tiền bạc của Cha.
Nhưng người Cha vẫn yêu thương chờ đợi, tha thứ hết khi nó trở về. Con
chiên lạc bỏ đàn mà đi. Nó chưa nghĩ đến quay về thì người chăn chiên
tốt lành đã đi tìm. Tìm được rồi ông cõng nó trên vai mang về.
Sự tha thứ của Thiên Chúa đối với con người, nhất là với người tội
lỗi thực là vô biên. Sự tha thứ ấy minh chứng tình yêu của Thiên chúa
đối với con người lớn lao biết chừng nào.
Lòng thương xót vô biên của Thiên chúa biểu lộ qua sự
đi tìm.
Thiên chúa sẵn sàng tha thứ, nhưng Người không chỉ ngồi đó chờ kẻ có
tội trở về xin lỗi rồi mới tha thứ. Không, chính Thiên chúa chủ động,
có sáng kiến đi tìm con người. Đó là nét độc đáo trong tình yêu
thương tha thứ của Thiên chúa. Chính Chúa đi tìm Phaolô khi ông đang trên
đường lầm lạc, có sáng kiến làm ông ngã ngựa để đưa ông trở lại với
Người. Chúa chính là người chăn chiên đi tìm con chiên lạc. Là người
phụ nữ quét nhà tìm đồng bạc đánh rơi. Là người cha ngày ngày ra
ngõ tìm đứa con bỏ nhà đi hoang.
Cuộc đi tìm không phải dễ dàng. Người chăn chiên phải băng đồi vượt
nương, luồn lách qua gai góc, dẫm đạp sỏi đá, chịu đựng nắng mưa, bất
chấp thú dữ rình rập. Đi tìm là yêu thương. Còn hơn thế, đi tìm là
tha thứ. Quả thật Chúa đã yêu
thương ta trước khi ta yêu thương Người. người đã yêu ta từ khi ta còn
chưa biết Người. Người đã tha thứ cho ta trước khi ta kịp xin lỗi
Người. Người đi tìm ta trước khi ta trở về với Người.
Lòng thương xót vô biên của
Thiên chúa biểu lộ qua sự
quan tâm tới từng người dù rất bé nhỏ.
Trong đời sống xã hội, những người bé nhỏ nghèo hèn thường bị bỏ
quên: sống cô đơn, chết cô độc, chìm vào quên lãng. Nhưng trong trái tim
Thiên chúa, mỗi người đều chiếm một vị trí quan trọng. Mỗi người đều
là duy nhất độc đáo, không thể thay thế được đối với Thiên chúa. Càng
nhỏ bé nghèo hèn càng chiếm vị trí quan trọng trong tình yêu Thiên
chúa. Một con chiên lạc có là gì so với 99 con còn lại. Giữ 99 con
còn lại vừa nhàn hạ lại vừa có lợi. Đi tìm 1 con chiên lạc vừa mệt
nhọc lại vừa thiệt thòi. Nhưng trong tình yêu làm gì có tính toán
thiệt hơn. Một con chiên nhỏ bé lạc loài đã chiếm hết trái tim của
người mục tử nhân từ. Bao lâu chưa tìm được con chiên nhỏ bé, gầy gò,
lạc lõng ấy, lòng người mục tử vẫn còn khắc khoải lo âu.
Thực vô biên lòng thương xót của Thiên chúa. Lòng thương xót ấy lớn hơn
cả trái tim ta. Ơn lành của Thiên chúa lớn hơn cả tội lỗi của ta. Sự
tha thứ của Thiên chúa lớn hơn cả trí tưởng tượng của ta. Ta vui mừng
cảm tạ tình yêu thương vô biên của Chúa. Ta an tâm vì được Chúa quan tâm
yêu thương chăm sóc. Ta hãy luôn sống trong trái tim Chúa nhân lành. Ta
hãy học tập với trái tim Chúa để biết nên giống Chúa có trái tim yêu
thương đối với mọi người.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành vàkhiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con
nên giống Trái Tim Chúa.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Yêu thương đồng nghĩa với tha thứ. Bạn có dễ tha thứ không?
2. Trong xã hội mới, những người nghèo càng nghèo hơn. Những người
khổ càng khổ hơn. Ta phải làm gì để chia sẻ với những anh chị em đó?
3. Trái Tim Chúa là nền tảng của nền văn minh tình thương. Bạn làm gì
để kiến tạo nền văn minh tình thương ở nơi bạn sinh sống?
4. Hãy kể ra mấy nét chính của lòng thương xót của Chúa.
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 12,1-11
- 2Tm 4,6-8.16b.17-18
-
Mt 16, 13-19
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Nhìn vào đời sống tự nhiên, ta thấy hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô
có nhiều dị biệt.
Thánh Phêrô có thân thể to lớn vạm vỡ trong khi Thánh Phaolô là một
người bé nhỏ, gân guốc. Thánh Phêrô là một ngư phủ quen làm việc trên
biển. Thánh Phaolô là một nhà trí thức quen làm việc với sách vở.
Thánh Phêrô thuộc tầng lớp bình dân. Thánh Phaolô thuộc tầng lớp biệt
phái. Thánh Phêrô là một trong những Tông đồ đầu tiên trong khi Thánh
Phaolô là Tông đồ cuối cùng được Chúa kêu gọi.
Nhưng hành trình tâm linh của các ngài có nhiều điểm tương đồng.
Các Ngài đều trải qua
kinh nghiệm tội lỗi. Thánh
Phêrô là con người tự tin. Trong nhóm 12, Ngài là người mạnh dạn phát
biểu trước mỗi câu hỏi mà Chúa Giêsu đặt ra. Ngài tin tưởng vào khả
năng, vào đức tin, vào sự trung tín của mình. Ngài mạnh dạn nói với
Chúa: “Dù mọi người có bỏ Thầy, con
quyết liều mạng vì Thầy”. Để huấn luyện Ngài, Chúa đã để Ngài
trải qua nhiều thất bại: suốt đêm đánh cá mà không được gì; đang đi
trên mặt nước thì bị chìm xuống; nhưng thất bai ê chề đau đớn nhất là
Ngài đã hèn nhát chối Thầy trước mặt một người thị nữ tầm thường.
Qua thất bại đó, Ngài mới biết rõ con người thực của mình là yếu
hèn. Thất bại đã khiến Ngài thấy mình chẳng là gì, chẳng có gì
ngoài một vực thẳm hư vô. Thất bại đã giúp Ngài biết hạ mình khiêm
nhường thẳm sâu cho đúng với sự thực của mình.
Thánh Phaolô cũng trải qua một kinh nghiệm tương tự. Ngài rất tự hào,
tự tin vào dòng dõi, khả năng, vào đạo đức của mình. Ngài đã nói: “Nếu
ai có lý do để cậy vào xác thịt, thì tôi càng có lý do hơn: tôi la
người Pharisiêu nhiệt thành..., còn sống công chính theo Lề luật, thì
chẳng ai trách được tôi” (Phil 3,4-6). Nhưng trên đường đi Đamát, khi
Phaolô bị ngã từ trên lưng ngựa xuống đất thì niềm tự tin tự hào kia
cũng biến mất. Bị ngựa hất xuống đất Phaolô chợt nhận ra rằng niềm
tự hào của mình chỉ là què quặt. Bị ánh sáng từ trời chiếu loá
mắt, Phaolô chợt nhận ra rằng ánh sáng trí thức nơi mình chỉ là bóng
tối. Bị ngựa hất xuống đất, Phaolô mới hiểu rằng sức riêng của mình
cùng với những phương tiện trần gian chẳng đưa mình đi tới nơi. Bị mù
mắt Phaolô mới hiểu rằng không có ánh sáng của Chúa, chẳng có ai
nhìn ra chân lý. Ngài chỉ còn một con đường duy nhất là hạ mình
xuống đáy vực sâu yếu hèn để nhận biết sự hư vô của mình.
Các Ngài đều có
cảm nghiệm sâu xa về tình yêu Thiên chúa. Phêrô được sống
bên Chúa Giêsu trong 3 năm trời. Trong 3 năm đó, Ngài đã được Chúa yêu
thương, chăm sóc, dậy dỗ. Nhưng cảm nghiệm sâu xa về tình yêu của Chúa
chỉ đến với Ngài khi Ngài phạm tội. Sau khi Ngài chối Chúa 3 lần, gà
liền gáy, và từ trong dinh Caipha, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn Phêrô (Lc
22,61). Suốt đời Phêrô sẽ không quên được ánh mắt ấy. Ánh mắt đau đớn
của một tình yêu bị phản bội. Ánh mắt trách móc sự vô tình. Nhưng
ánh mắt cũng mở ra một trời bao dung tha thứ. Ánh mắt ấy cho Phêrô
nhận thức được tội lỗi vô cùng nặng nề của mình, nhưng đồng thời
cũng bộc lộ cho Ngài tình yêu vô cùng lớn lao của Chúa. Cảm nghiệm
về tình yêu Thiên chúa đã giúp Ngài tin tưởng ăn năn trở về. Cảm
nghiệm về tình yêu Thiên chúa đã đưa Ngài tiến một bước rất dài trên
hành trình tâm linh. Từ nay Ngài mới thực sự gắn bó với Chúa, sẵn
sàng làm mọi sự, kể cả chịu chết vì Danh Thầy Chí thánh.
Còn Thánh Phaolô, tuy Ngài không nói ra, nhưng ta biết chắc Ngài đã
được tiếp xúc thân mật với Chúa Kitô phục sinh, được Chúa Kitô trực
tiếp dạy dỗ, đã được đưa lên tầng trời thứ 3. Chắc chắn Ngài đã cảm
nghiệm được tình yêu vô biên của Thiên chúa nên Ngài luôn kết hợp mật
thiết với Đức Kitô đến độ Ngài không còn sống nữa mà “chính Đức Kitô
sống trong Ngài”.
Các Ngài bị nung đốt bởi cùng một ngọn lửa:
lửa nhiệt tâm truyền giáo.
Đời các Ngài là một hành trình truyền giáo không mệt mỏi. Các Ngài
ra đi, ra đi không ngừng để đem Tin Mừng đến tận cùng thế giới. Các
Ngài dùng mọi dịp, mọi hoàn cảnh để loan báo Chúa Kitô. Bị đe doạ,
bị đánh đòn, bị bắt bớ, bị hiểm nguy, các Ngài vẫn kiên trì, hiên
ngang, vui tươi rao giảng Lời Chúa. Ngọn lửa ấy thiêu đốt các Ngài
mãnh liệt đến độ Thánh Phaolô phải thốt lên: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Lửa nhiệt tâm
truyền giáo đã đưa các Ngài tới điểm tương đồng cuối cùng là dâng
hiến chính mạng sống làm chứng cho Đức Kitô.
Hành trình tâm linh của các Ngài cũng là hành trình mà mọi người
phải theo nếu muốn tiến bước trên đường thánh đức. Khởi điểm của
hành trình là nhận thức mình tội lỗi yếu hèn, cần ăn năn trở về,
cần được ơn cứu độ. Nhận thức sự hư vô của mình để bám chặt vào
Thiên chúa, phó thác cho Thiên chúa tất cả cuộc đời mình. Nhận thức
ấy đưa ta đến khiêm nhường sâu xa. Một toà nhà càng muốn xây cao, nền
móng càng phải chìm sâu, Một sự khiêm nhường càng sâu xa càng giúp ta
tiến xa trên con đường tìm Chúa và gặp Chúa. Một khi đã cảm nghiệm
được tình yêu của Thiên chúa trong đời mình, ta sẽ bị tình yêu Chúa
thiêu đốt. Ngọn lửa yêu mến ấy sẽ thúc bách ta hăng say làm việc tông
đồ.
Tạ ơn hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô đã mở cho ta con đường tìm đến
tình yêu Chúa và đến với anh em. Xin hai Thánh Tông đồ giúp chúng con
biết tiến bước theo các Ngài trên con đường theo Chúa.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Thánh Phêrô và thánh Phaolô có những gì giống nhau và khác nhau?
2. Hai vị đã lầm lỗi rồi đã trở lại và trở nên những vị lãnh đạo
giáo hội. Bạn nghĩ gì về điều này?
3. Cảm nghiệm được tình yêu của Chúa là điều quan trọng nhất đời.
Bạn có mong muốn được cảm nghiệm này không?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Kh 11,19a
; 12,1-6a.10ab
- 1Cr
15,20-27
-
Lc 1, 39-56
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Nếu có ai hỏi: Làm thế nào để tiến bộ trên đường đạo đức, thay đổi
nếp sống cũ, biết dấn thân mến Chúa yêu người hơn? Tôi xin thưa: điều
quan trọng nhất khởi đầu cho một nếp sống mới là: cảm nghiệm được
tình yêu Thiên Chúa trong đời mình. Khi đã nhận biết mình được Thiên
Chúa yêu thương, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là mong muốn đáp
lại tình yêu ấy.
Tình yêu kêu gọi tình yêu. Tình yêu đáp trả tình yêu. Chúa Thánh Thần,
nguồn tình yêu của Thiên Chúa, sẽ giúp ta nhận biết tình yêu Thiên
Chúa và soi sáng thúc giục ta đáp lại tình yêu ấy.
Sau khi Đức Mẹ ngoan ngoãn nói lên lời “xin vâng”, Chúa Thánh Thần
xuống tràn đầy tâm hồn Đức Mẹ. Đức Mẹ mở rộng tâm hồn đón nhận và
để mặc Người hướng dẫn cuộc đòi mình. Từ đây, cuộc đời Đức Mẹ hoàn
toàn biến đổi. Đức Mẹ trở nên một dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Chúa
Thánh Thần, hiến dâng trọn vẹn tâm hồn và thân xác để đáp lại tình
yêu vô biên của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những tác động của Chúa Thánh Thần trên
Đức Mẹ
Tác động thứ nhất:
sự vội vã. Vội vã đây không phải là sự vội vàng hấp
tấp. Cũng không phải là nôn nóng lo âu. Sự vội vã ở đây có nghĩa là
sự nhiệt tình hăng hái. Cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong tâm
hồn, Đức Mẹ mau mắn, tha thiết muốn đáp trả. Nếp sống của cô thôn nữ
Maria đã thay đổi. Từ một thôn nữ dịu dàng, sống êm đềm trong cuộc
đời bình dị, Đức Mẹ giờ đây trở nên linh hoạt, nhanh nhẹn, hăng hái
đền đáp lại Tình Chúa Yêu Thương. Từ một thôn nữ vui với công việc
nội trợ, khép mình trong làng xóm, Đức Mẹ đã mở cửa ra đi. Sự mở
cửa ra đi làm ta nhớ tới tác động của Chúa Thánh Thần trên các Tông
đồ.
Tác động thứ hai:
tâm tình tạ ơn. Cảm nghiệm được tình Chúa thương yêu,
lòng Đức Mẹ tràn đầy niềm cảm mến biết ơn. Niềm tri ân cảm tạ đầy
ứ trong lòng chỉ chờ dịp tuôn ra thành lời. Cảm nghiệm về ơn lành vô
biên của Thiên Chúa cũng là cảm nghiệm về sự thấp hèn bất xứng của
mình. Hai cảm nghiệm song song đó càng nâng cao, càng đào sâu niềm tri
ân cảm tạ. Cảm nghiệm ấy đã biến đổi Đức Mẹ, từ một cô gái kín
đáo, âm thầm trở nên một thi sĩ, một ca sĩ lớn tiếng ca tụng Tình Yêu
Thiên Chúa đối với kẻ nghèo hèn. Chúa Thánh Thần đã biến Đức Mẹ
thành ngòi bút thi sĩ như lời Thánh vịnh: Tim tôi dâng ý thơ tuyệt
diệu. Dệt bài ca cung tiến Đức Vua. Lưỡi tôi tựa bút rung vạn điệu.
Trong tay những thi nhân anh tài. Khi nghe bà Isave chào, Đức Mẹ đã ứng
khẩu tán tụng Chúa bằng bài
Kinh
Ca
Ngợi
tuyệt diệu.
Tác động thứ ba:
thái độ chia sẻ. Tình
yêu Thiên Chúa bao la đã đổ vào tâm hồn Đức Mẹ tràn đầy niềm vui.
Niềm vui thánh thiện và lớn lao đã thúc đẩy Đức Mẹ mau mắn lên đường
đi thăm bà Isave. Đức Mẹ không đến để khoe khoang, nhưng để chia sẻ. Nhờ
Đức Mẹ đến mà bà Isave và thánh Gioan Baotixita được chúc phúc. Đức
Mẹ cũng đến để chúc mừng bà chị họ đã được Chúa đoái thương. Tâm
hồn được Chúa chiếm hữu đã khiến Đức Mẹ trở nên quảng đại và hiệp
thông, sẵn sàng chia vui sẻ buồn với những người chung quanh.
Tác động thứ bốn:
dấn thân phục vụ. Niềm
tri ân cảm tạ, niềm vui thánh thiện thực sự sẽ không dừng lại ở
những bài ca trên môi miệng. Cảm nghiệm về Tình Yêu Thiên Chúa trong
trái tim sẽ mau chóng chuyển sang đôi tay. Niềm tri ân cảm tạ sâu xa sẽ
nhanh chóng biến thành hành động. Sự đền đáp tình yêu sẽ thúc đẩy
người được yêu dấn thân phục vụ trong những việc làm cụ thể. Chính
vì thế Đức Mẹ đã không
ngần ngại ở lại phục vụ bà chị họ trong ba tháng.
Mừng lễ Đức Mẹ lên Trời một cách có ý nghĩa nhất, đó là ta hãy noi
gương Đức Mẹ: xin Chúa Thánh Thần đến tràn ngập tâm hồn ta như Người
đã đến trong lòng Đức Mẹ, giúp ta cảm nghiệm được những ơn lành Chúa
ban và giúp ta mau mắn đáp lại tình yêu thương đó.
Xin Đức Mẹ giúp chúng con biết ngoan ngoãn vâng theo ơn Chúa Thánh Thần
soi sáng: để vội vã ra đi, để hân hoan tạ ơn, để quảng đại chia sẻ và
để dấn thân phục vụ anh em.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Bạn có cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa trong đời bạn không?
2. Sẵn sàng làm theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, bạn có mong muốn
điều này không?
3. Lên trời, dứt khỏi trần gian. Đây có phải là một bước nhảy vọt
không. Hay chỉ là tiếp nối của quá trình từ bỏ chính mình trên trần
gian?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Cv 1,12-14
- Gl 4,4-7
-
Lc 1,
26-38
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm tưởng rằng Đức
Mẹ đã sống một
đời bình an thư thái. Vì các nghệ nhân thường tạo ra những hình ảnh
về Đức Mẹ đẹp đẽ, hiền từ, dường như siêu thoát mọi cảnh khổ đau ở
trần gian. Khi ngợi ca Đức Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô nhiễm
nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được tạo dựng đặc biệt,
hoàn hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và mãi mãi là như
thế, không tiến, không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.
Nhưng nếu đọc Phúc
Âm kỹ lưỡng, ta sẽ
thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng phẳng, êm
xuôi, dễ dàng. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn nắn
Mẹ. Và vì thế đã để Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin
nhận và bước theo Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ nhất:
Thiên Chúa mời gọi Mẹ
bỏ chương trình riêng để sống theo chương trình của Thiên
Chúa. Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một làng quê
nhỏ bé. Cô muốn cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế. Nhưng
Thiên Chúa đã đến khuấy động đời cô. Khi đề nghị Maria làm Mẹ, Thiên
Chúa đã mở ra trước mặt cô một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng đầy gian
khổ chông gai. Maria đã ngoan ngoãn thưa “Xin vâng”. Lời thưa xin vâng của
Maria làm ta nhớ đến tổ phụ Abraham. Như Abraham đã từ bỏ quê hương, gia
đình, đi vào một tương lai bấp bênh theo tiếng Chúa mời gọi, Maria cũng
đã từ bỏ chương trình riêng trong nếp sống bình dị, để đi vào chương
trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn, hoàn toàn phó thác
vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ hai:
Thiên Chúa gửi đến cho Đức Maria nhiều
đau
khổ. Vì nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria phải gánh
chịu nhiều đau khổ.
Đau khổ thứ nhất là bị
Giuse nghi ngờ. Làm sao giải thích
cho Giuse hiểu. Làm sao tránh được búa rìu dư luận. Không những bị nghi
ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa. Thời ấy, những cô gái chửa
hoang sẽ bị ném đá cho đến chết. Nhưng vững tin vào Thiên Chúa, Đức
Maria đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện. Ngài chỉ biết
cúi đầu, thinh lặng vâng phục và phó thác.
Đau khổ thứ hai là Đức
Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu trong cảnh
cơ bần: không nhà cửa, không giường chiếu, không mùng mền. Thiếu
thốn mọi phương tiện. Chung số phận với súc vật.
Đau khổ thứ ba là bị vua
Hêrôđê tìm giết nên phải chạy
trốn
sang Ai cập. Con trẻ sơ sinh yếu ớt. Sản phụ chưa được nghỉ ngơi lại
sức đã phải đi lên đường trốn chạy. Tuy nhiên, nỗi cực nhọc phần xác
không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại sao lại mang lấy
thân phận tội đồ?
Tại
sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?
Đối diện với những đau đớn ấy, chắc chắn niềm tin của Đức Mẹ phải
lung lay, nghi hoặc: Con Thiên Chúa mà phải chịu nghèo khổ, khốn cùng
đến thế sao? Tuy có chao đảo, nhưng Đức Mẹ vẫn phó thác và tin tưởng
vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị
dứt lìa khỏi Chúa Giêsu. Niềm vui và hạnh phúc của người mẹ
là đứa con, nhất là con một. Con là tất cả của Mẹ. Con quý giá hơn
chính mạng sống của Mẹ. Tách con ra khỏi Mẹ khác nào lấy gươm đâm
vào tim Mẹ. Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức Maria rất sớm. Phúc Âm
ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ chối Đức Mẹ.
Lần thứ nhất: Khi Chúa
Giêsu lên 12 tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ. Tan lễ, Chúa Giêsu đã
tự tiện ở lại, để Thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày. Trong
ba ngày đó, Đức Mẹ đã trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực
nhọc. Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa Giêsu đã nói: “Cha mẹ tìm con làm gì. Cha mẹ không biết con phải lo việc cho
Cha con ư?”. Lời này khiến cho Đức Mẹ buồn phiền không ít vì thấy
đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.
Lần thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Đức Mẹ và mấy người bà con
đến tìm Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu không ra tiếp, lại còn nói những
lời như chối từ liên hệ huyết thống: “Kẻ
nghe lời Cha ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ
Ta”.
Những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu như thế chắc chắn khiến cho
Đức Mẹ buồn phiền. Nhưng những lời nói và thái độ ấy cũng giúp thanh
luyện Đức Mẹ khỏi những tình cảm riêng tư, những liên hệ sinh học tự
nhiên để bước vào tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập những
dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.
Cuộc thanh luyện cuối cùng: Đức Mẹ phải chứng kiến cái chết nhục nhã
của Chúa Giêsu trên
thập giá. Còn gì buồn hơn khi Mẹ mất con. Còn gì đau
đớn hơn khi Mẹ thấy con chết đau đớn, tủi nhục giữa tuổi thanh xuân. Ở
đây ta cũng nhớ lại tổ phụ Abraham. Để thử thách ông, Thiên Chúa đã
truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy nhất. Đức Mẹ cũng được
mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình. Đau đớn hơn tổ phụ Abraham
vì Đức Mẹ
phải chứng kiến hy lễ đó hoàn tất. Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ
Chúa Giêsu, Đức Mẹ
vẫn ở lại dưới chân cây thập giá,
đau nỗi đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu. Và khi Chúa
Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức Mẹ
như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất. Đứng
dưới chân thánh giá, Đức Mẹ trở nên một người nghèo nhất. Mẹ chẳng
còn gì cho riêng mình. Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu, Mẹ chỉ
còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.
Như vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Mẹ từ bỏ chương trình riêng tư, từ
bỏ chính mình, từ bỏ những gì thân thiết nhất của mình, để đi vào
chương trình của Thiên Chúa, để trọn vẹn phó thác cho Thiên Chúa.
Ngày nay khi lần Chuỗi Mân
Côi là ta ôn lại hành trình đức tin của Mẹ. Hành trình đầy thử thách
gian khổ nhưng cũng đầy chiến thắng vinh quang.
Xưa kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm cuộc thắng trận ở Lepante.
Ngày nay, khi mừng lễ Mân Côi ta mừng Đức Mẹ Maria đã chiến thắng
chính bản thân, đã vượt qua hết những thử thách và đạt tới đích
điểm của hành trình đức tin.
Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình
để thực hiện ý Thiên Chúa. Xin giúp con can đảm vượt qua mọi thử
thách và giữ vững niềm tin tưởng phó thác trong tay Chúa.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Hãy kể ra những cuộc thanh luyện Đức Mẹ đã trải qua.
2. Tại sao con người phải chịu thanh luyện? Có phải vì Chúa muốn hành
hạ con người không?
3. Thanh luyện hệ tại điều gì? Chịu khổ sở hay từ bỏ mình. Điều nào
quan trọng hơn?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
-
-
-
Lc 5, 1-11
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Các Tông đồ đã đánh bắt vất vả suốt đêm mà không được con cá nào. Nay
Chúa Giêsu bảo các ngài phải ra khơi một lần nữa. Chắc các ngài phải
ngần ngại lắm. Ngần ngại vì vừa qua một đêm vất vả, thân thể mỏi
nhừ vì suốt đêm phải vật lộn với biển cả, với sóng gió, với chài
lưới. Ngần ngại vì đang buồn ngủ. Mắt chĩu nặng vì suốt đêm không
ngủ, đang cần một giấc ngủ để hồi phục sinh lực.
Ngần ngại vì vừa bị thất bại ê chề, đã mất hết ý chí phấn
đấu. Thế nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa, ra khơi, thả lưới. Và kết
quả thật là bất ngờ. Lưới đầy cá chất đầy 2 thuyền đến gần chìm.
Qua bài Tin mừng, này Chúa muốn dạy tôi những bài học về việc truyền
giáo.
Bài học thứ nhất:
Truyền giáo là một công việc đòi hỏi vất vả. Phải lao
động đêm ngày. Như các Tông đồ đã chài lưới suốt đêm thâu trong sương
đêm giá lạnh, trong sóng gió biển khơi, trong vất vả cực nhọc. Suốt
đêm đã lênh đênh trên biển cả, sáng sớm vừa mới về tới đất liền,
tưởng được nghỉ ngơi, không ngờ lại phải ra khơi ngay tức khắc. Ra khơi
cả lúc đang mệt mỏi cần nghỉ ngơi. Người muốn truyền giáo cũng phải
noi gương các tông đồ. Làm việc không nghỉ. Phải đầu tư sức lực và
trí tuệ. Phải phấn đấu không ngừng. Làm cho hết việc chứ không làm
cho hết giờ. Và phải chấp nhận tất cả những mỏi mệt, những thử
thách.
Bài học thứ hai:
Truyền giáo là một công việc đòi hỏi kiên trì. Vì việc
truyền giáo có nhiều thất bại hơn thành công, có nhiều mệt nhọc hơn
vui thích, nên việc truyền giáo đòi hỏi rất nhiều kiên trì. Kiên trì
khi đã gặp thất bại. Kiên trì khi đã chán nản, mệt mỏi rã rời. Kiên
trì khi gặp những trắc trở. Như lời thánh Phaolô khuyên dạy: “Hãy
rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không
thuận tiện” (2Tm 4, 2). Các Tông đồ thật kiên trì, mặc dù đã thất
bại sau suốt một đêm vất vả, các ngài vẫn tiếp tục ra khơi theo lệnh
Chúa truyền. Trong quá khứ, ta đã gặp nhiều thất bại trong việc
truyền giáo. Hôm nay Chúa lại mời gọi ta hãy ra khơi, hãy lên đường
truyền giáo. Ta hãy mau mắn đáp lời Chúa mời gọi, kiên nhẫn làm việc
trên cánh đồng truyền giáo, bất chấp mọi thất bại, bất chấp mọi
chán nản.
Bài học thứ ba:
Truyền giáo là một công việc đòi hỏi thanh luyện bản thân.
Truyền giáo là công việc thánh thiện nên người truyền giáo phải thánh
thiện. Sự thánh thiện khởi đi từ nhận thức thân phận yếu hèn tội
lỗi. Và từ đó nãy sinh nhu cầu được thanh luyện. Như Phêrô cảm thấy
mình tội lỗi không xứng đáng ở gần Chúa. Như Phaolô ngã ngựa cảm
thấy mình lầm lạc. Như Isaia cảm thấy môi miệng mình ô uế. Sau khi
được thanh luyện các ngài đã trở thành những nhà truyền giáo gương
mẫu. Thánh hoá bản thân là một điều kiện quan trọng để truyền giáo
thành công.
Bài học thứ tư:
Truyền giáo là một công việc đòi hỏi lắng nghe Lời Chúa.
Vì truyền giáo là một công việc thiêng liêng. Nên ta không thể cậy dựa
vào sức lực phàm nhân, phương tiện phàm trần. Các tông đồ là những
ngư phủ chuyên nghiệp. Các ngài biết rõ biền hồ Galilê như lòng bàn
tay. Thế mà các ngài đánh cá suốt đêm chẳng được con nào. Đó là bài
học dạy ta biết rằng, nếu cậy dựa vào tài sức riêng, việc truyền
giáo sẽ không có kết quả. Việc các Tông đồ vâng lời Chúa ra khơi và
vâng lời Chúa thả lưới bên phải mạn thuyền cho ta thấy một thái độ
khiêm nhường lắng nghe. Dù Chúa Giêsu không phải là ngư phủ chính gốc.
Dù Chúa Giêsu không hiểu biết biển hồ, nhưng các ngài vẫn vâng lời
Chúa. Chính nhờ thế, các ngài đã thành công. Người làm việc truyền
giáo phải noi gương các tông đồ biết khiêm nhường nhận biết sự bé nhỏ
nghèo hèn của bản thân để thao thức lắng nghe Lời Chúa. Chỉ làm theo
Lời Chúa, làm theo ý Chúa, làm vì Chúa việc truyền giáo mới có kết
quả tốt đẹp.
Xin Chúa ban cho mỗingười chúng ta một nghị lực mạnh mẽ để sẵn sàng
chấp nhận những vất vả khổ cực trong việc truyền giáo. Xin cho chúng
ta biết chấp nhận cả những thất bại mà vẫn kiên trì lên đường truyền
giáo. Và nhất là xin cho mọi người chúng ta được Chúa dạy bảo, để
biết làm theo ý Chúa. Chỉ có như thế, việc truyền giáo mới có kết
quả tốt đẹp.
Lạy Chúa Giêsu, xin kêu gọi chúng con lên đường truyền giáo. Lạy Chúa
Giêsu, xin thanh luyện chúng con để xứng đáng làm việc truyền giáo.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết cách làm việc truyền giáo.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Truyền giáo là lẽ sống của Hội Thánh, bạn có ý thức điều này
không?
2. Muốn truyền giáo phải có những điều kiện nào?
3. Bạn đã bao giờ bắt tay vào việc truyền giáo chưa?
4. Năm nay bạn quyết tâm làm gì để đóng góp vào việc truyền giáo?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Kh 7,2-4.9-14
- 1Ga 3,1-3
-
Mt 5,1-12a
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Nói đến các thánh và việc nên thánh, nhiều người vội vàng nghĩ rằng
đó là chuyện xa vời. Các thánh là những bậc tài đức phi thường, nhân
cách trổi vượt ở trần gian, nên nay mới phiêu diêu bay bổng trên các
tầng trời hạnh
phúc. Còn tôi, phàm nhân yếu hèn, tội lỗi nặng nề, làm sao có thể
nên thánh, bay thênh thang trong bầu trời hạnh phúc được? Nghĩ như vậy
là lầm. Thực ra các thánh đâu phải ai xa lạ. Đó chính là những người
gần gũi thân thuộc với ta.
Gần gũi vì các Ngài đã
từng biết đến những yếu hèn của
thân phận con người: như Phêrô
hăng hái đấy, nhưng rồi lại chối Chúa ngay đấy; như Augustinô đã nửa
đời tuổi theo dục vọng, đi vào lầm lạc; như Mađalêna nửa đời hương
phấn; như Phaolô Bột của Việt nam đã sợ sệt chối đạo; như người trộm
lành đã cả đời sống bằng nghề đạo chích.
Gần gũi thân thuộc vì các
Ngài đã biết đến những vất vả nhọc nhằn trong việc
bổn phận hằng ngày:
như Mônica 17 năm cầu nguyện trong nước mắt cho chồng và cho con; như
Oscar Roméro xả thân chết dưới lằn đạn vì bênh vực công lý; như
Tarcisio chết đang lúc đưa Mình Thánh Chúa cho anh em.
Gần gũi thân thuộc vì các
Ngài đã
chia sẻ cảnh nghèo, cảnh khổ
với chúng ta: như Maximiliano Kolbe đã sống trong tù và chết trong tù,
hy sinh mạng sống để cứu bạn tù; như Phanxicô khó nghèo đã sống như
một người rất nghèo; như mẹ Têrêxa Calcutta đã trở thành người bạn
rất thân mến của những người nghèo.
Gần gũi thân mật vì các
thánh không phải chỉ là những người Pháp, Mỹ, Ý, có rất nhiều vị
thánh là
người Việt nam: thánh Phụng,
một ông biện quê ở Cù Lao Giêng; thánh Quý, cha sở họ đạo Năng Gù;
thánh Minh, thánh Gẫm đã đi lại khắp vùng Mỹ Tho, Vĩnh Long, Lái
Thiêu. Bà thánh Đê là một bà mẹ quê chân lấm tay bùn tay cầy tay cuốc
như chúng ta. Thánh Lê Tùy là một cha xứ rất gần gũi với giáo dân
vùng Hà nội và Thanh hóa. Thánh Án Khảm, thánh Cai Tả, thánh Cai
Thìn là những người chia sẻ nếp sống dân dã của địa phận Bùi Chu.
Qủa thật các Ngài là cha
ông, bà con thân thuộc với chúng ta. Như thế chúng ta là dòng dõi các
thánh. Hơn thế nữa, chúng ta mang trong mình mầm mống thần linh. Khi
Thiên Chúa tạo dựng nên Ađam, Ngài thổi hơi thần linh vào thân xác bụi
đất. Bằng hơi thở, Ngài gieo mần thần linh vào thân phận cát bụi để
nâng con người vượt lên trên mọi loài thụ tạo. Khi Thiên Chúa nói: “Ta
hãy tạo dựng con người giống hình ảnh Ta”, Ngài truyền cho con
người mẫu “gien” thánh thiện của Ngài. Với “gien” của Thiên Chúa, con
người không thuộc về đất thấp mà thuộc về trời cao. Chính vì thế mà
Chúa Giêsu đã truyền cho ta “Các con
hãy nên hoàn thiện như Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện”.
Các con đã mang “gien” thánh thiện của Cha, hãy phát triển sự thánh
thiện đó, không phải ngang tầm các thánh, mà ngang tầm Chúa Cha. Thật
là một chiều cao choáng váng cho con người.
Ta
thuộc về trời chứ không thuộc về đất. Hãy hướng về trời. Hãy thôi nhìn đất. Hãy
bay lên trời. Hãy chặt đứt những ràng buộc kéo ghì ta xuống đất. Hãy
loại bỏ những tảng đá đè nặng đôi cánh. Những tảng đá đó là tiền
bạc, của cải. Hãy chặt đứt những sợi dây ràng buộc đôi chân. Sợi dây
đó là chức quyền, địa vị, thói ăn thua bao giờ cũng muốn ăn người.
Hãy tập bay lên trong niềm khao khát vươn lên cao hơn, cao hơn nữa. Tình
yêu sẽ là sức đẩy giúp tâm hồn bay lên. Tình yêu thương xót, tình yêu
hoà giải.
Tất cả chương trình tập
luyện ấy đã được tóm tắt trong Tám mối phúc thật. Sống theo Tám mối
phúc thật chính là sống theo gương Chúa Giêsu: Chúa Giêsu không chỉ dạy
Tám mối phúc, nhưng Ngài chính là người đầu tiên sống Tám mối phúc
khi Ngài tự nguyện sống nghèo hèn không dính bén của cải; hiền lành
không trả đũa, không oán thù những người làm hại mình; tâm hồn tràn
đầy tình thương xót đối với những ai bị xua đuổi, loại trừ. Sống theo
Tám mối phúc thật, tâm hồn ta sẽ hoàn toàn tự do bay lên thênh thang
trong khung trời thánh đức, bay lên tới sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi,
bay lên hợp đoàn cùng các thiên thần và các thánh trong hạnh phúc muôn
đời.
Xin các thánh nam nữ ở
trên trời giúp chúng con biết noi gương các ngài, sống theo Tám mối
phúc thật. Xin các ngài nâng đỡ, để chúng con sống trọn vẹn ơn gọi
nên thánh mà Thiên Chúa đã đặt vào nơi chúng con: Các con hãy nên hoàn
thiện như Cha các con trên trời.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Tại sao ta phải nên thánh?
2- Các thánh gần gũi ta ở những điểm nào?
3- Thánh nhân nào cũng có một quá khứ. Tội nhân nào cũng có một
tương lai. Bạn hiểu câu này thế nào?
4- Trong người bạn có mầm mống thần linh. Bạn có ý thức điều này,
có tự hào về điều này và có ý phát triển mầm mống này không?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is 25,6a.7-9
- Rm 8,14-23
- Lc 23,33.39-42
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Cứ mỗi lần lễ các linh hồn đến, ta lại cảm nhận sự mau qua của thời
gian. Chỉ còn 60 ngày nữa là hết một năm. Thêm vào đó, gió bấc thổi,
không gian u ám, vài loại cây đã trút lá vàng trên lối đi khiến ta cảm
thấy bùi ngùi nghĩ đến những người đã khuất. Có lẽ đó cũng chính
là ý định của Giáo Hội khi đặt ngày lễ cầu nguyện cho các linh hồn
vào dịp tháng 11. Nhớ đến những người đã khuất là một việc làm quan
trọng vì 4 lý do:
1. Nhớ đến người chết để biết ơn. Ta
không thể tưởng tượng thế giới ta đang sống hôm nay sẽ thế nào nếu đã
không có những người đã khuất. Nếu không có ông bà cha mẹ, cũng không
có ta trên đời này. Nếu không có các bậc tiền nhân, không có đất nước
này. Nếu không có những người đi trước, không có thành phố như ngày
hôm nay. Nếu ông bà cha mẹ ta không truyền lại đức tin, khó có thể
tưởng tượng hôm nay ta biết thờ phượng và yêu mến Chúa. Các ngài làm
nên đời ta. Các ngài xây dựng đất nước cho ta. Các ngài truyền lại cho
ta một di sản cao quí là đức tin vững mạnh vào Chúa. Các ngài là
thành phần của đời sống ta. Một thành phần quan trọng. Một thành
phần quyết định. Vì thế, tưởng nhớ đến các ngài để biết ơn, cầu
nguyện cho các ngài là một việc làm hợp đạo lý, một bổn phận không
thể thiếu.
2. Nhớ đến người chết để nhớ đến thân phận mình.
Nếu người chết đã là một phần của đời ta thì cái chết lại là một
phần gắn liền với thân ta. Con người không ai tránh khỏi cái chết.
Càng sống lâu càng gần cái chết hơn. Và ngay trong khi sống, cái chết
đã đến. Những tế bào chết hết lớp này đến lớp khác. Tóc rụng hằng
ngày. Với thời gian, mắt mờ, răng rụng, gối mỏi, chân run. Tất cả lần
lượt từ bỏ ta. Và cuối cùng là hơi thở. Chết là không thể tránh
khỏi. Biết bao người tài giỏi đã qua đi. Biết bao binh hùng tướng mạnh
đã nằm xuống. Biết bao lãnh chúa quyền uy nghiêng trời lệch đất đã
chỉ còn là mớ xương khô. Không ai tránh khỏi cái chết. Hiểu được như
thế, ta sẽ tránh được nhiều sai lầm trong cuộc sống. Hiểu được như
thế, ta sẽ biết chuẩn bị cái chết cho tốt đẹp.
3. Nhớ đến người chết để biết chết.
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại 3 cái chết. Người trộm dữ, người trộm
lành và Chúa Giêsu. Ba người chung một hoàn cảnh. Nhìn bề ngoài chẳng
khác gì nhau. Nhưng cái chết lại khác xa nhau. Người trộm dữ chết
trong tức tưởi.
Ông
không biết chết vì ông đã không biết sống. Chỉ sống cho mình. Người
trộm lành đã chết trong an bình.
Ông
đã chấp nhận cái chết. Trong những giờ phút cuối đời ông đã nhận ra
chân lý nên đã biết sống cho Chúa, phó thác cho Chúa vận mạng của
mình. Chúa Giêsu là tấm gương cho ta về việc chấp nhận cái chết.
Người chủ động đi đến cái chết. Mạng sống Người chính Người tự ý
trao nộp. Người phó thác linh hồn trong tay Đức Chúa Cha. Vì Người
không sống cho bản thân, nhưng sống cho Đấng đã sai Người. Không những
chấp nhận cái chết trên thập giá, Chúa Giêsu còn chấp nhận cái chết
dần mòn trong cuộc sống. Người tự hiến mình đi khắp đó đây rao giảng
Tin Mừng. Người tự hiến đời mình phục vụ tha nhân. Người chấp nhận
cái chết dần mòn trong những mệt nhọc, vất vả, đau khổ, nhục nhã.
Chấp nhận cái chết trong cuộc sống, Người trở thành nguồn ơn cứu độ
cho chúng ta.
4- Nhớ đến người chết để biết sống.
Chúa Giêsu, vì dám chết theo thánh ý Đức Chúa Cha, nên đã được Đức
Chúa Cha tôn vinh, đem sự sống đến cho chúng ta. Người chết để đi vào
cõi hằng sống. Người chết để từ nay luôn ở bên chúng ta, nâng đỡ cuộc
đời chúng ta. Người sống mãi. Người ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến
tận thế. Các thánh là những người đã chết cho Chúa và cho anh em.
Các ngài cũng sống mãi và tiếp tục nâng đỡ cuộc sống của chúng ta.
Khi thánh Đaminh sắp qua đời, anh em trong dòng buồn thảm khóc lóc.
Nhưng thánh nhân nói với anh em: “Anh em đừng lo buồn. Về thiên đàng, Cha
còn trợ giúp đắc lực hơn cho anh em”. Thánh nữ Têrêxa Hài đồng Giêsu
cũng hứa: “Về trời, tôi sẽ làm mưa hoa hồng trên mặt đất”. Các Đấng
đã dám chết cho Chúa và cho anh em sẽ sống mãi và tiếp tục là một
thành phần tích cực của đời sống chúng ta. Đã biết chết, các ngài
sẽ sống mãi.
Nhân dịp tưởng nhớ ông bà tổ tiên, ta hãy biết noi gương các ngài,
biết chết đi hằng ngày trong quên mình yêu mến Chúa và phục vụ anh em,
ta sẽ được sống mãi với Chúa.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Nhớ đến người chết có cần thiết không? Tại sao?
2. Cái chết có giá trị gì trong cuộc sống?
3. Biết chết thì mới biết sống. Bạn nghĩ thế nào về cuộc tử nạn
và phục sinh của Chúa Giêsu.
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Kn 3,1-9
- Rm
8,31b-39
- Lc 9,23-26
II.TẤM BÁNH CHIA SẺ
Hôm nay Giáo hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện kính các thánh Việt
Nam vì ba lý do:
1. Hân hoan và hãnh diện vì các thánh là người Việt Nam. Không còn gì
vui mừng và đáng tự hào hơn khi đất nước chúng ta có các vị thánh
đồng hương để góp mặt với Giáo hội toàn cầu.
2. Hân hoan và hãnh diện vì số lượng đông đảo các thánh Việt Nam. Với
117 vị thánh, Giáo hội Việt Nam được xếp hạng nhất nhì trong Giáo
hội hoàn vũ về số lượng các thánh.
3. Hân hoan và hãnh diện hơn cả vì các Ngài là những chứng nhân anh
hùng quả cảm. Đọc lại tiểu sử các Ngài ta không khỏi cảm phục đức
tin kiên cường của các Ngài. Vì trung thành với Chúa, các Ngài đã cam
chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết chức quyền danh vọng, nhất
là đã phải chịu muôn ngàn khổ hình và chịu mất mạng sống vì đức
tin.
Có những vị như thánh Hồ
Đình Hy, làm quan lớn trong triều đình. Quan án Phạm Trọng Khảm, Chánh
tổng Phạm Trọng Tả là những vị có chức quyền trong xã hội đã thà
mất chức quyền, mất danh vọng hơn là mất đức tin. Vì Chúa, không
những các Ngài sẵn sàng từ bỏ mọi quyền lợi trong xã hội, mà còn
sẵn sàng chịu mất mạng sống.
Có những vị như thánh Anê
Lê Thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, nặng gánh gia đình, nhưng cũng
đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Đức
Kitô.
Có những vị đầu xanh tuổi
trẻ như Tôma Thiện, mới có mười mấy tuổi đời, tương lai còn dài,
đường đời còn nhiều hứa hẹn, nhưng các Ngài đã cương quyết khước từ
tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho đức tin chân chính.
Là người Việt Nam Công
giáo, chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu sử của các Ngài, ta cảm thấy
một dòng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi
cuộc sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các Ngài, có lẽ ta cũng
đôi lần ao ước được như các Ngài: sống cao đẹp, chết anh dũng.
Nhưng làm sao ta có thể có
được cái chết cao đẹp như các Ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm đạo,
bắt đạo, giết người có đạo như thời vua quan ngày xưa. Ngày nay ta
không còn hy vọng được chết vì đạo. Ta chỉ còn một cách noi gương bắt
chước các vị tiền nhân anh hùng đó là sống vì đạo.
Thực vậy, ngày nay ta ít
gặp những sự khốn khó như bị bắt bớ, giam cầm, giết chết vì đạo,
nhưng để sống đạo trong xã hội hôm nay, ta gặp không ít khó khăn. Xin
kể ra hai khó khăn tiêu biểu.
Khó khăn thứ nhất, đó là
chủ nghĩa cá nhân ngày càng phát triển. Ai cũng muốn thăng tiến bản
thân và gia đình của mình. Ai nấy lo làm ăn, học hành, xây dựng cho
bản thân. Cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Những nhu cầu của bản
thân ngày càng nhiều. Rõ ràng ngày nay ta kiếm được nhiều tiền hơn
trước. Rõ ràng ngày nay ta có nhiều tiện nghi hơn trước: xe cộ tốt
hơn, nhà cửa đẹp hơn, tiện nghi hơn. Nhưng chưa bao giờ ta thấy thoả mãn
đầy đủ. Vì thế càng ngày người ta càng đóng kín vào bản thân, không
có thì giờ nghĩ đến người khác. Trong khi đó, những người nghèo càng
nghèo hơn, những người yếu càng mệt hơn, những người bệnh càng khổ
hơn. Họ không đủ sức chạy theo cuộc tranh đua quyết liệt của chủ nghĩa
cá nhân. Họ bị đẩy lùi ra phía sau. Họ bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Để lựa chọn sống theo Phúc Âm, để trung thành với lời dạy của Chúa,
ta phải bỏ quên một phần thân mình, gia đình mình để nghĩ đến, giúp
đỡ, vực dậy những anh em kém may mắn. Đó là điều không dễ.
Khó khăn thứ hai là kinh
tế thị trường ngày càng phát triển. Đồng tiền đang trở thành một
thước đo giá trị con người. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực
chi phối toàn bộ đời sống con người. Ai cũng muốn có nhiều tiền. Và
để có tiền, nhiều người đã không từ chối một phương tiện nào: lường
gạt, lừa đảo, làm hàng giả, buôn thuốc phiện, tham nhũng, hối lộ.
Tiền bạc quả là một cơn cám dỗ đang làm chao đảo thế giới, tàn phá
những giá trị, biến chất những con người.
Đứng trước nhu cầu và ham
mê tiền bạc, người Công giáo muốn trung thành với Phúc Âm, muốn sống
trọn vẹn cho đức tin bắt buộc phải có lựa chọn. Thà cam chịu nghèo
khổ còn hơn nhận những đồng tiền phi nhân bất nghĩa. Thà cam chịu
thiếu thốn hơn là chịu đánh mất đức tin. Thà lao động cực khổ để
kiếm miếng cơm manh áo chân chính hơn là chạy theo những đồng tiền dễ
dãi để chối từ Phúc Âm và luật Chúa.
Quả thực, xã hội mới đang
tạo ra những cơn bắt bớ mới. Để trung thành với Chúa, với Phúc Âm ta
cũng phải chọn lựa quyết liệt. Những chọn lựa đó làm chúng ta đau
đớn không kém gì những hình khổ. Những hy sinh vì Phúc Âm đó cũng
khiến lòng ta rỉ máu không kém gì chịu tử hình. Các thánh tử đạo
chỉ chọn lựa một lần. Còn ta phải chọn lựa muôn ngàn lần trong cuộc
sống. Các thánh tử đạo chỉ chết một lần. Còn ta phải chết mòn mỏi
mỗi ngày trong những chiến đấu, những từ bỏ đớn đau. Sống Phúc Âm
trong thời đại mới đúng là một cuộc tử đạo liên tục.
Sống vì đạo như thế cũng
cao đẹp và anh hùng không kém gì chết vì đạo. Sống vì đạo như thế,
ta cũng góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm không kém gì
chết vì đạo.
Lạy các thánh tử đạo
Việt Nam, xưa các Ngài đã anh dũng hy sinh cuộc đời, dâng hiến máu đào
làm chứng cho Phúc Âm, xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy
sinh sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống hàng ngày.
III.TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Theo bạn, ngày nay ta có thể làm gì để làm chứng cho Chúa?
2- Cuộc sống đạo hôm nay có những khó khăn nào?
3- Trong thời đại mới, bạn có thể tử đạo bằng cách nào?
4- Bạn rất tự hào về các thánh Việt nam. Bạn sẽ làm gì để xứng
đáng với các vị tổ tiên anh hùng?