Đức TGM Ngô Quang Kiệt
MÙA VỌNG
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Gr 33,14-16
- 1Tx 3,12 – 4,2
- Lc 21, 25-28.34-36
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Thật ngạc nhiên. Ta cứ tưởng trong mùa Vọng, phải có những bài Sách Thánh báo tin Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra. Nhưng không ngờ những bài Sách Thánh và đặc biệt bài Tin Mừng hôm nay lại báo tin Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Tại sao thế? Thưa vì Giáo hội muốn cho ta hiểu ý nghĩa thần học của việc chờ mong Chúa đến. Hằng năm vào mùa Vọng, Giáo hội mời gọi ta chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến. Thực ra Chúa đã đến rồi khi sinh ra tại hang đá Bêlem cách nay hơn 2.000 năm. Tuy nhiên ta vẫn luôn chờ mong vì Chúa đến hằng ngày với ta. Và nhất là Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Việc Chúa đến lần thứ hai đưa ra những hướng dẫn quan trọng cho cuộc đời chúng ta.
Hướng dẫn thứ nhất: Có hai thế giới. Thế giới hiện tại và thế giới tương lai. Thế giới hiện tại này sẽ qua đi. Vạn vật có khởi đầu và có kết thúc. Con người có sinh có tử. Đó là định luật tự nhiên. Không chỉ những gì yếu đuối, bé nhỏ mới qua đi. Cả những gì lớn lao, mạnh mẽ, có vẻ bền vững nhất như mặt trời, mặt trăng cũng qua đi. Điều quan trọng nhất là chính ta cũng sẽ qua đi. Khi thế giới này qua đi, một thế giới mới sẽ bắt đầu: thế giới vĩnh cửu.
Hướng dẫn thứ hai: Chúa làm chủ lịch sử. Sở dĩ thế giới cũ tan biến đi vì Chúa đã định cho nó một thời hạn. Khi thế giới đến ngày cùng tháng tận, Chúa sẽ đến. Quyền uy của Chúa thể hiện qua việc Chúa xét xử thế giới cũ và khai sinh thế giới mới. Sau cảnh tan vỡ kinh hoàng của thế giới cũ sẽ là một khởi đầu mới đem đến niềm hi vọng mới cho con người. Có thể nói thế giới không chấm dứt nhưng biến đổi. Từ một thế giới mong manh mau tàn đến một thế giới vững bền vĩnh cửu. Từ một thế giới tương đối đến một thế giới tuyệt đối.
Hướng dẫn thứ ba: Ta tự quyết định vận mệnh đời mình. Thế giới này sẽ qua đi. Thế giới mới sẽ xuất hiện. Ta sẽ bị hủy diệt cùng với thế giới cũ. Hay sẽ được hạnh phúc trong thế giới mới? Điều đó tùy thuộc bản thân ta. Chúa đưa ra những chỉ dẫn rõ ràng. Thế giới cũ sẽ suy tàn. Nên ai quá gắn bó với nó sẽ khổ sở. Thế giới mới sẽ tới. Ai biết chuẩn bị chờ đón sẽ được hạnh phúc. Phải làm gì? Thưa phải tỉnh thức và cầu nguyện.
Tỉnh thức không “chè chén say sưa”, tức là không quá mê mẩn những đam mê hưởng thụ đời này. Tỉnh thức không “lo lắng sự đời”, nghĩa là không quá mê say danh, lợi, thú, là những giá trị đời này. Tỉnh thức biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng. Tỉnh thức tuy còn sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau.
Cầu nguyện vì tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện để biết tỉnh thức. Vì khi cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để vươn tới thế giới tâm linh. Nhất là cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát ra khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.
Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa. Tỉnh thức cầu nguyện, ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện ta sẽ gặp được Chúa trong ngày lễ Chúa Giáng sinh. Tỉnh thức cầu nguyện chắc chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến cứu con.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Chúa đã đến rồi sao ta vẫn còn chờ mong Chúa đến?
2. Chúa làm chủ lịch sử. Bạn có cảm nghiệm về điều này trong đời sống không?
3. Ta phải làm gì để được niềm vui trong ngày Chúa đến?
4. Tỉnh thức nghĩa là gì?
5. Tại sao phải cầu nguyện?
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Br 5,1-9
- Pl 1,4-6.8-11
- Lc 3, 1- 6
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Bài Tin Mừng mở đầu thật long trọng khi nêu tên tất cả những vị lãnh đạo cao cấp thời đó. Từ Tibêriô, hoàng đế của đế quốc La mã, quyền uy phủ trên toàn thế giới thời ấy, đến Philatô, tổng trấn, đại diện cho hoàng đế cai trị nước Do Thái. Từ Hêrôđê, dù là bù nhìn, cai trị miền Bắc, đến em của ông cai trị miền Nam. Từ Anna đến Caipha cùng trong gia đình làm thượng tế nắm giữ quyền đạo Do Thái. Tên tuổi những vị lãnh đạo cao cấp đầy quyền uy nói lên thực trạng của đất nước Do Thái thời đó: bị nô lệ. Chính vì thế, hơn bao giờ hết người Do Thái mong chờ Đấng Cứu Thế đến giải thoát dân người. Chúa đã đến, không phải bằng con đường phô trương nhưng bằng con đường nội tâm. Thánh Gioan Tẩy Giả hôm nay khi kêu gọi mở đường cũng nhắm đến con đường nội tâm. Chỉ những ai đi đường nội tâm mới gặp được Chúa. Qua lời rao giảng của thánh Gioan Tẩy Giả, đường nội tâm có những đặc điểm sau:
Đường nội tâm đi trong cô tịch. Thật lạ lùng. Một chương trình cứu thế lớn lao như thế mà Chúa chẳng ngỏ với các vị lãnh đạo cao cấp uy quyền, nhưng lại ngỏ với thánh Gioan Tẩy Giả. Một chương trình lớn lao như thế không khởi đầu từ thủ đô đất nước nhưng lại phát xuất từ vùng hoang địa xa xôi. Thực ra Chúa vẫn ngỏ lời với nhân loại. Nhưng tiếng Chúa nói âm thầm, sâu thẳm. Các vị lãnh đạo cao cấp sống trong ồn ào của đô thị phồn hoa, bị tiếng thét gào của đam mê, dục vọng, quyền lực lấn át, nên không nghe được tiếng Chúa. Thánh Gioan TẩyGiả nghe được tiếng Chúa nhờ đi vào con đường cô tịch. Sống ẩn thân nơi hoang địa. Chuyên chăm cầu nguyện trong tu viện. Bỏ ngoài tai tất cả những tiếng ồn ào thế tục. Chỉ khao khát lắng nghe Lời Chúa. Nên đã gặp được Chúa và được biết chương trình cứu độ của Chúa.
Đường nội tâm đi trong khiêm nhường. Chúa là Đấng vô cùng khiêm nhường. Chỉ những ai khiêm nhường mới gặp được Chúa. Các vị lãnh đạo uy quyền nói trên rất tự mãn. Tự mãn vì quyền uy bao trùm khắp mặt đất. Tự mãn vì dinh thự đền đài nguy nga. Tự mãn vì quần là áo lụa sang trọng. Tự mãn vì yến tiệc linh đình. Thánh Gioan TẩyGiả thật khiêm nhường. Khiêm nhường trong đời sống âm thầm nơi hoang địa. Khiêm nhường trong tu viện đơn sơ. Khiêm nhường trong thực phẩm tự nhiên rất đạm bạc: chỉ ăn châu chấu và mật ong rừng. Khiêm nhường trong trang phục giản dị bằng da thú, chỉ có mục đích che thân. Khiêm nhường xưng mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa. Nhờ thế đã gặp được Chúa, được Chúa tuyển chọn trở thành người mở đường cho Chúa.
Đường nội tâm đi trong chiến đấu. Không phải chiến đấu với người khác. Nhưng chiến đấu với chính mình. Cuộc chiến đấu được thánh Gioan Tẩy giả dùng lời tiên tri Isaia diễn tả trong việc sửa chữa con đường. Con đường là tâm hồn. Sửa chữa con đường vật chất tuy khó mà dễ. Sửa chữa con đường tâm hồn khó biết bao. Tâm hồn có những núi đồi kiêu ngạo tự mãn. Để sửa chữa phải bạt núi đồi xuống. Phải cắt đi một phần tâm hồn không phải dễ dàng. Tâm hồn có những khúc quanh co. Để uốn nắn lại phải vạt bớt chỗ quanh co. Gọt dũa tâm hồn đau đớn lắm. Từ bỏ mình là một cuộc chiến khốc liệt. Thắng được mình khó hơn thắng vạn quân.
Đời sống ta quá lo lắng bon chen nên thiếu chiều sâu nội tâm. Hôm nay ta hãy nghe lời thánh Gioan Tiền Hô dạy, biết ăn năn sám hối trở về với Chúa. Biết rửa sạch tội lỗi. Biết đổi mới tâm hồn bằng cuộc sống đi vào nội tâm. Tìm những giờ phút thanh vắng cô tịch để lắng nghe tiếng Chúa. Sống đơn sơ khiêm nhường để nên giống Chúa. Muốn được như thế ta phải chiến đấu để từ bỏ ý riêng. Chúa đã đến ở đầu đường. Ta chưa nhìn thấy chỉ vì con đường tâm hồn còn lồi lõm quanh co. Khi nào ta cắt bỏ được hết những lồi lõm quanh co trong tâm hồn, ta sẽ được thấy Chúa.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Đường nội tâm có những đặc điểm nào? Cô tịch, khiêm nhường và chiến đấu, đặc điểm nào cần thiết nhất cho đời sống bạn hiện nay?
2. Thánh Gioan Tẩy Giả có sống những lời Ngài rao giảng không?
3. Con đường nội tâm của bạn còn phải sửa chữa ở những đoạn nào? Có dễ không? Tại sao
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Xp 3,14-18a
- Pl 4,4-7
- Lc 3, 10 – 18
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Khi nghe thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng, hàng đoàn người lũ lượt kéo đến xin chịu phép rửa ăn năn sám hối. Hơn thế nữa, họ còn muốn thay đổi cuộc đời nên ai cũng hỏi thánh nhân: “Chúng tôi phải làm gì”? Thái độ của họ thành khẩn, đơn sơ, hiểu biết và đầy quyết tâm. Để trả lời, thánh nhân đưa ra những hướng dẫn thật cụ thể. Đó là
Phải làm những việc cụ thể. Hai thái độ cơ bản phải có là công bình và bác ái. Thái độ phải được thể hiện trong những việc cụ thể. Bác ái là chia sẻ: “Ai có hai áo, thì chia cho người không có; ai có gì ăn, thì cũng làm như vậy”. Như thế, bác ái không phải là bố thí những gì dư thừa, nhưng phải là chia sẻ trong tinh thần “nhường cơm sẻ áo” “hạt gạo cắn đôi”. Chia cả những gì mình đang cần thiết. Trong tinh thần huynh đệ. Trong tinh thần yêu người khác như chính mình. Cơm ăn áo mặc là những gì rất cụ thể thiết thực và vừa tầm tay mọi người. Ai cũng có thể chia sẻ được. Chỉ cần muốn là có thể làm được. Công bình cũng không phải là điều gì quá phức tạp. Chỉ đơn sơ giữ đúng luật pháp: nhân viên thu thuế “Đừng đòi hỏi gì quá mức ấn định”. Và khi thi hành luật pháp binh lính phải có lòng nhân ái chứ đừng cậy quyền thế áp bức và nhất là bóc lột người khác: “Chớ dùng vũ lực, cũng đừng vu khống mà tống tiền người ta”. Tuy đơn sơ, thiết thực nhưng lại rất quan trọng để được ơn cứu độ.
Phải làm trong đời sống cụ thể. Những việc cụ thể đó không phải tìm những nơi xa xôi mới thực hiện được. Mỗi người hãy thực hiện công bình bác ái trong đời sống thường ngày của mình, với những người sống chung quanh mình. Thánh nhân không kêu gọi người ta phải ra khỏi môi trường cũ. Ngài chỉ kêu gọi người ta từ bỏ nếp sống cũ. Người thu thuế cứ thu thuế. Binh lính cứ làm nhiệm vụ của binh lính. Nhưng làm với tinh thần mới. Điều quan trọng không phải là đổi mới nơi ở, nhưng là đổi mới chính mình, đổi mới ý nghĩ, đổi mới lời ăn tiếng nói, đổi mới việc làm. Tục ngữ có nói: “Dù có đi xa vạn dặm mà không chịu thay đổi thì bạn vẫn chỉ là con người cũ”. Cứ ở nhà mà dám đổi mới là ta đã đi những bước rất xa, sẵn sàng gặp được Chúa và lãnh nhận được ơn cứu độ.
Những người Do Thái thời thánh Gioan Tẩy Giả thực lòng mong chờ Chúa đến. Nên đã hỏi ngay những việc cụ thể để làm. Và khi nhận được lời khuyên của thánh nhân, họ đã thực hành ngay tức khắc. Vì thế họ đã được gặp Chúa. Hôm nay ta cũng đang chờ mong Chúa đến. Hãy noi gương những người Do Thái tích cực sửa chữa đời sống theo tinh thần công bình và nhất là theo tinh thần bác ái. Biết sống tinh thần chia sẻ. Dám cho đi cả những gì cần thiết. Mẹ Têrêxa Calcutta dạy ta: hãy cho đi cho đến khi cảm thấy đau đớn xót xa, thì sự cho đi mới thực sự có ý nghĩa. Biết cho đi như thế, chắc chắn ta sẽ gặp được Chúa.
Ta luôn bất bình với thế giới quanh ta. Ta mong ước đổi mới thế giới. Hãy nghe lời thánh Gioan Tẩy Giả, đừng đòi hỏi người khác đổi mới nếu chính mình không đổi mới. Hãy đổi mới chính mình trước, rồi mọi người sẽ đổi mới. Khi mọi người đổi mới, thế giới sẽ đổi mới. Hãy bắt đầu sống tốt. Rồi mọi sự và mọi người quanh ta sẽ trở nên tốt. Sống tốt chính là bắt đầu thay đổi thế giới. Sống tốt chính là góp phần vào công cuộc cứu chuộc của Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con bắt đầu cuộc đời mới ngay từ ngày hôm nay, để con được gặp Chúa.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Chia sẻ khác với bố thí thế nào? Thánh Gioan Tẩy Giả đòi ta chia sẻ hay bố thí?
2. Bạn có ước mong thế giới đổi mới nên tốt hơn không? Muốn thế bạn phải làm gì?
3. Bạn có mong ước Chúa đến với mọi người không? Muốn thế bạn phải dọn đường cho Chúa như thế nào?
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Mk 5,1-4a
- Dt 10,5-10
- Lc 1, 39-45
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Bài Tin Mừng hôm nay chứa chan niềm vui. Bà Êlizabéth vui mừng vì được mẹ Thiên Chúa đến viếng thăm. Đức Mẹ vui mừng vì được Thiên Chúa đoái thương. Thánh Gioan Tẩy Giả vui mừng vì được tha mọi tội ngay từ khi còn trong lòng mẹ. Những niềm vui ấy hoà chung, biến buổi gặp gỡ thành một lễ hội vui mừng tạ ơn Thiên Chúa. Nguồn gốc của những niềm vui ấy là ơn Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần đã giúp chuẩn bị các tâm hồn đón nhận niềm vui ơn cứu chuộc. Ta thấy được ơn Chúa Thánh Thần qua những dấu hiệu sau đây.
Dấu hiệu thứ nhất: ơn khiêm nhường
Tâm hồn có Chúa Thánh Thần sẽ trở nên khiêm nhường. Khiêm nhường vì biết thân phận mình hèn yếu, bé nhỏ, tội lỗi. Khiêm nhường vì biết tất cả những ơn nhận được không phải do công trạng của mình nhưng là do lòng thương xót của Chúa. Vì thế, khi nhận được tin làm mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Mẹ đã xưng mình là “nữ tỳ của Thiên Chúa”. Bà Êlizabéth khiêm nhường tự hỏi: “Bởi đâu tôi được phúc đón tiếp Mẹ Thiên chúa đến viếng thăm tôi”. Và Đức Mẹ đã trả lời bằng một bài ca khiêm nhường ngợi khen Thiên Chúa vì tình yêu thương đã đoái thương đến phận hèn nữ tỳ của Chúa.
Dấu hiệu thứ hai: ơn bác ái
Thánh Thần là tình yêu. Đến đâu là đốt lên lửa bác ái ở đấy. Ngài đã rợp bóng trên Đức Mẹ và lập tức Đức Mẹ được tràn đầy lòng bác ái, đã nghĩ đến bà chị họ. Đức Mẹ không nghĩ phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng và chuẩn bị cho bản thân trong thời kỳ sinh nở sắp tới, nhưng đã nghĩ phải ra đi giúp bà chị họ neo đơn, yếu mệt. Đây là một lòng bác ái mạnh mẽ, nên Đức Mẹ vội vã lên đương ngay, không chần chừ, không tính toán. Lòng bác ái không chỉ hướng về những người thân trong gia tộc mà còn mở rộng ra tới cả dân tộc, cả đồng loại. Nên trong bài Magnificat, Đức Mẹ đã nhớ đến công ơn tổ tiên và nhớ đến cả dân tộc.
Dấu hiệu thứ ba: ơn quên mình
Được ơn Chúa Thánh Thần tác động, tâm hồn sẽ quên bản thân mình. Trước hết quên mình để hoàn toàn vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Đức Mẹ đã hoàn toàn quên mình khi thưa với thiên thần: “Này tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa, tôi xin vâng như lời thiên sứ truyền”. Không những quên mình cho thánh ý Chúa, Đức Mẹ còn quên mình vì tha nhân. Ngài quên mình cũng đang mang thai, cần được nghỉ ngơi, cần được chuẩn bị, chỉ nghĩ đến bà chị họ thai nghén ốm yêu, nên đã bỏ nhà ra đi thăm viếng. Ngài quên mình là khách mời trong tiệc cưới Cana, nên đã xuống bếp giúp đỡ việc bếp núc, và hoà vào cả nỗi lo của chủ nhà thiếu rượu. Ngài quên mình nên đã theo Chúa Giêsu và can đảm đứng dứới chân thập giá, cùng chịu đau đớn nhục nhã với Con.
Dấu hiệu thứ tư: ơn phục vụ
Lòng bác ái, sự khiêm nhường và sự quên mình được kết tinh ở cao điểm phục vụ. Tâm hồn được Chúa Thánh Thần tác động sẽ tìm phục vụ như tìm niềm vui, niềm hạnh phúc. Vì thế Đức Mẹ không quản thân phận làm Mẹ Thiên Chúa đã đến phục vụ cho bà Êlizabéth. Đức Mẹ cũng không nề hà mình đang thời kỳ thai nghén đã vui vẻ phục vụ người họ hàng cần sự giúp đỡ. Là Mẹ Thiên chúa, Đức Mẹ đã tự nguyện trở nên tôi tớ để phục vụ con người. Đó chính là kết tinh của ơn Chúa Thánh Thần.
Với tất cả những đặc điểm của ơn Chúa Thánh Thần, cuộc gặp gỡ giữa Đức Mẹ và bà Êlizabéth, cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và thánh Gioan Tẩy giả còn trong bào thai đã trở thành cuộc gặp gỡ của niềm vui: niềm vui ơn cứu độ. Nhờ những chuẩn bị của Chúa Thánh Thần, hai người mẹ và hai bào thai đã họp thành cộng đoàn biết đón nhận và trao tặng ơn cứu độ. Đã tập họp thành Nước Thiên Chúa, đã là cộng đoàn đầu tiên đón nhận được ơn cứu độ, tiên báo Giáo hội và Nước Thiên chúa sắp đến.
Chỉ còn vỏn vẹn mấy ngày nữa là đến lễ Giáng sinh, ta hãy noi gương Đức Mẹ, nài xin Chúa Thánh Thần biến đổi tâm hồn ta nên xứng đáng đón nhận Chúa Cứu Thế. Ta hãy xin Đức Mẹ dạy ta biết sống theo ơn Chúa Thánh Thần trong khiêm nhường, bác ái, quên mình và phục vụ, để ta được niềm vui đón nhận ơn cứu độ.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Có những dấu chỉ nào cho thấy ơn Chúa Thánh Thần?
2. Nhờ đâu cuộc gặp gỡ giữa Đức Mẹ và bà Elizabéth tràn đầy niềm vui?
3. Những cuộc viếng thăm gặp gỡ của bạn có đem lại niềm vui cho người khác và cho chính bạn không?
MÙA GIÁNG SINH
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is 9,1-6
- Tt 2,11-14
- Lc 2, 1-14
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Mỗi khi gió mùa đông bắc thổi, tôi cảm thấy năm tháng qua nhanh. Năm cũ trôi qua, năm mới sắp tới. Trong niềm háo hức đón chào năm mới tôi thường băn khoăn tự hỏi: tôi phải làm gì để năm mới này trở thành những ngày tháng tươi vui? Làm sao để năm mới này là thời gian của hạnh phúc? Làm sao để năm mới này chan chứa hồng ân của Thiên Chúa?
Trong niềm băn khoăn thao thức, tôi đến trước hang đá Bêlem để tìm câu trả lời. Việc Chúa Giêsu giáng trần đã mở ra một kỷ nguyên mới. Để bắt đầu một thời gian mới, không gì bằng đến học theo gương Người, nghe những lời giáo huấn của Người.
Chúa Giêsu bé thơ lặng im không nói, nhưng thái độ của Người trao gửi chúng ta biết bao sứ điệp, giúp định hướng cho những ngày tháng sắp tới.
Sinh ra trong cảnh nghèo hèn, Người muốn gửi đến cho ta sứ điệp tình yêu. Vì yêu thương con người, Chúa Giêsu đã tự nguyện sinh xuống thế làm người. Người đã đồng hành với con người, chia sẻ mọi nỗi vui, nỗi buồn của kiếp người. Tình yêu của Người đặc biệt hướng về những người bé nhỏ, nghèo hèn, yếu đuối, tội lỗi. Những người đầu tiên được mời gọi đến hang đá Bêlem là những mục đồng nghèo nàn, đơn sơ, chất phác. Trong tình hình kinh tế thế giới hiện nay, hố ngăn cách giàu – nghèo ngày càng lớn. Trong cuộc chạy đua kinh tế hiện nay, người nghèo ngày càng bị thua thiệt. Vì thế, sứ điệp tình yêu của Chúa Giêsu vẫn là một tín hiệu khẩn cấp cho nhân loại.
Hóa thân làm một trẻ sơ sinh yếu đuối trần trụi, Người mong gửi đến ta sứ điệp hoà bình. Là Thiên Chúa, Người mang thân phận con người để nối kết đất với trời, để con người được làm hoà với Thiên Chúa. Trở thành anh em của mọi người, Người kêu gọi con người hãy thương yêu nhau vì mọi người là anh em với nhau. Người không mang theo vũ khí, không mang theo quyền lực. Vũ khí của Người là đôi mắt thơ ngây. Quyền lực của Người là tấm thân trẻ thơ non nớt. Hai ngàn năm qua rồi, nhưng sứ điệp ấy vẫn còn mang tính thời sự, vì chiến tranh chưa một ngày vắng bóng trên hành tinh. Ngay tại Bêlem, nơi Chúa sinh ra, năm nay không có thánh lễ, vì cuộc chiến giữa Israel và Palestines vẫn còn tiếp diễn.
Nằm trong tấm vải thô đặt trên máng bò lừa, Người muốn gửi đến ta sứ điệp tự do. Là Thiên Chúa, Người không muốn sinh ra trong gia đình vua chúa giàu sang. Nhưng chọn sinh ra trong gia đình dân dã nghèo hèn. Người không chọn sinh ra tại một nơi đầy đủ tiện nghi. Nhưng chọn sinh ra trong chuồng bò lừa. Tâm hồn Người hoàn toàn tự do, không bị ràng buộc bởi bất cứ nhu cầu vật chất nào. Ngày nay chế độ nô lệ đã bị xóa sổ trên toàn thế giới. Nhưng con người đang vướng vào những vòng vây nô lệ mới. Có thứ nô lệ dục vọng. Có thứ nô lệ đam mê. Có thứ nô lệ chức quyền. Có thứ nô lệ danh vọng. Có thứ nô lệ vật chất tiền tài. Có thứ nô lệ sì ke ma tuý. Tất cả những thứ nô lệ mới trói buộc tâm hồn khiến con người mất hết tự do, nhân phẩm. Nhìn vào hang đá Bêlem, sứ điệp tự do của Chúa Giêsu như một lời nhắn nhủ ân cần, như một lời mời gọi tha thiết, như một ánh sáng soi đường cho ta bước vào vùng trời tự do của tâm hồn, của nhân phẩm, của con người, của con cái Thiên Chúa.
Năm mới đang mở ra một viễn tượng đầy hứa hẹn nhưng cũng đầy đe doạ. Cơn lốc kinh tế, khoa học kỹ thuật sẽ cuốn đi nhiều giá trị đạo đức, sẽ nhận chìm nhiều kiếp người lầm than. Cơn cám dỗ vật chất sẽ khiến nhiều tâm hồn mất phẩm chất, nhiều con người sẽ đánh mất chính mình. Những xung đột sẽ xô đẩy thế giới vào những cuộc chiến tàn sát.
Hãy đến với Hài nhi Giêsu nằm trên máng cỏ trong hang đá Bêlem. Người là hiện thân của tình yêu, của hòa bình, của tự do. Nhìn ngắm Người, ta sẽ học được những bài học giải đáp cho những vấn đề của thế giới, của con người, và nhất là của chính bản thân ta. Sống theo gương Người, ta sẽ góp phần xây dựng một thế giới tươi đẹp, không chỉ ấm áp tình người mà còn cao đẹp với những giá trị tinh thần, những phẩm chất đạo đức.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, xin thương xót chúng con.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Trong những sứ điệp của Chúa Giêsu bé thơ, sứ điệp nào được nhắn riêng cho bạn?
2. Bạn có tự do thật không? Hay là có thứ nô lệ nào đang trói buộc bạn?
3. Tình yêu, tự do, hòa bình. Thế giới hiện nay cần gì nhất? Bạn sẽ làm gì để đóng góp vào hạnh phúc của thế giới?
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- 1S 1,20-22.24-28
- 1Ga 3,1-2.21-24
- Lc 2, 41-52
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Những tranh ảnh về Thánh Gia thường diễn tả một gia đình ấm êm hạnh phúc. Thánh Giuse làm thợ mộc trong nhà. Đức Mẹ ngồi may vá. Chúa Giêsu phụ giúp thánh Giuse. Phải chăng Thánh Gia luôn sống trong êm đềm thư thái, không hề biết đến khổ đau? Phải chăng cuộc sống gia đình thánh cứ phẳng lặng trôi như mặt nước mùa thu không gợn sóng gió? Không phải, trái lại, Thánh Gia đã biết đến rất nhiều sóng gió, thử thách.
Còn thử thách nào lớn hơn cảnh nghèo. Vì nghèo mà biết bao gia đình sinh ra bất hòa. ấy thế mà Thánh Gia đã phải trải qua những kinh nghiệm đớn đau của kiếp nghèo. Bị xua đuổi, bị hất hủi đến nỗi phải trú ngụ trong chuồng bò lừa. Thê thảm hơn nữa, phải sinh con giữa bầy súc vật, không giường chiếu chăn màn.
Còn gì buồn hơn là bị thù ghét, bị săn đuổi? Thánh Gia sống hiền lành khiêm nhường, thế mà phải chịu đựng sự thù ghét của Hêrôđê. Vừa sinh ra, còn non nớt đã phải bồng bế nhau chạy trốn, xa quê hương đất nước.
Còn cảnh nào bi đát bằng cảnh vợ chồng hiểu lầm nhau? Thế mà thánh Giuse đã hiểu lầm Đức Mẹ khi Đức Mẹ thụ thai bởi quyền phép Đức Chúa Thánh Thần. Ai đã trải qua cảnh nghi ngờ bị phản bội sẽ hiểu thánh Giuse đã bị dày vò đau đớn đến mức nào.
Còn gì khiến cha mẹ buồn hơn khi thấy con cái không ngoan ngoãn vâng lời, bỏ nhà ra đi? Vậy mà thánh Giuse và Đức Mẹ đã phải chứng kiến cảnh đứa con ngoan ngoãn của mình tự động ở lại đền thờ mà không xin phép cha mẹ. Các ngài vất vả lo âu tìm kiếm thì ít, nhưng buồn phiền đau khổ thì nhiều. Làm sao các ngài tránh khỏi buồn phiền khi nghĩ rằng người con mà các ngài rất mực yêu quí đã cãi lời cha mẹ?
Những sóng gió mà Thánh Gia phải đương đầu như thế có lẽ nhiều và nặng nề hơn những gia đình bình thường. Thế nhưng các ngài vần giữ được hạnh phúc gia đình. Nhờ bí quyết nào các ngài đã vượt qua được biết bao cơn sóng gió như thế?
Trước hết các ngài luôn luôn tìm thánh ý Chúa. Mỗi khi gặp gian nan thử thách, các ngài không tìm ý riêng mình, cũng không tìm ý thích của người đời, nhưng luôn đi tìm ý Thiên Chúa. Tìm ý Chúa mạc khải trong Kinh Thánh, qua các biến cố xảy đến. Tâm sự với Chúa trong các giờ cầu nguyện. Hỏi ý kiến Chúa nơi các vị đại diện.
Khi biết được thánh ý Chúa, các ngài lập tức mau mắn vâng lời. Đức Mẹ muốn giữ mình đồng trinh, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người làm mẹ Đấng Cứu thế, Đức Mẹ liền thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng lời thiên sứ truyền”. Thánh Giuse đang muốn bỏ đi, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người ở lại, Người đã vâng lời ngay không ngần ngại.
Sau cùng, các ngài luôn quên mình vì hạnh phúc của mọi người trong gia đình. Thánh Giuse tuy là gia trưởng, nhưng đã hết tình phục vụ Đức Mẹ và Chúa Giêsu. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng lại xưng mình là tôi tớ của Thiên chúa. Còn Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nhưng lại trở thành người con bé nhỏ nhất trong gia đình.
Ngày nay, nhiều gia đình gặp khủng hoảng, lâm vào cảnh cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, vì đã không biết áp dụng những bí quyết của Thánh Gia. Mỗi khi gặp khó khăn, thay vì cầu nguyện, đọc Phúc Âm để tìm ý Chúa thì lại đi tìm ý kiến ở những nơi mê tín dị đoan. Thay vì vâng lời Chúa qua các vị bề trên thì lại chỉ tìm ý riêng mình. Thay vì khiêm nhường quên mình thì lại kiêu ngạo tự ái, bắt người khác phải phục vụ mình.
Hôm nay, gia đình chúng ta hãy biết noi gương Thánh Gia: Bỏ ý riêng để tìm thánh ý Thiên Chúa; mau mắn vâng lời Chúa; và hạ mình khiêm nhường, quên mình để phục vụ người khác. Có như thế chúng ta mới hy vọng giữ được hạnh phúc gia đình, nhất là khi phải đối phó với những khó khăn ngày càng nhiều trong đời sống hiện nay.
Lạy Thánh Gia, xin nâng đỡ gia đình chúng con.
III. TẤM BÁNH CHIA SẺ
1. Mỗi khi gia đình có việc rắc rối, tôi thường làm gì trước: cầu nguyện, đọc Phúc âm, hay là đi xem bói?
2. Mỗi khi có bất đồng ý kiến, tôi thường khiêm nhường xét mình, hay là tự ái bắt người khác phải nhận lỗi?
3. Qua tấm gương của Thánh gia, tôi có quyết tâm gì để xây dựngh hạnh phúc gia đình trong năm mới?
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is 60,1-6
- Ep 3,2-3a.5-6
- Mt 2, 1-12
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Hôm nay, Ba Vua trên đường tìm đến thờ lạy Chúa Cứu Thế giáng sinh. Ba Vua là những người phương xa, không có đạo. Các Ngài tìm đến Chúa theo ánh sáng của ngôi sao lạ. Theo ngôi sao, các Ngài đến được Giêrusalem và được nghe giải nghĩa Thánh Kinh. Theo ngôi sao đưa đường dẫn lối các Ngài đã gặp được Chúa. Ánh sao đã chiếu sáng bầu trời đen tối, giúp các Ngài nhận định được hướng đi. Lời Thánh Kinh là một ánh sao chiếu soi tâm hồn giúp họ sáng lên niềm tin. Nhưng chính Chúa Giêsu mới là ngôi sao mai dẫn họ đi vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến.
Ngày nay có nhiều người đang tìm kiếm Chúa. Nhiều người muốn biết Chúa để theo Chúa. Nhưng họ không biết đường biết hướng. Cũng như Ba Vua, họ cần có những ánh sao soi đường dẫn lối.
Tìm đâu ra ngôi sao xưa đã soi đường cho Ba Vua? Ngày nay, Chúa không dùng ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn mỗi người chúng ta trở thành một vì sao soi dẫn mọi người đến với Chúa.
Là ngôi sao có nghĩa là phải có ánh sáng. Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi chính bản thân nó có ánh sáng. Người Kitô hữu chỉ chiếu sáng khi chính cuộc sống của họ mang ánh sáng, phản chiếu ánh sáng nhận từ nơi Thiên Chúa.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng hi vọng. Niềm hi vọng vào ơn cứu độ của Chúa giúp ta vững bước trên đường lý tưởng. Niềm hi vọng vào một trời mới đất mới cho ta thêm sức mạnh góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp. Niềm hi vọng vào hạnh phúc thiên đàng giúp ta đánh giá đúng mức của cải vật chất đời này. Hi vọng là ánh sáng làm tươi đẹp con người và cuộc đời.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng tin yêu. Tin yêu Chúa và tin yêu người. Tin yêu để xây dựng một cuộc sống chan hoà tình người. Tin yêu để tha thứ hoà giải. Tin yêu để vượt qua mọi bóng tối thù hận, chia rẽ, bất hoà. Tin yêu là làn ánh sáng ấm áp làm cho thế giới trở nên gần gũi, con người trở nên thân thiện, cuộc đời trở thành đáng yêu đáng mến.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh sáng công bình, bác ái. Niềm hi vọng, niềm tin yêu được chứng minh bằng đời sống công bình, bác ái. Tin Chúa được biểu lộ qua sự công bình trong đời sống. Yêu Chúa được thể hiện qua tình bác ái với tha nhân.
Tất cả những làn ánh sáng nói trên góp lại thành ánh sáng đạo đức. Đắm chìm vào vật chất sẽ khiến con người rơi vào bóng tối tuyệt vọng, không lối thoát. Nghi ngờ con người sẽ khiến cuộc đời chìm vào bóng tối cô đơn. Thiếu công bình bác ái sẽ phủ lên thế giới một bóng tối phi nhân, tàn nhẫn. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới đủ sức phá tan những bóng tối ấy. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới làm cho thế giới thành vui tươi hạnh phúc.
Thế giới đang mong chờ ánh sao dẫn đường. Chúa đang mời gọi chúng ta trở thành một ngôi sao chiếu lên làn ánh sáng đạo đức. Chính qua làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và yêu mến Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp con sống xứng đáng là người con của Chúa sự sáng.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Bạn nghĩ gì về cuộc tìm kiếm của Ba Vua? Bạn có kiên trì tìm Chúa như Ba Vua không?
2. Bạn nghĩ gì về bổn phận làm chứng cho Chúa? Bạn có mong ước trở thành ngôi sao dẫn đưa mọi người đến với Chúa không?
3. Đâu là những ánh sáng người Kitô hữu phải có để dẫn người khác tới Chúa? Trong năm mới này, bạn sẽ làm gì để làm chứng cho Chúa?
MÙA THƯỜNG NIÊN SAU MÙA GIÁNG SINH NĂM C
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
- Is 40,1-5.9-11
- Tt 2,11-14 ; 3,4-7
- Lc 3, 15-16.21-22
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Sông
Giođăng, tiếng Do thái là "Yarad"
có nghĩa là đi xuống. Sông Giođăng phát nguồn từ ngọn núi Hécmon ở
độ cao 520 m. Suốt 220 km đường dài dòng sông không ngừng đi xuống.
Thoạt tiên sông chảy vào hồ Hulê chỉ còn 68 m trên mực nước biển. Kế
đó sông chảy vào biển hồ Galilê, nơi Chúa Giêsu thường qua lại, và các
tông đồ thường chài lưới. Ở đây lòng hồ sâu 212 m dưới mực nước biển.
Sông tiếp tục chảy xuống miền Nam, đổ vào Biển Chết. Ở đây là độ sâu
394m dưới mực nước biển. Có thể nói đây là điểm thấp nhất của địa
cầu.
Khi Chúa
Giêsu bước xuống sông Giođăng để chịu phép rửa, Người đã xuống chỗ
thấp nhất không chỉ về chiều sâu theo không gian địa lý mà còn về
chiều sâu tâm lý xã hội. Bước xuống để Gioan Tẩy giả làm
phép rửa tội, Chúa Giêsu đã hoà mình vào dòng thác người tội lỗi,
cần thống hối ăn năn. Tuy đến để cứu độ người tội lỗi, nhưng Chúa
Giêsu không cho mình quyền đứng trên kẻ tội lỗi. Người đã hạ mình
xuống ngang hàng với họ, liên đới với họ và trở nên anh em của họ.
Không ai nhận ra Người. Mọi người đều cho rằng Người là một trong
những kẻ tội lỗi.
Trong đêm Giáng sinh, ta được chứng kiến một Thiên
Chúa hạ mình xuống làm người. Làm một người bé nhỏ nghèo hèn hình
như chưa đủ đối với tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa, nên hôm nay
người lại hạ mình xuống thêm một bậc nữa, xuống tận đáy xã hội nhân
loại khi nhận mình tội lỗi.
Hôm nay, bắt đầu cuộc đời công khai
của Chúa Giêsu. Người bắt đầu xuất hiện để rao giảng Tin Mừng. Trước
khi tiến ra gặp gỡ quần chúng, Chúa Giêsu đã tới gìm mình trong dòng
sông Giođăng. Để chuẩn bị ra gặp loài người Chúa Giêsu cảm thấy cần
phải thanh tẩy. Mặc lấy xác phàm, Chúa Giêsu chưa cảm thấy mình gần
với nhân loại cho đủ. Người còn hạ mình xuống làm một người tội
lỗi. Người gìm mình xuống lòng sông Giođăng, dường như muốn mượn làn
nước trong xanh tẩy sạch đi tất cả dáng vẻ cao quý của Thiên Chúa còn
vương vấn nơi thân xác nhân loại của Người. Tẩy sạch đi tất cả những
gì ngăn cách, để Người được thực sự là một người anh em của mọi
người.
Dòng nước sông Giođăng có trong xanh đến mấy cũng đâu đủ sức rửa Thiên
Chúa làm người. Thực ra chính Người tự rửa mình bằng sự khiêm nhường
thẳm sâu. Khiêm nhường là một phép rửa. Vì khiêm nhường là sự quên
mình, là chết đi một chút. Gìm mình vào dòng sông là chấp nhận đau
khổ và chết đi. Cái chết chính là phép rửa như Chúa Giêsu đã nói
với các môn đệ: "Thầy còn phải chịu một phép rửa, và Thầy những
bồn chồn chờ đến lúc hoàn tất" (Lc 12, 50). Người còn hỏi hai ông
Gioan và Giacôbê khi hai ông này đến xin được ngồi bên tả, bên hữu trong
nước người: "Các ngươi có thể uống chén Ta uống và chịu thanh tẩy
thứ thanh tẩy Ta phải chịu không?" (Mc 10, 38). Khi nói thế Chúa
Giêsu có ý nói đến cái chết Người sẽ phải chịu.
Một câu châm ngôn nói: Không ai thấy
được tình yêu. Người ta chỉ thấy được những bằng chứng của tình yêu.
Bằng chứng tình yêu của Chúa Giêsu đối với ta đó là sự hạ sinh làm
một em bé nghèo hèn yếu ớt. Đó là sự khiêm nhường hoà mình vào
đoàn lũ những tội nhân tới gìm mình trong dòng sông Giođăng. Tình yêu
đã thúc đẩy Người đi những bước táo bạo, bất ngờ. Mượn dòng nước
sám hối xoá đi mọi khoảng cách còn lại giữa Thiên Chúa và con người.
Cử chỉ khiêm nhường của Người là một lời mời gọi ta. Nếu ta cảm
thấy mình còn xa cách Chúa. Nếu ta cảm thấy mình cần được thanh tẩy.
Đừng ngần ngại thay đổi đời sống. Hãy mạnh dạn tiến đến lãnh nhận
phép rửa của Chúa Giêsu để trở nên gần gũi với Người. Nếu ta chưa
thể lãnh nhận phép rửa trong cái chết tủi nhục như Chúa Giêsu, ta vẫn
có thể được thanh tẩy trong phép rửa khiêm nhường. Hãy rửa mình trong
dòng lệ sám hối. Hãy tắm mình trong dòng nước khiêm cung. Như lời vua
Đavít nói: "Lễ dâng Chúa là tâm hồn sám hối. Một tấm lòng tan nát
giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê" (TV 50).
Khiêm nhường sám hối là bước khởi đầu để ta đón nhận Phúc Âm.
Khiêm nhường sám hối là quay trở về nhà Cha, sống trọn tâm tình của
người con thảo hiếu. Khi khiêm nhường trở về, ta sẽ gặp được người Cha
nhân hậu đang đứng chờ ta. Người sẽ nói về ta như nói về CHÚA GIÊSU: "Đây
là con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về con".
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết đến
với Chúa và đến với anh em bằng sự khiêm nhường sám hối.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Chúa Giêsu không ngừng đi xuống. Còn bạn, bạn có tự hạ, hay là lúc nào bạn cũng muốn gìm người khác xuống?
2- Làm thế nào để trở nên “Con yêu dấu” của Đức Chúa Cha?
3- Hằng ngày, bạn có cảm thấy cần phải chịu phép rửa khiêm nhường của Chúa Giêsu không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
-
Is 62,1-5
- 1Cr
12,4-11
-
Ga 2, 1-12
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Những ngày tháng cuối năm các đám cưới đua nhau tổ chức. Mùa cưới rộ
lên làm cho mùa đông bớt vẻ ảm đạm tiêu điều. Đám cưới nào thường
cũng vui. Trong đám cưới người ta chỉ nói chuyện vui. Nhưng niềm vui
kéo dài được bao lâu? Những lời chúc trăm năm hạnh phúc có thật sự
đem hạnh phúc đến cho đôi tân hôn và làm cho họ hạnh phúc suốt đời
không? Nhìn vào thực trạng đời sống gia đình hôm nay, ta thấy có được
hạnh phúc gia đình là một điều rất khó, hạnh phúc trăm năm thì lại
càng khó lắm.
Đám cưới Cana hôm nay cũng suýt lâm vào cảnh bế tắc. Tiệc đang nửa
chừng thì hết rượu. Hết rượu là một bất trắc không ngờ. Trong gia
đình, những bất trắc có thể đưa đến bất đồng. Bất đồng dễ đưa tới
bất hoà. Đã bất hoà thì đường đến bất hạnh không xa.
Đám cưới Cana thực khôn ngoan nên đã mời Chúa Giêsu đến dự tiệc. Việc
Chúa Giêsu đến tham dự bữa tiệc cưới nói lên sự quan tâm của Thiên
chúa đối với con người. Thiên chúa yêu thương con người nên đã đến ở
giữa loài người. Không những đến ở giữa loài người, Thiên chúa còn
trở nên một người bạn thân thiết của con người, đồng hành với con
người, chia vui sẻ buồn với con người. Chưa bao giờ người ta thấy một
Thiên chúa gần gũi đến thế, thân tình đến thế. Với tình thân, Thiên
chúa đã đến chia vui với gia đình trong dịp đại hỉ. Và việc Thiên
chúa đến nhà đã cứu gia đình mới khỏi cảnh bất hạnh ngay trong ngày
đầu tiên chung sống.
Có lẽ ai trong chúng ta cũng muốn mời Chúa đến nhà. Sự hiện diện
của Chúa giúp ta vượt qua được những bất trắc trong đời sống gia
đình. Những bất trắc thì nhan nhản trong đời sống hằng ngày.
Việc thiếu rượu của gia đình Cana nói lên những thiếu thốn của gia
đình chúng ta. Có những thiếu thốn về vật chất: cơm không đủ ăn, áo
không đủ mặc, thiếu tiền cho con đi học, thiếu thuốc men khi bệnh tật.
Có những thiếu thốn về tinh thần: thiếu quan tâm chăm sóc lẫn nhau,
thiếu khuyên bảo dạy dỗ con cháu, thiếu kính trọng trong đối xử,
thiếu tế nhị trong lời nói. Nhưng trầm trọng nhất là những thiếu
thốn về đời sống đạo đức: thiếu đức tin, thiếu lòng đạo đức sốt
sắng, thiếu công bằng bác ái, thiếu trách nhiệm duy trì đời sống đức
tin trong gia đình.
Đời sống gia đình lúc đầu rất vui, nhưng sau đó, nếu không khéo gìn
giữ sẽ trở nên nhạt nhẽo như nước lã. Nhạt nhẽo vì tình nghĩa phai
dần. Nhạt nhẽo vì những bổn phận nặng nề, nhàm chán. Nhạt nhẽo vì
những khuyết điểm không tránh được của mọi người.
Những thiếu thốn và những nhạt nhẽo ấy hầu như vượt ngoài khả năng
giải quyết của ta, nên ai cũng muốn mời Chúa đến nhà để Chúa cứu gia
đình khỏi sự tan vỡ, sụp đổ.
Thế nhưng mời Chúa đến không phải là tổ chức làm phép nhà cho long
trọng, ăn tân gia cho linh đình. Mời Chúa đến không phải chỉ là làm
bàn thờ cho đẹp, treo thật nhiều ảnh tượng. Muốn mời Chúa đến, việc
đầu tiên cần thiết là phải làm theo ý Chúa. Như Đức Mẹ dạy các gia
nhân: “Người bảo gì thì phải làm
theo”. Nhờ làm theo lời Chúa mà gia đình Cana thoát khỏi cảnh xấu
hổ, hạnh phúc gia đình được bền vững.
Gia đình muốn sống trong vui tươi, muốn giữ vững được hạnh phúc hãy
làm theo Lời Chúa. Đọc
Phúc
Âm, học hỏi và đem ra thực hành. Để Lời Chúa hướng dẫn mọi lời ăn
tiếng nói của mình. Để Lời Chúa soi sáng những suy nghĩ của mình.
Để Lời Chúa điều khiển mọi việc làm của mình. Lộc Xuân mà chúng ta
rút được trong ngày Tết phải là châm ngôn hướng dẫn toàn bộ đời sống
gia đình trong suốt năm mới này.
Sống theo Lời Chúa, gia đình sẽ được Chúa dẫn dắt vượt qua những
thiếu thốn. Sống với Chúa, hạnh phúc gia đình sẽ luôn nồng nàn tươi
mới như chất rượu ngon. Sống trung thành kết hiệp với Chúa, gia đình
sẽ được Chúa đưa vào dự bữa tiệc cưới trên trời, lúc đó chàng rể
đích thật là Chúa Kitô sẽ cho ta nếm thứ rượu tuyệt ngon trên thiên
đàng, đó là hạnh phúc không bao giờ tàn phai.
Lạy Chúa, xin đến với chúng con. Lạy Chúa, xin hướng dẫn chúng con.
Lạy Chúa, xin ở lại với chúng con.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Gia đình bạn có kinh nghiệm gì về những thiếu thốn?
2- Gia đình bạn có kinh nghiệm gì về sự nhạt nhẽo tình nghĩa?
3- Bạn đã có kinh nghiệm về việc thực hành Lời Chúa trong gia đình
chưa?
4- Có bao giờ bạn cảm thấy gia đình bạn được Chúa cứu thoát khỏi
hiểm nguy, thử thách, thất bại?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Nk 8,2-4a.6.8-10
- 1Cr 12.12-30
-
Lc 1, 1-4 ; 4,
14-21
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Chúa Giêsu luôn sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Tin mừng
nhiều lần đề cập đến điều này. Chẳng hạn như: được Chúa Thánh Thần
thúc đẩy, Người vào sa mạc ăn chay cầu nguyện. Hôm nay, được Chúa
Thánh Thần thúc đẩy, Người đi rao giảng khắp miền Galilêa. Trở về
Nazareth, Người đọc Sách Thánh trong Hội đường đúng đọan nói về Ơn
Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Nhiều lần Tin Mừng nói Chúa Giêsu tràn
đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần. Nhờ đâu được như thế? Một phần
nhờ việc đọc Sách Thánh.
Chúa Giêsu
thường xuyên đọc Sách Thánh. Tin Mừng hôm nay diễn tả: “Rồi
Chúa Giêsu đến Nazareth, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường
như Người vẫn quen làm trong ngày sabbat, và đứng lên đọc Sách Thánh”.
Yêu mến và gắn bó với hội đường, nên Chúa Giêsu thường xuyên đến sinh
họat với mọi người trong hội đường. Yêu mến và gắn bó với Sách
Thánh nên Chúa Giêsu thường xuyên đọc Sách Thánh. Còn hơn thế nữa, sau
khi đọc, Người đứng ra giải nghĩa cho mọi người. Đó là nếp sinh họat
bình thường của Người. Nếp sinh họat này đã thành thói quen từ khi
Người còn nhỏ bé. Nên ngay từ khi lên 12 tuổi, Người đã có thể đối
đáp với các bậc tiến sĩ trong đền thờ Giêrusalem.
Chúa Giêsu
kính cẩn đọc Sách Thánh. Chúa Giêsu không đọc Sách
Thánh theo thói quen. Người đọc một cách trịnh trọng kính cẩn. Ta hãy
chiêm ngắm thái độ của Người theo lời diễn tả của thánh Luca: “Họ
trao cho Người cuốn sách tiên tri Isaia. Người mở ra và đọc... Người
cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai
nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với
họ”. Thật là trang nghiêm kính cẩn. Thái độ của Người ảnh hưởng
đến cả hội đường. Nên khi Người đọc mọi người đều chăm chú nhìn
Người. Chúa Giêsu trân trọng việc đọc Sách Thánh vì Người luôn thao
thức tìm thánh ý Chúa Cha. Người đọc Sách Thánh để tìm hướng dẫn
cho cuộc đời. Người đọc Sách Thánh để mong chu toàn thánh ý Chúa Cha.
Người nhận biết thánh ý Chúa Cha qua những trang Sách Thánh. Người cố
đọc giữa những hàng chữ để tìm thánh ý Chúa Cha.
Chúa Giêsu
nghiêm túc thực hành lời Sách Thánh. Khi nói với mọi
người rằng: “Hôm nay đã ứng nghiệm
lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe”, Chúa Giêsu muốn nói hai điều.
Điều thứ nhất: Người tìm thấy thánh ý Chúa Cha qua đọan Sách Thánh.
Với thái độ kính cẩn, với lòng khiêm tốn hiếu thảo lắng nghe, Chúa
Giêsu đã đọc được thánh ý Chúa Cha qua đoạn sách tiên tri Isaia. Biết
lời tiên tri Isaia ứng nghiệm vào sứ mạng của mình. Điều thứ hai:
Biết được thánh ý Chúa Cha rồi, Chúa Giêsu cương quyết thực hành.
Người coi đó là chương trình hành động. Người coi đó là chỉ nam hướng
dẫn. Dù sứ mạng của Người vừa mới khởi đầu, Người cũng cương quyết
hoàn thành. Suốt đời Người sẽ thực hành chương trình này. Vì thế
đọan sách Isaia ứng nghiệm vừa do thánh ý Chúa Cha vừa do ý chí của
Chúa Giêsu quyết tâm thực hành thánh ý Chúa Cha.
Đây là mẫu gương cho ta. Đó là kết quả của Ơn Chúa Thánh Thần. Hãy
thường xuyên đọc Kinh Thánh để ta luôn được tiếp xúc với Thiên Chúa.
Hãy kính cẩn tìm thánh ý Chúa trong Kinh Thánh chắc chắn ta sẽ được
ơn Chúa soi sáng cho biết đường đi. Nhất là hãy quyết tâm thực hành
Lời Chúa mà ta đã đọc. Ta sẽ được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần. Thật
vậy, chẳng ai có thể say mê Kinh Thánh nếu không được Ơn Chúa Thánh
Thần lôi cuốn. Chẳng ai tìm được thánh ý Thiên Chúa nếu không được Ơn
Chúa Thánh Thần soi sáng. Chẳng ai có thể thực hành Lời Chúa nếu
không được Ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ. Như một tác động hai chiều.
Càng được Ơn Chúa Thánh Thần ta càng say mê Kinh Thánh. Càng say mê Kinh
Thánh ta lại càng để Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời. Cuộc đời
sống theo Ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn sẽ hoàn toàn ứng nghiệm ý
định của Thiên Chúa cho bản thân và cho tha nhân. Đó chính là cuộc đời
đạt được mục đích cao quí nhất.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Bạn có thường xuyên đọc Kinh Thánh không?
2. Bạn tìm gì trong sách Kinh Thánh: khôn ngoan, lịch sử hay thánh ý
Thiên Chúa cho đời bạn?
3. Khi đọc Kinh Thánh bạn có nghĩ rằng Chúa đang nói với bạn không?
4. Bạn có thấy một câu Kinh Thánh ứng nghiệm vào bạn và bạn quyết
tâm thực hiện không?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Gr
1,4-5.17-19
- 1Cr 12,31
– 13,13
-
Lc 4, 21-30
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Sau khi rao giảng một thời gian, Chúa Giêsu trở về làng cũ. Thọat nghe
Chúa giảng, họ khâm phục tán thành. Nhưng sau đó họ lại xua đuổi và
muốn giết Chúa. Thật là đáng buồn. Đúng như lời thánh Gioan đã viết:
“Người đã đến nhà nhưng người nhà
không nhận biết Người”. Tại
sao có cảnh trái ngang đau lòng như thế? Thưa vì tư tưởng của Thiên
Chúa khác với tư tưởng của họ.
Chúa đi tìm đức tin còn họ đi tìm lợi lộc.
Khi đi rao giảng, Chúa muốn đem đến cho ta niềm tin. Niềm tin đã là
khởi điểm của nhiều phép lạ. Chúa chỉ làm phép lạ khi người ta có
niềm tin. Niềm tin đã là kết quả của nhiều phép lạ. Chúa chỉ làm
phép lạ khi phép lạ dẫn đến niềm tin. Nhưng dân làng Nazareth không
nhìn thấy điều đó. Họ không tin Người là Đấng Cứu Thế. Lời giảng
của Người không đưa họ tới đức tin và Thiên Chúa, vào Nước Trời. Họ
chỉ mong được có phép lạ. Vì họ chỉ mong được lợi lộc vật chất:
được khỏi bệnh; được ăn no. Mong ước của họ không gặp được mong ước
của Chúa.
Chúa sống trong khiêm nhường nhưng họ sống trong kiêu căng.
Chúa không bao giờ làm phép lạ với mục đích biểu diễn. Chúa chỉ làm
phép lạ để giải nghĩa mầu nhiệm Nước Chúa. Chúa không làm phép lạ
khi ma quỉ cám dỗ Chúa trong hoang địa. Chúa không xuống khỏi thập giá
khi dân chúng thách thức Chúa trên Núi Sọ. Nên hôm nay Chúa cũng không
làm phép lạ để thỏa mãn tính hiếu kỳ và tính kiêu căng của dân làng
Nazareth. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ được vinh dự có người
đồng hương quyền phép. Họ mong Chúa làm phép lạ để làng họ cũng
được nở mày nở mặt với Capharnaum. Suy nghĩ của họ rất khác với suy
nghĩ của Chúa.
Chúa có tâm hồn mở rộng trong khi tâm hồn họ hẹp hòi.
Họ mong ước Chúa là người làng Nazareth thì phải dành mọi ưu tiên cho
dân làng từ việc rao giảng cho đến việc làm phép lạ. Tất cả phải
bắt đầu và chỉ bó gọn trong làng. Nhưng Chúa Giêsu, khi trích dẫn
chuyện tiên tri Elia ở nhà bà góa Sarepta trong thời hạn hán, làm cho
bình dầu và hũ bột của gia đình bà không bao giờ vơi và chuyện tiên
tri Elisa chữa tướng Naaman, người Syria khỏi bệnh phong, đã cho thấy
Nước Chúa không chỉ bó hẹp lại trong phạm vi người thân thuộc nhưng
phải mở rộng tới tất cả mọi người. Không chỉ những người trong đạo
Do Thái mà cho cả những người ngoại đạo nữa. Hai nhãn quan khác hẳn
nhau.
Tôi là người có đạo. Nhưng
biết đâu tôi không đón nhận được Chúa vì tôi cũng giống như dân làng
Nazareth, đến với Chúa chỉ mong được lợi lộc vật chất, đến với Chúa
chỉ vì hư danh, đến với Chúa với tâm hồn hẹp hòi. Hôm nay tôi xinh
Chúa thanh tẩy tâm hồn tôi khỏi thói ham mê lợi lộc, thói phô trương bề
ngoài và thói hẹp hòi khép kín, để tôi được đón nhận Chúa và để
tôi trở nên tông đồ của Chúa.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1. Giữ đạo tốt để được may mắn. Bạn có ý nghĩ như thế không?
2. Ban khó chịu khi người ngoại đạo được may mắn. Thái độ này có
đúng không?
3. Thường thường, bạn đi tìm Chúa, tha thiết cầu nguyện để đạt được
điều gì? Để được may mắn, khỏi tai họa, hay để được hiểu biết, yêu
mến Chúa?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Is 6,1-2a.3-8
- 1Cr 15,1-11
-
Lc 5, 1-11
II.TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Bài Tin mừng hôm nay tường thuật về mẻ cá lạ lùng mà Phêrô và các
bạn được chứng kiến. Đây không phải chỉ đơn thuần là một phép lạ lớn
lao cho ta ngưỡng phục quyền năng của Thiên chúa. Nhưng qua dấu lạ này,
Chúa Giêsu còn muốn mời gọi ta ra khơi truyền giáo. Và qua tiến trình
của phép lạ, Chúa Giêsu đã áp dụng một chương trình đào tạo các môn
đệ, đặc biệt là Phêrô, người đứng đầu các môn đệ.
Chương trình đào tạo này gồm 4 điểm.
Điểm thứ nhất:
cảm nghiệm về sự nghèo nàn của bản thân. Phêrô và các
bạn đang giặt lưới. Các ông mệt mỏi sau một đêm thức trắng vật lộn
với biển khơi. Tâm trạng các ông chán nản sau thất bại chua cay não
nề. Thế mà giờ đây, Chúa Giêsu lại bảo các ông ra khơi. Ra tận chỗ
nước sâu. Nước sâu là chỗ nguy hiểm. Nước sâu là chỗ Phêrô đã gặp
thất bại. Chúa Giêsu muốn Phêrô trở lại chỗ nước sâu để nhận thức rõ
sự vô tài bất lực của bản thân. Chúa Giêsu muốn Phêrô nhìn rõ những
thất bại để ông biết khiêm nhường. Khiêm nhường là bài học đầu tiên
Chúa Giêsu muốn gửi đến các môn đệ của Người.
Điểm thứ hai:
cảm nghiệm về sự cao cả của Thiên chúa. Người tông đồ
phải làm chứng về Thiên chúa. Muốn làm chứng phải có kinh nghiệm. Ai
chưa từng gặp được Thiên chúa, chưa từng tiếp xúc với Người thì không
thể làm chứng về Người. Trong những trường hợp đặc biệt, Thiên chúa
thường chủ động tỏ mình ra. Chúa tỏ mình ra cho Môsê trong bụi gai
cháy đỏ. Chúa tỏ mình ra cho thánh Phaolô qua làn ánh sáng chói lọi
trên đường đi Đamát. Hôm nay Chúa tỏ mình ra cho Phêrô qua mẻ lưới lạ
lùng. Lập tức Phêrô nhận biết sự cao cả, sự thánh thiện của Chúa.
Sợ hãi vì thấy mình tội lỗi, Phêrô vội quì xuống xin Chúa rời xa.
Phêrô đã sống bên cạnh Chúa. Ông đã được tiếp xúc với Chúa. Ông đã
cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả của Chúa. Sau này ông đi rao
giảng chỉ là để kể lại những gì ông đã mắt thấy tai nghe.
Điểm thứ ba trong chương trình đào tạo môn đệ của Chúa đó là
sự
vâng lời tuyệt đối. Phêrô hẳn là rất ngạc nhiên khi Chúa Giêsu
bảo ông ra khơi đánh cá, lại còn chỉ rõ nơi thả lưới. Không ngạc nhiên
sao được khi Phêrô là người miền biển trong khi Chúa Giêsu là người
miền núi. Phêrô làm nghề chài lưới lâu năm kinh nghiệm trong khi Chúa
Giêsu chỉ làm nghề thợ mộc. Thế mà khi Chúa Giêsu bảo ông thả lưới
bên phải thuyền, ông đã tăm tắp làm theo. Phêrô đã vâng lời tuyệt đối.
Phêrô đã học được thái độ vâng lời của người môn đệ. Ông đã thành
công. Ông đã thấy kết quả rõ ràng. Và Chúa đã đặt ông làm tông đồ
trưởng.
Điểm sau cùng mà Chúa muốn người môn đệ phải có đó là
sẵn sàng ra đi. Ra đi
là một thái độ liều lĩnh. Vì vượt qua những khoảng không gian vật lý
cheo leo. Ra khơi là chấp nhận đối đầu với phong ba bão táp.
Vượt qua những khoảng không gian vật lý đã khó. Vượt qua những khoảng
không gian tâm lý còn khó hơn. Ra đi là bỏ nơi an toàn để đến nơi bấp
bênh. Ra đi là bỏ nơi quen biết để đến nơi xa lạ. Lên đường truyền giáo
là bỏ lại tất cả: gia đình, thuyền bè, chài lưới. Bỏ cả nghề
nghiệp cũ đã thành thạo để bắt tay vào nghề mới còn chập chững. Bỏ
lưới cá để chài người.
Nhưng khó nhất chính là ra khỏi chính mình. Dù có đi xa ngàn dặm
nhưng vẫn giữ những thói tật xưa cũ thì người ta vẫn còn ở khởi
điểm. Muốn lên đường người môn
đệ phải ra khỏi tính tự ái tự mãn của mình. Ra khỏi những quan niệm
xưa cũ hẹp hòi. Ra khỏi những ảo tưởng viễn vông. Ra khỏi thói ích
kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.
Khi đã từ bỏ tất cả, người môn đệ sẽ trở nên hoàn toàn nghèo nàn.
Gia tài chỉ có niềm cậy tin phó thác hoàn toàn vào Đấng kêu gọi ta.
Vũ khí chỉ có lòng vâng phục tuyệt đối vào Đấng sai ta.
Mỗi người đang được Chúa huấn luyện. Bao lâu ta chưa cảm nghiệm được
sự hèn kém của bản thân, chưa cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả
cũng như tình yêu của Thiên chúa, chưa có niềm vâng phục tuyệt đối,
chưa ra đi trong tự do và khó nghèo, ta vẫn chưa thực sự trở thành môn
đệ của Chúa. Chưa được đào tạo kỹ lưỡng mà đã làm việc thì phần
thành công chắc chắn sẽ ít hơn phần thất bại.
Lạy Chúa, xin hãy dạy bảo con theo đường lối của Chúa.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Bạn có tuyệt đối vâng lời Chúa trong mọi hoàn cảnh không?
2- Bạn có cảm nghiệm về sự vô tài bất lực của mình không?
3- Bạn đã ra đi khỏi chính mình chưa?
4- Bạn có cảm thấy Chúa có chương trình đào tạo mình không?
I.TẤM BÁNH LỜI CHÚA
-Gr 17,5-8
-1Cr 15,12.16-20
-
Lc 6,17.20-26
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Bầu khí ngày Tết vẫn chưa tan, nhất
là tại miền Bắc giàu truyền thống lễ hội. Ta vẫn còn nghe những lời
chúc thịnh vượng, khang ninh cho năm mới. Đầu năm mới, các nước trên
thế giới đều phấn đấu để kinh tế phát triển, tăng thu nhập cho toàn
dân. Thế nhưng Lời Chúa hôm nay lại nói: “Hỡi anh em là những kẻ nghèo khó, anh em thật có phúc, vì
Nước Thiên Chúa là của anh em”. Phải chăng Chúa Giêsu phản lại tiến
bộ, muốn nhân loại tụt hậu?
Để thấu hiểu Lời Chúa, ta cần ghi nhận mấy điểm sau đây:
Trước hết ở đây Chúa Giêsu không nói về kinh tế, nhưng nói về hạnh
phúc. Vật chất có thể góp phần vào hạnh phúc, nhưng vật chất tự nó
chưa phải là hạnh phúc. Câu chuyện về công nương Diana là một minh hoạ
rõ nét.
Mùa hè năm 1997, cả thế giới xôn xao về cái chết của công nương Diana.
Công nương Diana là một phụ nữ xinh đẹp. Từ khi kết hôn với thái tử
Charles, con của nữ hoàng nước Anh, công nương trở thành người có danh
vọng và đồng thời cũng có nhiều tiền của vào bậc nhất trên thế
giới. Có lẽ ai cũng nghĩ rằng một phụ nữ đẹp đẽ, giàu sang, phú
quí như thế phải là người hạnh phúc nhất trên đời. Nhưng không đúng
như thế. Công nương rất đau khổ vì cảnh gia đình thiếu tình yêu thương
chân thực. Thái tử Charles vẫn lén lút quan hệ với người tình cũ. Đau
khổ mà chẳng thể nói ra, vì cả gia đình bên chồng muốn giữ gìn uy
tín cho hoàng gia. Chán nản với đời sống gia đình, công nương đã tìm
vui bên người bạn trai mới. Trong một chuyến đi chơi ở Paris, cả hai bị
thiệt mạng trong một tai nạn xe hơi. Có nhiều người cho rằng chính
hoàng gia Anh đã gây ra tai nạn. Không ai nghĩ rằng cuộc đời công nương
có hạnh phúc, dù bà có tất cả: sắc đẹp, tiền của, danh vọng.
Thứ đến, Chúa không lên án vật chất, nhưng chỉ lên án thái độ sử
dụng vật chất. Vật chất do Chúa dựng nên để phục vụ con người. Chúa
dựng nên và Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Nhưng con người đã làm sai
chương trình của Chúa. Thay vì sử dụng vật chất như phương tiện, người
ta đã biến nó thành mục đích. Thay vì sử dụng vật chất phục vụ
đồng loại, người ta đã sử dụng đồng loại để phục vụ vật chất. Đó
là những thái độ bị Chúa lên án. Những thái độ ấy biến vật chất
thành chướng ngại ngăn cản ta đạt đến hạnh phúc Nước Trời.
Sau cùng, Chúa không khuyến khích cảnh nghèo, càng không khuyến khích
những người vì lười biếng mà trở nên nghèo. Chúa chỉ khuyến khích
những người vì Nước Trời mà tự nguyện sống nghèo.
Những người vì Nước Trời mà tự nguyện trở nên nghèo là những người
hiểu biết giá trị thực sự của tiền bạc. Biết rõ tiền bạc chỉ là
phương tiện nên họ dùng tiền bạc mà không dính bén, có tiền mà không
nô lệ cho đồng tiền, nhất là biết dùng tiền vào những việc hữu ích
cho đồng loại. Vì tha nhân, vì Nước Trời mà tự nguyện sống nghèo.
Những người tự nguyện sống nghèo như thế không làm cho xã hội tụt
hậu, trái lại giúp phát triển xã hội, đưa nhân loại tiến lên. Không
chỉ tiến lên về văn minh vật chất mà còn tiến về nền văn minh tình
thương.
Những người tự nguyện sống nghèo như thế giúp nâng cao nhân phẩm con
người, đem niềm vui cho người sầu khổ, gieo niềm hi vọng cho những
người bị bỏ quên, đem tình thương đến cho những người bị gạt ra ngoài
lề xã hội.
Những người tự nguyện sống nghèo như thế không phải là những người
lười biếng, hèn nhát, uỷ mị, bạc nhược. Trái lại đó là thái độ
của những tâm hồn dũng mạnh, luôn phấn đấu với chính mình để nâng tâm
hồn mình và nâng cả thế giới lên.
Tự nguyện sống nghèo như thế là một mối phúc cho thế giới, cho nhân
loại. Thế giới sẽ tốt đẹp biết bao nếu có nhiều người tự nguyện như
thế.
Sau đám tang của công nương Diana 1 tuần lễ, thế giới lại xôn xao về
một đám tang khác: đám tang của mẹ Terexa Cancutta. Khác hẳn với công
nương Diana, mẹ Terexa là một nữ tu già nua, sống một đời sống nghèo.
Trong phòng của mẹ chỉ có một chiếc ghế và một chậu thau đựng nước.
Người ta cho mẹ nhiều tiền, nhưng mẹ tự nguyện sống nghèo, dành hết
tiền của để giúp những người nghèo, những trẻ mồ côi, tàn tật. Khi
Đức Giáo hoàng sang thăm Ấn độ, thấy mẹ đi lại công tác nhiều, tặng
mẹ một xe ô-tô sang trọng. Nhưng khi Đức Giáo hoàng về, mẹ đã bán xe
lấy tiền giúp người nghèo. Có 40 nguyên thủ quốc gia đến tham dự đám
tang của mẹ. Và Ấn độ, một nước không ưa gì đạo Công giáo, đã cử
hành quốc táng cho mẹ. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh
hồn mẹ trong khi các vị nguyên thủ quốc gia quyền uy đứng cúi đầu
kính cẩn trước thi hài vị nữ tu già nua, nghèo khó. Mẹ đã thực hành
Lời Chúa: “Phúc cho anh em là người
nghèo khó, vì nước Trời thuộc về anh em”.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Bạn có kinh nghiệm vui buồn gì về tiền bạc? Vì tranh chấp tiền
bạc mà mất tình nghĩa? Nhờ biết nhường nhịn về tiền bạc mà thêm
bạn hữu?
2- Lời Chúa hôm nay có chúc phúc và chúc dữ. Bạn thuộc diện nào?
Được chúc phúc hay bị chúc dữ?
3- So sánh cuộc đời của công nương Diana và cuộc đời của mẹ Terẽa,
bạn rút ra được quyết định nào cho đời bạn?
4- Tiền bạc và hạnh phúc. Bạn thấy chúng có liên hệ gì với nhau?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- 1S 26,2.7-9.12-13.22-23
- 1Cr 15,45-49
-
Lc 6, 27-38
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Bài đọc I và bài Tin mừng hôm nay đều nói về sự tha thứ. Nhưng ở mức
độ khác nhau.
Bài đọc I tường thuật sự tha thứ của David. David làm ơn mà mắc oán.
Sau khi chiến thắng Goliath, giải phóng dân Do thái khỏi tay người
Philistin, ông được dân chúng ca ngợi. Sự ngưỡng mộ của dân chúng đối
với David khiến vua Saul ghen tỵ. Saul tìm bắt David để giết đi. Hôm nay,
sau một cuộc săn lùng mệt mỏi, Saul ngủ thiếp đi trong hang đá. David
đến mà không ai hay biết. Có thể giết Saul, nhưng David đã không làm.
Trong David có cái mà ta gọi là bao dung, độ lượng, cao thượng. Tuy
nhiên sự tha thứ của David vẫn chưa hoàn toàn tự phát. Ông không dám
giết Saul một phần vì sợ xúc phạm đến “người được Thiên chúa xức
dầu”.
Trong quan hệ giữa người với người, nếu tha thứ bạn sẽ được tiếng là
độ lượng, còn người được tha thứ bị coi là thua kém bạn. Bạn được
lợi còn người kia bị thiệt.
Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu
đòi hỏi người môn đệ phải vượt qua cái thường tình. Người muốn môn
đệ vươn đến sự tha thứ hoàn hảo. Sự tha thứ hoàn hảo của Tin mừng
phải biểu lộ bằng hành động cụ thể: “Ai vả anh em má bên này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt
áo ngoài của anh em, thì cũng đừng cản họ lấy áo trong. Ai xin thì
hãy cho, ai lấy cái gì của anh em, thì đừng đòi lại”.
Không chỉ dừng lại ở hành động bên ngoài, sự tha thứ hoàn hảo phải
thấm sâu vào lý trí, không lấy ác báo ác, nhưng cũng không nghĩ xấu
về người khác: “Anh em đừng xét
đoán, thì sẽ khỏi bị Thiên chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ
khỏi bị Thiên chúa lên án”.
Thấm vào lý trí đã là một bước tiến dài nhưng vẫn chưa đủ, sự tha
thứ còn phải lan đến tận trái tim là trung tâm của tình yêu. Khi đã
chiếm lĩnh được trái tim, sự tha thứ trở nên một sức mạnh kỳ diệu
dẫn đến những hành động tích cực, lấy đức báo oán, đem yêu thương
xoá bỏ hận thù. Khi ấy ta mới có thể thực hành Lời Chúa dạy: “Anh
em phải yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét mình, phải chúc
lành cho kẻ nguyền rủa mình và cầu nguyện cho kẻ nhục mạ mình”.
Với những lời dạy dỗ trên, Chúa Giêsu muốn cho môn đệ của Người tha
thứ và yêu thương không phải như người thường nhưng như Thiên Chúa “Người
nhân hậu cả với những phường vô ân, với những quân độc ác”. Người
muốn cho các môn đệ của Người “từ bi như Cha trên trời là Đấng từ bi”.
Với những lời dạy dỗ trên, Chúa Giêsu muốn thanh tẩy thế giới sạch
mọi oán thù. Không phải chỉ sạch oán thù ngoài mặt nhưng sạch từ
trong thâm tâm mỗi người. Không phải chỉ bằng mặt mà còn phải bằng
lòng. Sào huyệt vững chắc nhất của oán thù không phải ở nơi người
khác nhưng ở trong lòng ta. Muốn thế giới hết oán thù, chính bản thân
ta phải từ bỏ oán thù trước. Muốn thế giới sống trong yêu thương,
chính ta phải yêu thương trước. Yêu thương giống như ngọn lửa thắp lên
rồi sẽ cháy lan mạnh mẽ. Yêu thương giống như bầu khí toả ra sẽ lan
tới từng buồng phổi, sẽ thấm vào từng mạch máu. Yêu thương chính là
sức mạnh biến đổi thế giới sâu xa nhất. Yêu thương là cuộc cách mạng
bền vững nhất.
Chúa Giêsu không chỉ nói suông. Chính Người đã thực hành những điều
Người nhắn nhủ các môn đệ. Người để cho quân lính bắt đi như con chiên
hiền lành đứng trước người thợ xén lông. Người chữa lành tai cho kẻ
đến bắt Người. Người không nói một lời nào trách móc những kẻ làm
điều ác cho Người. Sau cùng, lúc bị treo trên thánh giá, Người còn
cầu nguyện cho những kẻ giết Người. Người đã minh chứng một tình yêu
nguyên tuyền không bợn chút oán thù. Người đã minh chứng một tình yêu
mãnh liệt vượt qua mọi ghen ghét.
Hạt giống yêu thương Người đã gieo xuống. Người mong ta tiếp tục vun
tưới cho cây yêu thương kết trái đơm hoa. Ngọn lửa yêu thương Người đã
thắp lên. Người mong ta hãy đem lửa ấy chiếu soi khắp thế giới.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn
lòng con nên giống Trái Tim Chúa.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Khi có người xúc phạm đến bạn, bạn thường tìm cách báo thù hay
tìm cách tha thứ?
2- Mỗi khi mang mối oán thù trong lòng, bạn cảm thấy thế nào? Thanh
thản hay bứt rứt?
3- Bạn đã tha thứ cho ai bao giờ chưa? Bạn cảm thấy thế nào sau khi đã
tha thứ?
4- Sự tha thứ hoàn hảo mà Chúa dạy ta là gì?
5- Chúa Giêsu đã thực hành sự tha thứ như thế nào?
I.TẤM
BÁNH LỜI CHÚA
- Hc 27,4-7
- 1Cr 15,54-58
-
Lc 6, 39-45
II. TẤM
BÁNH CHIA SẺ
Tục ngữ nói: Đôi mắt là cửa sổ linh hồn. Là cửa sổ cho ta nhìn ra
thế giới bên ngoài. Nhìn ra để hiểu biết thế giới. Nhìn ra để đón
nhận thông tin. Nhưng khổ một nỗi, thông tin lọc qua ánh mắt nhiều khi
sai lạc. Có nhiều lý do.
Có ánh mắt sai lạc vì bị bệnh. Mắt bị bệnh sẽ nhìn không chính
xác. Nhìn không chính xác sẽ cho thông tin sai. Thông tin sai sẽ dẫn đến
phán đoán sai. Phán đoán sai sẽ dẫn đến hành động sai. Mắt hỏng mà
tưởng là còn tốt, mắt nhìn không thấy mà tưởng là thấy sẽ đưa đến
những hậu quả nguy hiểm như Chúa nói trong Tin mừng hôm nay: “Mù
mà dắt mù thì cả hai sẽ rơi xuống hố”.
Có ánh mắt sai lạc vì đeo kính mầu. Đeo kính mầu đen sẽ nhìn mọi sự
bằng mầu đen. Đeo kính mầu hồng mọi vật đều trở nên hồng. Kính lúp
có khả năng phóng đại tối đa sẽ làm cho ta có cái nhìn khác hẳn trên
một vật bình thường.
Mắt là cửa sổ linh hồn. Cửa sổ mở ra cũng là để người bên ngoài
nhìn vào linh hồn ta. Thật vậy, tâm hồn con người lộ hết trong đôi
mắt. Có những ánh mắt ngây thơ trong trắng bộc lộ tâm hồn tinh khiết
của trẻ thơ. Có những ánh mắt cao thượng cho thấy một tâm hồn luôn
hướng tới những lý tưởng cao đẹp. Có những ánh mắt tươi vui mở ra
một tâm hồn tràn trề nhựa sống. Có những ánh mắt ấm áp của một tâm
hồn bao dung độ lượng. Có những ánh mắt chiếu toả sự nhân từ của
trái tim yêu thương.
Nhưng cũng có những ánh mắt vẩn đục từ một tâm hồn nặng nề dục
vọng. Có những ánh mắt hằn lên tia lửa hận thù cuả một tâm hồn bị
thói ghen ghét thiêu đốt. Có những ánh mắt vụng trộm lén lút của
một tâm hồn ấp ủ những ý định xấu xa. Có những ánh mắt ham hố bộc
lộ một tâm hồn tham lam. Có những ánh mắt chán nản của một tâm hồn
thất vọng. Có những ánh mắt lờ đờ bạc nhược của một tâm hồn mất
hết sức sống. Có những ánh mắt soi mói của một tâm hồn nghi kị.
Thì ra những gì biểu lộ trong đôi mắt đều phát xuất từ đáy tâm hồn.
Khi tâm hồn bị bóng tối tội lỗi vây phủ, ánh mắt làm sao sáng suốt
nhìn rõ đường đi? Khi tâm hồn chìm trong đêm tối u mê, ánh mắt làm sao
tìm được con đường tươi sáng? Khi tâm hồn mù quáng, thì mắt sẽ chẳng
thấy được đường lối. Và “mù mà lại dắt
mù được sao? Lẽ nào cả hai lại không sa xuống hố”?
Mắt nhìn là phản ảnh tâm hồn. Người làm sao chiêm bao làm vậy. Ai hay
xét đoán người khác về nết xấu nào, chính là vì mình nghiêng chiều
rất mạnh về nết xấu ấy. Trong lòng có đầy miệng mới thốt ra. Có
cái xà trong mắt mình thì nhìn đâu cũng thấy rác. Tâm hồn đã xấu
thì nhìn ai cũng thành xấu cả.
Chính vì thế hôm nay Chúa dạy ta hãy xét mình trước khi xét người.
Hãy sửa lỗi mình trước khi sửa lỗi người. Hãy lấy cái xà ra khỏi
mắt mình trước rồi mới lấy được cái rác ở mắt người khác. Hãy
thanh tẩy đôi mắt của mình trước. Mắt mình thấy rõ rồi mới có thể
rửa mắt cho người.
Vì ánh mắt phản chiếu tâm hồn, nên muốn mắt trong sáng, ta phải thanh
tẩy tâm hồn. Muốn mắt nhìn rõ ràng, ta phải có tâm hồn đơn sơ. Muốn
mắt nhìn chính xác, ta phải có tâm hồn chính trực. Muốn mắt nhìn xây
dựng, ta phải có tâm hồn yêu thương. Muốn mắt nhìn lý tưởng, ta phải
có tâm hồn vươn cao. Muốn mắt nhìn tha thứ, ta phải có tâm hồn độ
lượng. Muốn mắt nhìn thân thiện, ta phải có tâm hồn rộng mở. Muốn
mắt nhìn thanh thoát phải có tâm hồn từ bỏ.
Lạy Chúa, xin thanh tẩy tâm hồn con, để con nhìn rõ bản thân con, nhờ
đó hiểu được anh em.
III. TẤM
BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Mỗi khi xét đoán ai, bạn có để ý rằng mình cũng có những nết
xấu đó không?
2- Mỗi khi gặp một người lầm lỗi, bạn có thử đặt mình vào địa vị
người đó để thông cảm không?
3- Bạn nghĩ sao về thái độ của Chúa Giê-su đối với người phụ nữ
ngoại tình?
4- Phê bình bản thân cách nghiêm ngặt
và tự sửa lỗi chính mình là cách phê bình người khác có hiệu qủa
nhất. Bạn nghĩ sao về ý kiến này?
5- Muốn ánh mắt trong sáng ta phải
làm gì?