SUY NGUYỆN và SỐNG ĐẠO

 

 

 

Chia Sẻ Phụng Vụ Lời Chúa Mùa Giáng Sinh

Năm C 2025


Tuần Lễ Hiển Linh 


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL





 

Lễ Hiển Linh chính yếu được Giáo Hội cử hành vào ngày 6/1 hằng năm, tức 12 ngày sau Lễ Giáng Sinh.

Tuy nhiên, ở các giáo phận, vì lý do mục vụ, thường đuợc dời vào Chúa Nhật, 

một là trước ngày 6/1 ngay sau Lễ Mẹ Thiên Chúa 1/1, hai là sau Ngày 6/1:

  

Trước ngày 6/1 ngay sau Lễ Mẹ Thiên Chúa 

như Chúa Nhật ngày 2/1 Năm C 2022

hay như Chúa Nhật ngày 3/1như Năm B 2021

Lễ Hiển Linh Sau ngày 6/1  

 như Chúa Nhật 7/1 Năm B 2018 

hay như Chúa Nhật 8/1 Năm A 2017

 

 

 

Ba Ngày trước Lễ Hiển Linh

 


Ngày 2/1 


Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: 1 Ga 2,22-28

"Ước gì điều các con đã nghe từ ban đầu, vẫn ở lại mãi trong các con"

Bài trích thơ thứ nhất của Thánh Gioan Tông Ðồ.

Các con thân mến, ai là kẻ nói dối, nếu chẳng phải là kẻ không nhìn nhận Chúa Giêsu là Ðức Kitô?

Ai không nhận Chúa Cha và Chúa Con, chính nó là Phản Kitô, ai không nhận Chúa Con, thì cũng không được có Chúa Cha. Còn ai tuyên xưng Chúa Con thì cũng được có Chúa Cha. Còn ai tuyên xưng Chúa Con thì cũng được có Chúa Cha.

Phần các con, ước gì điều các con đã nghe từ ban đầu, vẫn ở lại mãi trong các con.

Nếu điều các con đã nghe từ ban đầu vẫn ở lại trong các con, thì các con cũng được ở lại trong Chúa Con và Chúa Cha nữa. Và này là điều Người đã hứa cho chúng ta, đó là sự sống đời đời.

Ta đã viết những điều này cho các con biết về những người lừa dối các con.

Về phần các con, việc xức dầu mà các con đã nhận lãnh nơi Người vẫn ở lại trong các con, nên các con không cần ai dạy dỗ, nhưng như việc xức dầu của Người đã dạy các con mọi sự, và lại là sự thật, chứ không phải sự dối trá, nên như các con đã được dạy dỗ, hãy ở lại trong Người.

Và giờ đây, hỡi các con bé nhỏ, hãy ở lại trong Người, để khi Người tỏ hiện, chúng ta được dạn dĩ, không phải xấu hổ lìa xa Người, lúc Người đến.

Ðó là lời Chúa. 

Ðáp Ca: Tv 97,1.2-3a, 3cd-4

Ðáp: (3c) Mọi dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.

Xướng 1) Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện những việc lạ lùng. Tay mặt Người đã đem lại toàn thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.

2) Chúa đã công bố ơn cứu độ, đã tỏ sự công chính Người trước mặt chư dân. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành đối với nhà Israel. - Ðáp.

3) Mọi dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu, hãy hân hoan mừng Chúa, hãy mừng vui, hoan lạc và đàn ca. - Ðáp. 

Alleluia: Ga 1,14 và 12b

Alleluia, Alleluia - Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Những ai tiếp rước Người, thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. Alleluia. 

Phúc Âm: Ga 1,19-28

"Có một Ðấng sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng đó đã có trước tôi"

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Gioan.

Ðây là chứng của Gioan, khi những người Do thái từ Giêrusalem sai các vị tư tế và các Thầy Lêvi đến hỏi ông: "Ông là ai?"

Ông liền tuyên xưng, ông không chối, ông tuyên xưng rằng: "Tôi không phải là Ðấng Kitô".

Họ liền hỏi: "Như vậy là thế nào? Ông có phải là Elia chăng?"

Gioan trả lời: "Tôi không phải là Elia".

"Hay ông là một đấng tiên tri?"

Gioan đáp: "Không phải".

Họ liền bảo: "Vậy ông là ai, để chúng tôi trả lời cho những người sai chúng tôi. Ông tự xưng là ai?"

Gioan đáp: "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi, như tiên tri Isaia đã loan báo".

Và những người đã được sai đến đều thuộc nhóm biệt phái.

Họ hỏi Gioan rằng: "Nếu ông không phải là Ðức Kitô, cũng không là Elia, hay một tiên tri, vậy tại sao ông làm phép rửa?"

Gioan trả lời: "Tôi làm phép rửa trong nước; nhưng giữa các ngươi, có Ðấng mà các ngươi không biết.

Ðấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng đó đã có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người".

Việc này xảy ra tại Betania, bên kia sông Giođan, nơi Gioan làm phép rửa.

Ðó là Lời Chúa. 




Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

Emmanuel Giêsu Kitô  



Theo di
ễn tiến của phụng niên trong Mùa Giáng Sinh thì sau Tuần Bát Nhật Giáng Sinh là đến những ngày trước và sau Lễ Hiển Linh, tột đỉnh của Mùa Giáng Sinh.


Vì vẫn còn trong Mùa Giáng Sinh cho đến Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, nên nếu chủ đề chung của riêng Mùa Vọng là "Lời đã hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) thì chủ đề chung của riêng Mùa Giáng Sinh là "Lời ở cùng chúng ta", một chủ đề sẽ tiếp tục chi phối phụng vụ Lời Chúa của Mùa Giáng Sinh, bao gồm cả thời điểm của Tuần Bát Nhật Giáng Sinh cũng như thời điểm trước và sau Lễ Hiển Linh.


Thật vậy, Bài Phúc Âm hôm nay, ngay sau Tuần Bát Nhật Giáng Sinh và trước Lễ Hiển Linh, cho chúng ta thấy sự thật "Lời ở cùng chúng ta", nghĩa là "ở cùng" dân Do Thái ("chúng ta") mà họ "không biết", và chính vì "không biết" nên họ mới tìm kiếm cho biết ở những nơi họ cảm thấy có thể là Người, như nơi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, nhờ đó họ đã được Người tỏ mình ra một cách gián tiếp qua bản thân và chứng từ của Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả được sai đến trước Người để dọn đường cho Người, vị vừa phủ định về mình nhưng lại khẳng định về Người như sau: "Tôi không phải là Ðấng Kitô... Ðấng ấy sẽ đến sau tôi, nhưng chính Ðấng đó đã có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người".


Đúng thế, câu quan trọng nhất trong chứng từ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả ở đây về Đấng Thiên Sai Cứu Thế đến sau ngài là "Ðấng đó đã có trước tôi", Đấng vô cùng cao trọng và đầy quyền năng, đến độ chính ngài là một nhân vật được chung dân chúng và cả thành phần lãnh đạo trong dân kính nể tưởng là chính Đức Kitô, đã phải công khai xưng thú và công nhận rằng: "tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người".


Vấn đề then chốt ở đây là nếu mục đích chính yếu của mầu nhiệm nhập thể và giáng sinh là ý định Thiên Chúa muốn ở cùng chúng ta như một "Emmanuel - Thiên Chúa ở cùng chúng ta" (Mathêu 1:23), nơi "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta" (Gioan 1:14), thì chúng ta phải làm sao để nhận ra Người và ở với Người thì chúng ta mới viên trọn ơn gọi làm người của chúng ta và mới đạt đến tầm vóc trọn hảo của thân phận là người của chúng ta. 


Theo Bài Đọc 1 hôm nay, để có thể nhận ra Người và ở với Người, Thánh Gioan Tông Đồ, vị tông đồ có thể nói sống thân mật với Chúa Kitô nhất trong các tông đồ, đã trao cho chúng ta một cái master key, một chiếc chìa khóa chính, đó là: "nhìn nhận Chúa Giêsu là Ðức Kitô", bằng cách "tuyên xưng Chúa Con", và "ở lại trong Người" bằng cách trung thành với "điều các con đã nghe từ ban đầu". 


Vấn đề ở đây là cho dù có "nhìn nhận Chúa Giêsu là Ðức Kitô" mà không "ở lại trong Người" thì cũng vẫn còn sống trong dối trá, chưa nắm bắt được tất cả sự thật về Người, nghĩa là còn sống ở ngoài Người, trái lại, ai "ở lại trong Người" bằng cách trung thành với "điều các con đã nghe từ ban đầu" thì người đó quả thật "nhìn nhận Chúa Giêsu là Ðức Kitô". 


Cái then chốt vô cùng quan trọng làm nên mầu nhiệm nhập thể và giáng sinh đó là "Chúa Giêsu là Ðức Kitô", tức là Đấng Thiên Sai, Đấng Được Cha Xức Dầu, bằng không, nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét ấy sẽ không phải là "Con Thiên Chúa hằng sống", mà chỉ là một nhân vật thuần túy loài người mang tên Giêsu như nhiều người có cùng tên Giêsu với Người trong lịch sử dân Do Thái, và vì thế không thể cứu chuộc nhân loại, không phải là Đấng Cứu Thế. "Chúa Giêsu là Ðức Kitô" là tất cả sự thật về "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta" (Gioan 1:14), một sự thật giải phóng (xem Gioan 8:32), một sự thật cứu độ.


Mầu nhiệm "Lời đã hóa thành nhục thể và ở cùng chúng ta" (Gioan 1:14) nơi "Chúa Giêsu là Ðức Kitô" đây quả thực là một trong "những việc lạ lùng" nhất Thiên Chúa đã thực hiện trong lịch sử loài người "vào lúc thời gian viên trọn" (Galata 4:4) cho phần rỗi của toàn thể nhân loại, mà thành phần được cứu độ cần phải "ở lại trong Người" bằng tất cả tâm tình của Bài Đáp Ca hôm nay:


1) Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện những việc lạ lùng. Tay mặt Người đã đem lại toàn thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. 


2) Chúa đã công bố ơn cứu độ, đã tỏ sự công chính Người trước mặt chư dân. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành đối với nhà Israel. 


3) Mọi dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu, hãy hân hoan mừng Chúa, hãy mừng vui, hoan lạc và đàn ca.


Ngày 2 tháng 1

Thánh Ba-xi-li-ô Cả và thánh Ghê-gô-ri-ô Na-di-en,

giám mục, tiến sĩ Hội Thánh

lễ nhớ bắt buộc

 

Thánh Ba-xi-li-ô sinh tại Xê-da-rê miền Ca-pa-đô-xi-a năm 330, trong một gia đình Ki-tô giáo. Vốn là người tinh thông văn học lại nổi tiếng nhân đức, ban đầu thánh nhân chọn cuộc đời đan tu. Đến năm 370, người được cắt đặt làm giám mục cai quản nơi người sinh trưởng. Người tích cực chống lại giáo phái A-ri-ô, viết nhiều tác phẩm. Đặc biệt, người đã soạn thảo những quy luật cho đời sống đan tu, mà cho đến bây giờ, nhiều đan sĩ Đông Phương vẫn còn tuân giữ. Người hết sức chăm lo cho người nghèo. Người qua đời ngày 1 tháng Giêng năm 379.

Thánh Ghê-gô-ri-ô cũng sinh năm 330 gần thành Na-di-en. Người đi rất nhiều nơi để học hỏi, người đã kết thân với thánh Ba-xi-li-ô, đã chọn cuộc sống tu hành, nhưng sau đó thụ phong linh mục, rồi được chọn làm giám mục. Năm 381 người được đặt lên cai quản giáo phận thành Công-tăng-ti-nô-pô-li ; tuy nhiên, 18 tháng sau, vì có sự chia rẽ và bè phái trong địa phận, người lui về thành Na-di-en và qua đời tại đó ngày 25 tháng Giêng năm 389 hay 390. Hậu thế thường gọi thánh nhân là nhà thần học vì người vừa am tường đạo lý cao siêu, vừa có tài hùng biện.

 

Hai con người, một tâm hồn

(Phụng Vụ Giờ Kinh Sách 2/1 - Bài Đọc 2)

 

Trích bài giảng của thánh Ghê-gô-ri-ô, giám mục Na-di-en.

 

Bấy giờ chúng tôi gặp nhau tại A-ten. Như dòng chảy của con sông, phát xuất từ một nguồn mạch duy nhất, được phân chia thành nhiều nhánh, thì vì ham học, đức cha Ba-xi-li-ô và tôi đã xa lìa nhau, đi đến những miền khác nhau nhằm mục đích trau dồi kiến thức. Sau đó chúng tôi lại gặp nhau như là do hẹn hò, mà thật ra do Thiên Chúa đã thúc đẩy.

Đức cha Ba-xi-li-ô là người bạn cao quý của tôi, ngài có nếp sống đoan trang, lại hoạt bát khôn ngoan trong lời ăn tiếng nói, nên đối với ngài, bản thân tôi hết lòng quý trọng. Không những thế, tôi còn cố sao cho những ai chưa có dịp biết ngài cũng có tâm tình đó như tôi. Bấy giờ tiếng tăm ngài đã lừng lẫy khắp nơi, nên được nhiều người kính nể.

Điều này dẫn tới chuyện gì ? Trong số những người đến A-ten để học hỏi, hầu như chỉ có một mình ngài vượt khỏi luật chung, là đã được quý mến hơn tất cả mọi sinh viên mới theo học. Đó là khởi đầu tình bạn giữa chúng tôi, từ đó bùng lên tia lửa liên kết chúng tôi lại, và chúng tôi đã hết sức quý mến nhau.

Một thời gian sau, chúng tôi tỏ cho nhau biết niềm say mê chung của mình, đó là chúng tôi chỉ say mê môn triết học. Từ đó, hai chúng tôi người này sống cho người kia : cùng chung một mái nhà, một bàn ăn, một nếp sống, một cùng đích, và ngày càng nhiệt thành cương quyết cùng chia sẻ với nhau một khát vọng.

Cả hai chúng tôi đều hướng tới một điều đáng mong ước hơn hết mọi sự, đó là sự hiểu biết. Tuy vậy không hề có ganh tị mà chỉ có ganh đua. Cả hai cùng tranh nhau, không phải để tìm phần thắng cho mình, nhưng là để nhường cho người kia. Mỗi người đều coi vinh dự của bạn là của chính mình.

Có thể nói hai chúng tôi chỉ có một tâm hồn, nâng đỡ hai thân xác. Nếu không được tin những kẻ chủ trương rằng tất cả trong tất cả, thì cũng phải tin chúng tôi khi chúng tôi nói về mình rằng người này ở trong người kia, và người này hướng về người kia.

Cả hai chúng tôi chỉ có một mối bận tâm là đi đường nhân đức, và cuộc đời chúng tôi luôn hướng về những thực tại tương lai nhằm chuẩn bị cho mình từ bỏ cõi đời trước khi từ biệt cõi đời. Chúng tôi định hướng cuộc đời và mọi hành động theo viễn tượng đó. Chúng tôi để cho luật Thiên Chúa hướng dẫn mình và khuyến khích nhau yêu chuộng đường nhân đức. Nếu như nói ra không phải là khoe khoang quá đáng thì tôi có thể nói rằng giữa hai chúng tôi, người này đối với người kia là mực thước và khuôn mẫu để phân biệt phải trái.

Mỗi người chúng tôi đều có một thứ biệt danh, hoặc do cha mẹ đặt, hoặc là do người khác, dựa trên sở thích hay công việc riêng của mỗi người chúng tôi. Nhưng đối với chúng tôi, vấn đề đáng quan tâm hơn cả, và danh hiệu cao quý nhất, là được làm Ki-tô hữu, được mang danh hiệu này.

 

Ngày 02/01: Thánh Basiliô Cả và Grêgoriô Nazianô

 

1. ĐÔI HÀNG TIỂU SỬ

Hôm nay Hội thánh cho chúng ta mừng chung hai thánh Basiliô Cả và Grêgoriô Nazianô trong một ngày. Sở dĩ Giáo Hội làm như vậy bởi vì cuộc sống của các ngài có những điểm chung thật thú vị.

Trước hết các ngài đã vào cuộc đời làm người ở cùng một nơi, tại Cappadocia và cha mẹ của các ngài đều là những người thuộc dòng giống quí phái, danh tiếng, có địa vị trong xã hội thời đó.

Các ngài đã được cha mẹ cho học cùng một trường tại kinh thành Athènes nổi tiếng của Hy Lạp rồi sau khi tốt nghiệp các ngài cùng về quê sống chung với nhau trong một tu viện.

Điểm chung cuối cùng rất đáng chúng ta cảm phục là các ngài đã cùng đứng chung trong một trận tuyến khi phải đối đầu với bè rối Ariô để bảo vệ niềm tin trong sáng đối với Chúa Giêsu Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người để cứu chuộc toàn thể nhân loại chúng ta.

Dù rằng tính khí mỗi người khác nhau, nhưng các ngài đã sống hết sức nghĩa thiết đối với nhau theo gương vị mục tử nhân hậu hiền lành là Thầy Giêsu chí thánh.

Basiliô có tài lãnh đạo, có óc tổ chức, chỉ huy và điều khiển. Còn Grêgôriô Nazianô lại thích chiêm niêm, sống âm thầm và là một tu sĩ sáng ngời các nhân đức.

Cả hai vị thánh đều được chọn làm Giám mục cai quản Giáo Hội.

Thánh Basiliô được đặt làm Giám mục Caesarea Mazaca thuộc vùng CapadociaTiểu Á năm 370. Ngài là một mục tử can trường, đầy dũng khí và hiên ngang. Nhờ lòng dũng cảm, lời giảng dạy và nhờ sự tài khéo khéo khi giao tiếp với mọi người mà Ngài đã đem lại chỗ đứng vững chắc cho Giáo Hội thời đó. Dưới sự dẫn dắt của Ngài, thần quyến và thế quyền đã có chỗ đứng riêng tránh được những sự phiền toái làm ảnh hưởng đến tính trong sáng của Tin Mừng. Ngài hết sức lo cho những người nghèo để họ được sống đúng với phẩm giá của mình cũng như bảo vệ họ luôn được đứng vững trong niềm tin trong sáng của Chúa và Giáo Hội.

Ngài đã viết nhiều bài luận về Chúa Thánh Thần, phát triển nền thần học về Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngài cố gắng rất nhiều trong việc hàn gắn những chia rẽ trong Giáo hội.

Trong Giáo Hội Công giáo Rôma, Ngài được công nhận là Tiến sĩ Hội thánh năm 1568 do Đức Giáo hoàng Piô V.

Thánh Grêgôriô Nazianô được tấn phong Giám mục Sasime năm 371, và vào năm 380, thánh nhân được cử làm Giám mục Constantinople giữa lúc bè rối Ariô đang hoành hành gây nên nhiều khó khăn cho Giáo Hội. Nhờ tài hùng biện và sự thánh thiện của Ngài, mà Ngài đã chinh phục được mọi người, đem lại sự bình an cho Giáo Hội lúc đó. Người ta đã phong tặng cho thánh nhân một cái tên hết sức thân thương: “Cha của những kẻ khốn cùng”.

Thánh Basiliô qua đời ngày 01/1/379 và thánh Grêgôriô Nazianô tạ thế ngày 25/1/390.

2. GIÁO HỘI TUNG HÔ CÁC NGÀI

Cả hai vị thánh đã sống đời sống hiền lành, khiêm nhường theo gương Chúa Giêsu Cứu Thế. Cuộc sống của các Ngài đã họa lại bộ mặt đầy yêu thương của Chúa. Thánh Grêgôriô đã để lại câu nói bất hủ: “Nếu vì tôi mà bão táp này (bè rối Ariô) nổi dậy, hãy ném tôi xuống biển, để anh em khỏi bị khổ sở “.

Giáo Hội Chính Thống đã đặt ba vị thánh Basiliô cả, Grêgôriô Nazianô và Gioan Kim Khẩu lên hàng đầu giữa các bậc tiến sĩ trong Giáo Hội Chúa Kitô. Vì những công nghiệp, tài đức và nhân đức của các Ngài, Hội Thánh còn gọi các Ngài bằng tên rất đẹp, ấn tượng và thân thương: “đuốc thiêng của Hội Thánh “

Thánh Basiliô làm việc không biết mệt trong công việc mục vụ, chống chọi lại với nạn buôn thần bán thánh, giúp đỡ nạn nhân của hạn hán và đói kém, cố gắng thay đổi hàng giáo sĩ, nhấn mạnh đến tinh thần kỷ luật. Ngài không sợ lên án những điều xấu xa một khi đã thấy, và sẵn sàng ra vạ tuyệt thông cho những ai dính líu đến nạn mãi dâm ở Cappadocia.

Ðức Basiliô nổi tiếng là một nhà diễn thuyết. Các văn bản của ngài, dù thời ấy không được nổi tiếng cho lắm nhưng cũng đã đưa ngài lên hàng các bậc thầy của Giáo Hội. Bảy mươi hai năm sau khi ngài từ trần, Công Ðồng Chalcedoine đã đề cập đến ngài như một con người “vĩ đại, người thừa tác ơn sủng đã dẫn giải chân lý cho toàn thể trái đất.”

Thánh Basiliô cũng còn là một người hết lòng chăm sóc cho những người nghèo. Có lần Ngài đã phát biểu: “Thực phẩm mà bạn không dùng là thực phẩm của người đói; quần áo bạn treo trong tủ là quần áo của người trần truồng; giày dép bạn không dùng là giày dép của người chân không; tiền bạc bạn cất giữ là tiền bạc của người nghèo; hành động bác ái mà bạn không thi hành là những bất công mà bạn đã phạm.”

Riêng cuộc đời của thánh Grêgôriô Nadianô, thì nhờ một số lớn thư từ ngài để lại cũng như những văn kiện trong Giáo Hội nói về ngài chúng ta thấy vào lúc Giáo Hội miền Tiểu Á phải đối phó với những trở ngại và bách hại do lạc giáo Ariô gây nên. Lịch sử kể lại, vừa đặt chân lên đất Constantinople, Ngài đã bị một nhóm dân chúng ném đá, vu oan; họ còn dám tố cáo ngài ở tòa án về tội sát nhân. Các giáo hữu của ngài chia rẽ nhau. Lúc Hoàng đế Valence băng hà và Hoàng đế Thêôdore kế vị, thì những người theo phái Ariô cũng vẫn còn tung hoành, thống trị. Họ tìm cách giết Đức Giám mục Grêgôriô. Chính tên sát nhân được bè rối Ariô sai đến ám sát Ngài, lại quỳ gối xuống trước mặt ngài, thú tội và xin lỗi, vì trước khi hắn định xông vào giết ngài, hắn bỗng cảm thấy bị lương tâm cắn rứt. Có lúc Đức Giám mục Grêgôriô đã tính đến chuyện rút lui khỏi Constantinople, nhưng các tín hữu nài xin ngài ở lại. Dần dà nhờ sự nâng đỡ của Hoàng đế Thêodore, và nhờ hoạt động đi đôi với gương mẫu đời sống hy sinh, khiêm tốn, đạo đức, thánh thiện của Đức Giám mục Grêgôriô, giáo đoàn ngày càng tăng thêm tín hữu và trở nên sầm uất. Nhiều người trở lại với đức tin Công giáo và lạc giáo Ariô cũng giảm sút. Công lao của Đức Giám mục Grêgôriô trong công việc canh tân Giáo phận, thực không phải là nhỏ.

Năm 381, Công đồng chung Constantinople II, họp tại Constantinople, Đức Giám mục Grêgôriô làm chủ tịch Công đồng. Nhưng vì có sự chia rẽ giữa các Giám mục tham dự Công đồng với nhau, Đức Giám mục Grêgôriô đã xin từ chức Giám mục Constantinople. Ngài về Capadocia là quê hương của ngài và coi sóc Giáo phận Nadianô, lúc đó chưa có Giám mục. Khi Giáo phận Nadianô có Giám mục mới, Đức Grêgôriô trở về quê hương ở Nadianô sống ẩn dật và khắc khổ trong những ngày cuối đời, giữa cảnh thanh bình, chỉ còn biết chuyên chú vào việc cầu nguyện tu đức cũng như viết tự thuật và sáng tác thi ca. Năm 389, Ngài qua đời bằng an trong Chúa, để lại cho Giáo Hội một sự nghiệp văn chương và tín lý gồm: 45 bài suy tư thần học, 245 bức thư và một số tập thi ca.

Lm. Giuse Đinh Tất Quý

https://www.tgpsaigon.net/bai-viet/ngay-02-01-thanh-basilio-ca-va-gregorio-naziano-30228

 

 

1. Thánh Basiliô Cả, Giám mục, Tiến Sĩ (329-397)

 

Thánh Basiliô, con người kỳ diệu mà mọi thời gọi là thánh Cả, chào đời vào khoảng cuối năm 329 tại Cêsarêa, thủ đô miền Cappadocia. Ngài thật có phúc vì được sinh ra trong một gia đình thánh thiện. Cha Ngài là thánh Basilio, mẹ Ngài là thánh nữ Emelia. Nhưng sinh ra Ngài, cha mẹ Ngài đã chịu bao nỗi lo âu. Một cơn bệnh nặng tưởng như đã cất mất mạng sống của Ngài. Việc Ngài bình phục được coi như là kết quả của lời cầu nguyện mà thôi.

 

Từ thuở thơ ấu thánh nhân đã đến sống với người bà là thánh nữ Macrina. Tại đây, Ngài đã hấp thụ được những nguyên tắc sống đạo đức đầu tiên. Ngài nói: tôi không hề quên được những lời dạy dỗ và gương lành mà người bà thánh thiện đã ghi vào trong tâm hồn bé thơ của tôi.

 

Ngay khi tới buổi đi học, cha Ngài, một con người vừa đạo đức vừa hoạt bát, đã tự đảm nhiệm việc dạy dỗ Ngài những yếu tố đầu tiên về văn chương. Sau khi cha qua đời, Ngài được gửi đi Cêsarea rồi Constantinople để học khoa hùng biện. Sau cùng, Ngài đi Athena, kinh thành ánh sáng của thế giới nói tiếng Hy Lạp thời đó. Tại đây, Ngài có dịp làm quen với Thánh Gregoriô thành Nazianze. Hai người kết thân với nhau và tình bạn đầy thánh thiện của họ không hề bị một áng mây mù nào che phủ. Trong thành phố xa hoa ấy, họ chỉ biết có hai con đường dẫn tới nhà thờ và tới trường học.

 

Sau khi hoàn tất các môn học, Ngài dồn nỗ lực học kinh thánh và các giáo phụ. Ngài đã kín múc được từ kho tàng phong phú này những hiểu biết và những tâm tình cao thượng qui hướng con người lên trời.

 

Lúc hai mươi bảy tuổi, Ngài trở về quê nhà và biện hộ cho một vài vụ kiện tụng. Tài lợi khẩu và thành công tưởng đã cột chặt Ngài vào với pháp đình. Nhưng chị Ngài là thánh nữ Macrina (trẻ) đã nói cho Ngài biết về sự giả trá của những tài năng của cả loài người, và về những giá trị chân thực mà Ngài nhhư đã bỏ quên. Thế là thánh nhân quyết từ giã thế gian và đeo đuổi đời sống tu trì. Ngài đã viếng thăm các tu viện bên Đông phương để tìm kiếm gương mẫu và thầy dạy đường nhân đức. Một năm sau Ngài trở về Cappadocia, rồi lui về miền Pont và thiết lập nhiều tu viện. Các qui luật Ngài soạn ra cho các tu viện đã trở thành danh tiếng và ngày nay vẫn còn được áp dụng tại các tu viện của Giáo hội công giáo theo nghi lễ Byzantin. Chính thánh Bênêdictô cũng chịu ảnh hưởng của Ngài qua bản dịch tiếng la Tinh của Ruffinô. Thánh Basiliô chỉ sống năm năm như tu sĩ trong viện. Nhưng điều Ngài đã làm đã viết là phần thành công trực tiếp và lâu bền nhất trong công trình đời Ngài.

 

Năm 370 khi Đức giám mục Eu-sê-bi-ô qua đời, thánh Basiliô được bầu làm giám mục Cêsaria. Thánh nhân đã lãnh nhận giáo phận trong một hoàn cảnh đầy sóng gió và đã tỏ ra là một chủ chăn bất khuất trong việc bảo vệ đức tin. Lúc ấy lạc giáo Ariô đang ở vào thời cực thịnh. Hoàng đế Va-lăng (valens) đúng vào phái lạc giáo để bách hại Giáo hội. Thánh Grêgoriô đã kể lại cuộc đời thánh Basiliô, có lẽ đã tô điểm thêm đôi chút, nhưng đã cho thấy được cá tính của thánh nhân như thế nào. Va-lăng phái Modestô, một tổng trấn nổi tiếng mưu mô và hung ác đến gặp thánh nhân.

 

Hắn nói: – Tại sao ông dám chống lại hoàng đế và không theo đạo của Ngài.


Thánh nhân trả lời : – Bởi vì Thiên Chúa là hoàng thượng của tôi, Ngài bảo vệ tôi.

 

Modestô vặn lại: – Vậy ông coi chúng tôi là thứ gì chứ?

 

Thánh nhân trịnh trọng đáp lời: – Tôi chẳng coi các ông là gì cả, bởi vì các ông đã bắt chúng tôi phải có những điều phản nghịch lại thánh ý Thiên Chúa:

 

Modestô liền dở trò đe dọa: – Ông không biết rằng tôi có thể cho ông nếm mùi sức mạnh của chúng tôi sao?

 

Nhưng thánh nhân đã khẳng khái trả lời: – Những hậu quả do sức mạnh của các ông chỉ có thể là tịch biên tài sản, lưu đày, tra tấn hay là sát hại mà thôi. Đối với việc tịch biên tài sản thì người không có gì như tôi làm gì mà phải sợ. Tôi càng không sợ phải lưu đày, bởi vì đâu có Chúa thì đấy cũng là quê hương của tôi. Đối với những tra tấn ông muốn bắt tôi phải chịu, thì quả thật tôi đã quá yếu đuối và không đủ sức để chịu được một cuộc tra tấn thứ hai. Về cái chết, làm sao tôi lại phải sợ, vì nó sẽ sớm đưa tôi về với Thiên Chúa hơn”.

 

Vị tổng trấn ngạc nhiên: – Tôi chưa hề gặp người nào gan dạ như ông.


Và thánh Basiliô bình tĩnh trả lời: – Bởi vì ông chưa nói chuyện với một giám mục nào.

 

Sau cuộc đàm thoai nẩy lửa này, tình hình lắng dịu một thời gian. Nhưng vì áp lực của bè rối, hoàng đế Valăng tính bắt giám mục Basiliô đi đày. Nhưng ý định bất thành vì ngay đêm trước con ông ngã bệnh nặng, được giám mục viếng thăm và cầu nguyện cho lành, nó cũng đã qua đời vì sự thay lòng đổi dạ của nhà vua. Dầu vậy, dưới áp lực mạnh mẽ của bè rối, vua cũng quyết ký án lệnh phát lưu Đức giám mục. Lần này, ông vẫn thất bại vì ba bốn lần cầm lấy viết thì viết bị hư, cầm đến ấn thì ấn bị bể nát.

 

Ngoài sự can trường để bảo vệ đức tin chân chính, thánh Basilio còn là một mục tử nhiệt hành và giàu lòng bác ái, Ngài đã liên tục đi thăm viếng từng miền trong giáo phận, Ngài chuyên chăm dạy dỗ đoàn chiên và một số bài giảng của Ngài được lưu giữ tới ngày nay là những công trình thần học rất đáng giá. Ngoài ta thánh nhân còn thương yêu đặc biệt những người nghèo khó bệnh tật. Ngài đã thiết lập một nhà thương, đặt tên là Basiliô (Basiliade) để săn sóc họ.

 

Thánh nhân đã được sống để chứng kiến cái chết của Valăng lẫn sự tàn lụi của lạc giáo Ariô. Nhưng chẳng bao lâu sau Ngài cũng qua đời vì kiệt sức, ngày 1 tháng giêng năm 379.

 

 2. Thánh Gregôriô Nazianzênô, Giám Mục, Tiến Sĩ – (329 – 390)

 

Thánh Grêgôriô Nazianzênô là một trong những giáo phụ danh tiếng của giáo hội Hy Lạp và được mệnh danh là thần học vì giáo thuyết rất sâu sắc của Ngài. Ngài ra đời khoảng năm 329, trong một gia đình danh giá và đáng mến chuộng. Cha Ngài, cũng tên là Grêgôriô, lúc ấy còn là lương dân. Nhưng thánh nữ Monna, mẹ Ngài, nhờ nhân đức siêu vượt, sự dịu hiền, đời sống gương mẫu với kinh nghiệm và nước mắt đã đưa ông về với Chúa Giêsu.

 

Thánh Leông (Léonce) giám mục thành Cêsarêa đã rửa tội cho ông. Vài năm sau, nhờ đời sống đạo đức trổi vượt, ông đã xứng đáng lãnh chức giám mục, cai quản điạ phận Nazianze.

Thánh Grêgôriô ra đời như kết quả lời cầu nguyện của bà mẹ thánh thiện, chỉ mong có được người con để phục vụ bàn thánh. Khi thánh nhân ra đời, bà coi Ngài như quà tặng của trời cao. Được đào tạo trong một môi trường thánh thiện như vậy, ngay từ nhỏ, Ngài đã biết quí trọng những nét đẹp của tội thơ vô tội.

 

Thánh nhân được cử đi học hùng biện ở Cêsarêa, rồi Palestina. Sau đó Ngài đã qua Alexandria và sau cùng tới Athena là nơi coi là nguồn gốc đích thật của khoa hùng biện, trên đường tới Athena, con tàu thánh nhân đi đã phải một cơn bão dữ dội, tưởng chừng như sẽ bị đắm chìm trong lòng biển. Lúc ấy thánh nhân chưa được rửa tội và rất lo âu cho phần rỗi của mình. Ngài tha thiết cầu khẩn Thiên Chúa thánh cho được sống thêm, để có thể làm con Chúa. Thánh nhân đã được nhậm lời. Cơn giông bão chấm dứt và Ngài tới được Athena.

 

Tại đây thánh Gregorio gặp lại một người bạn cũ của mình là thánh Basiliô. Mối giây thân tình giữa các Ngài ngày càng trở nên bền chặt hơn. Cho đến ngày nay, người ta vẫn còn trưng dẫn hai vị nhân này như là khuôn mẫu cho tình bạn trong trắng và chân thành nhất. Không thể lìa xa nhau, họ còn chú tâm tránh thoát mọi cuộc kết thân nguy hiểm và chỉ giao tiếp với những bạn bè mà lòng hiếu học luôn đi đôi với việc thực hành các nhân đức. Không bao giờ người ta thấy họ đi vào các cuộc giải trí có tính cách trần tục. Trong thành phố xa hoa ấy họ chỉ biết có hai con đường dẫn tới nhà thờ và các trường học.

 

Hoàn tất việc học hành, thánh Grêgôriô trở về sống với cha mình đang làm giám mục cai quản giáo phận Nazianze và được cha ban phép Rửa tội cho. Một khi đã được đóng ấn tín thần linh, Ngài coi mình hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và hiến thân phung sự Ngài,

 

Ngài nói: – “Tôi hiến trọn cho Đấng đã ban cho tôi tất cả. Từ nay chỉ có Ngài là phần sản nghiệp của tôi”.

 

Tình thảo hiếu đã giữ lại bên người cha già tám mươi tuổi trong ba năm trời. Ngài giúp đỡ cha trong mọi công việc và chăm sóc mọi việc trong nhà. Nhưng lòng yêu thích được ẩn dật đã đưa Ngài tới gặp thánh Basiliô đang theo đuổi nếp sống tu trì. Ngài đã sống xa thế gian một thời gian và chỉ lo tới sự hoàn thiện của mình. Nhưng thời gian ẩn dật này mới chỉ đủ cho Ngài nếm thử được sự ngọt ngào để mà luyến tiếc thôi, người cha già chín mươi tuổi đã gọi Ngài về giúp việc điều khiển giao phận. Nhận thấy rằng: Giáo hội sẽ được lợi ích nhiều bởi người con thân yêu của mình, vị thánh giám mục già cả đã truyền chức linh mục cho Ngài ngày 6 tháng 1 năm 362. Lúc ấy thánh Gregôriô hơn ba muôi lăm tuổi và ấn tích mới càng tăng thêm nhiệt tình của Ngài.

 

Thánh Basiliô lúc ấy đã làm tổng giám mục Cêsalêa, quyết định nâng thánh Gregoriô lên làm giám mục cai quản điạ phận Sarima. Nhưng vì những chống đối dữ dội, Ngài đã không hề tới nhậm điạ phận được và dường như Ngài chịu chức giám mục chỉ để giúp đỡ người cha mà tuổi tác đã không cho phép chu toàn phận sự được nữa. Sau khi cha qua đời năm 374 thánh nhân trở lại Nazianze săn sóc cho giáo phận, nhưng không hề muốn làm giám mục của giáo phận này.

 

Năm 380, tức là khoảng năm năm sau, các tín hữu ở Constantinopkle đã khẩn nài thánh nhân tới củng cố giáo phận đã bị bè rối Ariô tàn phá của họ, với nhiệt tâm tông đồ, thánh nhân đã nhận lời. Trước tiên thánh nhân đã không được tiếp đón nồng hậu lắm. Trong một thành phố xa hoa giàu có vì là thủ đô mới của đế quốc này, người ta đang ngóng đợi một nhân vật có khuôn mặt sáng sủa giữa một đám rước linh đình. Nhưng người ta đã vô cùng kinh ngạc khi thấy Ngài chỉ là một ông lão già yếu, ăn mặc giản dị và lời nói vắn gọn.

 

Những người theo lạc giáo Ariô chế diễu phỉ báng Ngài. Dầu vậy, bằng những giáo huấn vững chắc và hùng hồn, Ngài đã thành công trong việc đưa dân thành này từ chỗ bỏ cái sai lầm của lạc giáo mà trở về với đức tin công giáo. Sau bốn mươi bị năm bị tàn phá. Giáo phận không có nhà thờ, Ngài rao giảng trên đường phố hay tại một ngôi nhà mà Ngài đăt tên là Anastasia.

 

Hương thơm nhân đức và sự hiểu biết uyên thâm của Ngài đã lối kéo cảm tình người nghe càng thêm đông. Từ trong sa mạc, thánh Hiêronymô cũng tìm đến nghe người giảng thuyết. Tuy nhiên bề ngoài khiêm tốn bình dị và hoàn cảnh khó khăn ấy cũng là một khó khăn khiến cho địch thủ đã nhiều lần toan tính ám hại Người.

 

Năm 381, công đồng chung họp tại Constantinople, thánh Grêgôriô được bầu lên làm giám mục chính tòa của giáo phận này và giữ ghế chủ tịch công đồng. Nhưng ít lâu sau, một số giám mục đã chất vấn tính cách hợp pháp của chức vụ Ngài. Lợi dụng những chống đối này, thánh Grêgôriô đã xin từ chức. Sau khi đã làm vui lòng các nghị phụ công đồng bằng quyết định của mình, thánh nhân đã đe5 đơn lên Hoàng đế Têodô (Thésdose) Hoàng đế buộc lòng chấp thuận, cho Ngài từ nhiệm, chỉ vì lý do sứ ckhỏe mà thôi. Trước khi dứt mình khỏi Giáo hội mà Ngài đã dày công tạo lập với đầy tình yêu quí, Ngài đã nói với mọi tín hữu và với các nghị phụ một diễn từ đặc sắc. Người ta gọi diễn từ ấy là: những lời giã biệt (Les Adieux).

 

Lui về Nazianze, thánh Grêgôriô dành thời gian viết sách. Năm 390 Ngài qua đời và để lại cho Giáo hội một kho tàng quí báu gồm 45 bài suy luận thần học và điếu văn, 245 bức thư và mấy tập thi ca. Người ta đọc cuộc đời trong những tác phẩm có giá trị văn chương và tín lý, chính ân đức ấy và sức mạnh tinh thần của Ngài.

 

Người ta còn giữ được bản di chúc và bản văn trên bia mộ chính Ngài sáng tác. Bản mộ thi này là một tóm lược khúc chiết trọn đời Ngài với những dòng kết thúc như sau: – “Tôi là mục tử không có đoàn chiên, và tôi đã đau khổ không ít bởi chính các mục tử. Tôi để Chúa Giêsu Kitô lo lắng cho tương lai đời tôi như chính Người đã lo cho tôi trong quá khứ”.

(nguồn: gxdaminh.net)

 

http://hoidongxitothanhgia.com/thu-vien/ngay-02-01-thanh-basilio-ca-va-thanh-gregorio-nazianzeno-3185.html

 

 

 

 

 

Ngày 3/1

 

Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: 1 Ga 2,29-3,

"Bất cứ ai ở trong Người đều không phạm tội".

Bài trích thơ thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.

Các con thân mến, nếu các con biết Người là Ðấng công chính, thì các con hãy biết rằng bất cứ ai thực hành sự công chính, đều bởi Người mà sinh ra.

Các con hãy coi: tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con Thiên Chúa và sự thật là thế.

Vì đó mà thế gian không nhận biết chúng ta, vì thế gian không biết Người.

Các con thân mến, hiện nay, chúng ta là con Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ ra sao thì vẫn chưa được tỏ ra.

Chúng ta biết rằng: khi được tỏ ra, thì chúng ta sẽ giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy.

Và bất cứ ai đặt hy vọng nơi Người, thì tự thánh hóa mình cũng như Người là Ðấng Thánh.

Hễ ai phạm tội, thì cũng làm điều gian ác, vì tội là sự gian ác.

Các con biết rằng: Người đã xuất hiện để hủy diệt tội lỗi chúng ta.

Bất cứ ai ở trong Người, thì không phạm tội, và bất cứ ai phạm tội, thì không thấy cũng không nhận biết Người.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv. 97,1.3cd-4,5-6

Ðáp: Mọi dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. (3c)

Xướng 1) Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới, vì Người đã thực hiện những việc lạ lùng. Tay mặt Người đã đem lại toàn thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người. - Ðáp.

2) Mọi dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu, hãy hân hoan mừng Chúa, hãy vui mừng, hoan lạc và đàn ca. - Ðáp.

3) Hãy ca mừng Chúa với đàn cầm thụ, với đàn cầm thụ, với nhạc cụ rân ran; Hãy thổi sáo và túc tù và, hân hoan trước thánh nhan Chúa là Vua. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, Alleluia - Ngày thánh đã dọi ánh sáng trên chúng ta, hỡi các dân, hãy tới thờ lạy Chúa, vì hôm nay ánh sáng chan hòa đã tỏa xuống trên địa cầu. - Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 1,29-34

"Ðây Chiên Thiên Chúa"

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Gioan.

Ngày hôm sau, Gioan thấy Chúa Giêsu đến với mình thì nói: Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa tội trần gian.

Ðây chính là Ðấng mà tôi đã nói rằng: Có người đến sau tôi, nhưng cao trọng hơn tôi, vì Người vốn có trước tôi.

Phần tôi, trước tôi không biết Người, nhưng tôi đã đến làm phép rửa bằng nước, để Người được tỏ mình ra trong Israel.

Và Gioan đã làm chứng rằng: Tôi đã thấy Thánh Thần như con chim bồ câu từ trời xuống ngự trên Người.

Và trước tôi không biết Người, nhưng Ðấng đã sai tôi làm phép rửa trong nước bảo tôi: Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì chính người đó là Ðấng làm phép rửa trong Thánh Thần.

Tôi đã thấy và làm chứng rằng: Người là Con Thiên Chúa.

Ðó là Lời Chúa.


 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

"Chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người": "Người là Con Thiên Chúa"   


Phụng Vụ Lời Chúa trong những ngày trước lễ Hiển Linh đều theo chiều hướng cứu độ phổ quát. Thật vậy, căn cứ vào ý nghĩa phụng vụ của cả phụng niên và của riêng Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh mở đầu cho toàn phụng niên, thì có thể nói, chủ đề cho cả Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh, một Mùa Giáng Sinh bao gồm cả Lễ Hiển Linh và lên đến tột đỉnh nơi Lễ Hiển Linh, một cử hành phụng vụ để tưởng niệm biến cố Hài Nhi Giêsu tỏ mình ra cho dân ngoại, là "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta, chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người: vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" (Gioan 1:14).

 

Nếu "Lời đã hóa thành nhục thể" là đề tài cho chung Mùa Vọng và cho riêng tuần bát nhật trước lễ Giáng Sinh, và "Lời ở giữa chúng ta" là đề tài cho Tuần Bát Nhật Giáng Sinh, thì "chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người" là đề tài cho Tuần Lễ trước Lễ Hiển Linh, và "vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" là đề tài cho Mùa Thường Niên hậu Giáng Sinh, bắt đầu từ Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa cho tới áp Thứ Tư Lễ Tro mở màn cho Mùa Chay v.v.

 

Thật vậy, dường như chính vì đề tài của Tuần Lễ trước Lễ Hiển Linh là "chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người", một vinh hiển được xuất phát từ dân Do Thái, và được báo hiệu và biểu hiệu nơi ngôi sao lạ dẫn đường cho ba vua là những nhân vật tượng trưng cho dân ngoại sẽ đến bái thờ Người sau này, mà các câu Đáp Ca trước Lễ Hiển Linh cũng là Lễ Ba Vua đã bao gồm cả dân ngoại, như câu đáp ca hôm qua ngày 2/1, hôm nay ngày 3/1 và ngày mai ngày 4/1 đều giống y như nhau: "Mọi dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta", và ngày kia mùng 5/1, áp Lễ Hiển Linh (theo đúng ngày kính là 6/1 hằng năm theo phụng vụ) là "Toàn thể địa cầu, hãy reo mừng Thiên Chúa".

 

Theo chiều hướng "chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người" này, phụng vụ lời Chúa đã đọc lại Phúc Âm của Thánh ký Gioan về chứng từ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả liên quan đến Chúa Kitô, vị tiền hô cũng đã được phụng vụ lời Chúa nói đến trong suốt Mùa Vọng (3 tuần cuối) nhưng theo trình thuật của các vị Thánh ký viết bộ Phúc Âm Nhất Lãm.

 

Tuy nhiên, Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong Mùa Vọng được các vị Thánh ký Mathêu (Năm A), Thánh ký Marcô (Năm B) và Thánh ký Luca (Năm C) thuật là nhân vật liên quan đến vai trò dọn đường cho Chúa Kitô là Đấng đến sau Người. Trong khi đó, nơi Phúc Âm của Thánh ký Gioan, ngài đóng vai trò chứng nhân của Người (Phúc Âm ngày 2/1) và giới thiệu Người cho chung dân chúng (Phúc Âm ngày 3/1) cũng như cho riêng các môn đệ của ngài (Phúc Âm ngày 4/1), để chính các môn đệ của ngài rủ bạn bè đến với Chúa Giêsu, nhờ đó các vị trở thành các vị môn đệ đầu tiên của Chúa Kitô (Phúc Âm ngày 5/1) cho một Giáo Hội của muôn dân và cho muôn dân.

 

Câu Phúc Âm của bài Phúc Âm ngày 5/1 là ngày ngay trước Lễ Hiển Linh mùng 6/1 đã chứng tỏ cho thấy tất cả thời gian trước Lễ Hiển Linh (từ mùng 2/1 tới mùng 5/1) quả thực là thời điểm được phụng vụ nhấn mạnh đến đề tài: "Chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người", đó là câu được chính Chúa Kitô khẳng định về bản thân của Người: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và các Thiên Thần Chúa lên xuống trên Con Người".

 

Riêng trong bài Phúc Âm hôm nay, mùng 3/1, Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là chứng nhân của Chúa Kitô, sau khi đã phủ nhận bản thân mình không phải là Đức Kitô với thành phần lãnh đạo dân Do Thái trong bài Phúc Âm 2/1, trong bài Phúc Âm hôm nay, ngày 3/1, đã giới thiệu cho chung dân Do Thái Đấng đến sau mình "nhưng chính Ðấng đó đã có trước tôi, và tôi không xứng đáng cởi dây giày cho Người". Bởi vì, như ngài chứng thực về Đấng Đến Sau cao trọng hơn ngài trong bài Phúc Âm hôm nay ở những điểm chính yếu như sau:

 

"Ðây Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa tội trần gian. Ðây chính là Ðấng mà tôi đã nói rằng: Có người đến sau tôi, nhưng cao trọng hơn tôi, vì Người vốn có trước tôi. Phần tôi, trước tôi không biết Người, nhưng tôi đã đến làm phép rửa bằng nước, để Người được tỏ mình ra trong Israel. Và Gioan đã làm chứng rằng: Tôi đã thấy Thánh Thần như con chim bồ câu từ trời xuống ngự trên Người. Và trước tôi không biết Người, nhưng Ðấng đã sai tôi làm phép rửa trong nước bảo tôi: Ngươi thấy Thánh Thần ngự xuống trên ai, thì chính người đó là Ðấng làm phép rửa trong Thánh Thần. Tôi đã thấy và làm chứng rằng: Người là Con Thiên Chúa".

 

Đúng thế, Chúa Kitô chính là "Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xóa tội trần gian", chứ không phải tội của riêng dân Do Thái, và "Người là Con Thiên Chúa", Đấng đã "yêu thế gian (chứ không phải yêu riêng dân Do Thái) đến ban Con Một của Ngài để ai (thuộc bất cứ dân tộc nào trên thế giới, bao gồm cả dân Do Thái) tin vào Người thì không phải chết nhưng được sự sống đời đời" (Gioan 3:16).

 

Nguyên trong lời giới thiệu này của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã bao gồm chiều hướng dân ngoại, chiều hướng mà "chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người". Bài Đọc 1 trong những thời điểm trước Lễ Hiển Linh (2-5/1) này cũng được Giáo Hội trích từ Thư 1 của Thánh ký Gioan, một bức thư liên quan đến ơn cứu độ phổ quát nơi Chúa Kitô theo dự án thần linh của Vị Thiên Chúa là tình yêu vô cùng nhân hậu. Đó là lý do chúng ta đọc thấy những lời khẳng định của vị thánh ký này trong Bài Đọc 1 hôm nay như sau:

 

"Các con hãy coi: tình yêu của Chúa Cha đối với chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con Thiên Chúa ("bất cứ ai tin nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" - Gioan 1:12) và sự thật là thế... Các con thân mến, hiện nay, chúng ta là con Thiên Chúa, còn chúng ta sẽ ra sao thì vẫn chưa được tỏ ra. Chúng ta biết rằng: khi được tỏ ra, thì chúng ta sẽ giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy như vậy ("Chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người, vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" - Gioan 1:14). ... Các con biết rằng: Người đã xuất hiện để hủy diệt tội lỗi chúng ta (vì Người là "Chiên Thiên Chúa, Ðấng xóa tội trần gian" như lời giới thiệu của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong bài Phúc Âm)".

 



Ngày 4/1

 

Phụng Vụ Lời Chúa


Bài Ðọc I: 1 Ga 3, 7-10

"Người ấy không phạm tội được, vì đã sinh ra bởi Thiên Chúa".

Bài trích thơ thứ nhất của Thánh Gioan Tông Ðồ.

Hỡi các con bé nhỏ, đừng để ai lừa gạt các con.

Ai thi hành sự công chính là người công chính, cũng như chính Người là Ðấng công chính.

Ai phạm tội thì bởi qủy mà ra, vì qủy là kẻ phạm tội từ ban đầu.

Con Thiên Chúa đã xuất hiện để phá hủy công việc của ma qủy.

Bất cứ ai đã sinh ra bởi Thiên Chúa, thì không phạm tội, vì mầm giống của Người ở trong kẻ ấy.

Kẻ ấy không phạm tội được, vì đã bởi Thiên Chúa mà sinh ra.

Do đó, mà nhận ra được con của Thiên Chúa và con cái ma quỷ.

Bất cứ ai không phải là người công chính, và không thương yêu anh em mình, thì không bởi Thiên Chúa mà ra.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv. 97,7-8,9

Ðáp: Mọi dân trên khắp cùng bờ cõi trái đất, đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. (3c)

Xướng 1) Hãy gầm lên, biển cả và mọi vật dưới biển, cả vũ trụ với vạn vật dân cư. Sông ngòi, hãy vổ tay mừng, núi non, hãy đồng nhảy mừng. - Ðáp.

2) Trước mặt Thiên Chúa, vì Người ngự đến, vì Người ngự đến thống trị địa cầu, Người thống trị địa cầu cách công minh, Người thống trị muôn dân cách chính trực. - Ðáp.

 

Alleluia:

Alleluia, Alleluia. - Thủa xưa, nhiều lần và nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri mà nói với cha ông, nhưng đến thời sau hết, Người đã nói nơi Chúa Con. Alleluia.

 

Phúc Âm: Ga 1,35-42

"Chúng tôi đã gặp Ðấng Cứu Thế".

Bài trích Phúc Âm theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói: Ðây là Chiên Thiên Chúa.

Hai môn đệ nghe ông nói liền đi theo Chúa Giêsu, Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại, thấy họ đi theo mình, thì nói với họ: "Các ngươi tìm gì?"

Họ thưa với Người: "Rabbi, nghĩa là thưa Thầy, Thầy ở đâu?"

Người đáp: "Hãy đến mà xem".

Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười.

Anrê, em ông Simon Phêrô, một trong hai người đã nghe Gioan nói và đã đi theo Chúa Giêsu.

Ông gặp Simon anh mình trước hết và nói với anh: "Chúng tôi đã gặp Ðấng Messia, nghĩa là Ðấng Kitô".

Và ông dẫn anh mình tới Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu nhìn Simon và nói: "Ngươi là Simon, con ông Gioan, ngươi sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Ðá".

Ðó là Lời Chúa.


 

 

Suy Nghiệm Lời Chúa

 

 

"Hãy đến mà xem" - "Ðấng Messia, nghĩa là Ðấng Kitô"


Hôm nay, vai trò của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, qua Phúc Âm của Thánh ký Gioan sau Tuần Bát Nhật Giáng Sinh và trước Lễ Hiển Linh, vẫn tiếp tục vai trò làm chứng của mình cho Chúa Kitô là Đấng đến sau mình, hơn là vai trò dọn đường cho Người như trong các bài Phúc Âm Nhất Lãm ở hai tuần giữa trong Mùa Vọng hướng về Giáng Sinh.

Nếu trong bài Phúc Âm hôm qua Tiền Hô Gioan Tẩy Giả đã thực hiện vai trò làm chứng của mình về Chúa Kitô đến sau mình, bằng việc giới thiệu Người với chung dân Do Thái thì trong bài Phúc Âm hôm nay ngài giới thiệu Người với riêng thành phần môn đệ của ngài: "Khi ấy, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói: Ðây là Chiên Thiên Chúa".

Vị Tiền Hô Gioan Tẩy Giả giới thiệu với các môn đệ của ông về Chúa Giêsu là Đấng đến sau ông cũng bằng một danh xưng như ông đã giới thiệu với chung dân Do Thái đó là danh xưng "Chiên Thiên Chúa", nhưng ở hai môi trường khác nhau: với chung dân chúng thì vào ngày hôm trước còn với các môn đệ của mình thì vào "ngày hôm sau" (Gioan 1:35); với chung dân chúng khi "Chúa Giêsu tiến đến với ông" (Gioan 1:29), còn với các môn đệ của ông khi "Chúa Giêsu đang đi".

Như thế, căn cứ vào Phúc Âm của Thánh ký Gioan chúng ta có thể suy ra rằng ngay sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa ở Sông Jordan như được các Thánh ký của bộ Phúc Âm Nhất Lãm thuật lại thì Người chưa vào hoang địa ngay, trái lại, hai ngày sau đó Người vẫn còn lẩn quẩn ở gần đó: ngày thứ nhất - "the next day" (Gioan 1:29), nghĩa là sau ngày Người lãnh nhận Phép Rửa (xem Gioan 1:31-34), Người trở lại với Tiền Hô Gioan Tẩy Giả một lần nữa, và sang ngày thứ hai - "the next day" (Gioan 1:35) Người đi ngang qua chỗ của Tiền Hô Gioan; chỉ cho tới "ngày thứ ba - the third day" (Gioan 2:1) Người mới ở một nơi khác là Cana Xứ Galilêa, và có lẽ sau biến cố Cana này Người mới chay tịnh 40 đêm ngày...

Chúng ta không biết được lý do tại sao Chúa Giêsu vào ngày thứ hai sau khi lãnh nhận Phép Rửa lại "đi ngang qua" chỗ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả, nhưng có thể suy đoán rằng Người muốn tỏ mình ra cho mấy người môn đệ đầu tiên của Người, trong đó có 2 người môn đệ của vị tiền hô này, để nhờ họ có thể "thấy vinh hiển của Người", đề tài chính yếu của những ngày trước Lễ Hiển Linh, nghĩa là Người bắt đầu tỏ mình ra một cách đặc biệt cho một thiểu số để họ biết Người là ai.

Đó là lý do, tác dụng thần linh xuất phát từ việc "Người đi ngang qua", không dừng lại, không để ý nhìn ai, không lên tiếng kêu gọi người nào, đã khiến cho "hai môn đệ nghe ông nói liền đi theo Chúa Giêsu", có lẽ chỉ vì tò mò muốn biết Người là ai mà được sư phụ của các vị hết sức trân trọng và tôn vinh như thế. Và lòng mong ước của các vị, cho dù tò mò, cũng rất hợp với ý Chúa, Đấng muốn lợi dụng chính cái tò mò tự nhiên ấy mà tỏ mình ra cho họ để nhờ đó họ có thể "thấy vinh hiển của Người", có thể biết Người là ai. Bởi thế nên "Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại, thấy họ đi theo mình, thì nói với họ: 'Các ngươi đang tìm kiếm gì vậy?'".

Chính thái độ chủ động qua câu hỏi mở đầu và dẫn lối này đã cho thấy ý định muốn tỏ mình ra của Chúa Kitô, để rồi, khi những con người muốn đến với Người công khai chính thức bày tỏ ý định của họ: "Rabbi, nghĩa là thưa Thầy, Thầy ở đâu?", hay "Thày từ đâu đến?" hoặc "Thày là ai?", Người mới khách quan mời gọi họ: "hãy đến mà xem", nghĩa là hãy cứ đến với Người, ở với Người hay giao tiếp với Người, thì họ sẽ tự cảm nghiệm thấy Người là ai đối với họ.

Đúng thế, được mời gọi mở đường như thế, "họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười", để rồi nhờ đó cuối cùng họ đã nhận ra Người là ai, và sau đó họ chẳng những thú nhận và tuyên xưng rằng "Chúng tôi đã gặp Ðấng Messia, nghĩa là Ðấng Kitô" mà còn làm chứng cho người khác thấy chân lý chính yếu làm nên chính căn tính của Người và về Người ấy để cùng nhau "thấy vinh hiển của Người".

Thành phần tin nhận "Con Thiên Chúa", Đấng đã "hóa thành nhục thể" (Gioan 1:14) để trở nên "Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian", như Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong bài Phúc Âm hôm qua đã chứng nhận và giới thiệu với chung dân chúng, và chỉ có "Con Chiên Thiên Chúa" là chính "Con Thiên Chúa" ấy mới có thể xóa tội trần gian, mới có thể nhờ đó triệt hạ ngụy thần cùng quyền lực sự chết của chúng, như Thánh ký Gioan xác tín trong Bài Đọc 1 hôm nay: "Con Thiên Chúa đã xuất hiện để phá hủy công việc của ma qủy".

Như thế, "vinh hiển của Người Con duy nhất đến từ Cha, đầy ân sủng và chân lý" đây là gì, nếu không phải là các linh hồn được cứu độ, thành phần "đã được nhìn thấy vinh hiển của Người", đã chấp nhận ơn cứu chuộc của Người, và như hai môn đệ của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả trong bài Phúc Âm hôm nay, đã mong muốn đến với Người, đã đáp ứng tác động thần linh của Người, đã ở với Người và đã nhận biết Người để có thể làm chứng về Người.