"Những cội gốc của Pháp quốc

– như những cội gốc của Âu Châu – là Kitô Giáo".

 

ĐTC Biển Đức XVI Tông Du Pháp Quốc (12-15/9/2008)

mừng Biến Cố Thánh Mẫu Lộ Đức 150 Năm

 

Gặp gỡ thành phần thuộc lãnh vực văn hóa Pháp quốc

(tiếp)

Đức Thánh Cha đã khai triển vấn đề “văn hóa ngôn từ” liên quan tới Thánh Kinh và việc giải thích Thánh Kinh như sau:

 

Để hiểu được phần nào thứ văn hóa của ngôn từ này, một thứ văn hóa đã được khai triển sâu xa trong đời sống đan tu Tây phương từ việc tìm kiếm Thiên Chúa, chúng ta cần phải ít là vắn tắt đề cập tới một tính chất đặc biệt của cuốn sách này, hay của những cuốn sách ấy là nơi các đan sĩ đã gặp gỡ những ngôn từ này. Thánh Kinh, theo quan điểm thuần lịch sử và văn chương, thì không phải là một cuốn sách, mà là một tổng hợp các bản văn được ghi chép lại qua giòng lịch sử trên một ngàn năm, một tổng hợp không cho thấy ngay được tính chất hiệp nhất nội tại của nó là những gì vốn bao gồm các cuốn sách riêng biệt. Trái lại, giữa những cuốn sách này có những căng thẳng rõ rệt… Mối hiệp nhất của các cuốn sách thánh kinh và tính chất thần linh của những lời trong ấy không thể nào nắm bắt chỉ thuần bằng những phương pháp lịch sử. Yếu tố lịch sử có tính chất đa dạng và nhân loại. Từ đó người ta có thể hiểu được rằng công thức của một câu ghép từ thời trung cổ mới nghe có vẻ chướng tai: littera gesta docet – quid credas allegoria … (cf. Augustine of Dacia, Rotulus pugillaris, I). Tức là chữ nghĩa thì cho thấy các sự kiện; còn những gì anh em cần phải tin tưởng thì được thấy nơi ý nghĩa bóng bẩy, tức là, nơi ý nghĩa về Kitô học và linh thiêng học. Chúng ta có thể nói một cách đơn giản là Thánh Kinh cần phải được dẫn giải, và cần đến bối cảnh cộng đồng là nơi xuất phát Thánh Kinh và là nơi tồn tại Thánh Kinh. Đó là nơi thấy được mối hiệp nhất của nó và cả ở nơi ấy hiện lên ý nghĩa liên kết của nó. Nói cách khác, có những chiều kích về ý nghĩa nơi ngôn từ hay nơi các ngôn từ chỉ trở nên sáng tỏ trong cộng đồng sống động này của ngôn từ trải dài theo giòng lịch sử ấy mà thôi… Kitô giáo nhận thấy nơi các ngôn từ này chính Ngôi Lời – Logos chiếu tỏa mầu nhiệm của mình ra qua tính chất đa dạng cũng như qua thực tại của lịch sử loài người… Thật thế, lời của Thiên Chúa không thể nào chỉ ngang hàng với chữ nghĩa của bản văn. Để đạt được lời Chúa cần phải có một kiến thức siêu việt và tiến triển theo chiều hướng nội tại của toàn thể, nhờ đó nó cũng trở thành một tiến triển của đời sống. Chỉ ở trong mối hiệp nhất linh động của toàn khối này mà nhiều cuốn sách mới trở thành một cuốn sách duy nhất. Lời của Chúa và hành động của Ngài trên thế giới chỉ được mạc khải cho thấy ở nơi ngôn từ và lịch sử của loài người mà thôi”.

 

Đến đây, Đức Thánh Cha mới nêu lên cho thấy chân tướng của những gì là trục trặc nơi nền văn hóa tự do của Âu Châu liên quan tới việc tìm hiểu hay dẫn giải Thánh Kinh,  nguyên văn như sau:

 

Tất cả thảm trạng của vấn đề này được sáng tỏ nơi các bản văn của Thánh Phaolô. Những gì liên quan tới tính chất siêu việt của chữ nghĩa cũng như việc hiểu biết chữ nghĩa này chỉ duy từ quan điểm của toàn thể thì ngài đã mạnh mẽ diễn tả như sau: ‘chữ nghĩa là những gì giết chết, Thần Linh mới ban sự sống’ (2Cor 3:6). Rồi ngài viết tiếp: ‘Đâu có Thần Linh… đó mới có tự do’ (cf 2Cor 3:17). Thế nhưng, người ta chỉ có thể hiểu được tầm mức cao cả và rộng lớn của nhãn quan này về lời thánh kinh nếu họ lắng nghe Thánh Phaolô cẩn thận hơn nữa thì mới khám phá ra rằng vì Thần Linh tự do này có một danh xưng, và cái tự do ấy có một qui chuẩn nội tại: ‘Chúa là Thần Linh. Đâu có Thần Linh… đó có tự do’ (2Cor 3:17). Vị Thần Linh tự do này không phải chỉ là ý nghĩ tư riêng của nhà dẫn giải kinh thánh, là quan điểm riêng của kinh thánh chú giải viên. Vị Thần Linh này là Chúa Kitô, và Chúa Kitô là Chúa , Đấng chỉ cho chúng ta thấy đường đi nước bước. Nhờ ngôn từ của Thần Linh và của tự do mà một chân trời rộng lớn hơn đã được mở ra, thế nhưng, đồng thời một giới hạn rõ ràng cũng đã được áp đặt trên những gì là độc đoán và chủ quan, một giới hạn nhất định liên kết cá nhân và cộng đồng lại với nhau, và làm phát sinh ra một thứ bó buộc mới mẻ cao cả hơn là cái trói buộc của chữ nghĩa, đó là cái bó buộc của minh thức và tình yêu. Tình trạng căng thẳng này giữa cái bó buộc và tự do, một tình trạng vượt ra ngoài vấn đề văn tự của việc dẫn giải thánh kinh, cũng đã cho thấy việc suy nghĩ và tác hành của đời sống đan tu và sâu xa ghi dấu vết nền văn hóa Tây phương. Tình trạng căng thẳng này đang tái xuất như là một thách đố đối với thế hệ của chúng ta khi chúng ta đang đối diện với hai thái cực, một đàng là cái độc đoán chủ quan, còn một đàng là cái cuồng tín bảo thủ. Thảm họa sẽ xẩy ra nếu nền văn hóa Âu Châu ngày nay chỉ chấp nhận tự do là những gì bất ràng buộc, một nền văn hóa sẽ không thể nào tránh được tình trạng cuồng tín và độc đoán. Không bị ràng buộc thì độc đoán không phải là biểu hiệu cho tự do mà là những gì hủy hoại tự do”.

 

Chưa hết, nền văn hóa Tây phương hay Âu Châu chẳng những liên quan tới yếu tố thứ nhất của đời sống đan tu là ngôn từ mà còn liên quan tới một yếu tố khác nữa là lao động nữa, một yếu tố cũng dính dáng tới vấn đề tự do. Đó là lý do vị Giáo Hoàng mang danh hiệu của Thánh tổ phụ ngành đan tu Tây phương Biển Đức này đã xác định rằng: “Thế nhưng, việc bàn giải của chúng ta sẽ vẫn còn thiếu sót không đầy đủ nếu chúng ta không ít là vắn tắt lướt qua yếu tố thứ hai của đời sống đan tu là ‘lao động’”. Thế rồi, ngài đã nói đến ý nghĩa và giá trị đích thực của vấn đề lao động này theo Kitô giáo, so với tâm thức và chủ trương của nền văn hóa Hy Lạp và Do Thái thời bấy giờ, như sau:

 

Ở thế giới Hy Lạp thì việc lao động chân tay được coi là một điều gì đó giành cho thành phần nô lệ. Chỉ có thành phần khôn ngoan hiền triết, thành phần được thực sự là tự do, mới dấn thân cho những gì thuộc về tâm linh; họ coi công việc lao động chân tay một cách nào đó hạ đẳng, giành cho những ai không xứng hợp với sự hiện hữu cao cả thuộc thế giới tâm linh. Truyền thống Do Thái lại hoàn toàn khác hẳn, ở chỗ, tất cả mọi vị giáo sĩ cao cả đã đồng thời thi hành một hình thức tiểu công nghệ nào đó. Thánh Phaolô, vị là Tôn sư và là một giảng viên Phúc Âm cho thế giới Dân ngoại cũng đã từng là một thợ làm lều kiếm sống bằng công việc làm bởi chính bàn tay của ngài, cũng không ngoại lệ ở đây những vẫn theo truyền thống chung của thành phần tôn sư. Đời sống đan tu đã tiếp tục truyền thống này; việc làm chân tay là một yếu tố làm nên đời sống đan tu Kitô giáo. Trong Luật Dòng của mình, Thánh Biển Đức không nói đặc biệt về các học đường, mặc dù trên thực tế ngài chủ trương giảng dạy và học hành, như chúng ta từng thấy. Tuy nhiên, ở một chương (xem chương 8) trong Luật Dòng của mình, ngài đã nói rõ ràng về việc làm. Cả Thánh Âu Quốc Tinh cũng thế, vị đã giành hẳng một cuốn sách cho việc làm của đan viện. Kitô hữu, thành phần như thế đã tiếp tục theo truyền thống được thiết lập từ Do Thái giáo trước đó, cần phải cảm thấy vấn đề này được sáng tỏ hơn nữa bởi lời Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm Thánh Gioan khi Người bào chữa cho việc Người làm vào Ngày Hưu Lễ. ‘Cha Tôi vẫn còn làm việc và Tôi cũng đang làm việc’ (5:17). Thế giới Hy La không có một vị Thiên Chúa hóa công; theo nhãn quan của nó thì vị thần linh cao cả nhất thực sự không thể nào bẩn tay trong việc tạo thành nên vật chất. ‘Việc tạo thành’ nên thế giới này là công việc của Demiurge, của vị thần hạ cấp. Vị Thiên Chúa của Kitô giáo lại khác, ở chỗ, Ngài, Vị Thiên Chúa duy nhất và chân thật, cũng là Đấng Hóa Công. Thiên Chúa đang làm việc; Ngài tiếp tục làm việc trong và nơi lịch sử con người. Nơi Chúa Kitô, Ngài đã đích thân ra công đi làm lịch sử. ‘Cha Tôi vẫn còn làm việc, và Tôi cũng đang làm việc’. Chính Thiên Chúa là Đấng Hóa Công của thế giới này, và việc tạo dựng vẫn chưa hoàn tất. Thiên Chúa làm việc, ergázetai! Bởi thế việc làm của con người giờ đây được coi như là một hình thức đặc biệt cho thấy con người giống Thiên Chúa, như cách thức con người có thể và được thông phần vào hoạt động của Thiên Chúa là Đấng tạo thành thế giới. Đời sống đan tu không chỉ bao gồm một thứ văn hóa về ngôn từ, mà còn một thứ văn hóa về làm việc mà nếu không có thứ văn hóa này thì không thể nào nghĩ được về sự xuất hiện của Âu Châu, về nét đặc trưng của nó cũng như về tầm ảnh hưởng của nó trên thế giới này. Dĩ nhiên cái đặc trưng này đã bao gồm cả ý nghĩ là việc làm của con người và việc hình thành lịch sử được hiểu như việc thông phần vào việc làm của Đấng Hóa Công cũng như cần phải thẩm định theo chiều hướng ấy. Nếu mất đi việc thẩm định này thì con người tỏ ra bậy bạ cho mình đóng vị thế của một kẻ tạo dựng như thiên chúa, và việc họ hình thành thế giới này có thể mau chóng làm cho thế giới bị hủy hoại”.

 

Từ việc làm lao động chân tay là yếu tố thứ hai làm nên đời sống đan tu Tây phương từ luật dòng của Thánh Biển Đức, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã tiến sang lãnh vực hoạt động nói chung của đời sống đan tu, đó là hoạt động truyền đạt ngôn từ hay Lời Chúa là những gì liên quan tới nội tâm của thành phần đan tu, liên quan tới yếu tố nền tảng và chính yếu của đời sống tìm kiếm Thiên Chúa này của họ. Vị Giáo Hoàng thần học gia của chúng ta đã sâu xa phân tính sự liên kết chặt chẽ giữa hai yếu tố nội tâm và hoạt động, cho thấy chính yếu tố ngôn từ đã trở thành loan truyền nguyên văn như thế này.

 

(còn tiếp)

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, phân tích và tổng hợp theo nguyên bản những bài nói của ĐTC từ

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/travels/2008/index_francia_en.htm