Thánh Phaolô - Hộ Giáo

 

 

ĐTC Biển Đức XVI - Buổi Triều Kiến Chung hằng tuần Thứ Tư 1/10/2008

– Loạt bài cho Năm Thánh Phaolô Bài Giáo Lư 6

 

 

(tiếp)

 

Biến cố thứ hai là vụ việc quá quen thuộc xẩy ra bất ngờ ở Antioch xứ Syria, một vụ việc khiến cho chúng ta có thể hiểu được cái tự do nội tâm nơi Thánh Phaolô. Làm thế nào người ta có thể tác hành ở những trường hợp hiệp thông nơi bàn ăn giữa thành phần tín hữu gốc Do Thái và những tín hữu gốc dân ngoại? Ở đây chúng ta thấy dược cái tâm chấn khác của việc tuân giữ lề luật Moisen, đó là việc phân biệt giữa những thứ thực phẩm sạch và dơ, những ǵ hết sức phân chia những người Do Thái giữ luật với thành phần dân ngoại. Thoạt tiên, Thánh Phêrô là Cephas cùng đồng bàn với cả hai, thế nhưng, khi thấy một số Kitô hữu có liên hệ với Thánh Giacôbê là ‘anh em của Chúa’ (Gal 1:19) đến, Thánh Phêrô bắt đầu tránh liên hệ ở bàn ăn với những người dân ngoại, hầu tránh gương mù cho những ai tiếp tục giữ các thứ qui lệ liên quan tới việc sạch sẽ của thức ăn. Và việc làm này cũng kéo theo cả Thánh Barnabê. Thái độ ấy hết sức gây chia rẽ giữa thành phần Kitô hữu chịu phép cắt b́ và thành phần Kitô hữu xuất thân từ dân ngoại.  

 

Tác hành ấy, một tác hành thật sự đe dọa tới mối hiệp nhất và sự tự do của Giáo Hội, gây nên một phản ứng dữ dội từ Thánh Phaolô, người đă tiến tới chỗ cáo giác Thánh Phêrô và những kẻ c̣n lại là giả h́nh. ‘Nếu anh em, mặc dù là một người Do Thái, lại đang sống như một người Dân Ngoại chứ không như một người Do Thái, th́ làm sao anh em có thể bắt buộc Dân Ngoại sống như người Do Thái được chứ?’ (Gal 2:14). Thật thế, những mối quan tâm một bên là của Thánh Phaolô, c̣n bên kia là của Thánh Phêrô và Barnabas, th́ khác nhau: Đối với hai vị sau th́ việc phân ra khỏi thành phần dân ngoại là những ǵ cho thấy cách thức để dạy và tránh gương mù cho thành phần tín hữu xuất thân từ Do Thái giáo. Thế nhưng, đối với Thánh Phaolô, nó lại tạo nên một mối nguy hại về một thứ hiểu lầm ơn cứu độ phổ quát nơi Chúa Kitô được cống hiến cho dân ngoại cũng như dân Do Thái. Nếu việc công chính hóa được thể hiện chỉ ở niềm tin tưởng vào Chúa Kitô, vào sự tuân hợp với Người, không cần đến bất cứ công việc nào của lề luật, th́ c̣n nghĩa lư ǵ nơi việc vẫn cứ giữ các qui lệ về việc tinh sạch của thức ăn khi tham dự vào bàn tiệc chứ? Rất có thể quan điểm của Thánh Phêrô và Phaolô khác nhau: đối với Thánh Phêrô th́ không muốn mất đi thành phần dân Do Thái đă chấp nhận Phúc Âm, c̣n đối với Thánh Phaolô th́ không muốn làm suy giảm giá trị cứu độ của cuộc Chúa Kitô tử nạn cho tất cả mọi tín hữu.

 

Thế nhưng vấn đề đáng ghi nhận ở đây là, khi viết cho tín hữu Rôma sau đó mấy năm, (khoảng giữa thập niên 50), Thánh Phaolô lại chạm trán với một trường hợp tương tự, và ngài xin thành phần mạnh khỏe rằng họ đừng nên dùng thứ thức ăn dơ bẩn để không tác hăi tới người yếu hay gây gương mù cho họ. ‘Tốt hơn th́ đừng ăn thịt hay uống rượu hoặc làm bất cứ điều ǵ có thể khiến cho anh chị em của ḿnh vấp phạm’ (Rm 14:21). Vụ việc bất ngờ xẩy ra ở Antioch tự nó là một bài học cho cả Thánh Phêrô lẫn Phaolô. Chỉ khi nào chân thành đối thoại, cởi mở trước chân lư của Phúc Âm, mới có thể hướng dẫn đường lối của Giáo Hội mà thôi: ‘V́ vương quốc của Thiên Chúa không phải là vấn đề ăn uống, mà là sự công chính, b́nh an, và niềm vui trong Thánh Thần’ (Rm 14:17).

 

Đó là những ǵ cả chúng ta cũng cần phải học nữa: bằng những đặc sủng khác biệt được ủy thác cho Thánh Phêrô và Phaolô, tất cả chúng ta đều được hướng dẫn bởi Thần Linh, cố gắng sống trong sự tự do theo chiều hướng tin tưởng vào Chúa Kitô và trở nên cụ thể nơi việc phục vụ anh chị em của chúng ta. Vấn đề thiết yếu đó là vấn đề làm sao để càng ngày càng nên giống Chúa Kitô hơn. Có thế người ta mới thực sự tự do, có thế cái hạch nhân sâu xa nhất của lề luật mới được thể hiện nơi chúng ta: đó là t́nh yêu Thiên Chúa và tha nhân. Chúng ta hăy xin Chúa dạy cho chúng ta có được những cảm thức của Người, biết học từ Người sự tự do đích thực và t́nh yêu thương của phúc âm bao gồm hết mọi người.


 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 1/10/2008

(những chỗ được in đậm lên là do tự ư của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính yếu quan trọng)