Chúa Nhật Thứ
Hai Mùa Vọng
Mục lục
HÃY SÁM HỐI
"Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần" … (Mt. 3:1)
Bạn thân mến! Trên đây là tiếng hô trong hoang địa; là lời rao giảng của Gioan
hai ngàn năm trước khi ông đi dọn đường cho Chúa. Đó cũng là lời mời gọi "Sám
Hối" mà Gioan gởi đến mỗi người chúng ta trong bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay.
Lời rao giảng của Gioan thật cấp bách. Ông mời gọi ta phải mau mau sám hối, vì
"Cái rìu đã đặt sát gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi
và quăng vào lửa" (Mt. 3:10)
Nếu sám hối là dọn đường của lòng mình, thì chúng ta hãy dẹp bỏ những chướng
ngại của tâm hồn để Chúa có thể đến và ngự trị:
Tâm hồn ta có những đỉnh đồi kiêu ngạo luôn muốn nâng mình lên, luôn khoe
khoang, không bao giờ chịu thua kém người khác. Tâm hồn ta có những ngọn núi tự
ái cao ngất trời xanh, không bao giờ chịu nhận lỗi, không bao giờ chịu tha thứ.
Tâm hồn ta có những hố sâu tham lam muốn chiếm đoạt tất cả, muốn thu vén tất cả
vào túi riêng. Tâm hồn ta có những hố sâu chia rẽ, luôn gây ra bất hoà, luôn
giận hờn, luôn ganh ghét, luôn nghi kỵ. Tâm hồn ta có những hố sâu đam mê, miệt
mài đuổi theo danh, lợi, thú. Tâm hồn ta có những hố sâu dục vọng nặng nề thú
tính.
Tâm hồn ta có những khúc quanh co của sự dối trá, không thành thật với Chúa,
không thành thật với người khác và không thành thật với chính mình. Tâm hồn ta
có những khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu
duyệt xét lương tâm.
Tâm hồn ta có những lượn sóng gồ ghề của những lời nói độc ác, tàn nhẫn. Tâm hồn
ta gồ ghề vì thói lười biếng không chịu cố gắng thăng tiến bản thân. Tâm hồn ta
gồ ghề vì những phê bình chỉ trích thiếu tính cách xây dựng.
Tất cả những ngọn đồi, những vực sâu, những khúc quanh co, những lượn sóng gồ
ghề ấy ngăn chặn Chúa đến với ta. Nên hôm nay, Gioan mời gọi ta hãy sửa chữa
con đường thiêng liêng cho tốt đẹp để đón Chúa Giêsu đến.
Hãy bạt đi thói kiêu căng tự mãn. Hãy bạt đi tính tự ái ngang ngạnh. Hãy lấp đi
những hố sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà. Hãy lấp đi những hố sâu đam mê, dục
vọng. Hãy uốn thẳng lại những quanh co dối trá. Hãy uốn thẳng lại những khúc
quanh giả hình. Hãy san phẳng những lượn sóng gồ ghề độc ác. Hãy san phẳng những
lượn sóng gồ ghề nói hành nói xấu.
***
Lạy Chúa, thật là khó khi nhận mình lầm lỗi, và cũng không dễ dàng khi phải sửa
chữa lỗi lầm.
Xin ban cho con ơn sám hối, dám mạnh dạn đi đến những hành động cụ thể, và can
đảm chấp nhận cắt tỉa đớn đau, để con xứng đáng đón rước Chúa đến mang nguồn vui
ơn Cứu Độ cho cuộc đời của con. Amen.
(Trích từ
R. Veritas)
Ngọc Nga sưu tầm
Mục Lục
NẾU CHÚA KITÔ
KHÔNG ĐẾN
Trong các mẫu
thiệp Giáng Sinh, người ta thấy có một thiệp với tựa đề như sau: “Nếu Chúa Kitô
Không Đến”. Thiệp Giáng Sinh này kể lại câu chuyện của một vị mục sư ngủ gục
trên bàn làm việc của mình trong buổi sáng Lễ Giáng Sinh, rồi mơ mình đang ở
trong một thế giới nơi Chúa Giêsu không bao giờ sinh ra.
Trong giấc mơ
ông thấy mình đang đi qua ngôi nhà quen thuộc của ông, nhưng khi nhìn vào ông
không thấy có bít tất vắt trên lò sưởi, cũng chẳng có cây giáng sinh, cũng chẳng
có hoa đèn và dĩ nhiên không có Chúa Giêsu để sưởi ấm tâm hồn con người hay cứu
độ chúng ta.
Ông đi dọc theo
những con đường quen thuộc nhưng không thấy có bất cứ một ngôi giáo đường nào,
ông trở về văn phòng của mình và đi vào thư viện, ông không còn thấy có bất cứ
một quyển sách nào viết về Chúa Giêsu nữa.
Trong giấc mơ,
ông lại nghe tiếng chuông cửa reo lên và có người mời ông đi thăm người mẹ của
người bạn đang hấp hối. Ông liền đi đến nhà bà, tại đây ông thấy người bạn của
mình đang ngồi khóc, ông nói với người bạn:
Tôi có mang
theo đây điều mà tôi nghĩ là có thể an ủi cho ông.
Ông mở quyển
Kinh Thánh ra để khả dĩ có thể thấy một lời an ủi nâng đỡ người bạn, nhưng tuyệt
nhiên không có Tân ước nên không có bất cứ một lời hứa hay niềm hy vọng nào.
Trong giây phút ấy, tất cả những gì mà vị mục sư có thể làm là cúi đầu cùng khóc
với người bạn và người mẹ đang hấp hối trong thất vọng.
Hai ngày sau,
ông thấy mình đứng bên cạnh quan tài của bà, ông chủ sự nghi lễ an táng nhưng
ông không thể đọc được bất cứ một lời an ủi nào. Không có niềm hy vọng sống lại,
không có sự sống vĩnh cửu, không có thiên đàng, chỉ còn lại câu nói quen thuộc:
“Tro bụi trở về bụi tro”, với một lời từ giã buồn bã và dài lê thê.
Cuối cùng ông
biết rằng, Chúa Kitô đã không bao giờ đến. Trong cơn thất vọng ông đã khóc nức
nở.
Thình lình ông
choàng tỉnh dậy và trong phản ứng tự nhiên của ông là hét lên trong vui mừng khi
nghe ca đoàn trong nhà thờ cất tiếng hát:
“Hỡi các tín
hữu, hãy hân hoan đến thờ lạy Chúa Kitô, Vua các thiên thần, Người đã sinh ra
tại Belem.”
***
Bạn thân mến,
Với bầu khí
Giáng Sinh, tin hay không tin, tín hữu Kitô hay không là tín hữu Kitô khó có thể
chống cự lại với niềm vui chung của mọi người, vui với niềm vui của đoàn tụ gặp
gỡ, vui với niềm vui của chia sẻ và trao ban.
Quả thật, nhân
loại không thể nào loại bỏ Chúa Kitô ra khỏi lịch sử của mình. Muốn hay không,
Ngài đã đến trong lịch sử ấy, mãi mãi ghi vào lịch sử ấy một dấu ấn không bao
giờ tàn phai. Thế giới đầy những dấu chân Ngài đã đi qua, Ngài đến để mang lại
hoà bình, hy vọng và niềm vui đích thực cho con
người. Dẫu thế giới có là một nghĩa trang, thì nghĩa trang ấy cũng toát lên sự
thanh thản, niềm an bình và hy vọng khi thánh giá vẫn còn in bóng trên các ngôi
mộ. Ngài không đến để đẩy lui những giới hạn của kiếp người, Ngài không đến để
cất bỏ khổ đau, nhưng chính vì Ngài đã đến; mà dù có giới hạn và chồng chất khổ
đau; cuộc sống con người mới có ý nghĩa.
***
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến để mang lại niềm vui đích thực cho chúng con, xin cho cuộc sống của
chúng con luôn được tràn ngập niềm vui ấy để
chúng con biết ra đi và loan báo tin vui ấy cho
mọi người, nhất là những ai đang bị sức nặng của cuộc sống đè bẹp. Amen.
R. Veritas
Mục Lục
MANG NẶNG ĐẺ
ĐAU
Trong tờ thông tin liên lạc của một giáo xứ nọ, người ta đọc thấy ở trang bìa
của số ra tháng 12 như sau: Mùa Vọng là mùa của
thai nghén…
Có lẽ chỉ có những người đàn bà đã hơn một lần trải qua thời thai nghén và sinh
nở mới có thể giúp chúng ta hiểu được thế nào là 9 tháng 10 ngày mang nặng đẻ
đau… Trong 9 tháng 10 ngày, ngoài những nôn mửa không ngừng, người đàn bà mang
thai thường phải trải qua nhiều tâm trạng khác nhau của vui buồn lẫn lộn.
Vui vì sự sống và niềm hy vọng đang lớn dần trong tâm hồn và thể xác của mình,
người đàn bà mang thai cũng lo sợ vì những bất ngờ không lường trước được. Những
đột biến trong người khiến cho người đàn bà mang thai cảm nhận được sự mỏng dòn,
yếu đuối của con người. Tất cả mọì cử động, chế độ dinh dưỡng đều được cân nhắc
cẩn thận để không phương hại đến bào thai… Có nên tiếp tục đi nhanh như trước
kia không? Có nên dùng một điếu thuốc như trước không? Có nên dùng cà phê không?
Có nên dùng một chút bia rượu không? Có nên thức khuya không?... Tất cả đều được
cân nhắc từng ly từng tí.
Bào thai càng lớn dần, niềm vui và nỗi lo lắng cũng tăng thêm… Và khi đến ngày
khai hoa nở nhụy, như Chúa Giêsu đã nhận xét, niềm vui của người đàn bà khỏa lấp
được tất cả chờ đợi trong khi mang thai và những đớn đau trong khi sinh con.
Sự chào đời của hài nhi không những mang lại niềm vui, nhưng cũng đảo lộn cuộc
sống trong gia đình. Đứa bé đã trở thành trung tâm của cuộc sống gia đình. Giờ
giấc thay đổi, nhịp sống cũng thay đổi. Và có lẽ cái
nhìn cũng đổi mới với mọi người trong nhà.
Mùa Vọng là mùa của thai nghén… Do tiếng thưa xin vâng đáp trả của Đức tin,
chúng ta cũng cưu mang chính Chúa. Như người đàn bà có thể
cảm nhận được sự hiện diện mỗi lúc một thêm thân mật
và gần gũi với Chúa trong tâm hồn chúng ta.
Cũng như người đàn bà mang thai có thể nhận ra sự mỏng dòn yếu đuối của mình,
với sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn, chúng ta cũng cảm nhận sâu sắc hơn
những bất toàn, khiếm khuyết và tội lỗi của chúng ta. Ý thức ấy càng mời gọi
chúng ta bước đi trong từng cố gắng vươn cao hơn. Cũng như người đàn bà mang
thai cân nhắc từng đường đi nước bước, từng cách ăn mặc đi đứng,
người cưu mang Chúa cũng tập trung tất cả suy tư, hành
động, cư xử của mình vào chính Chúa. Lẽ sống và động lực của người có
niềm tin chính là Chúa… Bào thai càng lớn lên thì sự quên mình của người mẹ càng
gia tăng. Người cưu mang Chúa cũng thế. Thánh Gioan Tẩy giả đã diễn tả đúng đòi
hỏi ấy khi Ngài nói về Chúa Giêsu: “Ngài phải
lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại”…
Càng quên mình, người Kitô càng cảm nhận được sự hiện diện của Chúa trong tâm
hồn. Đó là định luật của đời sống Đức tin. Chính khi quên mình, người Kitô cảm
nhận được sự hiện diện của Chúa và càng gặp được chính mình…
Mùa vọng là mùa của thai nghén: chúng ta hãy chuẩn bị cho Chúa Giêsu một máng cỏ
trong tâm hồn chúng ta. Cũng như người đàn bà quên mình vì không biết bao nhiêu
chuẩn bị cho con, chúng ta cũng hãy hướng trọn cuộc sống của chúng ta về với
Chúa Giêsu. Hãy để cho Ngài lớn lên bằng những nhỏ lại của chúng ta:
nhỏ lại trong tham vọng, nhỏ lại trong những ước muốn
bất chánh, nhỏ lại trong những đố kỵ, ghen ghét ích kỷ, nhỏ lại trong muôn vàn
những đốn hèn, nhỏ nhặt trong cuộc sống…
Và rồi, với Chúa ngự trị trong ta, tình mến sẽ lớn mãi
trong trái tim.
R. Veritas
Ðây những tháng cuối trong năm.
Ðây những đêm dài nhất
và những ngày buồn nhất.
Hằng ngày truyền hình và báo chí
đổ tuôn một loạt tin bạo động
làm tuyệt vọng!
Anh hãy thắp cây nến đầu của Mùa Vọng!
để nói trước tiên niềm hi vọng của anh:
Chúa không ngủ,
anh và thế giới được cứu rỗi
nhờ Ngài trước hết.
Anh hãy thắp một ánh sáng!
Giây phút im lặng và cầu nguyện,
hằng ngày đọc Thánh Kinh,
viếng thăm một bệnh nhân,
lắng nghe người bên cạnh,
một cử chỉ mới để chia sẻ,
một lời lành và xác thực,
đáp lại một lời gọi...
Với những người trong gia đình,
con của anh trước hết
đang nhìn anh,
hãy nghiêm trọng, vui vẻ,
thắp cây nến đầu của Mùa Vọng!
Hiền Hoà chuyển dịch
Ngọc Nga sưu
tầm
Mục Lục
Hịệp thông với
Chúa
Hiệp thông với
anh em
Mai Bảo Linh
Thư 2 Phêrô 3, 8-14 (một đoạn thư của
Thánh Phêrô:
Thánh tông đồ Phaolô được trân trọng nhắc đến ...)
" (8) Anh em thân mến, một điều duy nhất, xin anh em đừng quên: đối
với Chúa, một ngày ví thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày. (9) Chúa không
chậm trễ thực hiện lời hứa, như có kẻ cho là Người chậm trễ. Kỳ thực, Người kiên
nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho
mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải.
(10) Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó, các tầng trời
sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó
sẽ bị thiêu hủy.
(11) Muôn vật phải tiêu tan như thế, thì anh em phải là những người
tốt dường nào, phải sống đạo đức và thánh thiện biết bao, (12) trong
khi đợi ngày của Thiên Chúa và làm cho ngày đó mau đến, ngày mà các tầng trời sẽ
bị thiêu hủy và ngũ hành sẽ tan ra trong lửa hồn (13) Nhưng, theo lời
Thiên Chúa hứa, chúng ta mong đợi trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị.
(14) Vì thế, anh em thân mến, trong khi chờ đợi ngày đó, anh em phải
cố gắng sao cho Người thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình
an ".
Một vài suy tư:
Thời gian Mùa Vọng, Phụng vụ Lời Chúa vẫn hằng nhắc nhủ chúng ta
tinh thức cầu nguyện và vững dạ đợi chờ. Hôm nay bài đọc trong thư thứ II của
Thánh Phêrô, người đã được Chúa đặt làm Vị thủ lãnh của Giáo hội. Thánh Phêrô
và Thánh Phaolô là hai cột trụ của Hội Thánh của Chúa Giêsu Kitô được xây dựng
trên nền móng là bàn thạch vững chắc của hai Vị được chọn cách đặc biệt nầy, các
ngài đã ra sức thành lập, dạy dỗ và củng cố các giáo đoàn lúc mới manh nha với
những vấn đề các tín hữu đang gặp khó khăn, bị bách hại hay những thắc mắc... "Ngày
Chúa sẽ trở lại" là một trong các vấn đề.
1- Thánh Phêrô giới thiệu Thánh Phaolô:
Mở đầu đoạn 3 của thư thứ 2 Thánh Phêrô hôm nay, ta thấy Thánh Phêrô đã giới
thiệu Thánh Phaolô cách trân trọng, chân tình và tin tưởng, bởi giáo huấn của vị
Tông đồ tài ba nầy, khi Ngài viết: "Anh em hãy nhớ lại những điều các thánh Ngôn
sứ đã nói trước kia, và điều răn của Chúa, Đấng Cứu Độ, mà các tông đồ của anh
em đã truyền dạy."(2Pr 3,2), và tiếp liền đoạn thư trên c.15, khi bàn đên vấn
đề - mong đợi ngay Chúa đến , Thánh Phêrô đã đồng ý
như Thánh Tông đồ Phaolô và giáo huấn của Phaolô, khi viết: " Và anh em
hãy biết rằng, Chúa chúng ta tỏ lòng kiên nhẫn chính là để anh em được cứu độ,
như ông Phaolô, người anh em thân mến của chúng ta, đã
viết cho anh em, theo ơn khôn ngoan Thiên Chúa đã ban cho ông, khi bàn đến vấn
đề nầy " (2Pr 3, 15-16)
Thật là thú vị, vì qua lịch sử Hội Thánh, ta khám phá ra
một tinh yêu, một tình bạn, một tình thần, một hồn
tông đồ đã liên kết một cách chặt chẻ giữa hai Vị Tông đồ nầy: một
cho Giáo hội toàn cầu, và một cho dân ngoại, cả hai đã cùng nhau xây dựng Hội
Thánh trong buổi bình minh của Giáo Hội Đức Kitô, để cho Lời Chúa :Đức Giêsu
Kitô và ơn Cứu độ của Người đến tận cùng thế giới.
2- Chúa nhật II Mùa Vọng, qua thư của Thánh Tông đồ Phêrô, lần nữa lại nhắc
nhủ chúng ta đưng quên Ngày Chúa đến, những hình ảnh : "
Các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu
tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu hủy."(c. 10) " ngày
mà các tầng trời sẽ bị thiêu hủy và ngũ hành sẽ tan ra trong lửa hồng."(c.13).
Những kiểu nói khải huyền nầy được dùng để diễn tả Ngày của Thiên Chúa.
Điều mà Thánh Phaolô cũng đã đề cập một cách nghiêm túc trong 1Cor 1, 1.8-9:
"Chính Người sẽ làm cho anh em nên vững chắc đến cùng, nhờ thế không ai có thể
trách cứ được anh em, TRONG NGÀY CỦA CHÚA CHÚNG TA, LÀ ĐỨC GIÊSU KITÔ. Thiên
Chúa là Đấng trung thành, Người đã kêu gọi anh em đến
hiệp thông với Con của Người Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta."
Thánh Phêrô khuyên bảo chúng ta hãy sống cho đạo đức, thánh thiện,
bình an, vì đối với mỗi người, giờ chết cũng là giờ
Chúa đến, giờ tận thế, giờ phán xét. Người tín hữu nên thánh và thánh hoá
thế gian là góp phần cho ngày Chúa thống trị mau đến, ngày chấm dứt thế giới cũ
và sẽ có TRỜI MỚI ĐẤT MỚI, nơi công lý ngự trị. (C.14) "Vì thế, anh
em thân mến, trong khi chờ đợi ngày đó, anh em phải cố gắng sao cho Người thấy
anh em tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an ". Và thánh tông đồ nhắc
cho chúng ta một chân lý bất diệt: Thiên Chúa là Tình yêu, Ngài muốn cứu rỗi tất
cả mọi người - "Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn cho ai phải
diệt vong, nhưng muốn cho mọi người đi tới chỗ ăn năn hối cải" (c. 9).
Suốt nhưng tuần Mùa Vọng phụng vụ luôn nhắc nhở chúng ta sống tâm
tình đợi chờ, để
- kỷ niệm biến cố Con Thiên Chúa giáng thế lần thứ I,
- tỉnh thức đợi chờ Chúa đến với mỗi người vào ngày chúng ta trình diện với
Chúa,
- và hướng về ngày Chúa sẽ trở lại lần thứ II trong vinh quang.
Thánh Phêrô, cũng như Thánh Phaolô tông đồ khuyên các tín hữu ngày trước, cũng
như cho chúng ta hôm nay là phải sống thánh hảo hơn... vì Chúa vẫn còn ban thời
gian để chúng ta sống biết ơn, phụng thờ và yêu thương, Chúa đang " kiên nhẫn
" đợi chờ ta. Hạnh phúc biết bao vì ngày trở về của chúng ta Thiên Chúa đang yêu
thương giang tay đón!
Nên Ngày của Chúa là ngày hy vọng cho
những ai đang sống trong tình yêu đợi chờ. Và Chúa, Chúa Tình Yêu cũng đang hy
vọng nhiều nơi chúng ta...
CẦU NGUYỆN:
MARANATHA - LẠY CHÚA GIÊSU, XIN HÃY ĐẾN.
-Chúng con xin hợp với lòng sốt sắng của toàn
thể Hội Thánh, cầu mong Chúa đến, với lòng khát vọng thẳm sâu, lòng yêu mến đợi
chờ... Chúng con tha thiết nài xin cho chúng con cảm nghiệm được lòng Chúa yêu
thương, đang nhẫn nại đợi chờ con trở lại, để chúng con được thanh tẩy tâm hồn,
trong dòng suối Nước và Máu, Chúa đã đổ ra, để cứu chuộc chúng con và thế
giới. Xin Mẹ Maria Vô Nhiễm mà Giáo hội kính nhớ trong những ngày đầu của Mùa
vọng đợi nầy; xin Mẹ cầu cùng Chúa cho
chúng con được luôn giữ tâm hồn thanh khiết để hân hoan đón rước Ngày Con Chúa
ngự đến.
MARANATHA - LẠY CHÚA GIÊSU, XIN NGỰ ĐẾN.
AMEN
Mục Lục
LỄ ĐỨC MẸ
VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI
08.12.2008
Chiều hôm nay trong bầu không khí
linh thiêng và ấm cúng trong ngôi thánh đường của Trung tâm Thánh Mẫu Lavang,
chúng ta sống bên Mẹ để:
- Chúc tụng, tạ
ơn Chúa với Mẹ, vì Thiên Chúa đã làm cho Mẹ muôn việc kỳ diệu.
- Vì ơn Vô Nhiễm Nguyên tội Mẹ đã
được ban, khi Chúa ban lời hứa từ trongVừơnĐịa đàng.
- Thiên Chúa đã ban cho Mẹ ơn Vô
Nhiễm để chuần bị cho Mẹ làm Mẹ Đấng Cứư Thế.
Kinh thưa cộng đoàn,
Mọi tạo vật đều được tạo thành bởi
Thiên Chúa và Đức Maria cũng không phải là ngoại lệ. Cũng như mọi người chúng
ta, Mẹ cũng được tạo dựng để ca tụng, vinh danh Thiên Chúa cùng trở nên thánh
thiện tinh tuyền (Ep
1,4-12).- Bởi đâu Mẹ ca tụng , vinh danh và tạ ơn Thiên Chúa.. Thưa,
bằng cách trở nên dụng cụ cho Chúa Cứu Thế, nơi cung lòng Mẹ, và bởi phép Chúa
Thánh Thần, Đức Chúa Giêsu đã nhập thể, trở nên con người trong tâm hồn thanh
sạch không vướng mắc tội nguyên thủy.
Ơn Vô nhiễm Nguyên tội của Đức Maria đã được
Thiên Chúa sắp đặt từ đời đời trong chương trình của Ngài: “Maria là Đấng đầy
tràn ân sủng" Thiên Chúa và luôn luôn như vậy”. Tín điều Vô nhiễm Nguyên tội,
được công bố cách đây 150 năm, nay lại tỏ cho thấy tính chất sâu sắc của diễn
ngữ “đầy ân sủng” Mẹ đã nhận được.
Tín điều nầy, phải qua một thời gian dài, do tín hữu nhận biết ngày càng sâu
sắc hơn về những sự kiện mặc khải trong Kinh Thánh và trong Truyền Thống
của Giáo Hội, nền tảng của mọi định tín, với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần,
Đấng dẫn dắt Giáo Hội tiến tới sự thật toàn vẹn. Bởi cảm thức đạo đức,tin yêu,
sùng kính của các tín hữu, phụng vụ và thần học, cuối cùng đón nhận minh định
của huấn quyền Giáo Hội, và sau nhiều hoàn cảnh ...đã đi đến việc định tín Tín
điều Thụ thai Vô nhiễm Nguyên tội, của Mẹ Maria, và đã được ĐỨC PIÔ IX CÔNG BỐ
VÀO 08/12/1854, với Tông sắc “Ineffabilis Deus". Và bốn năm sau, năm 1858, Mẹ đã
hiện ra tại Lộ Đức, xưng mình: " Ta là ĐấngVô Nhiễm thai" như để chuẩn nhận điều
Giáo hội đã công bố.
Như thế, rõ ràng Đức Maria là một ngoại lệ của tội nguyên tổ, và ở nơi Người
nguyên vẹn kế hoạch từ đầu của Thiên Chúa và là vận mạng tương lai của Giáo Hội,
một Giáo Hội được mời gọi để mãi mãi trở nên “thánh thiện và vô tì tích trong
tình yêu”.
Tháng 8.2004 Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã hành hương Lộ Đức, nước Pháp, nơi
Đức Trinh nữ hiện ra vào năm 1858 và đã xác nhận chân lý về sự thụ thai vô nhiễm
nguyên tội của Người. Và ĐTC Bênêđictô XVI tháng 12.2007 đã cho mở Năm thánh Đức
Mẹ Lộ Đức mà ngày mai sẽ là ngày bế mạc Năm Thánh.
Kính thưa cộng đoàn,
Thật hạnh phúc cho chúng ta khi chúng ta có một người Mẹ thật thánh thiện
tuyệt vời như thế ! Hôm nay chúng ta hãy cùng với Mẹ tạ ơn và tôn vinh Thiên
Chúa đã thực hiện nơi Mẹ những điều nhiệm lạ. Chúng ta cùng nhau chiêm ngắm Mẹ
trong Mầu nhiệm Năm Sự VUI như Phúc Âm đã thuật lại; và hiệp dâng lên Mẹ những
đoá Hồng Mân Côi Mẹ yêu thích, mừng kính Mẹ là Đấng Đầy ơn Phúc, là Đấng Vô
Nhiễm Nguyên Tội. Xin Mẹ nâng đỡ dẫn dắt, cho chúng ta giữ lòng trinh trong
thánh thiện, hầu chúng ta luôn xứng đáng với Tình yêu Thiên Chúa đã gọi ta là
con Yêu dấu của Người trong Đức Giêsu Kitô, và với sự cộng tác của Mẹ Maria (Vô
Nhiễm) trong công trình cứu chuộc.
Mừng lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội trùng với Mùa
Vọng, chúng ta hãy nhớ tới ơn huệ tuyệt hảo Thiên Chúa dành cho mỗi người là có
mẹ vô nhiễm, do đó chúng ta phải có lòng sám hối, ăn năn để sống xứng đáng là
Con của Mẹ Maria vô nhiễm. Lạy Chúa, Chúa đã dọn sẵn một cung điện xứng đáng cho
Con Chúa giáng trần khi làm cho Đức Trinh Nữ Maria khỏi mắc tội tổ tông ngay từ
trong lòng mẹ. Chúa cũng gìn giữ Người khỏi mọi vết nhơ tội lỗi nhờ công nghiệp
Con Chúa sẽ chịu chết sau này. Vì lời Đức Trinh Nữ nguyện giúp cầu thay, xin
Chúa cũng ban cho chúng con, được trở nên công chính thánh thiện mà đón rước Con
Chúa”( lời nguyện nhập lễ, lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội).
Mục
Lục
Tiếng kêu trong
sa mạc
LM Vu phan Long, ofm
Không quá đáng nếu coi Lịch sử cứu độ là lịch sử tiếng kêu
của Thiên Chúa. Hôm nay các Bài đọc cho thấy tiếng kêu phát xuất từ Thiên
Chúa qua Gioan Tiền Hô loan báo cho chúng ta một sứ điệp: “Này Ta sai sứ giả của
Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con”. Sứ giả Gioan chính là tiếng
kêu trong sa mạc, công bố nội dung: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa” (Mc
1,1-3).
Từ ngàn xưa cho đến hôm nay, Thiên Chúa vẫn tung ra những tiếng
kêu: qua các ngôn sứ, qua Hội Thánh, qua tiếng lương tâm, và qua cả những trạng
huống khác nhau của đời sống con người. Thiên Chúa kêu gọi ta để lay động thức
tỉnh ta, bắt ta chú ý và chuẩn bị ta đón nhận một sứ điệp. Như thế, tiếng kêu
của Thiên Chúa là một tiếng kêu đặc biệt hàm ý mời gọi.
Tiếng của Isaia đã vang lên cho đoàn dân lưu đày, đang mê man
trong giấc ngủ u mê, của thất vọng. Tiếng kêu này lay tỉnh họ dậy đón nhận sứ
điệp chan hòa hy vọng, để họ lại đặt niềm tin nơi Thiên Chúa, chuẩn bị tích cực
mà đón tiếp Người.
Tiếng kêu của Gioan Tầy Giả giữa sa mạc hoang vu cũng đánh thức,
gây chú ý và quy tụ dân chúng lại để nghe sứ điệp. Người Do-thái đương thời đã
phải ngỡ ngàng, băn khoăn, vì sứ điệp của Gioan, như bắt họ phải đối diện với
một số vấn đề thuộc phạm vi lương tâm và công bình xã hội (Lc 3,7-14). Họ đã
chịu phép rửa sám hối, xin ơn tha tội để dọn tâm hồn đón tiếp Chúa Kitô.
Còn chúng ta hôm nay thì sao? Lời kêu gọi của Thiên Chúa vẫn
vang vọng tới chúng ta qua sứ điệp của sách đệ II Isaia và Gioan Tiền Hô, thúc
bách chúng ta dọn đường cho Chúa đến.Vào mỗi Mùa Vọng, việc đón Chúa đến có hai
ý nghĩa:
- mừng lễ Chúa giáng sinh,
- chuẩn bị đón Chúa đến lần thứ hai, trong vinh quang.
Lần Chúa đến thứ hai được gọi là “Ngày của Chúa”, ngày mà bộ mặt của trần gian
này sẽ qua đi, ngày không phải là tai họa cho thế giới, không phải là biến cố
rơi vào một vực thẳm đêm đen, trái lại, là niềm vui và ánh sáng chói lọi, là thứ
ánh sáng, để tỏa rạng, phải xé rách vài cụm mây mù.
Chúng ta phải làm chứng về Ngày đó, Ngày đáng cho nhân loại trông mong.
Đức Kitô đã làm chứng về Ngày của Chúa bằng cả cuộc đời của Người, bằng cách làm
việc thiện, bằng cách làm chứng về Chúa Cha, bằng cách hiến mình trọn vẹn.
Chúng ta, những chứng nhân chuẩn bị Ngày của Chúa, bằng cách dọn đường cho
Người, trong chính chúng ta và chung quanh chúng ta, bằng cách một trật công bố
ơn tha thứcủa Thiên Chúa và những thay đổi cần thiết, bằng cách làm cho thẳng
các con đường mòn, lấp đầy các chỗ trũng, bằng cách chiến đấu cho công bình,
bằng cách sống cho chân lý. Có lẽ đừng vội nghĩ tới công bình trong xã hội, nên
nghĩ tới chỗ lề lối suy tư của ta chưa công bình, cách thức xử sự của ta đối với
Chúa chưa ngay chính…
Và khi mỗi người cố gắng như vậy, biến cõi đời này thành nơi đáng sống, ở đó mỗi
ngày mỗi bớt dần cảnh bất công tàn ác, nhân phẩm được kính trọng và các quyền
lợi căn bản của con người được đảm bảo, và nhất là mọi người được giao hòa với
Thiên Chúa và với anh chị em đồng loại, thì khi ấy “trời mới đất mới” xuất hiện.
Chúng ta làm chứng về Ngày của Chúa thật sự khi qua những khó khăn, những thất
bại và cả những sa ngã, chúng ta biết nắm giữ và chuyển thông niềm vui của Thiên
Chúa chỉ vì chúng ta biết rằng Thiên Chúa ở giữa loài người và tình yêu của
Người đã có từ muôn đời và cả trong ngày hôm nay.
Như vậy, muốn chuẩn bị đón Chúa đến lần thứ hai cho chu đáo, nói thì có vẻ như
chơi chữ, mà thật ra là thực tế, chúng ta cần biết sống mỗi ngày như một ngày
của Mùa Vọng, đồng thời như là từng ngày Lễ Giáng Sinh.
Mục Lục
CHÚA NHẬT II
MÙA VỌNG
Tóm: Cả ba bài Lời Chúa Chúa Nhật II Mùa Vọng hôm
nayc được định vị trong viễn cảnh của việc Thiên Chúa can thiệp vào trong Lịch
Sử loài người.
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Mùa Vọng, cả ba bài
đọc được định vị trong viễn cảnh của việc Thiên Chúa can thiệp vào trong Lịch Sử
loài người.
Trong bài đọc I, Thiên Chúa truyền lệnh an ủi dân Ngài trong cảnh cùng khốn và
loan báo cuộc giải thoát gần kề.
Is 40: 1-5, 9-11
Thánh Phê-rô nhắc nhở cho chúng ta rằng không phải Thiên Chúa lỗi hẹn, nhưng vì
lòng thương xót mà Ngài trì hoản để chúng ta có đủ thời giờ lập công tích đức
trong khi chờ đợi trời mới và đất mới mà Chúa đã hứa cho chúng ta.
2Pr 3: 8-14
Gioan Tẩy giả, vị sứ giả được Thiên Chúa sai đi để dọn đường cho Đức Giê-su Ki
tô, Con Thiên Chúa đến.
Mc 1: 1-8
BÀI ĐỌC I (Is 40: 1-5, 9-11)
Chúa Nhật vừa qua, chúng ta đã đọc bản văn của ngôn sứ I-sai-a của thời hậu lưu
đày: dân Do thái đã được cứu thoát khỏi cảnh lưu đày, đã trở về quê cha đất tổ
và tái thiết đất nước với biết bao khó khăn. Trong Chúa Nhật nầy, bài đọc I đưa
chúng ta đi ngược về quá khứ: cuộc giải thoát chưa xảy đến, thời kỳ dân Do thái
bị lưu đày ở Ba-by-lon vào những năm 550-539.
Vị ngôn sứ của thời lưu đày nầy không ngừng đem đến những lời an ủi lớn lao cho
đồng bào của mình. Thế nên, tác phẩm của ông được gọi "sách An ủi" (Is 40-55).
Chúng ta không biết gì về vị ngôn sứ của thời lưu đày nầy. Ông thường hằng ẩn
mình sau sứ điệp của mình như bản văn hôm nay, ngay từ đầu, vị ngôn sứ ẩn mình
trong "lời Thiên Chúa phán"; đoạn, trong "một tiếng kêu" mà không xác định; và
sau cùng, trong "một sứ giả báo tin mừng". Vị ngôn sứ nầy thường được gọi
I-sai-a đệ nhị, vì ông thuộc hàng những môn đệ đầu tiên của ngôn sứ I-sai-a đệ
nhất, và tác phẩm của ông đã được tập hợp chung với tác phẩm của vị tiền nhiệm
của ông.
1. Giê-ru-sa-lem, thành đô Thiên Chúa
"Hãy an ủi, an ủi dân Ta!", đó là lệnh truyền mà Thiên Chúa gởi đến cho ngôn sứ
của Ngài và những sứ giả vô danh (tiếng kêu trong sa mạc, người loan báo tin
mừng) trong hoàn cảnh dân Do thái đang sống kiếp lưu đày vô vọng.
"Dân Ta", lời khẳng định nầy chắc chắn đã làm ấm lòng của những người lưu đày,
họ nghĩ rằng Thiên Chúa đã quên họ, không còn đoái hoài đến số phận bi thương
của họ. Không, họ luôn luôn là "dân của Ngài", dân được chọn mà xưa kia được
nâng niu chiều chuộng. Cung giọng đầy trìu mến được cất lên ở cuối bài thơ trong
hình ảnh người mục tử tận tình săn sóc đàn chiên của mình, đặc biệt những con
chiên bé bỏng.
"Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giê-ru-sa-lem". Dân thành đã bị trừng phạt vì tội bất
trung lâu dài của mình, lần đầu tiên được Thiên Chúa loan báo là Ngài thứ tha
tội vạ của dân và cho họ trở về từ chốn lưu đày. Sứ điệp tràn đầy hy vọng.
"Thời phục dịch của thành đã mãn." Chúng ta gặp lại hình ảnh nầy trong các đoạn
văn Cựu Ước khác như G 7: 1: "Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là
thời khổ dịch sao?" để diễn tả thời kỳ gian khổ cùng cực.
"Thành đã bị tay Chúa giáng phạt gấp hai so với tội phạm". Chúng ta có thể hiểu
diễn ngữ "gấp hai" nếu chúng ta khảo sát hai thử thách lớn lao mà dân phải gánh
chịu: một mặt, cuộc lưu đày ở Ba-by-lon và mặt khác, cuộc tàn phá Đền Thờ
Giê-ru-sa-lem. Nhưng diễn ngữ nầy đơn giản muốn nói đến muôn vàn khổ đau mà dân
phải chịu.
Ghi nhận quan trọng nầy sẽ xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm của ngôn sứ
I-sai-a đệ nhị và gợi nguồn cảm hứng cho các bài thơ về "Người Tôi Tớ đau khổ".
Dân Chúa chọn, người tôi tớ Thiên Chúa, đã kinh qua một sự thử thách thanh tẩy.
Quả thật, sự tha thứ của Thiên Chúa thì nhưng không; tuy nhiên, qua những đau
khổ dài lâu mà dân phải chịu, cũng như qua việc Thiên Chúa biểu lộ vinh quang
của Ngài bằng việc cứu thoát dân, những người lưu đày sẽ bày tỏ cho muôn dân
thấy "Thiên Chúa phán như thế nào, Ngài sẽ thực hiện đúng như vậy".
Đó là ơn gọi của dân Ít-ra-en, với tư cách là người tôi tớ Đức Chúa: chuẩn bị
những nẻo đường cứu độ cho muôn dân. Chúng ta thoáng thấy ươm mầm ý tưởng về giá
trị của những đau khổ mà những người công chính, nhóm còn sót lại kiên trung,
phải chịu để công chính hóa mọi người. Nhóm còn lại này, một ngày kia sẽ là
"Người Tôi Tớ hoàn hảo", chính là Đức Ki tô.
2. "Hãy mở một con đường cho Chúa"
Để trở về quê cha đất tổ, đoàn người lưu đày sẽ phải băng qua nhiều hoang địa.
Họ phải đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng sẽ đích thân ở bên cạnh dân
Ngài và dẫn dắt dân Ngài. Sứ giả hô lớn: "Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho
Chúa; giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Chúa chúng ta".
Cuộc hành trình qua sa mạc dưới sự che chỡ và hướng dẫn của Thiên Chúa, viễn
cảnh nầy gợi lên rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện những điềm thiêng dấu lạ cho những
tù nhân Ba-by-lon, như xưa kia Ngài đã thực hiện cho các tổ phụ của họ: giải
thoát họ ra khỏi cảnh đời tôi dịch ở bên Ai-cập và dẫn đưa họ về miền Đất Hứa.
Cuộc Xuất Hành mới sẽ bày tỏ vinh quang Thiên Chúa và muôn dân sẽ hiểu rằng
"chính miệng Thiên Chúa đã phán như vậy", nghĩa là Thiên Chúa trung thành với
những gì Ngài đã hứa, Ngài sẽ thực hiện những dự định của Ngài.
Ngôn sứ I-sai-a không bao giờ mất đi chứng từ phổ quát của Ít-ra-en: "Mọi người
phàm sẽ cùng được thấy".
3. Tin Mừng
"Hỡi kẻ loan tin mừng cho Xi-on, hãy trèo lên núi cao…".
Chính ở nơi bản văn nầy mà những Ki tô hữu tiên khởi đã mượn thuật ngữ "Tin
Mừng" để chỉ mặc khải mà Đức Giê-su Ki tô mang đến. Vì thế, chúng ta ở tận nguồn
của thần học "Tin Mừng" (tiếng Hy lạp, eu-aggelion: eu: tốt, lành; aggelion: lời
loan báo, tin).
Ấy vậy, "tin mừng" nầy phải được cất tiếng kêu to từ trên đỉnh non cao và phải
được loan báo cho khắp các thành xứ Giu-đa là gì? Đó là Thiên Chúa đích thân đến
cứu dân Ngài, giải thoát những kẻ bị giam cầm, dẫn đưa họ về quê hương đích thật
của mình. Ngài không còn dung thứ những điều gian ác mà dân Ngài phải chịu.
Vị ngôn sứ tưởng tượng cuộc hồi hương về Giê-ru-sa-lem như một đám rước khải
hoàn. Nhưng ông tô đậm chân dung của vị lãnh đạo chiến thắng qua hình ảnh người
mục tử ân cần trìu mến đối với đàn chiên của mình. Thiên Chúa tha thứ và dẫn đưa
dân Ngài trở về miền Đất Hứa trước hết là vị Thiên Chúa tình yêu.
Đó là hình thức đầu tiên của Tin Mừng, tiền trưng một cuộc giải thoát khác, một
sự tha thứ có tính quyết định hơn và phổ quát hơn, và cũng tiền trưng một đám
rước khải hoàn khác: đám rước của những người được tuyển chọn về thành thánh
Giê-ru-sa-lem thiên quốc.
BÀI ĐỌC II (2Pr 3: 8-14)
Ngày đầu thư cho thấy thánh Phê-rô là tác giả của bức thư nầy: "Tôi là Si-mê-ôn
Phê-rô, tôi tớ và Tông Đồ của Đức Giê-su Ki tô…". Bức thư chắc chắn chứa đựng
những lời căn dặn sau cùng của thánh nhân (ngài gợi lên cái chết sắp gần đến của
mình). Tuy nhiên, xem ra đây là một di cảo, được một trong số các môn đệ của
thánh nhân soạn lại và bổ sung để đương đầu với những hoàn cảnh mới.
Quả thật, chúng ta hiểu tốt hơn những đề tài mà đoạn trích hôm nay đề cập, nếu
được đặt vào trong bối cảnh muộn thời hơn. Thế hệ của các Tông Đồ và của những
môn đệ truyền chân đã qua. Ấy vậy, Đức Ki tô đã hứa trở lại, nhưng thế hệ Ki tô
hữu mới chờ mãi vẫn không thấy ngày quang lâm của Ngài. Vì thế, họ ngạc nhiên,
phản kháng, nghi vực.
Để trả lời cho vấn nạn nầy, người cộng tác của thánh Phê-rô đưa ra ba luận
chứng:
1. Khái niệm thời gian: thời gian của Chúa không là của chúng ta. Tác giả
trích dẫn thích đáng Thánh vịnh 90: "Đối với Chúa, một ngày như thể ngàn năm,
ngàn năm cũng tựa một ngày".
2. Thiên Chúa trì hoãn vì lòng xót thương. Đức Ki tô chậm trể vì để cho
mọi người có thời gian ăn năn hối cải. Chúng ta cũng gặp lại suy tư nầy của
thánh Phao-lô trong thư gởi Giáo Đoàn Rô-ma (Rm 11: 25)
3. Thiên Chúa trung tín với những gì Ngài đã hứa: Ngài trở lại là chắc
chắn. Nhưng lúc đó là ngày tận cùng của thế giới (tại sao phải hối thức chứ?).
Tác giả bức thư gợi lên những hình ảnh quen thuộc của truyền thống khải huyền.
Đoạn ông khéo léo kết luận: bởi vì Thiên Chúa sẽ canh tân mọi sự cho những ai
được Ngài tuyển chọn, thế nên, "trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải nên tinh
tuyền, không gì đáng trách, để được bình an trước mặt Chúa".
TIN MỪNG (Mc 1: 1-8)
Đoạn Tin Mừng hôm nay là phần mở đầu của sách Tin Mừng theo thánh Mác-cô được
cấu trúc như sau:
1. Nhan đề (1: 1)
2. Sứ mạng Gioan Tẩy Giả (1: 2-8)
2.1- Chứng từ của các ngôn sứ (1: 2-3)
2.2- Hoạt động và lối sống của Gioan Tẩy giả (1: 4-6)
2.3- Chứng từ của Gioan Tẩy giả (1: 7-8).
1. Nhan đề (1: 1)
Sách Tin Mừng Mác-cô không mở đầu với Tựa Ngôn như sách Tin Mừng Gioan, cũng
không cuộc đời Thơ Ấu của Đức Giê-su như sách Tin Mừng Mát-thêu và sách Tin Mừng
Lu-ca, nhưng với một nhan đề: "Khởi đầu Tin Mừng Đức Giê-su Ki tô, Con Thiên
Chúa".
Với nhan đề nầy, ngay từ đầu, thánh Mác-cô loan báo hai phần lớn của sách Tin
Mừng của mình:
- Phần thứ nhất (1: 2-8: 30): Đức Giê-su dần dần vén mở sứ mạng của mình: Ngài
là "Đấng Ki tô". "Đấng Ki tô" được phiên âm từ từ Hy lạp "Christos", xuất xứ từ
thuật ngữ Do thái "Đấng Mê-si-a", nghĩa là Đấng được Thiên Chúa xức dầu và đặc
phái đến để thiết lập Vương Quốc của Ngài vào thời cánh chung. Như vậy, trong
phần thứ nhất, Mác-cô muốn dẫn đưa đọc giả của mình cùng với Phê-rô và các môn
đệ đến chỗ nhận biết Đức Giê-su: "Thầy là Đấng Ki tô" (8: 29). Nhưng vào thời
Đức Giê-su, tước hiệu "Đấng Ki tô" rất dể ngộ nhận vào thời Đức Giê-su. Dân Do
thái sau một thời gian dài bị thống trị và áp bức bởi đế quốc nầy đến đế quốc
khác, nên mong chờ một vị vua trần thế được Thiên Chúa ban quyền năng để đánh
đông dẹp tây, mở rộng vương quyền và đem lại cảnh thái bình thịnh trị cho dân
tộc mình..
- Phần hai (8: 31-16: 20): Đấng Ki tô bày tỏ cho các môn đệ căn tính đích thật
của Ngài: Ngài là "Con Thiên Chúa". Danh xưng nầy cũng là một trong những tước
hiệu của Đấng Mê-si-a. Các vua của phương đông thời cổ cũng thường cho mình là
"thiên tử". Nhưng Đức Gê-su dần dần bộc lộ cho thấy mối tương quan đặc biệt thân
tình và độc nhất vô nhị với Thiên Chúa, Cha của mình. Chính Ngài công bố long
trọng trước vị thượng tế (14: 61-62). Các môn đệ phải là một thời gian dài khám
phá ra nơi bản thân Chúa Giê-su chính là Thiên Chúa đến sống giữa con người và
nhờ cuộc Tử Nạn và Phục sinh của mình, Ngài giải thoát loài người khỏi quyền lực
sự Dữ và Tử thần. Trong phần thứ hai nầy, Mác-cô muốn dẫn đưa đọc giả của mình
tới lời tuyên xưng đức tin sâu sắc hơn, được thốt ra từ miệng viên sĩ quan
Rô-ma, dưới chân thập giá: "Quả thật, người nầy là Con Thiên Chúa" (15: 39).
Như vậy, với nhan đề nầy cho toàn bộ sách Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô xác
định rất rõ đây không là một "tiểu sử cuộc đời" của Đức Giê-su, nhưng là một
"Tin Mừng" về ơn cứu độ loài người được thể hiện cách độc đáo nơi bản thân Đức
Giê-su quê Na-da-rét, là "Đấng Ki tô" và là "Con Thiên Chúa" qua cái mâu thuẩn
của thập giá. Chính Đức Giê-su là "Chúa" ngự đến viếng thăm dân Ngài, không phải
trong uy quyền xét xử, nhưng trong cái yếu hèn của một tình yêu được trao tặng.
2. Sứ vụ của Gioan Tẩy giả (1: 2-8)
Nhưng đây cũng là nhan đề cho phần dẫn nhập (1: 1-15) được phân định ranh giới
bởi cách thức đóng khung rất quen thuộc của bút pháp Do thái với chữ "Tin Mừng"
ở câu 1 và chữ "Tin Mừng" ở câu 15. Thuật ngữ "Tin Mừng" xuất xứ từ sách I-sai-a
(Is 40: 9; 52: 7; 61: 1..) được dùng ở đây để loan báo một biến cố vui mừng có
một tầm mức quan trọng bậc nhất, đó là Đức Giê-su Ki tô, Con Thiên Chúa.
Trong phần dẫn nhập nầy 1: 2-15), sứ vụ của Gioan Tẩy giả, vị Tiền hô của Đức
Giê-su, là "khởi đầu Tin Mừng Đức Giê-su Ki tô, Con Thiên Chúa". Theo cách nầy,
Tin Mừng Mác-cô trung thành với sơ đồ của lời rao giảng tông đồ như được gặp
thấy trong sách Công Vụ (1: 21 t; 10: 37; 13: 24). Trong bộ Kinh Thánh, sách
Sáng Thế cũng mở đầu bằng từ nầy: "Khởi đầu". Gioan Tẩy giả loan báo Tin Mừng
Đức Giê-su Ki tô, Con Thiên Chúa đến đánh dấu một khởi đầu tận căn, một khởi
nguyên mới, bắt đầu kỷ nguyên cứu độ.
2.1- Chứng từ của các ngôn sứ (1: 2)
Ngay từ những hàng đầu tiên, thánh Mác-cô nêu bật hai điểm khác biệt với các
thánh ký khác. Trước tiên, các thánh ký nầy cũng đều trích dẫn sấm ngôn của
I-sai-a: "Có một tiếng kêu trong hoang địa…" nhưng sau khi đã nêu lên sứ vụ của
Gioan Tẩy giả (cf. Mt 3: 3; Lc 3: 4; Ga 1: 23). Thứ đến, trước khi trích dẫn sấm
ngôn của I-sai-a, thánh Mác-cô trích dẫn sấm ngôn được đúc kết bởi hai bản văn
Cựu Ước khác nhau: Kh 23: 20 và Ml 3: 1.
Trong Xh 23: 20, Thiên Chúa nói với ông Mô-sê: "Nầy Ta sai sứ thần đi trước con,
để gìn giữ con khi đi đường…". Ngôn sứ Ma-la-khi lập lại lời nầy nhưng với một
ý nghĩa mới: "Nầy Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta." Trong sấm
ngôn của Ma-la-khi, Thiên Chúa sai sứ giả của Ngài đến trước dọn đường cho "Ngài
đích thân đến với dân Ngài". Thật ra, thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca cũng trích
dẫn sấm ngôn nầy, nhưng trong một bối cảnh khác và được đặt trên môi miệng của
Đức Giê-su (Mt 11: 10; Lc 7: 27).
Vị sứ giả trong sấm ngôn nầy là ai? Chúng ta gặp thấy căn tính của vị sứ giả nầy
ở câu 23 sau đó: "Nầy Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, trước khi Ngày
của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và huy hoàng". Trong 2V 2: 11, ngôn sứ Ê-li-a
không chết nhưng được đưa lên trời trong một cỗ xe đỏ như lửa với những con ngựa
kéo cũng đỏ như lửa. Vì thế, theo truyền thống Do thái mãi cho đến thời Chúa
Giê-su, vị sứ giả là Ê-li-a sẽ trở lại để dọn đường cho Chúa đến..
Lời trích dẫn thứ hai chính xác được rút ra từ sách I-sai-a 40: 3 (bài đọc I):
"Có một tiếng hô: Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng
hoang, hãy vạch một lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta". Vị ngôn sứ loan báo
cho những những người lưu đày ở Ba-by-lon biết rằng Thiên Chúa sắp can thiệp để
giải thoát họ khỏi kiếp sống tù đày. Các tác giả Tin Mừng cũng đã thấy ở nơi
"tiếng hô nầy" tiền trưng Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đức Giê-su, ông có sứ
mạng đến trước để dọn đường cho Đức Giê-su đến. Ở nơi lệnh truyền nầy: thung
lũng sẽ được lấp đầy, núi đồi sẽ phải bạt xuống, chúng ta gặp thấy cũng lời dạy
như Gioan Tẩy giả: phải thay lòng đổi dạ, biến đổi sa mạc tâm hồn thành miền đất
thấm đẩm thiên ân, hủy bỏ những quanh co uốn khúc của sự gian tà.
Theo phương cách trích dẫn phổ biến vào thời đó, thánh Mác-cô gán toàn bộ lời
trích dẫn nầy cho I-sai-a, bởi vì chúng có chung một đề tài: "dọn đường để đón
tiếp Thiên Chúa". Như vậy, khi khai mạc sứ vụ của Gioan Tẩy giả bằng lời trích
dẫn nầy, thánh Mác-cô muốn cho thấy rằng việc Đức Giê-su đến đã được Cha Ngài
chuẩn bị trước đó rồi và ơn gọi của Gioan Tẩy giả, vị Tiền Hô của Con Ngài, được
dự kiến lâu lắm rồi trong kế hoạch của Thiên Chúa. Chính Gioan Tẩy giả là ngôn
sứ Ê-li-a, mà truyền thống Do thái mong đợi, trở lại để dọn đường cho Chúa và
việc ông xuất hiện cho thấy Thiên Chúa vẫn trung thành với những gì Ngài đã hứa.
Thời gian đã đến hồi viên mãn.
2.2- Hoạt động và lối sống của Gioan Tẩy giả (1: 3-6)
Quả thật, Gioan Tẩy giả đã ẩn cư trong sa mạc ngay từ thuở thanh xuân để chuẩn
bị sứ mạng của mình trong thinh lặng và chiêm niệm cho đến ngày ra mắt dân
Ít-ra-en (Lc 1: 80), như Đức Giê-su sẽ rút vào trong sa mạc trước khi bắt tay
thi hành sứ mạng của mình.
Đây là sa mạc Giu-đa ở đó dòng sông Gio-đan chảy qua và đổ vào Biển Chết. Phải
chăng thánh Gioan thuộc vào cộng đoàn Kum-ran, cộng đoàn ở trong miền nầy và
sống trong sự chờ đợi Đấng Mê-si-a? Hay đơn giản ông có tiếp xúc với cộng đoàn
nầy chứ? Phải nói rằng có rất nhiều điểm giống nhau giữa linh đạo của các nhà
khổ hạnh Kum-ran và linh đạo của thánh nhân, nhưng cũng có rất nhiều điểm dị
biệt.
Dù thế nào, sa mạc là nơi ẩn cư quen thuộc của những nhà thần bí vĩ đại của Cựu
Ước và là nơi ưu tiên cho những cuộc gặp gở với Thiên Chúa, như Mô-sê, Ê-li-a
vân vân. Cũng như chính trong sa mạc mà dân Ít-ra-en đã trải qua những kinh
nghiệm tôn giáo hình thành nên những mốc điểm lịch sử của dân tộc mình.
Lời kêu gọi sám hối là đề tài thường hằng của truyền thống ngôn sứ. Gioan Tẩy
giả là vị ngôn sứ cuối cùng tiếp tục truyền thống nầy, nhưng ông thêm vào đây
phép rửa. Không phải là trong sa mạc mà nước mặc lấy tất cả giá trị và ý nghĩa
tròn đầy của nó sao? Nước đem lại sự sống và biểu tượng ơn cứu độ.
Gioan Tẩy giả sống theo lối sống khổ hạnh: "Ông mặc áo lông lạc đà, thắt đai
lưng bằng da, ăn châu chấu và mật ông rừng". Qua việc mô tả cách ăn mặc của
Gioan giống như ngôn sứ Ê-li-a (1V 1: 8), thánh Mác-cô muốn thông báo rằng Gioan
Tẩy giả chính là ngôn sứ Ê-li-a mà mọi người đang mong đợi, lại xuất hiện. Ngoài
ra, qua việc mô tả tỉ mĩ cách sống khổ hạnh của Gioan Tẩy giả trong hoang địa cô
tịch, thánh Mác-cô ngầm trình bày hình ảnh tương phản của Đức Giê-su: Ngài sống
chung đụng với bao nhiêu người khác ở ngoài xã hội, cùng ăn cùng uống, cùng chia
sẻ cuộc sống với họ, vui, buồn, sướng khổ… Quả thật, Tin Mừng Mác-cô cống hiến
cho chúng ta hình ảnh rất là người của Đức Giê-su: Ngài ngủ say giữa cơn giông
tố (4: 38), Ngài ngạc nhiên về sự thiếu niềm tin của các người đồng hương (6:
6), Ngài không có thì giờ ăn uống (6: 31), Ngài không biết khi nào ngày Thế Mạc
sẽ đến (13: 32), nhất là Ngài chết như một kẻ tuyệt vọng (15: 34). Nhưng chính ở
nơi tính chất rất là người nầy, thánh Mác-cô có ý định dẫn đưa người đọc vào mầu
nhiệm của Đức Giê-su, Đấng Mê-si-a và Con Thiên Chúa.
2.3- Chứng từ của Gioan Tẩy giả (1: 7-8)
Chứng từ của Gioan Tẩy giả về Đức Giê-su là cao điểm của đoạn Tin Mừng hôm nay.
Uy tín của ông quá đổi lớn lao; dân chúng tuôn đổ đến ông; sứ điệp của ông làm
xáo động lòng người. Tuy nhiên, ông ý thức sâu xa sự cao vời của Thiên Chúa. Ông
công bố quyền năng của Đấng mà ông có sứ mạng chuẩn bị Ngài đến và ông sử dụng
hình ảnh rất mạnh để diễn tả sự bất xứng của mình như tên nô lệ trước mặt chủ,
cả đến cởi dép cho Ngài ông cũng chẳng đáng nữa: "Có Đấng quyền thế hơn tôi đang
đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cỏi dép cho Người".
Nhất là ông nhận biết sự khác biệt căn bản giữa phép rửa của ông và phép rửa của
Đức Giê-su: ông chỉ rửa trong nước, còn Đức Giê-su thì rửa trong Thánh Thần.
Điều làm cho Đức Giê-su trổi vượt hẳn vị tiền hô của Ngài, đó là Ngài là Đấng sở
hữu Thánh Thần (cf. 1: 10).
Danh tiếng của Gioan Tẩy giả vào thời đó không thể nào chối cải. Sách Công Vụ
nói với chúng ta rằng ngay cả sau một thời gian dài của cái chết của ông, các
cộng đoàn môn đệ của ông vẫn tồn tại (Cv 18: 24-25; 19: 1-7) và đề cao ông là
"Đấng Mê-si-a" (Ga 1: 19-34). Như thế ngay từ trang đầu của Tin Mừng của mình,
thánh Mác-cô đã đặt Gioan Tẩy giả vào đúng vị trí của mình: sứ mạng của ông chỉ
là loan báo và chuẩn bị cho Đức Giê-su Ki tô, Con Thiên Chúa đến. Chính Đức
Giê-su là Tin Mừng mà Gioan có sứ mạng loan báo cho hết mọi người.
Mục Lục
SỨ VỤ CỦA GIOAN
– KHỞI ĐẦU TIN MỪNG
(Máccô 1,1-8 – CN II MV - B)
Lm PX Vũ Phan Long, ofm
1.- Ngữ cảnh
Có thể theo G. Gnilka mà coi Mc 1,1-15 là lời tựa hoặc mở đầu của Tin
Mừng Máccô: phần này đăt trọng tâm vào “Tin Mừng” (x. cấu trúc đóng
khung với từ “Tin Mừng “ ở đầu và cuối đoạn). Như thế, đoạn văn 1,1-8 là
đoạn mở đầu của Lời tựa này liên hệ đến hoạt động của Gioan Tẩy Giả trong hoang
địa.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Danh hiệu của Tin Mừng (1,1);
2) Hoạt động của Gioan (1,2-6):
a) Câu trích Isaia xác định vai trò của Gioan (cc. 2-3),
b) Giới thiệu tóm tắt bản thân và hoạt động của Gioan (cc. 4-6);
3) Lời loan báo của Gioan (1,7-8).
3.- Vài điểm chú giải
- Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa (1): Câu này là tiêu
đề của cc. 1-8 nói về công việc rao giảng của Gioan Tẩy Giả, hay là tiêu đề của
phần Mở (cc. 1-15), hoặc của toàn tác phẩm? Phải chăng sứ vụ, cuộc Khổ nạn và
cái chết của Đức Giêsu chỉ là khởi đầu của Tin Mừng, và Tin Mừng sẽ được tiếp
tục loan truyền nhờ sứ vụ của Giáo Hội? Thật ra, không có gì cho thấy rằng Mc
coi hoạt động của Giáo Hội như một phần của Tin Mừng cả, y như thể Giáo Hội phải
tự rao giảng về chính mình. Cứ theo nội dung của tác phẩm, ta thấy Tin Mừng mà
Giáo Hội phải công bố chính là biến cố cứu độ đã xảy ra trước khi có Giáo Hội và
đã khai sinh ra Giáo Hội, đó là sứ vụ của Đức Giêsu và cuộc Vượt Qua của Người.
Có thể nói c. 1 này là tiêu đề của phần Mở của TM Mc: hoạt
động của Gioan, vị Tiền Hô loan báo và ban phép rửa cho Đức Kitô, trong hoang
địa, là phần mở cho biến cố cánh chung (sứ vụ, cuộc đời đau khổ và cuộc tôn vinh
của Đức Giêsu).
Từ ngữ “Tin Mừng”, được vay mượn từ Cựu Ước (x. Is
40,9; 52,7; 61,1…), được hiểu tương đương với lời loan báo tiên khởi (kêrygma)
được triển khai rộng ra (x. Công vụ). Thế mà kêrygma của các Tông
đồ (x. Cv 1,21t; 10,37; 13,24) cũng như TM Mc bắt đầu với
sứ vụ của Gioan Tẩy Giả. Vậy chính mầu nhiệm này là “khởi đầu Tin Mừng” (x. cùng
một kiểu diễn tả: Hôsê 1,2 ).
- Tin Mừng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa: Phần Mở từ c. 1 đến c. 15: hai từ
ngữ “Tin Mừng” đóng khung bản văn này. Kiểu nói “Tin Mừng Đức Giêsu Kitô” có thể
hiểu là “Tin Mừng về [= có đối tượng là] Đức Giêsu Kitô” (thuộc-cách chỉ đối
tượng, objective genitive), hoặc “Tin Mừng của [= đến từ] Đức Giêsu Kitô”
(thuộc-cách chỉ chủ từ, subjective genitive), hoặc “Tin Mừng là chính Đức Giêsu
Kitô” (thuộc-cách giải thích, epexegetic genitive; xem sự song đối giữa “vì Đức
Kitô” và “vì Tin Mừng”: 8,35; 10,29; 13,9).
Dưới ánh sáng của biến cố Phục Sinh, các Kitô hữu đã hiểu Đức Giêsu
là Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa, theo nghĩa là Người không còn phải là Đấng Mêsia
trần thế và dân tộc mà người Do-thái từng mong đợi, nhưng là Đấng huyền nhiệm,
đã tỏ mình ra là “Đức Chúa” (x. Cv 2,36) và “Đấng Kitô” (4,26t; 10,38),
qua biến cố Phục Sinh, nay ở vào tư thế có thể giải thoát mọi người khỏi Satan,
tội lỗi, đau khổ và cái chết. Bây giờ khi đọc lại câu truyện trước Phục Sinh
Mc viết ra, họ hiểu rằng tại hoang địa và qua cuộc sống công khai (với những
cuộc trừ quỷ), Đức Giêsu đã khai mào chiến thắng bằng sức giải phóng ấy. Họ cũng
hiểu rằng Đức Giêsu truyền lệnh giữ thinh lặng (“bí mật thiên sai”) là vì không
muốn người ta hiểu lầm về tư cách và sứ vụ của Người: Phêrô đã hiểu sai nội dung
danh hiệu Mêsia (x. 8,29-33); Người chỉ nhận là Con Thiên Chúa (14,61t) và kẻ
đại diện cho thế giới ngoại giáo chỉ tuyên xưng Người như thế (15,39) vào lúc
Người bị kết án và xử tử. Người ta chỉ có thể hiểu tất cả các danh hiệu của Đức
Giêsu xuyên qua mầu nhiệm đau khổ của Người. Và các Kitô hữu cũng phải hiểu rằng
họ chỉ có thể tuyên xưng Đức Giêsu thật là Đấng Kitô và là Con Thiên Chúa, bằng
cách bước theo Người trên con đường đau khổ (x. 8,34; 10,35-45).
- Câu 2-6:
Phân đoạn này có lược đồ A-B-B’-A’:
A = cc. 2-3: mở đầu, trích các ngôn sứ,
B = c. 4 : Gioan rao giảng phép rửa tỏ lòng sám hối.

Câu này song đối với câu sau,
B’= c. 5 : đám đông đến với Gioan để thú tội và nhận
phép rửa,
A’= c. 6 : kết, nói đến kiểu sống của Gioan như là một
ngôn sứ.
So sánh cc. 2-3 trích Ml 3,1 và Is 40,3 với Mt
(3,3; 11,10), Lc (3,4-6; 7,27) và Ga (1,23), ta hiểu các tác giả
Tin Mừng có chung một nguồn, nhưng Mc đã vừa thêm vừa tổng hợp câu
truyện Gioan rao giảng với bài tường thuật của ngài về nhóm sứ giả, để làm nên
một mở đầu long trọng và để có thể nêu bật ý tưởng này là khởi đầu Tin Mừng Cứu
Độ đã được chính các ngôn sứ xác định nơi cuộc xuất hiện của Gioan Tẩy Giả.
Mc đã trích Ml 3,1a (… “mặt Ta”) dưới ảnh hưởng của
Xh 23,20 LXX (“mặt Con”) để biến vị sứ giả thành tiền hô không phải của
Thiên Chúa mà là của “Đức Chúa” (x. Ml 3,1b), là Đức Giêsu. Ngoài ra, hẳn
là Mc cũng nghĩ đến đoạn cuối của sách Ml (3,23t): ngôn sứ Êlia có
vai trò tiền hô.
Tác giả cũng sử dụng bản văn Is 40,3 (LXX) cùng với các tác
giả Tin Mừng khác: “Đức Chúa” đây là Đức Giêsu Kitô, và “vạch lối cho
thẳng để Thiên Chúa đi” được sửa thành “để Người đi”.
- đi trước mặt Con = đi trước Con.
- Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện (4): Câu này với các câu trích ở trên
chỉ là một câu duy nhất, được ngắt bằng dấu phết: “Chiếu theo lời đã chép …, ông
Gioan Tẩy Giả…”. Những gì bây giờ được nói về Gioan thì làm ứng nghiệm các sấm
ngôn, đặc biệt sấm ngôn Is 40,3: ông ở “trong hoang địa”, và tại đó ông
“hô” để kêu gọi người ta hoán cải, mà “dọn sẵn con đường của Đức Chúa” (Đức
Giêsu).
Gioan “rao giảng thanh tẩy hối cải, để được tha thứ tội
khiên” (NTT). Đấy là hai hành vi tách biệt nhưng liên hệ với nhau, vì thế đã
được diễn tả trong một công thức duy nhất.
- sám hối, metanoia: sự hoán cải, do động từ metanoeô, “suy tưởng
sau”, “suy nghĩ tiếp đó”; “thay đổi ý kiến”; “hối tiếc”, “hối hận”, “hoán cải”.
Đây là việc chuyển đi từ tình trạng này sang một tình trạng khác, tức là thay
đổi trọn vẹn lối sống. Sự thay đổi này có một phương diện tiêu cực (bỏ [apo,
from] con đường tội lỗi: x. Cv 8,22; Dt 6,1) và một phương
diện tích cực (quay về [eis, epi, to] với Thiên Chúa: Cv 20,21;
26,20).
Trong TM Mc, danh từ metanoia được dùng 1 lần (1,4) và động
từ metanoeô được dùng 2 lần (1,15; 6,12), như thế là ít hơn các TMNL
khác (metanoia: Mt 2x, Lc 5x, Ga 0x, Cv 6x,
Phaolô 4x, Dt 3x, 2 Pr 1x; metanoeô: Mt 5x,
Lc 9x, Ga 0x, Cv 5x, Phaolô 1x, Kh 12x),
nhưng lại có một cách áp dụng độc đáo. Tác giả áp dụng hai từ này cho
hoạt động của Gioan Tẩy Giả (1,4), Đức Giêsu (1,15) và Nhóm Mười Hai (6,12), như
vậy liên kết vị Tiền Hô, Đức Giêsu và các sứ giả của Người với nhau (xem một
cách dùng tương tự cho hai động từ kêryssein [loan báo]: 1,4.7;
1,14.38t; 3,14 và 6,12; paradidonai [giao nộp]: 1,14; 9,31; 10,33;
13,9.11). Các từ đó lại luôn lệ thuộc động từ kêryssein, nghĩa là các từ
đó chính là nội dung của sứ điệp các ông phải mang đi truyền bá.
- phép rửa tỏ lòng sám hối: Cụm từ Hy-lạp baptisma metanoias
(thanh tẩy hối cải, x. Lc 3,3; Cv 13,24; 19,4): metanoias ở
thuộc-cách (genitive) xác định đặc tính của phép rửa Gioan loan báo. Đây là một
kiểu nói Sê-mít, có nghĩa là “một phép rửa tượng trưng hoặc diễn tả sự hoán
cải”. Cho dù Gioan có thuộc về phong trào Êxêni ở Qumrân hay không, phép rửa của
ông tương tự phép rửa của người Êxêni, nhất là ở điểm cả hai phép rửa đều diễn
tả một sự hoán cải nội tâm, sự hoán cải này vừa là hành vi của con người vừa là
ân huệ của Thiên Chúa, cũng như chuẩn bị các tâm hồn đón tiếp Thiên Chúa sắp đến
can thiệp vào thời cánh chung. Tuy nhiên, Gioan khác người Êxêni ở hai điểm:
không nghĩ rằng tội lỗi gây nên một sự ô nhơ nơi thân xác; không buộc các hối
nhân phải sống một năm thử thách; chỉ ban phép rửa một lần, vì đây là hành vi
chuẩn bị cuối cùng để đón Đấng Mêsia ngự đến.
- Mọi người từ khắp miền Galilê và thành Giêrusalem (5): Mc nhắm
cho thấy mục tiêu của sứ vụ Gioan Tẩy Giả là khai mạc giai đoạn cuối cùng của
Chương trình Thiên Chúa cứu độ loài người. Như thế, kiểu nói phóng đại (“toàn
thể”, “khắp”) về miền Giuđê và Giêrusalem, kinh đô tôn giáo của Do-thái giáo,
không phải là không có chủ ý, nhất là lại có quy chiếu về việc thanh tẩy Giuđa
và Giêrusalem thể theo Ml 3,4 hoặc quy chiếu về sứ điệp vui tươi được ngỏ
với Giêrusalem và các thành Giuđa thể theo Is 40,9t. Nay đã khởi sự biến
cố cánh chung: câu hỏi phải đặt ra là không biết Dân Thiên Chúa có nhận biết
chăng “Đức Kitô, Con Thiên Chúa” (c. 1) chính là “Đấng quyền thế hơn” (c. 7),
Đấng mà Gioan đang dọn đường đón tiếp.
- kéo đến: Thì vị hoàn (imperfect) exeporeueto diễn tả chuỗi người
liên tục kéo đến để nghe Gioan giảng và nhận phép rửa. Giới từ ek (out,
of) muốn nói là ra khỏi miền Giuđê và thành Giêrusalem.
- Gioan mặc áo lông lạc đà… (6): çn .. endedumenos: trợ động từ
eimi ở thì vị hoàn (imperfect) cộng với phân từ quá khứ của động từ
chính enduơ nói lên cách thức ăn mặc quen thuộc của Gioan. Ông được giới
thiệu có cách sống như một con người của hoang địa, một nhà khổ hạnh, một
na-dia (x. Lc 1,15), tương tự ngôn sứ Êlia (x. 2 V 1,8; Dcr
13,4).
Trichas kamêlou, “lông lạc đà”, không có nghĩa là “da” lạc đà. Đây là cái
áo dài và rộng dệt bằng lông lạc đà. Zônê, “girdle, waitsband; ceinture”,
không phải là dây thắt lưng của người Tây phương, nhưng là một thứ như cái “ruột
tượng” của ta (x. Mc 6,8).
- Ăn châu chấu: Châu chấu luộc trong nước muối rồi nướng trên than và mật
ong rừng là hai thứ lương thực của dân cư sa mạc. Vì bản văn không kể ra thứ
lương thực nào khác, ta hiểu ở đây tác giả muốn nêu bật nếp sống khắc khổ của vị
Tẩy Giả.
- Ông rao giảng (7): ekêryssen, do động từ Hy-lạp kêryssein,
“công bố; loan báo”, ở thì vị hoàn (imperfect), để diễn tả đây là một hoạt động
thường xuyên của Gioan. Chúng ta đến đỉnh cao của đoạn văn này, bởi vì chỉ đến
đây, Gioan mới lên tiếng mà chỉ cho thấy Đấng ông làm Tiền Hô cho.
- Đấng quyền thế hơn tôi: Có lẽ danh xưng này ám chỉ đến Is 40,10
(“Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng [= đến với sức mạnh], tay nắm trọn chủ
quyền”). Sự tương phản giữa hai bên lớn đến nỗi Gioan “không đáng cởi quai dép
cho Người”, mà đây là công việc thấp hèn đến nỗi một nô lệ Do-thái cũng không
buộc phải làm cho chủ (sách Mishna) (x. Mt 3,11; Lc 3,16;
Ga 1,15.27.30; 3,30; Cv 13,25).
- trong Thánh Thần (8): Các bản văn Nhất Lãm song song (Mt 3,11;
Lc 3,16) đọc là “trong Thánh Thần và lửa”. Có lẽ lúc đầu, câu này có hình
thức là “gió và lửa” để mô tả biến cố Triều Đại cánh chung của Thiên Chúa ngự
đến. Mc chỉ quan tâm đối lập nghi thức chuẩn bị của Gioan với việc thiết
lập Nước Thiên Chúa nhờ hoạt động của Đức Kitô, mà không nói đến phán xét. Nhờ
đó, Người đưa lại cho “phép rửa trong Thánh Thần” ý nghĩa tích cực là một cuộc
tái sinh bên trong.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Danh hiệu của Tin Mừng (1)
Cả bốn quyển mở đầu bộ Tân Ước chỉ bắt đầu được gọi là “Tin Mừng” nhiều năm sau
khi được viết ra. Vào thời tác giả Máccô, “Tin Mừng” không có nghĩa là một quyển
sách, mà là “những tin vui” do một sứ giả mang đến. “Các tin mừng” là những tin
về các chiến thắng, các biến cố may lành, các hiệp ước hòa bình và nhất là tin
về các cuộc chào đời. “Các tin mừng” làm bừng lên những niềm hy vọng về một cuộc
sống tiện nghi, sức khỏe, bình an, nên dân chúng vui sướng khi nghe được.
Mc 1,1 dùng từ ngữ “tin mừng” để giới thiệu “lời rao giảng của Kitô
giáo”, cho chúng ta biết việc cứu độ và hạnh phúc không còn là kết quả của những
tin vui về hoàng đế hoặc về một ai đó giống như hoàng đế, nhưng là kết quả đến
từ lời rao giảng của Đức Giêsu, cũng là lời giảng về Đức Giêsu, cho thấy đã đến
lúc Thiên Chúa can thiệp chung kết vào lịch sử loài người.
* Hoạt động của Gioan (2-6)
Câu trích tổng hợp Is, Ml và Xh (cc. 2-3) có mục đích xác
định vai trò của Gioan trong quan hệ với Đấng Mêsia mà ta biết là chính Đức
Giêsu. Nhưng một nét được nêu bật là Gioan không phải là vị Tiền Hô của Con
Người sẽ đến, mà là của Đức Giêsu trần thế.
Còn cc. 4-6 giới thiệu tóm tắt bản thân và hoạt động của Gioan: ông loan báo
phép rửa bày tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội. Tác giả đặt đối lập phép rửa
bằng nước của Gioan và phép rửa bằng Thánh Thần của Đấng Mêsia. Phép rửa bằng
Thánh Thần liên hệ rõ ràng đến phép rửa tội Kitô giáo. Nói đến “để được ơn tha
tội” là nêu một khẳng định liên hệ đến Thiên Chúa: Ngài sẵn sàng tha thứ
các tội lỗi; nói đến “sám hối” là nêu một khẳng định về loài người: họ có
tội và được dạy rằng Thiên Chúa tha tội cho họ. Sứ điệp của Gioan đưa đến cả nỗi
sợ hãi lẫn niềm vui.
Dân chúng đã từ khắp nơi kéo đến (khắp miền Giuđê và thành Giêrusalem); tác giả
không nói đến Galilê, vì theo ngài, hoạt động của vị Tiền Hô tập trung vào miền
nam. Họ thú nhận tội lỗi: ta có thể nghĩ đến một hành vi tương tự mà các
thành viên ở Qumrân làm vào lễ tái lập giao ước (1 QS 1,22–2,1) hoặc
người Do-thái làm vào ngày Lễ Xá Tội.
* Lời loan báo của Gioan (7-8)
Tương hợp với câu trích Is nói về tiếng nói của người loan báo, hoạt động
của Gioan được mô tả như là một việc “hô to [như anh mõ làng]”; “công bố”; “phổ
biến” (kçryssein). Hành vi này đưa ông đến gần Đức Giêsu (1,14.38t), các
môn đệ (3,14; 6,12), Tin Mừng (13,10; 14,9), các sứ giả đức tin (1,45; 5,20;
7,36). Cùng với sự đối lập giữa phép rửa của ông với phép rửa của Đấng Mêsia,
ông loan báo “Đấng quyền thế hơn (= Đấng mạnh hơn [ông])” đang đến.
+ Kết luận
Đến đây, chúng ta đã có thể hiểu vì sao sứ vụ của Gioan lại là “khởi
đầu Tin Mừng”. Bởi vì Tin Mừng là biến cố trước khi là sứ điệp. Qua vị Tẩy Giả,
Thiên Chúa thực hiện các Lời Ngài hứa (cc. 2-3); Thiên Chúa thực hiện nơi Đức
Giêsu, Đấng sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần (cc. 6-8). Như thế, sứ vụ của
Gioan đã thuộc về biến cố cánh chung, biến cố này xảy ra khi Đức Giêsu bắt đầu
rao giảng tại Galilê và các môn đệ rao giảng khắp tứ phương thiên hạ.
Gioan chỉ là một sứ giả “đi trước mặt” Đức Chúa (c. 2). Nhưng cũng
chính ông có nhiệm vụ viết trang dẫn nhập vào Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên
Chúa. Chính vì thế, “trong số phàm nhân lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng
hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt 11,11).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta được mời gọi tin
vào sự trung tín của Thiên Chúa: Ngài đã lên kế hoạch cứu độ, thì khi đến thời
Ngài đã định, Ngài sẽ ban gửi các vị loan báo Tin Mừng Cứu Độ đến. Sứ điệp Gioan
loan báo mang lại cả nỗi sợ hãi lẫn niềm vui, bởi vì ông nói cho họ biết rằng họ
bị thất sủng, tương quan của họ với Thiên Chúa đã bị rối loạn, nhưng đồng thời
ông khẳng định rằng Thiên Chúa đầy lòng thương xót đối với họ và Ngài muốn thắng
vượt tình trạng thất sủng của họ. Đoạn văn này cũng cho thấy Ba Ngôi (Đấng xưng
là “Ta”, “Đấng quyền thế hơn” và “Thánh Thần”) cùng làm việc để thực hiện công
trình cứu độ.
2. Gioan không xác định tội ông
nói đến là tội gì. Dĩ nhiên ông có thể hiểu ngầm rằng những người đang nghe ông
biết các tội của họ. Từ sự hiểu biết này phát sinh ước muốn thú nhận các tội lỗi
của mình (1,5). Tuy nhiên, tội căn bản là loài người không nhận biết Thiên Chúa
là Đấng tạo dựng nên mình và là Chúa tể của mình, không tự hỏi về ý muốn của
Thiên Chúa, nhưng muốn làm chúa tể của chính mình, đi theo những ý muốn của mình.
Đặc biệt tội hệ tại việc không tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa vì các điều
răn cho biết ý muốn của Thiên Chúa.
3. Người Kitô hữu cũng có một
vai trò tiền hô đối với anh chị em mình. Muốn thế, cần xác định rõ ràng quan
hệ của mình với “Đấng đang đến”, để khiêm tốn và trung thực giới thiệu về Người
như là Đấng đã đang có mặt trong lịch sử loài người.
4. Vị Tẩy Giả nhìn người ta lên
khỏi nước. Ông gạt đi các lời cám ơn và ca ngợi. Ông nói với họ về “Đấng quyền
thế hơn”, Đấng sẽ ban cho họ Thần Khí của đời sống mới. Đời sống này sẽ khởi sự
khi người ta nhận ra và đón tiếp Đức Kitô cùng với sự khôn ngoan của Người vào
lòng. Họ đang ở tại bờ của một khởi đầu; họ cần sẵn sàng, khao khát, mở
lòng ra..
Mục Lục
DỌN ĐƯỜNG CHÚA CHO NGAY THẲNG
Nơi hoang địa có người loan báo.
Hãy sẵn sàng Chúa đến viếng thăm.
Đường cong sửa chữa thẳng băng.
Núi cao bạt xuống hố hang lấp đầy.
Gioan tấm thân gầy khắc khổ.
Ăn châu chấu,da thú che thân.
Loan truyền đến mọi người dân.
Ăn năn sám hối lỗi lầm bao phen.
Sông Giócdan đón xem Phép Rửa.
Dân khắp miền hớn hở chờ mong.
Gioan khiêm tốn trong lòng:
NGÀI là CUỨ CHÚA oai hùng hơn tôi.
Mùa Vọng đến mọi nơi mừng đón.
CHÚA HÀI NHI ngự đến viếng thăm.
Tâm hồn thanh khiết sạch trong.
Cao-cung-lên với Đêm-đông tưng bừng...
MATTHEU VŨ.
Mục Lục
DỌN ĐƯỜNG
ĐÓN CHÚA CỨU THẾ
Tin mừng hôm nay đặt ra hai lựa chọn
Hai hình ảnh biểu hiện khá rỏ ràng
“Nhiệm vụ Rao giảng như Tẩy giả Gio-an,
Chuẩn bị đón …Chúa Cứu Độ sẽ đến ”
Ngài đến sau… nhưng Đấng ấy cao trọng
Là Thiên Chúa Cứu độ hết Anh em,
Hoặc như Dân thành Giê-ru-sa-lem
Đến Gioan để xin chịu Phép Rửa
Hai hình ảnh có chung cùng mục đích
“Dọn mình đón nhận Con Chúa Ngôi Hai,
Và Dọn đường chờ Chúa Cứu Thế đến”
Hãy sống niềm tin …vào Thánh ân Ngài
Việc dọn lòng , dọn đường không dừng đó
Đừng cho mình vô tội mà ngồi yên
Hãy nhìn kia những bất công cậy quyền
Chẳng công bằng , không Yêu thương , Bác ái
Trước núi đồi do kiêu căng tự đại
Với ích kỷ… không tình người cho đi
Quá lắng lo nhiều sự đời làm gì
Còn chi lại khi nhắm mắt lìa thế …
Sống tin yêu đời hạnh phúc vô kể
Hãy sẳn sàng ta không thể làm ngơ
Hãy tập sống trong chuẩn bị đợi chờ
Luôn cẩn tắc dọn lòng trông đợi Chúa
Đời yêu thương ...lắm lôi cuốn dũng mãnh
Mời mọi người vui chia sẻ tình người
Hãy chuẩn bị và cầu nguyện khắp nơi
Như xứ Giuđa … mà Tin Mừng nói đến !..
Cao Trí Dũng
Mục Lục
TRONG SA-MẠC
ĐỜI
Đỗ Quang Vinh
(thơ xuôi tổng-hợp)
“Có tiếng hô trong hoang-địa:
Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa,
sửa lối cho thẳng để Người đi;
mọi thung-lũng, phải lấp cho đầy;
mọi núi đồi, phải bạt cho thấp;
khúc quanh co, phải uốn cho ngay;
đường lồi lõm, phải san cho phẳng!”
(Luca, 3:4-5)
Lạy Chúa Giê-su,
Ðời con sa-mạc hoang-vu,
Khát khô, lảo-đảo, tai ù, mắt hoa,
Con như câm, điếc, mù loà,
Kể như bại liệt, biết là về đâu?
Rồi đây bão cát ngập đầu,
Con thành bụi cát trở vào hư không,
Ðời con sa-mạc mênh-mông,
Ðớn-đau, tuyệt-vọng, chất-chồng gian-nan.
Ngài cho con hết bi-quan,
Con nhìn thấy Chúa luôn luôn đồng-hành.
Lạy Chúa nhân lành,
Con tưới mồ-hôi nước mắt cho sa-mạc đời con thành
cánh đồng tuơi xanh bát-ngát. Con liếm môi nuốt mồ-hôi nước mắt, nghe mằn-mặn,
con say-sưa nhấp nhấp, con lại thấy ngòn-ngọt, con nuốt cho no tình Chúa vô bờ,
con chẳng còn khô khát, con nuốt mãi không thôi. Con tỉnh ra, mở miệng, mở tai,
mở mắt. Con hết câm, điếc, mù loà. Con không còn bại liệt, con nhất quyết
“ngẩng mặt đứng lên” (Luca 21, 28).
Trong ánh nắng gay-gắt chói-chan, cát trắng đẫm ướt nước mắt mồ-hôi, những hạt
cát óng-ánh thuỷ-tinh, lung-linh tình Cha bao-la chất ngất. Trong sa-mạc
vằng-vặc ánh trăng sao, con thấy rõ dạt-dào tình Cha ngọt-ngào khôn xiết.
Con
thấy rõ cậu bé thợ mộc nhà Na-gia-rét đang bào ván xẻ cưa. Con nhìn rõ dáng
Người năm xưa trong Vườn Giệt, con biết Người đang lết chân oằn lưng thập-giá
trên vai. Con nghe rõ lời ai trên Núi Sọ. Con nghe rõ lời Ngài đang rộn-rã gọi
con,
Gọi con san phẳng đồi, non,
Mở đường Chúa đến mang ơn cứu đời.
Gọi con cất tiếng mở lời,
Truyền rao lời Chúa cao vời thiết-tha.
Lời Ngài nhân ái bao-la,
Cho con đi suốt đường xa dặm dài.
Mục Lục
|