|  | 
		  
		
		 
		
		“Năng Lực Thiêng Liêng” 
		
		
		 Đaminh 
		Maria Cao Tấn 
		Tĩnh, BVL 
		
		
		soạn dọn cho buổi phát thanh Tin Mừng Sự Sống 454 Thứ Sáu 22/5/2009 
		  
		
		
		    
		
		ể tiếp tục biến cô Tông Du Thánh Địa của vị Giáo Hoàng đương kim Biển 
		đức XVI của chúng ta trong bài trước, “Tông Du Th
		
		
		ánh Địa - một biến cố quan trọng chẳng những đối với vai tṛ truyền bá 
		phúc âm hóa của Giáo Hội mà c̣n tới cả ḥa b́nh thế giới nữa. 
		Cũng 
		trong buổi phát thanh tuần trước, trong bài về
		cuộc họp 
		báo trên máy bay từ Rôma sang nước Jordan là chặng dừng chân đầu tiên 
		trong chuyến tông du Thánh Địa lần thứ ba của vị Lănh Đạo Tối Cao thế 
		giới Công Giáo Hoàn Vũ, Đức Thánh Cha có phân biệt giữa “quyền lực chính 
		trị” liên quan tới chính trị và các vị lănh đạo chính trị quốc gia cũng 
		như quốc tế, và “năng lực thiêng liêng” liên quan tới tôn giáo và các vị 
		lănh đạo tôn giáo. Cũng trong buổi phát thanh lần trước, chúng ta đă 
		thoáng nh́n lại lịch sử Thánh Địa trên 60 năm qua từ ngày xuất hiện một 
		quốc gia Do Thái, một lịch sử liên tục chiến tranh, một lịch sử đầy hận 
		thù và chết chóc bởi tranh chấp đất đai và chủ quyền, nhất là sau Trận 
		Chiến sáu ngày năm 1967. Cho đến nay, thực tế cho thấy “quyền lực chính 
		trị” hầu như bó tay, không thể nào giải quyết được, cho dù đă hết sức cố 
		gắng trên 6 thập niên qua. Nếu “quyền lực chính trị” không làm được th́ 
		phải chăng chỉ có “năng lực thiêng liêng” mới là giải pháp duy nhất và 
		cuối cùng cho việc giải tỏa t́nh h́nh Chiến Tranh Trung Đông ở Thánh Địa 
		hầu như bất tận này? Trước hết, chúng ta hăy cùng nhau ôn lại những điểm 
		then chốt trong cuộc Chiến 
		Tranh Trung Đông ở Thánh Địa và nhận định của ĐTC về t́nh h́nh này hiện 
		nay như sau.     
		  
		
		
		Trung Đông: MẢnh ĐẤt TrưỜng KỲ Xung ĐỘt 
		
		
		(phần 
		này đă được phát thanh ở cuối Tin Mừng Sự Sống 453 Thứ Sáu 15/5/2009) 
		
		  
		
		T́nh h́nh Trung Đông dằng dai và căng thẳng giữa hai phe Palestine và Do 
		Thái cho tới nay khiến cho người viết cứ suy nghĩ về hai câu Thánh Kinh, 
		một câu liên quan đến phe Palestine Ả Rập và một câu liên quan đến phe 
		Do Thái.  
		
		  
		
		Câu Thánh Kinh (Cựu Ước) liên quan đến phe Palestine Ả Rập, đó là câu 
		Thiên Sứ phán với người nữ tỳ Ai Cập Hagar về tương lai của đứa con trai 
		Ishmael đang ở trong bụng chị bấy giờ, đứa trẻ chị sẽ sinh ra cho ông 
		chủ Abram của chị v́ bà chủ Sarai của chị bị bất hạnh hiếm muộn: “Nó 
		chống lại mọi người và mọi người chống lại nó” (Gen 16:12). T́nh h́nh an 
		ninh trên thế giới hiện nay cho thấy nạn khủng bố trên thế giới phát 
		xuất từ dân Ả Rập Hồi giáo, và thế giới cũng đang liên kết để chống lại 
		nạn khủng bố gây ra bởi những con người thuộc dân này. 
		
		  
		
		Câu Thánh Kinh (Tân Ước) liên quan đến phe Do Thái là câu Thánh Phaolô 
		Tông Đồ khẳng định về số phận của dân ấy: “Phần dân Do Thái đă bị mù 
		quáng cho tới khi đủ số Dân Ngoại, tới lúc ấy tất cả dân Do Thái sẽ được 
		cứu độ” (Rm 11:25-26). T́nh h́nh hiện nay cho thấy dân Do Thái dường như 
		không cần mong đợi một Vị Cứu Tinh, Vị Thiên Sai nữa, v́ họ không bị một 
		quyền lực chính trị nào chi phối, như thời đế quốc Rôma, thời điểm xuất 
		hiện nhân vật Giêsu Nazarét, trái lại, họ c̣n làm chủ t́nh h́nh Trung 
		Đông nói riêng, nhất là, làm điêu đứng cả một thế giới Ả Rập Hồi giáo 
		khổng lồ về địa dư và dân số gấp trăm ngàn lần họ.  
		
		  
		
		Chúng ta không biết dân Do Thái sẽ được cứu độ bằng cách nào, chỉ biết 
		rằng khi đủ số Dân Ngoại th́ họ được cứu, thế thôi. Nhưng làm thế nào để 
		biết được c̣n bao nhiêu Dân Ngoại cần phải trở về nữa mới đủ số, hay 
		ngược lại, cứ khi nào thấy Dân Do Thái bắt đầu tỏ ra nhận biết Giêsu 
		Nazarét là Chúa Kitô, là Đấng Thiên Sai, th́ đó là dấu cho thấy đă đủ số 
		Dân Ngoại. Tuy nhiên, trong khi mong chờ điềm trời cho thấy ứng nghiệm 
		lời tiên báo của Thánh Phaolô về số phận của dân Do Thái, chúng ta hăy 
		theo dơi t́nh h́nh Trung Đông, một mảnh đất hữu thần và linh thánh nhưng 
		liên lỉ xung khắc và trường kỳ xung đột 
		
		
		  
		
		
		Những ranh giới Palestine và Việc Do Thái định cư 
		
		
		  
		
		Phe Palestine nhấn mạnh rằng quốc gia của họ cần phải bao gồm tất cả mọi 
		lănh thổ bị phe Do Thái chiếm đóng từ cuộc chiến 
		tranh 1967, tức 
		bao gồm Giải Gaza và vùng Tây Ngạn kể cả phía Đông Giêrusalem. Phe Do 
		Thái không đồng ư, cho rằng v́ nhu cầu an ninh của những người Do Thái 
		mà cần phải có sự hiện diện của họ theo chính sách phác họa của vùng Tây 
		Ngạn, và một số những cuộc định cư của người Do Thái xẩy ra trong những 
		năm họ chiếm đóng cần phải được sát nhập vào nước Do Thái. Ủy ban t́m 
		kiếm dữ kiện của nguyên Thượng Nghị Sĩ Hoa Kỳ George Michell đă đề nghị 
		vào ngày 21/5/2001 là chính quyền Do Thái hăy ngưng tất cả mọi hoạt động 
		định cư, bao gồm cả việc phát triển tự nhiên của những cuộc định cư đang 
		có, đồng thời cũng kêu gọi phe Palestine “hăy thực hiện 100% nỗ lực để 
		ngăn cản những cuộc khủng bố và trừng phạt những tay vi phạm”. 
		
		  
		
		
		Quan điểm đôi bên về những vùng đất tranh giành. 
		Theo phe Do Thái th́ cộng đồng định cư Do Thái, lên tới khoảng 200 ngàn 
		người ở vùng Tây Ngạn, cũng như những người bảo thủ đạo giáo thấy rằng 
		vùng này là phần đất thánh kinh của dân Do Thái nên nhất định không chịu 
		bỏ ư định kiểm soát vùng ấy. Những cuộc định cư của dân Do Thái ấy được 
		coi là cần phải được bảo vệ an ninh. Những cuộc định cư ở giải Gaza ít 
		đông dân Do Thái hơn ở vùng Tây Ngạn và là mảnh đất không có tầm quan 
		trọng thánh kinh là bao đối với dân Do Thái.  
		
		  
		
		C̣n theo phe Palestine th́ những người thuộc phe này ngờ vực về những nỗ 
		lực cứ muốn hiện diện của người Do Thái ở những vùng họ chiếm đóng vào 
		năm 1967. Lănh thổ thuộc 
		Thẩm Quyền Palestine Yasser Arafat bị phân lẻ và chia cắt bởi 144 cuộc 
		định cư thường dân và quân đội Do Thái, làm suy yếu sức sống của việc 
		kiểm soát của chính quyền Palestine. Những cuộc định cư ấy được coi như 
		một khí cụ tiếp tục chiếm đóng với mục đích chia cắt quốc gia Paleatine 
		sau này thành những phần không liên hệ ǵ với nhau.  
		
		Những miền đất bị chiếm đóng là phía Đông Giêrusalem, bao gồm cả trung 
		tâm Cổ Thành xưa. Cả phe Palestine và Do Thái đều cho rằng Giêrusalem 
		thuộc về họ. Đôi bên cũng đang tranh giành nhau giải Gaza và vùng Tây 
		Ngạn. Ngoài ra, c̣n những điểm then chốt nữa là vùng biên giới giữa Do 
		Thái và Lebanon, nơi chiến đấu quân Hezbollah đă đụng độ với quân đội Do 
		Thái, và Cao Nguyên Golan, một b́nh nguyên ở phía tây nam Syria bị Do 
		Thái chiếm đóng từ năm 1967.
 
		
		Riêng Giêrusalem là một trong những vấn đề tranh giành đệ nhất nơi những 
		cuộc thương thảo ḥa b́nh giữa hai phe Palestine và Do Thái. Điểm nóng ở 
		Giêrusalem này là ngọn đồi được phe Do Thái cho là Núi Đền Thờ (Temple 
		Mount) và được phe Palestine cho là Thánh Cung Cao Quí (Haram al-Sharif). 
		Sở dĩ đó là điểm nóng là v́ nơi ấy được cho rằng có những tàn tích của 
		ngôi đền thờ linh thánh nhất của Do Thái Giáo, một nơi lại bị ngự trị 
		bởi Ngôi Ṿm Đá (Dome of the Rock) và đền thờ Al-Aqsa là một dịa điểm đệ 
		tam linh thánh của Hồi Giáo. Tuy nhiên, theo sự phân chia của Liên Hiệp 
		Quốc năm 1947 th́ Giêrusalem là một thành đô quốc tế chung cho quốc gia 
		Do Thái và Palestine. Thế nhưng, phe Do Thái đă chiếm vùng phía Tây 
		Giêrusalem sau cuộc chiến tranh giành độc lập của họ và chiếm cả vùng 
		phía Đông Giêrusalem là vùng bao gồm cả Ngôi Ṿm Đá năm 1967. Tất nhiên 
		dân Do Thái sống đông đúc ở miền Tây Giêrusalem và dân Ả Rập ở miền Đông 
		Giêrusalem.  
		
		Quan điểm đôi bên về vị thế của Giêrusalem: Theo Do Thái 
		th́ việc thôi không kiểm soát, ngay cả những vùng lân cận Palestine 
		thuộc phía Đông Giêrusalem hay phía Cổ Thành đi nữa, là một lằn đỏ đối 
		với nhiều người Do Thái coi Giêrusalem là tâm điểm của phong trào Do 
		Thái Phục Quốc và là một phần quan trong thuộc căn tính Do Thái. Họ muốn 
		bảo đảm là họ vẫn có thể đến những địa điểm họ coi là linh thánh và họ 
		không muốn thương thảo về điểm này. C̣n theo phe Palestine th́ những địa 
		điểm ở Cổ Thành Giêrusalem là nơi có các địa điểm linh thánh của chẳng 
		những người Palestine mà c̣n của cả thế giới Ả Rập và Hồi Giáo nữa. Thế 
		nhưng, cho đến 
		nay 
		vẫn
		
		
		không thể giải quyết nổi vấn đề này.    
			
			
			ĐTC Nhận định về thời cuộc ở Thánh Địa giữa dân Do Thái và Palestine 
		 
		
		
		ĐTC nói về t́nh trạng hận thù dai dẳng nói chung và bức tường chia cách 
		nói riêng trong lời Tạ Từ với Tổng Thống Do Thái
		
		
		tại Phi Trường Quốc Tế Ben Gurion Thủ Đô Tel Aviv Do Thái Thứ Sáu 
		15/5/2009
		 
		
		“Tôi đă đến thăm xứ sở này như là một người bạn của nhân dân Israel, 
		cũng như tôi là một người bạn của nhân dân Palestine. Những người bạn 
		vui vẻ bỏ giờ ra gặp gỡ nhau, và họ cảm thấy hết sức buồn v́ thấy nhau 
		phải khổ đau. Không người bạn nào của Do Thái và Palestine lại không cảm 
		thấy buồn trước t́nh trạng liên lỉ căng thẳng giữa hai dân tộc này. 
		Không một người bạn nào lại không khóc trước t́nh trạng khổ đau chết 
		chóc mà hai dân tộc này phải chịu đựng trên 6 thập niên qua. Xin cho 
		phép tôi được kêu gọi tất cả dân chúng sống ở miền đất này là Xin đừng 
		đổ máu nữa! Xin đừng đánh nhau nữa! Xin đừng khủng bố nữa! Xin đừng 
		chiến tranh nữa! Trái lại, chúng ta hăy chấm dứt cái ṿng bại hoại bạo 
		lực này. Hăy xây dựng ḥa b́nh bền vững trên công lư, hăy thực sự ḥa 
		giải và chữa lành. Hăy nh́n nhận phổ quát là Nước Do Thái có quyền hiện 
		hữu và hoan hưởng ḥa b́nh và an ninh trong những biên giới được quốc tế 
		công nhận. Cũng thế hăy nh́n nhận là nhân dân Palestine có quyền làm chủ 
		một quê hương độc lập, sống xứng với phẩm giá và được tự do di chuyển. 
		Hăy hiện thực hóa giải pháp 2 quốc gia, chứ đừng cứ là một giấc mơ nữa. 
		Hăy lan truyền ḥa b́nh ở ngoài cả mảnh đất này nữa, hăy làm cho mảnh 
		đất này trở thành như “ánh sáng chư dân” (Is 42:6), mang hy vọng đến cho 
		nhiều vùng khác đang bị xung đột.     
		
		 
		
		“Một trong những cảnh tôi cảm thấy buồn thảm nhất trong chuyến viếng 
		thăm mảnh đất này của tôi đó là cảnh bức tường ngăn cách. Khi tôi chạy 
		xe dọc theo bức tường này tôi đă cầu xin cho một tương lai để các dân 
		tộc ở Thánh Địa có thể chung sống với nhau trong ḥa b́nh và ḥa hợp 
		không cần đến những dụng cụ an ninh và phân rẽ ấy, trái lại tỏ ra tôn 
		trọng và tin tưởng nhau, và từ bỏ tất cả những h́nh thức bạo động và tấn 
		công. Thưa Ngài Tổng Thống, tôi biết là mục đích này khó đạt được biết 
		bao. Tôi biết công việc làm của ngài khó khăn là dường nào cũng như công 
		việc của Thẩm Quyền Palestine. Thế nhưng, tôi xin ngài an tâm v́ lời cầu 
		nguyện của tôi và của dân Công giáo khắp thế giới sẽ ở cùng ngài khi 
		ngài tiếp tục nỗ lực của ngài trong việc xây dựng một nền ḥa b́nh chính 
		đáng và bền vững ở miền đất này”.
		
		 
		
		
		ĐTC, trong diễn Từ viếng thăm Trại Tị Nạn Aida ở Bêlem thuộc Lănh Thổ 
		Palestine
		
		
		Thứ Tư 13/5/2009, cũng đă nhận định về t́nh h́nh chia rẽ liên quan tới 
		bức tường ngăn cách được chính quyền
		
		
		Do Thái xây lên và t́nh trạng khổ sở của dân Palestine bởi đó mà ra.
		 
		
		“Dân chúng ở trại tị nạn này, ở những Lănh Thổ Palestine này và ở cả 
		vùng này mong ước sống ḥa b́nh! Trong những ngày này, niềm mong ước này 
		lại càng trở nên cồn cào hơn nữa khi anh chị em tưởng nhớ những biến cố 
		Tháng 5/1948 và những năm của t́nh trạng xung khắc, vẫn chưa được giải 
		quyết, sau những biến cố ấy. Giờ đây anh chị em đang sống trong những 
		điều kiện nhất thời và khó khăn, với những cơ hội hạn hẹp về công ăn 
		việc làm. Vấn đề anh chị em thường cảm thấy chán chường là những ǵ có 
		thể hiểu được. Các khát vọng hợp lư của anh chị em về nơi ăn chốn ở vĩnh 
		tồn, về một Quốc Gia Palestine độc lập, vẫn chưa nên trọn. Thay vào đó, 
		anh chị em thấy ḿnh, cũng như nhiều người ở vùng này và khắp thế giới, 
		bị lọt vào một cơn lốc bạo động, tấn công và phản công, trả thù, và liên 
		tục hủy hoại. Cả thế giới đang mong sao cho cơn lốc bạo động này ngưng 
		lại, cho ḥa b́nh chấm dứt cuộc đánh nhau liên tục ấy. 
		
		 
		
		“Khi chúng ta qui tụ lại với nhau chiều hôm nay ở nơi đây có một cái 
		nhắc nhở cay nghiệt về t́nh trạng bí tắc trong mối liên hệ giữa Do Thái 
		và Palestine đó là bức tường. Trong một thế giới càng ngày càng nới rộng 
		biên giới – để buôn bán, du hành, di chuyển dân chúng, trao đổi văn hóa 
		– thật là thảm thương khi thấy những bức tường vẫn c̣n đang được dựng 
		lên. C̣n bao lâu nữa chúng ta mới thấy được những hoa trái của biết bao 
		nhiêu là công việc khó khăn cho việc xây dựng ḥa b́nh! Chúng ta cần 
		phải cầu nguyện tha thiết biết bao để chấm dứt những thứ hận thù khiến 
		cho những bức tường này được dựng lên! 
		
		 
		
		“Ở cả 2 bên bức tường này, cần phải rất can đảm mới có thể thắng vượt 
		được sợ hăi và ngờ vực, mới có thể kêu gọi chống lại được việc trả đũa 
		cho những mất mát hay thương tích. Cần phải hào hiệp để t́m cách tái ḥa 
		giải sau nhiều năm đánh nhau. Tuy nhiên, lịch sử đă chứng tỏ cho thấy 
		rằng ḥa b́nh chỉ có thể xẩy ra khi đôi bên của cuộc xung đột sẵn sàng 
		muốn vượt ra ngoài những bất b́nh của ḿnh và cùng nhau làm việc hướng 
		về những mục tiêu chung, mỗi bên nghiêm cẩn lưu ư tới những quan tâm và 
		sợ hăi của người khác, nỗ lực xây dựng một bầu khí tin tưởng. Cần phải 
		sẵn sàng thực hiện những khởi động táo bạo và sáng tạo đối với vấn đề 
		ḥa giải: nếu mỗi bên cứ bắt bên kia phải nhượng bộ trước th́ thành quả 
		chỉ là những ǵ bế tắc mà thôi. 
		
		 
		
		“Vấn đề viện trợ nhân đạo, thứ viện trợ được cung cấp trong trại tị nạn 
		này, đóng một vai tṛ thiết yếu, thế
		
		
		nhưng việc giải quyết dài hạn cho một cuộc xung đột như thế chỉ có tính 
		cách chính trị mà thôi. Không ai mong là nhân dân Palestine và Do Thái 
		tự ḿnh có thể giải quyết được cả. Cần phải có việc hỗ trợ của cộng đồng 
		quốc tế, và v́ thế tôi muốn lập lại lời kêu gọi tất cả mọi người c̣n 
		quan tâm hăy gây ảnh hưởng thuận lợi cho một giải quyết chính đáng và 
		bền lâu, tôn trọng những đ̣i hỏi hợp lư của tất cả đôi bên và nh́n nhận 
		quyền được sống trong an b́nh và phẩm vị, hợp với luật lệ quốc tế. Tuy 
		nhiên, đồng thời những nỗ lực ngoại giao chỉ có thể thành công khi chính 
		những người Palestine và Do Thái sẵn sàng giải tỏa cái ṿng bạo động. 
		Tôi nhớ đến những lời tuyệt vời được gán cho Thánh Phanxicô là “để con 
		đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi tổn thương… đem ánh 
		sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn ưu sầu”. 
		 
		“Tôi lập 
		lại việc van nài của tôi với tất cả anh chị em về một cuộc dấn thân sâu 
		xa trong việc vun trồng ḥa b́nh phi bạo động, theo gương của Thánh 
		Phanxicô và của những đại kiến thiết ḥa b́nh gia. B́nh an cầm phải được 
		bắt đầu ở nhà, trong gia đ́nh, trong tâm can. Tôi tiếp tục nguyện cầu để 
		tất cả mọi bên dính dáng tới cuộc xung khắc ở những mảnh đất này được 
		can đảm và sáng tạo trong việc theo đuổi con đường thách đố bất khả 
		thiếu. Chớ ǵ một lần nữa nở ra trên mănh đất này! Xin Thiên Chúa chúc 
		lành an b́nh cho dân Ngài!”   
		
		
		ĐTC nói về bản chất tôn giáo liên quan tới việc xây dựng 
		
		ḥa b́nh 
		“Năng 
		lực 
		thiêng liêng” là ǵ theo Vị 
		Giáo Hoàng thần 
		học 
		gia Biển
		Đức 
		XVI của 
		chúng ta, vị 
		giáo hoàng thuộc 
		dân tộc 
		có một 
		chế
		độ 
		Nazi Đức 
		Quốc 
		Xă tàn sát 6 triệu 
		người 
		Do Thái, một 
		dân tộc
		đă 
		gây ra hai thế 
		chiến 
		I và II trong tiền 
		bán thế 
		kỷ 
		20, vị 
		giáo hoàng mang danh hiệu 
		tiếp 
		nối 
		vị 
		Giáo Hoàng Biển
		Đức 
		XV trong thời 
		Thế 
		Chiến 
		I, vị 
		giáo hoàng bởi 
		thế 
		phải 
		chăng
		đươc 
		tiền
		định 
		thừa 
		kế 
		vị 
		giáo hoàng Balan để 
		mang lại 
		ḥa b́nh cho thế 
		giới 
		bằng 
		việc 
		phát động 
		chiến 
		dịch 
		“năng 
		lực 
		thiêng liêng” này. 
		Để hiểu
		được
		đích 
		xác ư nghĩa 
		sâu xa và tác dụng 
		của 
		“năng 
		lực 
		thiêng liêng” này liên quan tới 
		ḥa b́nh thế 
		giới 
		nói chung và Thánh 
		Địa nói riêng, chúng 
		ta hăy cùng nhau theo dơi những 
		phát biểu 
		của 
		ngài trong chuyến 
		tông du thứ 
		12 vừa 
		qua ở 
		Thánh Địa, 
		bao gồm 
		8 ngày, và ở 
		2 nơi 
		khác nhau, nước 
		Jordan và Thánh Địa 
		là nơi 
		bao gồm 
		cả 
		nước 
		Do Thái lẫn 
		Lănh Thổ 
		Palestine. Palestine cho 
		đến 
		nay vẫn 
		chưa
		được 
		gọi 
		là một 
		quốc 
		gia mà chỉ
		được 
		gọi 
		là Lănh Thổ. 
		Có một 
		cái lạ 
		là cả 
		3 vị 
		giáo hoàng cận
		đại 
		của 
		chúng ta khi tông du Thánh 
		Địa
		đều 
		ghé nước 
		Jordan trước.
		Đức 
		Phaolô VI ghé nước 
		này ngày 4/1/1964, 
		Đức Gioan Phaolô II 
		ngày 20-21/3/2000, và 
		Đức
		đương 
		kim 3 trong 8 ngày từ 
		8 đến 
		11/5/2009.   
		Jordan có dân số 
		5.720.000, trong đó 
		có 109.000 (1.91%) Công giáo. Có 3 giáo phận 
		và 64 giáo xứ. 
		Hiện 
		có 4 giám mục, 
		103 linh mục, 
		258 tu sĩ 
		và 7 đại 
		chủng 
		sinh. Có 30,595 học 
		sinh tham dự 
		123 học
		đường 
		của 
		Công giáo từ 
		mẫu 
		giáo tới 
		trung học. 
		Ngoài ra Giáo Hội 
		Công giáo c̣n có 2 nhà thương, 
		một 
		bệnh 
		xá, một 
		trung tâm tham vấn 
		gia đ́nh, 
		và 3 trung tâm giáo dục 
		và phục 
		hồi 
		xă hội. 
		Do Thái và Palestine có tổng 
		số 
		dân là 7.180.000, trong 
		đó 
		có 130.000 (1.81%) Công giáo. Có 9 giáo phận, 
		78 giáo xứ 
		và 3 trung tâm mục 
		vụ
		đủ 
		loại. 
		Hiện 
		có 11 giám mục, 
		406 linh mục, 
		1.171 tu sĩ 
		và một 
		thừa 
		sai giáo dân, 14 tiểu 
		chủng 
		sinh và 110 đại 
		chủng 
		sinh. Có 43.876 học 
		sinh học
		ở 
		các trường 
		Công giáo từ 
		vườn 
		trẻ 
		tới
		đại 
		học. 
		Ngoài ra c̣n có 11 bệnh 
		viện, 
		10 bệnh 
		xá, 9 nhà coi sóc người 
		già và tật 
		nguyện, 
		11 cô nhi viện 
		và vườn 
		trẻ, 
		4 trung tâm giáo dục 
		và phục 
		hồi 
		xă hội, 
		và 2 cơ 
		quan đủ 
		loại 
		dịch 
		vụ 
		khác. Nếu 
		“năng 
		lực 
		thiêng liêng” được 
		vị 
		Giáo Hoàng đương 
		kim của 
		chúng ta ám chỉ 
		về 
		lực 
		lượng 
		Công giáo th́ với 
		thiểu 
		số 
		Công giáo như 
		vậy, 
		chưa
		đầy 
		2 phần 
		trăm
		ở 
		Jordan cũng 
		như
		ở 
		Thánh Địa 
		th́ “năng 
		lực 
		thiêng liêng” này sẽ 
		làm được 
		ǵ, hay ngài có ư nói 
		đến 
		vấn
		đề 
		lực 
		lượng 
		tôn giáo nói chung bằng 
		việc
		đối 
		thoại 
		liên tôn? Sau đây là ư thức 
		của 
		ngài về 
		bản 
		chất 
		tôn giáo liên quan tới 
		văn 
		hóa cùng với lời 
		ngài kêu gọi 
		hăy cùng nhau quyết 
		tâm giải 
		quyết 
		vấn
		đề. 
		
		
		  
		
		
		ĐTC nói với các vị Lănh Đạo Hồi giáo, phái đoàn ngoại giao và các vị 
		viện trưởng đại học đường ở Đền Thờ al-Hussein bin Talal Thủ Đô Amman 
		nước Jordan Thứ Bảy 9/5/2009. 
		
		
		  
		
		
		Trước 
		hết về phương diện tiêu cực, ngài công nhận tôn giáo có lúc đă trở thành 
		nguyên tố gây chia rẽ như sau: 
		
		  
		“Chúng 
		ta không thể không quan tâm là ngày nay, càng ngày càng thấy một số 
		người chủ trương là tôn giáo không thể theo như những ǵ nó tuyên bố 
		theo bản chất của ḿnh là tác nhân xây dựng hiệp nhất và ḥa hợp, là 
		biểu hiện của mối hiệp thông giữa con người và với Thiên Chúa. Thật thế, 
		một số người chủ trương rằng tôn giáo thật sự là nguyên nhân gây chia rẽ 
		trong thế giới của chúng ta đây; và v́ thế họ biện luận rằng càng ít chú 
		ư tới tôn giáo bao nhiêu th́ lănh vực quần chúng càng trở nên khá hơn. 
		Thật sự là đáng buồn không thể chối căi được t́nh trạng xung khắc căng 
		thẳng và chia rẽ giữa những tín đồ của các truyền thống tôn giáo khác 
		nhau. Tuy nhiên cũng không phải  thường xẩy ra hay sao trường hợp tôn 
		giáo bị mạo dụng theo ư hệ, đôi khi cho các mục đích chính trị, những ǵ 
		trở thành như một chất kích tố thực sự gây căng thẳng và chia rẽ, có 
		những lúc thậm chí trở thành bạo động trong xă hội nữa? Trước t́nh trạng 
		này, một t́nh trạng mà thành phần đối phương của tôn giáo t́m cách chẳng 
		những làm câm nín đi tiếng nói của tôn giáo mà c̣n thay thế tôn giáo 
		bằng những ǵ riêng của họ, th́ lại càng phải làm sao cho các tín đồ cảm 
		thức được sâu xa hơn việc họ sống đúng với những nguyên tắc và niềm tin 
		của họ. Tín đồ Hồi giáo và Kitô giáo, chính v́ gánh nặng nơi lịch sử 
		chung của chúng ta thường bị ghi dấu bằng việc hiểu lầm, ngày nay cần 
		phải nỗ lực để được nhận biết và nh́n nhận là thành phần tôn thờ Thiên 
		Chúa trung thành với việc cầu nguyện, nhiệt thành đề cao và sống theo 
		các chỉ thị của Đấng Toàn Năng, nhân hậu và xót thương, nhất trí làm 
		chứng cho tất cả những ǵ là chân thật và thiện hảo, và hằng lưu ư tới 
		nguồn gốc chung cùng phẩm giá của tất cả mọi con người, thành phần là 
		tột đỉnh của dự án tạo dựng của Thiên Chúa đối với thế giới và lịch sử…”
		 
		
		  
		
		
		Sau nữa, 
		về phương diện tích cực, ngài phấn khích tôn giáo hăy vun trồng những ǵ 
		là thiện hảo như sau: 
		  
		“Hôm nay 
		tôi muốn nói đến một công việc tôi mạnh mẽ tin rằng cả tín đồ Kitô giáo 
		lẫn Hồi giáo đều có thể theo đuổi… đó là cái thách đố vun trồng điều 
		thiện hảo, liên quan tới đức tin và sự thật, một khả năng lớn lao cho lư 
		trí con người….  Là những tín hữu của vị Thiên Chúa duy nhất chúng ta 
		biết rằng lư trí của con người tự nó là tặng ân của Thiên Chúa và nó 
		vươn lên tới tột đỉnh của ḿnh khi nó được thấm đẫm ánh sáng sự thật của 
		Thiên Chúa. Thật vậy, khi lư trí con người khiêm tốn để cho nó được đức 
		tin thanh tẩy nó chẳng những không yếu kém đi; trái lại, nó c̣n được 
		củng cố để chống lại giả tưởng và vươn ra ngoài những hạn hữu của nó. 
		Nhờ đó, lư trí của con người được vững mạnh để theo đuổi mục đích cao cả 
		của nó trong việc phục vụ nhân loại, trong việc diễn đạt những ước vọng 
		chung sâu xa nhất của chúng ta và trong việc mở rộng, thay v́ mạo dụng 
		hay thu hẹp, cuộc tranh luận chung. Như thế, việc gắn bó chân thực với 
		tôn giáo – chẳng những không thu hẹp trí khôn của chúng ta – lại c̣n nới 
		rộng chân trời kiến thức của con người. Nó bảo vệ xă hội dân sự khỏi 
		những thứ thái quá của cái tôi buông thả dẫn tới việc tuyệt đối hóa cái 
		hạn hữu và che lấp đi cái vô hạn; nó bảo đảm là tự do được hành sử song 
		song với sự thật, và nó trang điểm cho văn hóa bằng những minh thức liên 
		quan tới tất cả những ǵ là sự thật, sự thiện và sự mỹ”.  
		
		  
		
		
		ĐTC c̣n nói trong
		
		
		Diễn Từ với Các Tổ Chức Đối Thoại Liên Tôn trong Hội Trường Trung Tâm 
		Đức Bà ở Giêrusalem 
		Thứ Hai 11/5/2009. 
		
		
		  
		
		
		Trước 
		hết, ngài đặt vấn đề như sau: 
		
		  
		“Tôn 
		giáo đóng góp như thế nào cho những nền văn hóa của thế giới trước bối 
		cảnh của một chiều hướng toàn cầu hóa nhanh chóng này.….” 
		  
		
		
		Sau đó ngài trả lời 
		cho biết 
		
		một là tôn trọng sự thật và hai là vấn đề khác biệt không gây chia rẽ mà 
		làm cho nhau thêm phong phú như sau: 
		  
		“Niềm 
		tin của đạo giáo là những ǵ bao hàm chân lư. Ai tin tưởng là người đang 
		t́m kiếm chân lư và sống theo chân lư. Mặc dù vị trung gian nhờ đó chúng 
		ta biết khám phá và truyền đạt sự thật khác nhau tùy theo tôn giáo, 
		chúng ta không được lui bước trước nỗ lực làm chứng cho quyền lực của 
		chân lư. Cùng nhau chúng ta có thể tuyên bố Thiên Chúa là Đấng hiện hữu 
		và có thể nhận biết, trái đất này được Ngài tạo dựng nên, chúng ta là 
		thành phần thụ tạo của Ngài, và Ngài đă kêu gọi hết mọi con người nam nữ 
		sống tôn trọng dự án của Ngài đối với thế giới. Các bạn mến, nếu chúng 
		ta tin tưởng chúng ta có một qui chuẩn phán đoán và nhận định những ǵ 
		là thần linh theo nguồn gốc và những ǵ được ấn định cho toàn thể nhân 
		loại, để rồi chúng ta không thể nào cảm thấy mệt mỏi trong việc bày tỏ 
		kiến thức này trong đời sống dân sự. Cần phải cống hiến sự thật cho tất 
		cả mọi người; nó giúp cho tất cả mọi phần tử trong xă hội. Nó chiếu giăi 
		ánh sáng cho nền tảng của luân lư và đạo lư, và làm cho lư trí thêm sức 
		mạnh để vươn ra ngoài cả tầm tay với của lư trí để bày tỏ những niềm 
		khát vọng chung sâu xa nhất của chúng ta. Chẳng những không đe dọa tới 
		việc khoan nhượng đối với những khác biệt hay tính cách đa văn hóa, sự 
		thật làm cho việc đồng thuận trở thành khả dĩ và giúp cho cuộc tranh 
		luận chung trở thành hợp lư, thành thực và khả tín, cũng như mở đường 
		tiến tới ḥa b́nh. Việc nuôi dưỡng ư muốn tuân phục sự thật thực sự nới 
		rộng quan niệm của trí khôn chúng ta và lănh vực áp dụng của nó, và khả 
		dĩ hóa cuộc đối thoại chân thực về văn hóa và tôn giáo rất ư là khẩn 
		trương ngày nay.  
		  
		“… Một 
		số người muốn chúng ta tin rằng những khác biệt của chúng ta hẳn là một 
		nguyên do gây chia rẽ và bởi thế cần phải được nhân nhượng hết sức. Một 
		số ít thậm chí chủ trương rằng tiếng nói của chúng ta cần phải nín thinh 
		đi. Thế nhưng, chúng ta biết rằng những khác biệt của chúng ta không bao 
		giờ được là nguồn mạch bất khả tránh cho những ǵ là va chạm hay căng 
		thẳng hoặc giữa chúng ta hay chung xă hội. Trái lại, chúng cung cấp một 
		cơ hội tuyệt vời cho dân chúng thuộc các tôn giáo khác nhau cùng nhau 
		sống bằng một ḷng sâu xa tôn trọng, quí mến và cảm nhận lẫn nhau, phấn 
		khích nhau trên con đường tiến đến cùng Thiên Chúa. Được tác động bởi 
		Đấng Toàn Năng và soi sáng bởi chân lư của Ngài, chớ ǵ các bạn tiếp tục 
		tiến bước một cách can đảm, tôn trọng tất cả những ǵ khác biệt giữa 
		chúng ta và cổ vơ tất cả những ǵ liên kết chúng ta như là thành phần 
		tạo vật được chúc phúc với niềm ước vọng mang hy vọng đến cho các cộng 
		đồng của chúng ta và thế giới. Xin Thiên Chúa hướng dẫn chúng ta theo 
		con đường này!”   
		
		
		ĐTC cũng nói trong Lễ Nghi Làm Phép Lành Đặt Viên Đá Đầu Tiên cho Đại 
		Học Đường Madaba của Ṭa Thượng Phụ Latinh ở Jordan Thứ Bảy 9/5/2009 về  
		hai điểm then chốt này, một là t́m kiếm chân thiện và hai là cái khác 
		biệt làm phong phú hơn là gây chia rẽ  
		  
		
		“Thật vậy, niềm tin nơi Thiên Chúa không đè nén việc t́m kiếm chân lư; 
		trái lại, niềm tin này c̣n khuyến khích viện t́m kiếm ấy nữa. Thánh 
		Phaolô đă kêu gọi các Kitô hữu sơ khai là hăy mở ḷng ḿnh ra cho “tất 
		cả những ǵ là chân thực, tất cả những ǵ là cao quí, tất cả những ǵ là 
		thiện hảo và tinh tuyền, tất cả những ǵ chúng ta yêu chuộng và tôn kính, 
		tất cả những ǵ được coi là tuyệt hảo hay đáng ca tụng” (Phil 4:8). Dĩ 
		nhiên, tôn giáo, như khoa học và kỹ thuật, triết lư và tất cả những biểu 
		hiệu của việc chúng ta t́m kiếm chân lư, có thể trở thành băng hoại. Tôn 
		giáo trở nên méo mó khi bị ép buộc phục vụ cho vô thức hay thành kiến, 
		khinh bỉ, bạo động và lạm dụng. Trong trường hợp như thế, chúng ta thấy 
		chẳng những một thứ xuyên tạc về tôn giáo mà c̣n là một thứ bại hoại nơi 
		tự do của con người nữa, một thứ co hẹp và mù quáng của trí khôn. Hiển 
		nhiên là một hậu quả như thế không phải là những ǵ bất khả tránh. Thật 
		vậy, khi chúng ta cổ vơ giáo dục là chúng ta công bố niềm tin tưởng của 
		chúng ta nơi tặng ân tự do. Ḷng con người có thể trở nên chai cứng 
		trước những giới hạn của môi trường sống, trước những lợi lộc và đam mê. 
		Thế nhưng, hết mọi người cũng được kêu gọi sống khôn ngoan và liêm chính, 
		kêu gọi thực hiện việc chọn lựa căn bản hết sức quan trọng là sự lành 
		hơn là sự dữ, chân lư hơn là bất lương, và họ có thể được trợ giúp nơi 
		công việc này. 
		
		 
		
		“Tiếng gọi sống liêm chính là những ǵ được con người đạo hạnh đích thức 
		nhận thức, v́ Vị Thiên Chúa của chân lư, yêu thương và mỹ lệ không thể 
		nào được phục vụ bằng cách nào khác hơn. Niềm tin tưởng trưởng thành vào 
		Thiên Chúa giúp rất nhiều trong việc hướng dẫn việc thâu nhận và áp dụng 
		cách thích đáng kiến thức. Khoa học và kỹ thuật cống hiến những lợi ích 
		ngoại lệ cho xă hội và đă cải tiến rất nhiều cho phẩm chất của đời sống 
		nơi nhiều người. Thật sự đó là một trong những niềm hy vọng của những ai 
		đang cổ vơ Đại Học Đường này, một đại học có khẩu hiệu là Sapientia et 
		Scientia – Khôn Ngoan và Khoa Học. Đồng thời các thứ khoa học cũng có 
		giới hạn của chúng. Chúng không thể nào giải đáp tất cả mọi câu hỏi về 
		con người và việc hiện hữu của con người. Thật thế, con người, vị thế 
		của họ và mục đích của họ trong vũ trụ này không thể bị chất chứa trong 
		những giới hạn của khoa học. “Bản chất tri thức của nhân loại t́m thấy 
		tầm mức trọn hảo của nó trên hết nơi sự khôn ngoan, một sự khôn ngoan 
		lôi kéo trí khôn con người t́m kiếm và yêu chuộng những ǵ là chân thiện” 
		(cf. Vui Mừng và Hy Vọng, 15). Việc sử dụng kiến thức khoa học cần đến 
		ánh sáng soi dẫn của sự khôn ngoan về đạo lư. Sự khôn ngoan như thế đă 
		gây hứng khởi cho Lời Thề Hippocratic, cho Bản Tuyên Ngôn Chung về Nhân 
		Quyền 1948, cho Công Ước Geneve và các thứ luật lệ tác hành quốc tế đáng 
		ca ngợi khác. Bởi thế sự khôn ngoan về đạo giáo và đạo lư, bằng việc 
		giải đáp những vấn nạn về ư nghĩa và giá trị, đóng một vai tṛ chính yếu 
		trong việc huấn luyện chuyên nghiệp. Thành quả đó là những đại học đường 
		nào t́m cầu chân lư th́ cũng đồng thời t́m kiếm những ǵ là thiện hảo và 
		cao quí, cống hiến việc phục vụ bất khả thiếu cho xă hội.
		
		 
		
		“Với những ư nghĩ đó trong trí, tôi đặc biệt phấn khích các sinh viên 
		Công giáo ở Jordan và các miền lân cận hăy dấn thân một cách hữu trách 
		cho việc thụ huấn thích đáng về chuyên nghệ và luân lư. Các bạn được kêu 
		gọi để trở thành những người xây dựng nên một xă hội chân chính và an 
		b́nh bao gồm các dân tộc thuộc những tôn giáo và chủng tộc khác nhau. 
		Những thực tại này – tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa – cần phải dẫn đến 
		chỗ không phải là chia rẽ mà là làm cho nhau thêm phong phú. Sứ vụ và ơn 
		gọi của Đại Học Đường Madaba chính là để giúp các bạn them phần hơn nữa 
		vào công việc cao quí ấy. 
		  
		
		
		  
		
		
		ĐTC Kêu Gọi hăy cùng nhau quyết tâm giải quyết vấn đề 
		
		
		  
		
		
		Qua bài khai từ của ngài ở Quảng trường Bêlem trước dinh Tổng Thống 
		Palestine khi bắt đầu thăm viếng Lănh Thổ Palestine ngày Thứ Tư 
		13/5/2009, Đức Thánh Cha nói: 
		
		  
		
		“Thưa Ngài Tổng Thống, Ṭa Thánh ủng hộ quyền lợi của nhân dân ngài 
		trong việc có được một quê hương chủ quyền Palestine ở mảnh đất cha ông 
		của ngài, sống an ninh và ḥa b́nh với các quốc gia lân bang, có một 
		biên cương bờ cơi được quốc tế công nhận. Cho dù tới nay mục tiêu đó vẫn 
		c̣n xa vời để trở thành hiện thực, tôi cũng thiết tha kêu gọi ngài cùng 
		với toàn thể nhân dân của ngài hăy giữ ngọn lửa hy vọng sống động, niềm 
		hy vọng một cách nào đó có thể t́m thấy trong việc đáp ứng những khát 
		vọng hợp lư của cả người Do Thái và Palestine đối với vấn đề ḥa b́nh và 
		ổn định. Theo lời của cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, “không thể có ḥa 
		b́nh nếu thiếu công lư, không thể có công lư nếu thiếu thứ tha” (Sứ Điệp 
		cho Ngày Thế Giới Ḥa B́nh 2002). Tôi nài xin tất cả đôi bên dính dáng 
		tới cuộc xung đột kéo dài này hăy loại trừ đi những ǵ là bất b́nh và 
		chia rẽ vẫn c̣n cản trở con đường tiến đến việc ḥa giải, mà quảng đại 
		và thương cảm vươn ḿnh với tất cả mọi người như nhau không kỳ thị. Việc 
		chung sống công chính và ḥa b́nh giữa các dân tộc ở Trung Đông chỉ có 
		thể đạt được bằng một thứ tinh thần hợp tác và tương kính, một tinh thần 
		nh́n nhận và ủng hộ các quyền lợi và phẩm vị của tất cả mọi người. Tôi 
		xin tất cả quí vị, tôi xin các vị lănh đạo của quí vị, hăy thực hiện một 
		cuộc dấn thân mới trong việc thực hiện đối với những mục tiêu này Tôi 
		đặc biệt kêu gọi cộng đồng quốc tế hăy gây ảnh hưởng của ḿnh cho một 
		cuộc giải quyết tốt đẹp. Hăy tin và tin tưởng rằng nhờ việc chân thành 
		và kiên tŕ đối thoại, hoàn toàn tôn trọng các đ̣i hỏi của công lư, 
		những mảnh đất này sẽ đạt tới một nền ḥa b́nh bền vững… 
		
		  
		
		“Tôi kêu gọi nhiều giới trẻ khắp Lănh Thổ Palestine hôm nay là đừng để 
		cho t́nh trạng mất mất sự sống và hủy hoại các bạn từng chứng kiến thấy 
		làm bừng lên trong ḷng các bạn cảm giác cay nghiệt hay oán hận. Hăy can 
		đảm chống lại bất cứ khuynh hướng nào các bạn cảm thấy liên quan tới 
		hành động bạo lực hay khủng bố. Trái lại, hăy để cho những ǵ các bạn 
		cảm thấy canh tân quyết tâm của các bạn trong việc xây dựng ḥa b́nh. 
		Hăy để cho cảm nghiệm ấy làm cho các bạn tràn đầy ḷng ước muốn sâu xa 
		trong việc đóng góp bền bỉ cho tương lai của Palestine, nhờ đó Palestine 
		có thể chiếm được vị thể đúng đắn của ḿnh trên khấu trường thế giới. 
		Hăy để cho cảm nghiệm ấy phấn khích nơi các bạn những cảm thức nhân hậu 
		đối với tất cả những ai đang khổ đau, nhiệt t́nh với việc ḥa giải, và 
		vững vàng tin tưởng vào tiềm năng của một tương lai sáng sủa hơn”.
		  
		
		
		Với Các Vị Lănh Đạo Tôn Giáo tại Hội Trường Đền Thánh Truyền Tin ở 
		Galilêa Thứ Năm 14/5/2009, ĐTC kêu gọi hăy tuân hợp dự án thần linh
		
		
		và huấn luyện giới trẻ sống theo những giá trị thiêng liêng: 
		  
		“Thế 
		giới này không phải là thành quả của một thứ định mệnh mù quáng mà được 
		Thiên Chúa muốn và tỏ hiện vinh hiển rạng ngời của Ngài. 
		  
		“Ở tâm 
		điểm của tất cả mọi truyền thống tôn giáo là niềm xác tín rằng chính ḥa 
		b́nh là tặng ân Thiên Chúa ban, tuy nhiên nó vẫn không thể nào đạt được 
		nếu không có sự nỗ lực của con người. Nền ḥa b́nh bền vững xuất phát từ 
		việc nh́n nhận rằng thế giới này tối hậu không phải là của chúng ta mà 
		là chân trời chúng ta được mời gọi để tham dự vào t́nh yêu của Thiên 
		Chúa và hợp tác để hướng dẫn thế giới cùng lịch sử theo tác động của 
		Ngài. Chúng ta không thể làm bất cứ điều ǵ chúng ta muốn đối với thế 
		giới này; trái lại, chúng ta được kêu gọi để tuân hợp những chọn lựa của 
		chúng ta với những luật lệ tinh tế nhưng khả giác được Đấng Hóa Công in 
		ấn nơi vũ trụ và để khuôn khúc các hành động của chúng ta theo sự thiện 
		hảo thần linh ngập tràn lănh giới của tạo  vật.  
		  
		“Những 
		truyền thống về tôn giáo khác nhau của chúng ta có một khả năng mănh 
		liệt trong việc cổ vơ nền văn hóa ḥa b́nh, nhất là qua giáo huấn và 
		việc giảng dạy về những giá trị thiêng liêng sâu xa của chung gia đ́nh 
		nhân loại chúng ta. Bằng việc uốn nắn ḷng trí của giới trẻ, chúng ta 
		uốn nắn tương lai của chính nhân loại. Tín hữu Kitô giáo sẵn sàng liên 
		kết với người Do Thái, Hồi giáo, Druze và những người thuộc các tôn giáo 
		khác trong ước muốn bảo tŕ trẻ em khỏi t́nh trạng cuồng tín và bạo động, 
		trong khi sửa soạn cho chúng trở thành những con người xây dựng một thế 
		giới tốt đẹp hơn”. 
		 
		
		Trong lời Tạ Từ tại Sân của Dinh Tổng Thống Palestine Thứ Tư 13/5/2009, 
		ĐTC đă trấn an và phấn khích riêng dân Palestine hăy sống niềm hy vọng 
		trổi vượt lên trên cả những bức tường phân cách
		  
		
		“Cho dù các bức tường có được dễ dàng xây lên, tất cả chúng ta đều biết 
		rằng chúng sẽ không tồn tại đến vô tận. Chúng có thể bị đổ xuống. Tuy 
		nhiên, trước hết cần phải loại bỏ đi những bức tường chúng ta xây dựng 
		lên chung quanh cơi ḷng của chúng ta, những chướng ngại chúng ta tạo 
		nên chống lại tha nhân của chúng ta. Đó là lư do tại sao, nơi lời tạ từ 
		của ḿnh, tôi muốn lập lại lời van xin hăy có tinh thần cởi mở và quảng 
		đại để chấm dứt t́nh trạng bất khoan nhượng và loại trừ nhau. Bất kể 
		cuộc xung đột có vẻ khó chế ngự và hết sức loang lở đến thế nào chăng 
		nữa, bao giờ cũng có lư do để hy vọng rằng vấn đề vẫn có thể giải quyết 
		được, những nỗ lực nhẫn nại và kiên tŕ của những ai hoạt động cho ḥa 
		b́nh và ḥa giải cuối cùng sẽ sinh hoa kết trái. Hỡi nhân dân Palestine, 
		niềm ước vọng thiết tha nhất của tôi đối với anh chị em đó là điều ấy 
		sớm xẩy ra, và anh chị em cuối cùng có thể hoan hưởng ḥa b́nh, tự do và 
		ổn định vồn tránh né anh chị em đă quá lâu”. 
		
		
		  
		Lạy 
		Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh,  
		trước 
		khi Thăng Thiên về Trời cùng Cha,  
		Chúa 
		đă nói với các tông đồ là thành phần được Chúa tuyển chọn ở với Chúa
		 
		và 
		sai đi làm chứng nhân cho Chúa rằng “Thày được toàn quyền trên trời dưới 
		đất”,  
		và 
		Chúa cũng đă ban cho các vị được quyền năng khu trừ ma quỉ và chế ngự sự 
		dữ.  
		Xin 
		quyền năng phục sinh của Chúa tiếp tục tác hiệu nơi thành phần thừa kế 
		các vị  
		để bộ 
		mặt trái đất được canh tân trong Chúa Thánh Thần,  
		đặc 
		biệt là vùng đất Chúa đă nhận làm quê hương trần thế của Chúa 
		 
		trong 
		việc hạ giáng, sinh sống và vượt qua của Chúa. Amen.    |  |