Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin:

 

Tổng Lược Bản Hướng Dẫn Dignitas Personae – Phẩm Giá Con Người

 

(tiếp theo)

 

Phần Ba

 

Những Trị Liệu Mi

Liên Quan ti Việc Mạo Dng Phôi Thai Bào hay

Gia Sản Di Giống ca Nhân Loại

 

 

Trị Liệu Về Chất Di Giống

 

Việc trị liệu về chất di giống là những ǵ liên quan ti “các kỹ thuật khéo léo sử dng chất di giống đươc áp dng cho con người v́ các mc đích trị liệu, tc là vi mc đích chữa trị các th bệnh gây ra bi di truyền” (khoản 25).

 

Việc trị liệu chất di giống ca tế bào về cơ thể là việc “t́m cách loại tr đi hay làm giảm bt đi những hư hại về di truyền nơi tầm mưc ca các tế bào trong cơ thể” (khoản 25).

 

Việc trị liệu tế bào mầm giống có mc đích “hoàn chỉnh những hư hại về di truyền nơi các tế bào mầm giống để truyền đạt những hiệu quả trị liệu cho gịng giống ca mt con người” (khoản 25).

 

Theo quan điểm đạo đức học:

 

Những phương thc được sử dng về các tế bào cơ thể triệt để cho mc đích trị liệu “theo nguyên tắc là những ǵ hp pháp về luân lư… Trong trường hp việc trị liệu về chất di giống này liên quan ti những nguy hiểm quan trọng cho bệnh nhân, th́ cần phải tuân theo nguyên tắc đạo đức, theo đó, để tiến hành mt th can thiệp về trị liệu cần phải nắm vững vấn đề con người được trị liệu sẽ không đi ti ch gặp phải các nguy hiểm cho sc khỏe ca họ hay cho tính chất toàn vẹn về thể lư ca họ, những nguy hiểm thái quá hay bất cân xng vi tính cách trầm trọng ca bệnh lư cần được chữa trị. Cũng cần phải có sự đồng ư sáng suốt ca bệnh nhân hay người đại diện hp pháp nữa” (khoản 26).

 

Về vấn đề trị liệu tế bào cùng mầm mống, “những nguy hiểm gắn liền vi bất c việc mạo dng di giống nào đều là những ǵ đáng chú trọng và chưa hoàn toàn làm ch được t́nh h́nh”, bi thế “trong t́nh trạng nghiên cu hiện nay, về luân lư, không được phép tác động có thể gây nguy hại đến cho mầm mống mai hậu” (khoản 26).

 

Về vấn đề triển vọng sử dng những kỹ thuật điều chế chất di giống để mang lại những thay đổi nhắm đến ch cải tiến và cng cố chất di giống, cần phải được nhận định xem những can thiệp như thế có c vơ mt th “tâm thc về ưu sinh” hay chăng và có gây ra mt th “sỉ nhc gián tiếp về xă hi đối vi thành phần thiếu ht mt số phẩm chất nào đó hay chăng, trong khi đó những phẩm chất ưu biệt chỉ được cảm nhận mt số văn hóa hay xă hi nào đó mà thôi; những phẩm chất như thế không tạo nên những ǵ là chuyên biệt con người. Điều này có thể tương phản vi sự thật cốt yếu về phẩm chất ca hết tất cả mọi con người, mt sự thật được thể hiện nơi nguyên tắc về công lư, mt nguyên tắc mà nếu bị phạm ti th́ về lâu về dài sẽ nguy hại ti việc chung sống ḥa thuận giữa các cá nhân con người vi nhau…  Sau hết, cũng cần phải nhận định rằng trong việc cố gắng tạo nên mt kiểu mẫu mi về con người, người ta có thể nhận thấy mt yếu tố về ư hệ cho thấy con người đang cố gắng chiếm ch ca Đấng Hóa Công” (khoản 27).

 

Việc tạo sinh sao bản con người

 

Việc tạo sinh sao bản con người là những ǵ liên quan ti “việc sinh sản phi tính dc hay phi giao tử ca toàn b cơ thể con người để tạo nên, theo quan điểm di giống học, mt hay nhiều ‘sao bản’ hoàn toàn giống hệt vi cái gốc duy nhất” (khoản 28). Những kỹ thuật đă tng được đề ra để hoàn thành việc tạo sinh sao bản con người là việc ghép đôi phôi thai bào nhân tạo, mt việc làm “ ch phân tách mt cách nhân tạo những tế bào riêng hay những nhóm tế bào khỏi phôi thai bào giai đoạn phát triển sm nhất ca phôi thai bào này… ri chuyển vào tử cung để có được những phôi thai bào đồng nhất mt cách nhân tạo” (ghi chú 47) cùng vi việc chuyển nhân bào, mt việc chuyển nhân bào xẩy ra “ ch mang mt nhân bào được lấy t mt tế bào phôi thai hay trong cơ thể vào mt noăn bào đă bị mất nhân bào. Việc này được tiếp nối bằng cách kích thích noăn bào ấy để nó bắt đầu phát triển thành mt phôi thai bào” (ghi chú 47). Việc tạo sinh sao bản được đề ra v́ hai mc đích chính yếu, đó là mc đích sản sinh, tc để có được mt em bé, và mc đích trị liệu về y khoa hay nghiên cu y khoa.

 

Việc tạo sinh sao bản con người là những ǵ “tự bản chất trái phép ch… nó t́m cách làm phát sinh mt con người mi chẳng liên hệ ǵ ti tác động trao thân cho nhau giữa v chng, nhất là không có bất c mt liên hệ nào về t́nh dc. Điều này dẫn ti việc mạo dng cũng như những lạm dng gây tn thương trầm trọng ti phẩm giá ca con người” (khoản 28).

 

Về vấn đề tạo sinh sao bản vi mc đích sinh sản, “việc này sẽ áp đặt lên cá nhân t đó mà có mt căn tính t chất di giống được ấn định trước, khiến cá nhân này – như đă tng nói – thuc về mt h́nh thc nô lệ sinh thể, làm họ khó có thể thoát được h́nh thc ấy. Sự kiện là mt người nào đó sẽ nhận bậy cho ḿnh cái độc quyền ấn định những tính chất về di giống nơi người khác là những ǵ cho thấy mt vi phạm trầm trọng ti phẩm giá ca con người đó cũng như đến quyền b́nh đẳng căn bản ca tất cả mọi người… Trong việc gặp g người khác, chúng ta gặp thấy mt con người được Thiên Chúa yêu thương dựng nên cho hiện hữu cùng vi những tính chất xng vi họ, và chỉ có t́nh yêu thương nhau giữa v chng mi tr thành mt th trung gian môi gii cho t́nh yêu ấy, hp vi dự án ca Đấng Tạo Hóa và Cha trên tri” (khoản 29).

 

Về vấn đề tạo sinh sao bản vi mc đích trị liệu về y khoa hay nghiên cu y khoa, cần phải nói ngay rằng “việc tạo nên các phôi thai bào vi ư định hy diệt chúng đi, thậm chí vi ư định giúp đỡ cho các bệnh nhân chăng nữa, hoàn toàn bất xng vi phẩm giá con người, v́ nó tạo nên việc hiện hữu ca mt con người giai đoạn phôi thai chỉ bằng cách để sử dng và hy diệt đi. Thật là hết sc vô luân trong việc hy sinh sự sống ca con người cho những mc đích trị liệu” (khoản 30).      

 

Như mt giải pháp thay thế cho việc tạo sinh sao bản để trị liệu, mt số nghiên cu gia đă đề ra những kỹ thuật mi được cho rằng có khả năng tạo được các thân bào t mt loại phôi thai bào mà không bao gm việc hy diệt đi những phôi thai nhân bào thực sự, chẳng hạn bằng việc chuyển nhân bào đă được thay đổi hay bằng việc noăn bào được giúp tái cấu lập. Tuy nhiên, vẫn chưa có ǵ là chắc chắn “đối vi t́nh trạng về bản thể học ca ‘sản phẩm’ có được theo đường lối này” (khoản 30).

 

Việc sử dng các thân bào để trị liệu

 

“Những thân bào là những tế bào chưa được biệt phân vi hai đặc tính căn bản, đó là a) khả năng tn tại bằng việc tăng bi ḿnh lên trong khi vẫn trong t́nh trạng bất biệt phân; b) khả năng sản xuất ra những tế bào tiên khi tạm thi để t những tế bào tiên khi này xuất phát ra những tế bào được biệt phân, chẳng hạn như các tế bào thần kinh, các tế bào bắp thịt và các tế bào máu. Mt khi nh thí nghiệm chng minh được rằng những thân bào được cấy vào mt th thịt bị hư hại nào đó chúng có khuynh hướng làm tăng trưởng tế bào và gây ra việc hi phc th thịt ấy, th́ những chân tri mi đă m ra cho ngành y khoa về phc hi, những chân tri đă tng là đề tài rất hào hng trong thành phần nghiên cu khắp thế gii” (khoản 31).

 

Đối vi việc thẩm định về đạo đức học th́ trước hết cần phải xem xét ti những phương pháp làm sao lấy được những thân bào.

 

“Những phương pháp không gây tai hại trầm trọng cho ch thể là nơi các thân bào được lấy th́ được phép làm. Nói chung th́ đây là trường hp khi các th thịt được lấy t a) cơ thể mt người ln; b) máu ca cái nhau vào lúc sinh n; c) những bào thai đă chết bi những nguyên do tự nhiên” (khoản 32).

 

“Việc tạo được những thân bào t mt phôi thai nhân bào sống … bao gi cũng gây ra cái chết ca phôi thai bào ấy và v́ thế là những ǵ hết sc trái phép… Trong trường hp này, nhà nghiên cu… không thực  sự phc v nhân loại. Thật vậy, việc nghiên cu này tiến triển bằng việc triệt hạ những mạng sống con người b́nh đẳng về phẩm giá vi các sự sống ca các con người khác và vi mạng sống ca chính những nghiên cu gia” (khoản 32).

 

“Việc sử dng các thân bào t phôi thai bào hay t các tế bào đă được biệt phân t phôi thai bào – ngay cả khi những tế bào này được cung cấp t những nghiên cu viên khác qua việc hy hoại các phôi thai bào, hay khi những tế bào như vậy được đem rao bán – là những ǵ cho thấy các vấn đề nghiêm trọng theo quan điểm cng tác hành ác và gây gương mù” (khoản 32). 

 

Tuy nhiên, có nhiều nghiên cu đă cho thấy rằng những thân bào già dặn có thể mang lại những thành quả tích cực hơn là những thân bào t phôi thai bào.

 

Những n lực làm lai giống

 

“Gần đây các noăn bào ca thú vật đă được sử dng trong việc tái cấu thể các nhân trung ca những tế bào thuc cơ thể con người… để lấy ra những thân bào ca phôi thai bào t những phôi thai bào thành quả mà không cần sử dng ti các noăn bào ca con người” (khoản 33).

 

“Theo quan điểm đạo đức học th́ những phương thc như vậy cho thấy mt th xúc phạm ti phẩm giá ca con người gây ra bi cái hn hp giữa những yếu tố về di giống chất ca con người và thú vật, mt xúc phạm có thể phá v căn tính chuyên biệt ca con người” (khoản 33).

 

Việc sử dng “sinh chất” có ngun gốc trái phép ca con người

 

Có những lúc hằng loạt các tế bào được sử dng cho việc nghiên cu khoa học cũng như cho việc sản xuất các th thuốc chng nga hoặc các sản phẩm khác, là thành quả ca mt việc can thiệp trái phép phạm đến sự sống hay tính cách toàn vẹn về thể lư ca mt con người.

 

Việc thí nghiệm đối vi các phôi thai nhân bào “là mt ti ác phạm đến phẩm giá làm người ca họ, thành phần có quyền được tôn trọng như mt con trẻ được sinh ra, như hết mọi người. Những h́nh thc thí nghiệm này bao gi cũng tạo nên mt th lệch lạc trầm trọng về luân lư” (khoản 34).

 

Về vấn đề sử dng “sinh chất” có ngun gốc trái phép  bi những nghiên cu gia, th sinh chất được sản xuất ngoài trung tâm nghiên cu ca họ hay được mua bán, th́ vấn đđ̣i hỏi về luân lư “cần phải được bảo toàn để không rơi vào trường hp đồng lơa cố ư phá thai và tránh nguy cơ gây ra gương mù. Về vấn đề này, tiêu chuẩn ca vấn đđộc lập như đă được thiết định bi mt số tiểu ban đạo đức học không đủ. Theo tiêu chuẩn ấy th́ việc sử dng ‘sinh chất’ có ngun gốc trái phép về đạo đức là những ǵ được phép làm nếu không phân biệt rơ ràng mt bên những người sản xuất, làm đông lạnh và gây tử vong cho các phôi thai bào, và mt bên là những nghiên cu gia liên quan ti việc thí nghiệm khoa học”.  Cần phải nh rằng “nhiệm v t chối sử dng ‘sinh chất’ ấy xuất phát t nhu cầu cần phải làm sao, trong lănh vực nghiên cu ca ḿnh, không dính dáng ti mt t́nh trạng pháp lư bất chính trầm trọng và phải minh nhiên khẳng định giá trị ca sự sống con người. Bi thế, tiêu chuẩn về sự độc lập được đề cập đến trên đây là cần thiết những lại là những ǵ thiếu sót về đạo đức học” (khoản 35).

 

“Dĩ nhiên, trong bc ảnh chung này vẫn có những mc độ khác nhau về trách nhiệm. Những lư do hệ trọng, về luân lư, có thể tương xng để biện minh cho việc sử dng “sinh chất” ấy. Chẳng hạn như trường hp nguy hiểm cho sc khỏe ca con cái cha mẹ có thể được phép sử dng mt loại chng nga nào đó đă được phát minh nh sử dng những loạt tế bào có ngun gốc trái phép, trong khi vẫn ư thc rằng hết mọi người đều có nhiệm v phải bày tỏ thái độ bất đồng ư ca ḿnh, và yêu cấu hệ thống chăm sóc sc khỏe thực hiện những loại thuốc chng nga thuận li khác. Ngoài ra, các t chc, nơi hàng loạt các tế bào có nguốn gốc bất hp pháp đang được sử dng, trách nhiệm ca những ai quyết định sử dng chúng không giống như trách nhiệm ca những ai không góp phần vào quyết định như vậy” (khoản 35).  

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Ṭa Thánh

http://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/documents/rc_con_cfaith_doc_20081212_sintesi-dignitas-personae_en.html