
VÀI PHÚT SUY TƯ CHO THÁNG
CHÍN
(Liên kết với 5 phút lời Chúa)
01 Tháng Chín
Bờ Dậu
Trước Ngõ
Có một chàng thanh
niên chán sống nơi thôn dã, đã bỏ nhà trốn lên thành thị... Ở đó, chàng
đã ăn chơi trác táng... Kiếm sống xa đọa đã đưa đẩy chàng đến chỗ thân
tàn ma dại. Trong nỗi cùng cực, chàng bắt đầu hồi tâm và nhớ lại nếp
sống ấm êm trong gia đình.
Chàng quyết định trở
về. Nhưng trên đường về, nghĩ mình quá bất xứng không biết cha mẹ có tha
thứ không, nên chàng đã rẽ lối đi nơi khác. Ở đó, chàng viết thư về cho
cha mẹ và thú nhận tội lỗi. Chàng cũng ngỏ ý. Nếu cha mẹ bằng lòng thì
hãy lấy chiếc áo bông treo trước cửa nhà.
Mẹ chàng đã làm gì?
Bà không những treo một chiếc áo bông mà lấy tất cả áo trong nhà ra treo
kín cả dậu trước ngõ.
Thiên Chúa cũng đối
xử với chúng ta như thế. Phiêu lưu trong tội lỗi, chúng ta chỉ cảm thấy
chán chường thất vọng, nhưng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng
ta. Ngài chờ đợi chúng ta từng giây từng phút. Tình Yêu của Ngài vượt
lên trên mọi tính toán, đo lường của chúng ta. Ngài thi ân cho chúng ta
hơn cả sự mong đợi và cầu xin của chúng ta. Người con hoang trong tin
mừng chỉ xin được đối xử như một người làm công trong nhà, nhưng người
cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Ông đã xỏ nhẫn cho anh, mặc
áo mới cho anh, và sai mở tiệc ăn mừng.
Phải, Thiên Chúa yêu
thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta.
02 Tháng Chín
Khuôn
Mặt Giuđa
Một trong những giai
thoại nổi tiếng nhất trong lịch sử hội họa đó là câu chuyện danh họa
Leonardo da Vinci đi tìm người mẫu để họa khuôn mặt của Giuđa, kẻ phản
bội.
Leonardo đang miệt
mài trong bức tranh "Bữa Ăn Cuối Cùng" của Chúa Giêsu với các môn đệ.
Tất cả các khuôn mặt, từ Chúa Giêsu đến các môn đệ, đều đã hiện nguyên
hình trên khung vải. Nhưng đến lúc phải tô vẽ cho khuôn mặt của Giuđa,
danh họa Leonardo da Vinci đã tỏ ra lúng túng vì ông không biết phải tìm
một người nào làm mẫu cho con người phản bội này... Ông đã phải đi dạo
khắp nơi để tìm một khuôn mặt xấu xí, hiện thân của kẻ phản bội, gian
trá. Sau mấy tháng trời tìm kiếm, cuối cùng ông đã gặp được khuôn mặt mà
ông cho là ưng ý nhất. Trong khu xóm lầy lội, nghèo nàn, ông đã khám phá
được một khuôn mặt mà ông cho là có đầy đủ những đường nét của tội ác.
Ông đã lần mò đến gần người đó, và sau khi đã giải thích về bức tranh
mình đang thực hiện, ông đã đề nghị người đó đến xưởng vẽ của ông để bắt
tay vào công việc.
Người được chọn làm
người mẫu cho Giuđa nhìn nhà danh họa hồi lâu. Cuối cùng, ông đốt lên
một ngọn đuốc sáng vào gương mặt của ông... Leonardo ngạc nhiên vô cùng,
bởi vì người đàn ông này cũng chính là người đã làm mẫu cho ông vẽ chân
dung Chúa Giêsu... Cũng khuôn mặt đó, nhưng có lúc Leonardo da Vinci
nhìn thấy những đường nét của Chúa Giêsu, vào lúc khác, ông lại thấy nó
xấu xí như gương mặt của Giuđa.
Chúng ta thường nói:
khi yêu thì trái ấu cũng tròn... Trong một lá thư tình nào đó, có lẽ hai
người yêu nhau sẽ nói với nhau: không có anh, không có em, đất trời như
vô nghĩa... Tình yêu có tính sáng tạo. Tình yêu giúp chúng ta chỉ nhìn
thấy cái hay cái đẹp nơi người mình yêu.
Tin và yêu là hai
động tác gắn liền với nhau. Ngôn ngữ của đức tin không thể là ngôn ngữ
của khoa học. Con người không đến với Thiên Chúa sau một thời gian dài
tìm kiếm, lý luận. Con người chỉ đến với Thiên Chúa bằng tình yêu. Nói
đến tình yêu là nói đến tin tưởng và phó thác.
Thomas đã đến với
Chúa Giêsu Phục Sinh bằng sự lý luận, uyên bác của một nhà khoa học:
"Nếu tôi không xỏ ngón tay tôi vào lỗ đinh và vào cạnh sường của Ngài...
Tôi không tin". Thái độ này rất phù hợp với tinh thần khoa học. Trong
công cuộc nghiên cứu khoa học, người ta quan sát, đưa ra giả thuyết,
kiểm chứng, thí nghiệm rồi đi đến kết luận... Phương pháp này hoàn toàn
vô giá trị trong tình yêu. Không ai quan sát một người nào đó, đưa ra
một giả thuyết, rồi mới đi đến một kết luận: yêu hay không yêu. Mà trái
lại, tình yêu đến trước tất cả các lý luận và tìm tòi của chúng ta...
Trong đức tin cũng
thế, Thiên Chúa yêu thương chúng ta và Ngài mời gọi chúng ta đi vào tình
yêu của Ngài.
Tình yêu đó mời gọi
chúng ta vượt lên trên tất cả những lý luận và ngờ vực của chúng ta.
Tình yêu đó giúp chúng ta khám phá ra vẻ đẹp và lòng nhân từ của Thiên
Chúa trong tất cả mọi sự, trong ánh mắt của con người cũng như trong
muôn màu sắc của thiên nhiên. Tình yêu đó giúp chúng ta nhìn thấy nơi
gương mặt xấu xí của Giuđa những đường nét yêu thương của Chúa Giêsu.
Tình yêu ấy cho chúng ta tìm thấy nơi niềm vui trong thất vọng, thua
thiệt. Tình yêu ấy cho chúng ta nhìn thấy sự hiện diện của Chúa trong
những giờ phút trống rỗng vô nghĩa của cuộc sống.
03 Tháng Chín
Ði Một
Ngày Ðàng, Học Một Sàng Khôn
Cách đây không lâu,
một cặp thanh niên người Pháp đã đến Phi Luật Tân bằng chiếc xe đạp
riêng của họ. Nước Phi là quốc gia thứ 31 họ dùng xe đạp để đi tham
quan. Trong vòng 7 năm qua, họ đã không ngừng di chuyển một cách thích
thú trên hầu hết các nước và đã học hỏi nhiều kinh nghiệm khác nhau. Họ
đã bỏ ra 3 năm để đạp từ Pháp xuyên qua đến Thái Lan. Họ dành một năm
làm việc trong các trại tị nạn dọc biên giới Thái, chín tháng để đi
xuyên qua Trung Hoa Lục Ðịa, sáu tháng để tham quan Nhật Bản, Ðại Hàn và
Ðài Loan.
Người con gái tên là
Claude đã giải thích mục đích của cuộc mạo hiểm như sau: "Kể từ thời của
Marco Polo, con người không ngừng đi thám hiểm thế giới với nhiều lý do
và với nhiều phương tiện khác nhau. Trong thời đại du hành vũ trụ này,
việc đi vòng quanh thế giới bằng phương tiện thô hiển như xe đạp vẫn
không ngừng thu hút nhiều người... Mạo hiểm như thế để giúp thay đổi
cuộc sống của chúng tôi, để cùng trải qua một kinh nghiệm quá lớn lao".
Cuộc mạo hiểm nào cũng thích thú và nguy hiểm. Claude kể lại rằng tại
Thái Lan, họ đã bị hai tên cướp chận đường toan hành hung. Tại Trung
Ðông, họ đã chứng kiến cảnh chết chóc hằng ngày. Và nhất là tại Ấn Ðộ,
sau khi đã trải qua vài tuần lễ tại một vài trại cùi, họ đã ghi lại
trong các sổ ghi niệm của các trung tâm này như sau: "Sau khi đã đến
đây, chúng tôi cảm thấy không còn gì để than phiền trong cuộc sống này
nữa".
Có lẽ đó là kinh
nghiệm lớn lao nhất mà những người trẻ này đã cảm nhận được trong cuộc
sống. Chạm chán với bao nguy hiểm, sờ được từng nỗi đau khổ, cảm nghiệm
được niềm vui của từng dân tộc khác nhau... Tất cả những kinh nghiệm ấy
cho họ thấy rằng: người ta có thể vượt qua được tất cả mọi hàng rào ngăn
cách để đến với nhau và nơi nào con người cảm thấy mình đang sống trong
gia đình, thì đó là nhà của họ, là quê hương của họ.
Ðời là một
chuyến đi... Không những đi một ngày đàng, học một sàng khôn, mà đi để
tiến gần đến mục đích của cuộc sống.
Tổ phụ
Abraham đã được Chúa gọi để bỏ quê hương, bỏ tất cả mọi sự và lên đường
đến một nơi vô định. Dân Do thái đã được Chúa mời gọi rời bỏ Ai Cập để
tiến về đất hứa.
Ra đi là
chết trong lòng một ít. Cuộc ra đi nào cũng đòi hỏi con người phải dứt
khoát, có khi phải từ bỏ những gì mình yêu thích nhất trong cuộc đời.
Abraham đã từ bỏ quê hương. Có gì quý giá và thân yêu bằng nơi chôn nhau
cắt rún... Tiên tri Êlisê đã phải giết bò và dùng cày để nướng thịt bò
trước khi lên đường theo tiên tri Elia... Các môn đệ của Chúa Giêsu đã
bỏ nghề nghiệp, vợ con, tất cả mọi sự để lưu lạc nay đây mai đó với Chúa
Giêsu. Cuộc ra đi nào cũng là một mất mát... Nhưng có mất mát mới tìm
lại được những gì quý hóa hơn.
Giáo Hội
đã được định nghĩa như dân Chúa trên đường lữ thứ trần gian hướng về
Thiên Quốc. Mỗi người Kitô được mời gọi để tham dự vào cuộc lữ hành này.
Họ không
trẩy đi cô độc một mình. Nhưng bên cạnh họ, từng đoàn người tiến bước
trong hân hoan. Người ta không tiến bước trong buồn bã bởi vì đích điểm
đang chờ đợi họ là cả một khung trời của an vui, hạnh phúc...
Cuộc lữ
hành nào cũng đầy cam go. Nhưng người Kitô không tiến bước với đôi tay
trơ trọi. Hành trang của họ chính là Sức Sống mà Ðức Kitô hằng thông ban
cho họ. Cũng giống như người Do Thái trên đường trở về đất hứa luôn được
nuôi dưỡng bằng manna và được hướng dẫn bởi cột lửa giữa đêm thâu, người
Kitô cũng tiến bước bằng sức mạnh của Chúa Kitô.
04 Tháng Chín
Người Ta Sao, Tôi Vậy!
Theo
khuynh hướng tự nhiên, có lẽ ai trong chúng ta cũng thích dựa theo đám
đông để hành động.
Chúng ta
thử quan sát trong sự đi lại trong các thành phố. Cũng như xe cộ, khách
bộ hành cũng phải tuân theo đèn xanh, đèn đỏ. Những buổi chiều khi tan
sở, người ta thường thấy các xe cộ nối đuôi nhau ở các ngã tư. Ðối lại
với một chuỗi dài của những xe cộ, người ta cũng thấy lố nhố cả một đoàn
người đang chờ đèn xanh để qua đường.
Quan sát
cho kỹ, thỉnh thoảng người ta thấy một điều rất buồn cười, nhưng cũng
rất bình thường: nếu có một người trong đám bộ hành này, vội vàng vì
công việc hoặc không đủ kiên nhẫn, đã lợi dụng lúc vắng xe để băng qua
đường bất chấp đèn đỏ, thì lúc đó, một số người trong đám đứng đợi cũng
sẽ làm theo, nghĩa là cũng sẽ băng qua đường ngay giữa lúc đèn còn đỏ...
Những người đi theo này có lẽ không nhìn thấy những dấu hiệu của luật lệ
đi đường, mà chỉ làm theo người khác. Ðối với những người này, dấu hiệu
để băng qua đường này không phải là đèn xanh, mà là gương của người
khác.
Trong cuộc
sống hằng ngày cũng thế, nhiều người trong chúng ta có lẽ không hành
động, không cư xử theo những dấu hiệu, theo những chỉ dẫn của chân lý,
mà có lẽ theo gương kẻ khác nhiều hơn. Người ta làm sao, tôi làm vậy! Ðó
là lý luận thông thường của chúng ta. Như thế người vượt đèn đỏ để băng
qua đường chỉ làm một hành động cá nhân cho riêng mình, mà còn trở thành
dấu hiệu để cho không biết bao nhiêu người làm theo.
Không ai
có thể tự phụ sống cho riêng mình mà hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến
người khác. Bằng lời nói hay hành động, tất cả mọi hành xử của chúng ta
đều gây một chấn động nào đó với người khác. Một cách nào đó, chúng ta
không sống như một hòn đảo, mà là một dấu hiệu đối với người khác.
Riêng với
những môn đệ của Ðức Kitô, thì vai trò dấu hiệu ấy càng hiển nhiên hơn.
Thật thế, Chúa Giêsu đã quả quyết: "Các con là muối đất, các con là ánh
sáng thế gian".
Ước gì
cuộc sống chứng ta của bác ái, của nhẫn nhục, của tha thứ, của quảng
đại, của phục vụ và của sự cần kiệm liêm chính mà người Kitô luôn phải
thể hiện, có sức trở thành dấu hiệu của chân lý, của Sự Sống.
Và để trở thành dấu
hiệu cho người khác, người Kitô cần phải luôn hướng nhìn về Ðấng là
Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống. Sống theo Ngài, cư xử như Ngài, người
Kitô cũng sẽ lôi cuốn nhiều người đến với Ngài.
05 Tháng Chín
Bỏ Mọi
Sự Ðể Theo Chúa
"Bỏ tất cả mọi sự để
theo Chúa", lời kêu gọi này của Chúa Giêsu có thể thực hiện được trong
xã hội dư dật ngày nay không? Như một dụ ngôn trong Phúc Âm, chúng ta
hãy lắng nghe câu chuyện sau đây của tiến sĩ Marcello Candia, người đã
dâng cúng tất cả tài sản để xây dựng một bệnh viện giữa khu rừng già
Amazone bên Ba Tây và sinh sống tại đó như một người dân nghèo.
"Khi còn ở bậc trung
học, tôi là thành phần của một nhóm trẻ sinh hoạt dưới sự hướng dẫn của
một cha dòng Phanxico. Chúng tôi thường đi thăm các gia đình nghèo tại
ngoại ô Milano... Sự chú ý đến người nghèo đã làm nảy sinh ước muốn
truyền giáo nơi tôi.
Một hôm thầy
Cêciliô, người coi cổng nhà dòng đã nhờ tôi phát thức ăn cho người
nghèo... Trên tường nơi phòng ăn dành cho người nghèo có treo một tấm
hình của cha Daniele Samarate, một vị thừa sai của dòng đã chết vì bệnh
cùi sau một thời gian phục vụ người thổ dân tại một miền ở Ba Tây... Mỗi
lần phát thức ăn cho người nghèo, tôi đều nhận ra hình ảnh đầy đau khổ
của ngài. Dần dà, hình ảnh đó quen thuộc đến nỗi trong bất cứ người
nghèo nào, tôi cũng nhận ra hình ảnh ấy... Từ đó, ước muốn phục vụ những
người cùi đã nảy sinh trong tôi".
Sau khi tốt nghiệp
đại học, Macello đã được cha gửi đi công cán tại nhiều nước nghèo trên
thế giới. Trong dịp ghé thăm một vùng nghèo tại Amazone bên Ba Tây,
Macello đã trở về với quyết định bán hết tất cả tài sản và rút về đây để
phục vụ người nghèo. Với tài sản do gia đình để lại, Macello đã xây cất
một bệnh viện với 120 giường và được trang bị với đầy đủ dụng cụ của một
trung tâm y tế đa khoa.
Macello đã giải
thích về việc làm của mình như sau: "Người ta nói với tôi rằng tốt hơn
hãy giúp những người nghèo ở xứ sở của mình trước đã. Tôi xin trả lời
rằng điều quan trọng là mỗi người chúng ta biết làm một chút gì cho
những người đang đau khổ, bất cứ họ đang ở đâu... Niềm vui lớn nhất của
tôi là thấy nhiều người, thụ động và cam chịu số phận, đã biết cởi mở".
Sự trưởng thành của
Giáo Hội được thể hiện qua ý thức mỗi lúc một sâu sắc của người giáo dân
về vai trò của mình. Ðã qua rồi cái thời mà người ta cho rằng Giáo Hội
là chuyện của các giám mục, linh mục. Ðã qua rồi cái thời mà người ta
cho rằng nên thánh là chuyện của vị giáo hoàng, các giám mục, linh mục
và tu sĩ... Không ai chiếm giữ độc quyền để nên thánh một mình. Nên
thánh là ơn gọi chung cho tất cả mọi người đã chịu Phép Rửa... Do đó,
tất cả những lời khuyên trong Phúc Âm đều có giá trị cho tất cả mọi
người theo Chúa Kitô. "Hãy về bán hết mọi sự, phân phát cho người nghèo
khó và trở lại với Ta". Mệnh lệnh này không chỉ ngỏ với một số thành
phần ưu tuyển trong dân Chúa, nhưng là lệnh truyền cho tất cả mọi người.
Chúng ta không được
sống trong một xã hộ dư dật. Nghèo đói là một sự dữ mà Thiên Chúa không
bao giờ muốn cho con người rơi vào. Tuy nhiên, bên cạnh sự nghèo đói cơm
bánh, còn có một sự nghèo đói còn đáng khiếp sợ hơn, đó là: nghèo đói
tình thương... Có biết bao người đang chờ một ít cơm thừa cá cặn từ bàn
ăn của chúng ta? Có biết bao nhiêu người đang mong mỏi một nghĩa cử yêu
thương của chúng ta?
Thế giới cần được
biến đổi không chỉ bằng của cải vật chất, nhưng bằng chính tình thương
mà con người biết san sẻ với nhau. Sự san sẻ đó là: dù sống trong xã hội
nào, dù trải qua hoàn cảnh nào, mọi người Kitô chúng ta đều có thể và
phải làm được. Và đó cũng là bí quyết duy nhất để giúp chúng ta nên
thánh.
06 Tháng Chín
Không
Mong Ðền Ðáp
Trên đường đi hành
hương đến La Mecque, thủ đô của Hồi Giáo, một tín đồ đã cải trang thành
một người hành khất.
Anh gặp một người
thợ hớt tóc đang săn sóc cho một người giàu có. Nhưng lạ lùng thay, khi
anh vừa mở miệng ra xin người thợ cắt tóc, cạo râu cho mình, thì người
thợ này liền bỏ người giàu ngồi đó và tức khắc đến phục vụ cho anh. Và
đáng phục hơn nữa là ngươòi thợ này đã không đòi hỏi bất cứ một thù lao
nào, trái lại ông còn cho anh ít tiền để hộ thân.
Cảm động vì lòng tốt
của người thợ hớt tóc, người tín đồ quyết định sẽ tặng cho ông tất cả số
tiền anh đã xin được trong ngày.
Và ngày hôm đó,
người tín đồ cải trang thành người ăn xin đã nhận được một túi vàng do
một người khách hành hương giàu có trao tặng. Như đã hứa với lòng mình,
người tín đồ quay trở lại tìm người thợ hớt tóc và trao tất cả gói vàng
cho ông ta.
Nhưng, ngoài sự
tưởng tượng của người tín đồ, người thợ hớt tóc vừa thấy cử chỉ của
người hành khất đã nghiêm sắc mặt nói: "Xin lỗi, ông cho mình là người
đạo đức ư? Ông không cảm thấy xấu hổ để trả công cho một nghĩa cử yêu
thương sao?".
Thì ra, người thợ
hớt tóc đã không cạo râu cho một người hành khất để được trả công. Ông
chỉ làm cử chỉ đó với tất cả yêu thương dành cho một người khốn khổ và
ông nghĩ rằng mình làm như thế để được đền đáp.
Ngạn ngữ tiếng
Latinh thường nói: tôi cho bạn, để bạn cho lại... Hoặc như người Việt
Nam chúng ta thường nói: có qua có lại mới toại lòng ta.
Người ta dùng câu
ngạn ngữ này để diễn tả những đòi hỏi công bằng giữa con người với nhau.
Tôi cho bạn để bạn cho lại. Tôi làm cho bạn để hy vọng bạn sẽ đền đáp
lại... Trên bình diện xã hội và nhân bản, ý thức được sự qua lại này đã
là một điều đáng kể trong các mối tương quan giữa người với người.
Tuy nhiên, chúng ta
không thể áp dụng một thứ công bình như thế vào mối tương quan giữa
chúng ta với Thiên Chúa.
Thiên Chúa không thi
ân giáng phúc để chúng ta biết ơn, hay đền đáp lại. Thiên Chúa cũng
không căn cứ trên tài năng của từng người để ban phát ân huệ của Ngài.
Thiên Chúa không dùng cán cân công lý thông thường của loài người. Công
lý của Ngài là công lý của tình thương. Người thợ của giờ thứ nhất không
lãnh hơn người thợ thứ hai vào giờ cuối cùng...
Nếu Thiên Chúa không
thi ân giáng phúc tùy theo công nghiệp và tài năng của con người, thì
con người cũng không thể nại đến công lao của mình để đòi hỏi một sự trả
công tương xứng... Sau một công lao vất vả, có lẽ chúng ta chỉ có thể
thốt lên: Lạy Chúa, chúng con chỉ là những người đầy tớ vô dụng.Lắm khi
chúng ta vẫn còn đeo đuổi sự công bằng cộng trừ nhân chia của chúng ta
đối với Chúa. Tôi sẽ đọc bao nhiêu kinh để xin được ân này, ơn nọ. Tôi
sẽ làm bao nhiêu hy sinh để cầu cho được một ơn đặc biệt... Lý luận như
thế trong các việc lành phúc đức, chúng ta dễ dàng rơi vào một thứ biệt
phái mới nhằm đề cao công nghiệp riêng của chúng ta mà quên rằng: tất cả
những gì chúng ta có, tất cả những gì chúng đã và sẽ lãnh nhận được đều
xuất từ Tình Yêu vô vị lợi của Chúa.
07 Tháng Chín
Ðâu Là
Hạnh Phúc Ðích Thực
Seiji Katagire, một
phi công Nhật Bản, đang trên cần lái của chiếc phản lực cơ DC 8 của hãng
hàng không dân sự với 174 hành khách trên tàu. Ðang lúc anh chuẩn bị đáp
xuống phi trường Ðông Kinh, thì anh bỗng nghe được những âm thanh khủng
khiếp báo hiệu một sự chết chóc rùng rợn. Do phản ứng tự nhiên, anh đã
kéo giật cần lái, khiến cho chiếc máy bay đâm nhào xuống đất gây tử
thương cho 24 hành khách và hàng trăm người bị thương.
Khi cuộc điều tra về
tai nạn kết thúc thì anh được gửi ngay đến bệnh viện tâm thần. Các bác
sĩ về khoa thần kinh học cho rằng những tiếng kêu gào khủng khiếp mà
viên phi công đã nghe được, xuất hiện ngay trong cơn ác mộng giữa lúc
tỉnh táo của anh và đó chính là nguyên nhân gây ra tai nạn... Theo các
bác sĩ tâm thần, ác mộng xảy ra trong tình trạng nửa tỉnh nửa mơ là dấu
hiệu báo trước một cơn khủng hoảng tinh thần.
Theo những con số
chính xác được tiết lộ từ các bệnh viện thần kinh tại Nhật Bản, thì con
số người mắc bệnh mất trí và thác loạn thần kinh đã gia tăng theo tỷ lệ
thuận với sự phát triển khoa học kỹ thuật và kinh tế tại quốc gia này...
Người Nhật Bản nổi tiếng là người cần cù siêng năng nhất thế giới. Từ em
bé mới tập tễnh cắp sách đến trường với một vị bộ trưởng trong chính
phủ, tất cả mọi người đều lấy sự bon chen và lấy sự phấn đấu làm phương
châm của cuộc sống... Sự cố gắng đó vừa đưa nước Nhật đến chỗ phồn thịnh
cũng vừa xô đẩy người dân đến tình trạng căng thẳng không ngừng. Một
chút lơ đễnh có thể đưa đến thất bại, một chút sơ sót có thể đưa đến chỗ
mất công ăn việc làm... Tự ái cá nhân và tự ái dân tộc khiến người Nhật
không chịu đựng được sự thất bại. Một lần thi trượt có thể xô ngã không
biết bao nhiêu học sinh Nhật đến chỗ tự vận.
Nhật Bản là quốc gia
được coi là mạnh nhất Á Châu và là nước một trong những kỹ thuật cao
nhất thế giới. Nhưng chúng ta hãy tự hỏi: liệu sự giàu có phồn thịnh đó
có đem lại cho con người hạnh phúc hay không?
Hạnh phúc là một cái
gì vô cùng tương đối... Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột.
Chúng ta hãy thử so
sánh niềm vui của các trẻ em thuộc hai xã hội khác nhau. Trong một gia
đình mà cơm trắng được coi như một thứ xa xỉ phẩm, thì chắc chắn một ổ
bánh mì tây sẽ tạo cho các em bé trong gia đình nghèo một niềm vui gấp
nghìn lần niềm vui của những em bé suốt đời sống trên nhung lụa và ăn
toàn cao lương mỹ vị.
Một chiếc áo mới mỗi
năm chỉ được mặc một lần của em bé nhà nghèo có lẽ sẽ làm cho em bé đó
vui hơn tất cả những em bé suốt đời chỉ biết có lụa là gấm vóc.
Của cải vật chất là
một điều kiện cần thiết để cho con người được sống xứng với phẩm giá con
người. Những phương tiện kỹ thuật giúp con người phát triển nhiều hơn
trong nhân cách. Sự sung túc về vật chất phải đem lại sự phát triển nhân
bản và tinh thần. Có hiều hơn để nên người nhiều hơn: đó là khẩu hiệu
người ta thường đề ra để kêu gọi giúp đỡ các nước kém mở mang... Tuy
nhiên, tự nó, của cải vật chất, sự giàu có, những phương tiện văn minh
tiến bộ không phải là cùng đích của con người.
Người Kitô luôn thức
tỉnh để đánh giá đúng những phương tiện vật chất họ đang sử dụng hay
đang tìm cách để đắc thủ. Sự chạy đua với những phương tiện vật chất
không nên làm họ mờ mắt, bán đứng lương tâm của mình.
Hạnh phúc duy nhất
và đích thực trong cuộc sống của người Kitô phải là chính Chúa. Có được
hạnh phúc đó trong tâm hồn, chúng ta sẽ đánh giá đúng mức của cải vật
chất và đồng thời sẽ tìm được hạnh phúc ngay trong những điều kiện thiếu
thốn nhất của cuộc sống.
08 Tháng Chín
Cuốn
Sách Một Chữ
Người ta kể chuyện
rằng: ngày kia một văn sĩ bỗng nảy sinh ra một ý kiến ngộ nghĩnh. Ông ta
muốn viết một cuốn sách. Mà cuốn sách ấy, ông muốn làm sao cho nó không
được dài quá một trang. Cuốn sách một trang này lại phải làm sao cho nó
không được dài quá một dòng. Dòng ấy phải làm sao cho nó chỉ vỏn vẹn có
một chữ.
Chữ độc nhất ấy, cố
nhiên, phải làm sao diễn tả được hết mọi tư tưởng cao xa, tốt đẹp của
văn sĩ.
Ý nghĩ ấy ngày đêm
ám ảnh ông ta, làm cho ông ta mất ăn, mất ngủ. Làm thế nào viết được
cuốn sách một chữ ấy?
Cuối cùng nhà văn
kia đành ngồi khoanh tay bó gối, thở dài thất vọng... Tất cả những danh
từ trên thế giới, không đủ cung cấp tài kiệu, và ý nghĩa cho công việc
ông ta dự định thực hiện.
Nhưng, cuốn sách một
chữ ấy Thiên Chúa đã viết được. Chữ độc nhất, hàm súc mọi ý nghĩa, vừa
hùng hồn, sâu rộng, vừa nhẹ nhàng ý nhị để diễn tả được những kỳ công
kiệt tác trong vũ trụ. Tất cả những gì là tươi mát, là xinh đẹp, tất cả
những gì là đáng quý chuộng, đáng yêu thương, đáng đòi hỏi, đáng tìm
kiếm, đáng ước ao, đáng khát vọng.
Chữ ấy là: Maria,
tên của người Trinh Nữ đã được thiên Chúa tuyển chọn và tô điểm cho cân
xứng với thiên chức làm Mẹ Ngôi Hai Nhập Thể, cân xứng để trở nên vườn
địa đàng thật hoàn hảo, thật sặc sỡ, thật kiều diễm để trong cung lòng
của Maria, Thiên Chúa sẽ cử hành một lễ cưới long trọng, không phải giữa
một người với một người, nhưng là giữa Thiên Chúa và nhân loại.
Ngày hôm nay toàn
thể Giáo Hội hân hoan mừng ngày chào đời của công trình tuyệt hảo ấy của
Thiên Chúa. Hân hoan vì với tiếng khóc và nụ cười của em bé mang tên
Maria này, vầng đông của lịch sử và công trình cứu rỗi của toàn thể nhân
loại đã ló dạng.
Một ngày nọ, thánh
Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars, gặp trong nhà thờ một người đàn bà
có vẻ đang đau khổ nhiều. Bà ta vừa trở thành góa phụ. Ông chồng đã rơi
từ cầu xuống sông và bị chết đuối. Ông ta đã chết khi chưa kịp ăn năn
thống hối. Do đó, đối với bà, ông chồng chắc chắn đã mất linh hồn.
Cha Vianney đã nhẹ
nhàng đến gần, và được Chúa soi sáng, cha đã nói:
- Chồng bà đã
được cứu thoát. Qúa ngạc nhiên và tỏ vẻ không tin, bà ta lại hỏi:
- Thưa cha, làm
sao lại có thể như vậy? Cha Vianney cắt nghĩa:
- Có Chúa ở giữa
chiếc cầu và dòng sông. Chồng bà đã cùng rơi với Chúa và khi rơi, ông đã
làm hòa với Ngài.
- Nhưng làm sao
có thể như vậy được? Bà vợ hỏi lại:
- Ðó là một ơn
của Ðức Mẹ. Cha Vianney trả lời và cắt nghĩa tiếp:
- Vì một hôm,
trên đường từ đồng về nhà, chồng bà đã hái một đóa hoa đem chưng trước
tượng Ðức Mẹ ở bên đường. Ðức Mẹ có thể quên được cử chỉ tốt đẹp này
sao?
Mừng ngày sinh nhật
của Mẹ Maria hôm nay, chúng ta hãy quyết hái nhiều chiếc hoa xinh đẹp
dâng kính Mẹ. Nhất là chúng ta hãy tiếp tục làm những việc đạo đức thông
thường dâng kính mẹ, như: lần hạt Mân Côi, đọc kinh truyền tin, nguyện
kinh cầu. Nhưng chúng ta hãy làm những việc đạo đức thông thường ấy một
cách phi thường. Có nghĩa là: miệng đọc, lòng suy và cố gắng đem ra thực
hành trong đời sống, để cuộc đời của Ðức Mẹ, vốn đã trở nên một với cuộc
đời của Chúa Giêsu, cũng được thể hiện trong cuộc sống của mỗi người
trong chúng ta.
09 Tháng Chín
Các
Thánh Xuống Hỏa Ngục
Văn hào Guenter
Eich, người Ðức, có viết một vở kịch truyền thanh với nhan đề:
"Festamus, người tử đạo", đại ý câu chuyện như sau:
Festamus là một con
người lành thánh, đơn sơ hiếm có. Mặc dù sống giữa những người gian ác,
chàng vẫn luôn cư xử đoan chính, giàu lòng thương đối với những người
bần cùng.
Sau khi chết, chàng
được lên Thiên Ðàng. Ở đó, sau khi làm quen với các vị thánh, chàng đã
bỏ ra mấy ngày liền để đi tìm kiếm cha mẹ, anh em và bạn hữu ngày xưa.
Nhưng chàng không thấy ai. Thánh Phêrô cho biết: Cha mẹ và bạn hữu chàng
ngày xưa đã ăn ở gian ác, nên đã bị giam trong Hỏa Ngục.
Nghe đến đây,
Festamus buồn thiu, chàng liền thưa với thánh Phêrô: "Con không thể ở
nơi đây được bao lâu còn có những người đang phải chịu đau khổ dưới đó".
Chàng liền rời bỏ
Thiên Ðàng, xuống Hỏa Ngục để thăm cha mẹ, bạn hữu và những người thân.
Chàng làm điều đó với thác tín rằng: Khi một người vô tội từ trời cao,
đến và sống với những người bị kết án, cùng chia sẻ với họ những đau khổ
nhọc nhằn, thì người đó sẽ phá tan được địa ngục và vòng phong tỏa của
quỷ ma...
Câu chuyện tưởng
ttượng trên đây phần nào muốn đề cao thiện chí của những người dám hy
sinh hạnh phúc riêng tư của mình để chia sẻ số phận đau thương của những
người khác.
Ðó là tất cả Mầu
Nhiệm Thiên Chúa làm người. Thiên CHúa đa từ trời cao xuống trần trong
thân phận nghèo hèn nhất. Ngài sinh ra trong chuồng bò để thông cảm với
nỗi cơ cực nghèo nàn của những kẻ không nhà không cửa.
Thiên Chúa từ trời
cao không muốn ban xá lệnh, ban ơn tha thứ cho tội nhân, mà trái lại đã
thân hành đến ngồi đồng bàn với từng tội nhân. Thiên Chúa không thể hiện
sự cảm thông bằng lời nói suông, mà bằng cả cuộc sống làm người...
Người Việt Nam nào
dường như cũng đang sống trong địa ngục của thiếu thốn và nghèo khổ.
Không cần phải đi tìm kiếm, ai trong chúng ta cũng cảm nghiệm được thế
nào là cơ cực, bần cùng. Ai sẽ biến cảnh khốn cùng ấy trở thành Thiên
Ðàng của Tình Thương? Mỗi người một ít, nếu ai cũng ra khỏi nỗi khổ của
mình và gom góp lại đóm lửa của yêu thương, chia sẻ, cảm thông, chúng ta
sẽ xoa dịu được phần nào nỗi khổ đau chung mà chúng ta đang trải qua...
10 Tháng Chín
Quà Tặng
Quý Giá Nhất
Trong một góc hè
phố, một bác hành khất tê bại nằm co quắp. Chợt có một người đàn ông ăn
mặc bảnh bao đi qua. Người hành khất bèn mở miệng xin bố thí. Người đàn
ông ăn mặc sang trọng xỏ tay vào túi áo, nhưng ông tìm mãi mà chẳng được
gì. Vừa bối rối, vừa thành kính, ông ta mới phân bua với người hành
khất:
"Này bác, tôi muốn
biếu bác chút đỉnh, nhưng rất tiếc, vì đi bất ngờ nên tôi không có mang
tiền theo. Xin bác thông cảm cho".
Người hành khất mới
trả lời: "Cám ơn ông. Ông đã cho tôi nhiều hơn mọi của bố thí. Bởi vì
ông đã gọi tôi là Bác. Chưa bao giờ trong đời tôi, tôi đã nhận được danh
dự đó trên môi miệng của một người sang trọng nào cả".
Dù là một người hành
khất, dù là một người tàn tật, dù là một người bị xã hội ruồng rẫy bỏ
rơi, tất cả đều có một phẩm giá như nhau. Quà tặng quý giá nhất mà chúng
ta có thể trao tặng cho người khác, chính là tôn trọng người đó với tất
cả phẩm giá cao quý nhất của họ.
11 Tháng Chín
Thuốc Dã
Rượu
Cách đây vài năm,
công ty dược phẩm Hoffman La Roche ở Thụy Sĩ đã tình cờ khám phá ra một
loại thuốc có tính chất làm dã rượu. Các nhà khoa học trong phòng thí
nghiệm của công ty đã đem loại thuốc mới này thí nghiệm trên các chú
chuột đang say túy lúy. Như thuốc tiên, mấy cú chuột đang say bỗng trở
nên tỉnh táo hẳn lại.
Nhiều người nghiện
rượu có lẽ đã mừng thầm với phát minh mới này. Nhưng mọi người đều sửng
sốt khi một nhà nghiên cứu của công ty nói trên đã đề nghị hủy bỏ loại
thuốc mới này. Ông giải thích như sau: "Xã hội sẽ tốt hơn nếu không có
loại thuốc này, Bởi vì loại thuốc này sẽ khuyến khích người say uống
nhiều hơn. Những người uống thuốc này sẽ có cảm giác là không bao giờ họ
bị đốn ngã vì chất men... Thật ra, loại thuốc này có đặc tính làm cho dã
rượu, chứ không làm bớt lượng rượu trong máu cũng như các tác hại khác
trong hệ thống thần kinh và trong các bộ phận khác".
Loại thuốc dã rượu
trên đây có thể làm cho chúng ta nghĩ đến thứ bình an giả tạo mà nhiều
người đang đi tìm.
Thiên Chúa đã dựng
nên con người để sống trong bình an với Ngài. Những buổi chiều tà khi
Thiên Chúa đến trong Vườn Ðịa Ðàng để chuyện vãn với Ađam và Evà: đó là
hình ảnh của một sự kết hiệp thâm sâu giữa con người và Thiên Chúa. Thế
nhưng, con người đãchối bỏ Thiên Chúa và đã cắt đứt mối dây thân tình
ấy... Từ đó, bất an đã trở thành số phận thường tình của con người.
Nhưng bất an không
những chỉ là một trừng phạt, bất an là nỗi khao khát mà Thiên Chúa đã
đặt vào lòng người để giúp con người tìm đường quay lại với Ngài...
Dù sống trong hoàn
cảnh nào, dù sống trong xã hội nào, dường như không ai thoát khỏi cái
lo, cái sợ... Nếu những người Việt Nam đói khổ lo sợ cho ngày mai không
cơm, không áo, thì những người Âu, Mỹ dư dật lại lo sợ trước trăm nghìn
cái đe dọa khác của cuộc sống... Dĩ nhiên, không ai có thể so sánh được
đau khổ của một người nghèo đói, mất tự do với sự bất an của những người
giàu có. Nhưng trong cơ bản, nỗi khổ tâm và bất an nào cũng có một sức
nặng riêng của nó. Dường như mỗi người đều có một thập giá, một nỗi khổ
và một ưu tư tỷ lệ với sức lực của mình...
Chúa Giêsu kêu mời
mọi người chúng ta hãy đặt tất cả tin tưởng vào Tình Yêu quan phòng của
Thiên Chúa. Dù có lo lắng đến đâu, chúng ta cũng không thể làm cho mình
cao hơn một chút. Mỗi người có nỗi khổ riêng của mình và mỗi ngày có nỗi
khổ của ngày đó...
12 Tháng Chín
Bức
Tranh Ðời Người
Một họa sĩ vô danh nọ vào thời Trung Cổ
đã tóm tắt đời người thành 4 bức tranh xếp bên cạnh nhau. Bức tranh thứ
nhất họa lại tuổi thơ. Không gì đẹp và thanh thản cho bằng tuổi thơ. Một
em bé hồn nhiên, vô tư ngồi trên một chiếc ghe buồm vừa nhổ neo ra khỏi
bờ... Em bé nhìn theo sóng nước không sợ hãi bởi vì người đang cầm bánh
lái là một thiên thần. Bóng đen đang ngủ một cách dịu hiền đằng sau bánh
lái.
Sang đến bức tranh thứ hai, người ta
bỗng thấy cậu bé trở thành một trang thiếu niên đang đứng nhìn chân trời
xa tắp với những háo hức trước những điều mới lạ... Vị thiên thần vẫn
còn cầm tay lái, nhưng sóng đã bạt đầu và bóng đen đã thức giấc.
Bức tranh thứ ba là cảnh tuổi trưởng
thành. Bầu trời đã trở nên ảm đạm. Sóng gió ập phủ tứ bề. Bánh lái đã
nằm trong tay của bóng đen. Vị thiên thần đã bị trói chặt trong một góc.
Người đàn ông đã phải dùng tất cả sức lực của mình để chiến đấu, để
chiếc ghe không bị lật úp...
Cuối cùng, trong bức tranh thứ tư, người ta thấy một cụ già đang ngồi
ung dung giữa ghe. Sóng yên, gió lặng, mặt trời xuất hiện trở lại. Vị
thiên thần đã dành lại được bánh lái, còn bóng đen thì bị trói chặt đằng
sau.
Ðời là một cuộc hải trình gay go...
Ðích điểm có thể là bến yên hàn mà cũng có thể là vực thẳm của chết
chóc. Ðến nơi yên hàn hay đứt gánh giữa đường: số mệnh ấy không ai có
thể định đoạt cho ta, mà chỉ có mỗi người phải biết làm chủ, lèo lái con
thuyền của mình...
Có lẽ nhiều người trong chúng ta đã quá
quen thuộc với trò chơi "Thiên Ðàng Hỏa Ngục" mà các em bé thường tụ tập
trước sân thánh đường để cùng biểu diễn... Thiên đàng hỏa ngục hai bên,
ai khéo thì nhờ ai vụng thì sa... Trả lời được một số câu hỏi thì được
vào Thiên Ðàng, trả lời không được thì bị chận lại ngoài cửa.
Trò chơi đơn sơ nhưng cũng có tác dụng
gieo vào đầu chúng ta một hình ảnh về cuộc đời. Ðời là một cuộc ra đi.
Hướng đi của cuộc đời tùy thuộc ở sự định đoạt của mỗi người. Con đường
dẫn đến hư đốn luôn rộng thênh thang. Con đường dẫn đến sự sống là một
con đường chật hẹp, đòi hỏi nhiều chiến đấu...
Sự thánh thiện là một ơn Chúa ban,
nhưng phải mất nhiều lao nhọc, vất vả chiến đấu, con người mới đạt được.
Nói đến chiến đấu là nói đến kẻ thù. Con sư tử lượn quanh tìm mồi cắn xé
trong cuộc sống của chúng ta là không biết bao nhiêu cạm bẫy giăng mắc
trên lối đi của chúng ta. Những cạm bẫy đó từ bên ngoài cũng có, nhưng
hầu hết đều xuất phát từ trong tâm hồn chúng ta... Ðó là những dục vọng,
đam mê đang cào xé tâm hồn chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta đánh bại được
kẻ nội thù ấy và biến chúng thành đạo binh trung thành thì lúc đó chúng
ta mới chiến thắng được kẻ thù đến từ bên ngoài...
Khí giới tiên quyết và chủ yếu giúp
chúng ta chiến thắng được nội thù đó là sự cầu nguyện. Chúa Giêsu đã nói
với các môn đệ của Ngài: chỉ có ăn chay và cầu nguyện các con mới chiến
thắng được loài quỷ này...
13 Tháng Chín
Bộ Lông
Chồn
Tại những khu rừng ở
miền Bắc Âu, có một loại chồn rất đẹp. Vào mùa hạ, lông chồn màu nâu
nhạt. Nhưng vào mùa đông, lông chồn bỗng đổi màu và mang sắc trắng như
tuyết, trừ có đầu và đuôi chồn vẫn giữ nguyên màu đen. Có lẽ do một bản
năng kỳ lạ nào đó, những con chồn này giữ gìn bộ lông đẹp đẽ của mình
rất cẩn thận. Chúng không bao giờ để thân thể dính bụi đất dơ bẩn.
Những người thợ săn
Âu châu biết được đặc tính kỳ lạ này. Do đó, thay vì đặt bẫy để bắt
chồn, họ đi tìm những khe đá hoặc gốc cây nơi chồn cư ngụ, rồi bôi nhựa
đường lên. Sau đó, họ thả chó ra để bắt đầu săn đuổi. Những con chồn bị
đuổi vội chạy về chỗ ở. Nhưng khi thấy nơi ở của mình bị hoen ố, chúng
không chịu vào ẩn núp. Chúng đành chịu đương đầu với nguy hiểm và ngay
cả sự chết, hơn là để thân thể hóa ra hoen ố...
Ðối với giống chồn
đẹp đẽ trên đây, sự trong sạch còn quý hơn cả mạng sống: chúng sẵn sàng
chiến đấu và chết hơn là để cho thân thể phải ra hoen ố.
Cuộc sống của người
Kitô chúng ta cũng phải như thế. Ðược tái sinh trong Ðức Kitô Phục Sinh,
mỗi người Kitô chúng ta được khoác lên chiếc áo trắng tinh tuyền. Chiếc
áo trắng ấy, như lời khuyên của Giáo Hội trong ngày chúng ta chịu Phép
Rửa, chúng ta phải mang nó tinh tuyền cho đến ngày ra trước mặt Chúa...
Cuộc sống nào cũng
có chiến đấu. Cạm bẫy giăng mắc đầy các lối đi của chúng ta. Người Kitô
không vì một chút lợi lộc, một chút an toàn giả hiệu để làm hoen ố chiếc
áo tâm hồn của mình.
14 Tháng Chín
Quyển
Sách Cao Siêu Nhất
Người ta thường mượn
câu chuyện sau đây để nói đến tinh thần hy sinh, chấp nhận trong cuộc
sống.
Có một người kia cứ
phàn nàn trách Chúa vì đã gửi đến cho mình một thập giá quá nặng... Chúa
bèn đưa người đó đến một cửa hàng có các thập giá đủ cỡ để người đó chọn
lựa.
Người đó hăm hở bước
vào cửa hàng và dựng cây thập giá của mình vào tường. Người đó tự nhủ
trong lòng: "Ðây là chuyện cả đời người, ta phải hết sức cẩn thận".
Thế là anh ta đi rảo
khắp hết mọi lối đi của cửa hàng và thử hết cây thập giá này đến cây
thập giá khác. Nhưng không có một cây nào làm anh vừa lòng. Cây thì quá
dài, cây thì quá ngắn. Cây thì quá nhẹ, cây thì quá nặng... Anh lại tiếp
tục tìm kiếm. Cuối cùng, anh đã tìm được cây thập giá mà anh cho là ưng
ý nhất. Anh mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn nguyện: "Lạy Chúa, đây
chính là cây thập giá mà con hằng tìm kiếm. Con xin vác lấy". Khi anh
vừa hí hửng ra khỏi cửa hàng, thì Chúa mỉm cười nói với anh: "Ta rất vui
mừng vì con đã chấp nhận cây thập giá. Ðây cũng chính là cây thập giá mà
con đã vác vào và dựng ở tường của cửa hàng".
Hôm nay Lễ Suy Tôn
Thánh Giá, Giáo Hội mời gọi chúng ta đào sâu Mầu Nhiệm Thập Giá trong
đời sống Ðức Tin của chúng ta. Thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars
bên Pháp, đã nói: "Thập giá là quyển sách cao siêu nhất... Chỉ có những
ai yêu mến, nghiền ngẫm quyển sách này, những người đó mới thật sự là
người thông thái".
Thập giá Chúa Giêsu
là quyển sách cao siêu nhất, bởi vì, đó là dấu chứng cao cả nhất của
Tình Yêu. "Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người thí mạng
vì người mình yêu". Từ một khí cụ độc ác đê hèn nhất của con người đã có
thể nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu đã biến nó thành dấu chứng
của Tình Yêu: Tình Yêu vâng phục đối với Chúa Cha và Tình Yêu dâng hiến
cho nhân loại...
Suy tôn Thánh Giá
Chúa, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta được đi vào Mầu Nhiệm
Tình Yêu của Chúa. Trong Mầu Nhiệm ấy, cuộc sống của chúng ta không còn
bị đè bẹp dưới sức nặmg của những đau khổ nữa, nhưng luôn mang lấy một ý
nghĩa: đó là ý nghĩa của Tình Yêu.
15 Tháng Chín
Ðây
Sẽ Là Niềm An Ủi Của Con
Một trong những hình
ảnh thánh thiện nhất về đời sống Kitô có lẽ là hình ảnh của những người
hấp hối trên tay cầm thánh giá.
Người ta kể về một
người đạo đức nọ như sau: Trong một cơn bệnh thập tử nhất sinh, chỉ còn
một phương thế duy nhất có thể hy vọng cứu sống bà đó là tiến hành cuộc
giải phẫu. Người đàn bà chấp nhận cuộc giải phẫu, bà yêu cầu cho con
trai bà được chứng kiến giờ phút đau khổ của bà. Vào thời buổi mà thuốc
tê mê chưa có, thì bệnh nhân thường phải trải qua những cơn đau khủng
khiếp. Mặc dù đau đớn vô cùng, nhưng người đàn bà vẫn cứ cắn răng chịu
đựng. Nhưng đến cuối giờ mổ, khi các y sĩ chạm đến gần tim, người đàn bà
rùng mình kêu lên: "Lạy Chúa tôi". Chứng kiến cảnh đau đớn của người mẹ,
người con trai không làm chủ được những cảm xúc, anh đã buột miệng thốt
lên những lời phàn nàn phạm đến Chúa. Lúc bấy giờ người mẹ liền nghiêm
nghị bảo con: "Con ơi, con hãy im đi, con làm mẹ đau đớn hơn các bác sĩ
này nhiều. Con đã làm sỉ nhục Ðấng đã ban sức mạnh và an ủi mẹ". Nói
xong, bà ta mở bàn tay ra, và giơ cho mọi người xem một tượng chuộc tội
nhỏ bà nắm chặt trong tay suốt giờ mổ. Và đó chính là thứ thuốc tê mê đã
xoa dịu cơn đau đớn của bà.
Sau mấy tháng quằn
quại trong đớn đau, người đàn bà đã yên nghỉ trong Chúa. Trước khi lìa
đời, bà đã trao lại cho cậu con trai tượng ảnh chuộc tội và căn dặn:
"Con hãy giữ lấy tượng chuộc tội này. Ðây sẽ là niềm an ủi của con".
Hôm nay Giáo Hội
kính nhớ Ðức Mẹ Ðau Khổ hay cũng thường được gọi là 7 sự thương khó của
Ðức Mẹ.
Suốt cuộc đời trần
thế, Mẹ Maria quả thực là một người đàn bà đau khổ. Nhưng cũng giống như
người đàn bà can đảm trong câu chuyện trên đây, Mẹ luôn có Chúa bên
cạnh. Còn nỗi đớn đau nào bằng khi ôm lấy xác Chúa được tháo gỡ từ thập
giá? Nhưng đó cũng là bí quyết của Mẹ. Mẹ luôn có Chúa trong lòng, từ
lúc cất giữ mọi sự trong lòng để suy niệm cho đến lúc ôm lấy xác Chúa:
từng phút giây của cuộc sống, Mẹ đau khổ nhưng luôn có Chúa trong lòng.
Sự hiện diện của Chúa trong lòng đã giúp Mẹ đi hết cuộc hành trình Ðức
Tin.
Là mẫu mực trong
cuộc hành trình Ðức Tin, Mẹ cũng muốn trao gởi Ðấng Cứu Thế cho mỗi
người chúng ta. Mang lấy Ðức Kitô chịu đóng đinh trong mình, chúng ta sẽ
cảm thấy được sự nâng đỡ trong muôn nghìn thử thách đớn đau trong cuộc
sống.
Mẹ Maria đã đảm bảo
cho chúng ta điều đó. Chúng ta hãy kết hiệp với thập giá của Ðức Kitô.
Trong mọi đau khổ, chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá của Ngài. Chúng
ta hãy thốt lên như thánh Phaolô: "Tôi chỉ biết có mỗi Ðức Kitô chịu
đóng đinh".
16 Tháng Chín
Sống Là
Một Cuộc Chạy Ðua
Vào khoảng cuố tháng
4 năm 1989, một cuộc chạy việt dã gây quỹ cho thế giới đệ tam đã được tổ
chức tại 300 thành phố bên Pháp Quốc. Cuộc chạy bộ này đã cho tổ chức có
tên là chống đói và giúp phát triển thuộc Giáo Hội Pháp đề xướng, và với
sự hỗ trợ của Bộ Thanh Niên và Thể Thao.
Từ năm 1968 đến nay,
hằng năm, tổ chức chống đói và trợ giúp phát triển phát động những chiến
dịch tương tự để gây ý thức nơi giới trẻ về những vấn đề phát triển trên
thế giới, nhất là tại các nước nghèo.
Trong cuộc chạy việt
dã nói trên, các bạn trẻ mang theo trong người những tấm vé số mà họ sẽ
bán cho người lớn. Trung bình, cứ mỗi cây số chạy được, mỗi bạn trẻ bán
một vé số. Mỗi một vé số trị giá gần hai Mỹ kim. Theo dự tính, tổng số
cây số mà các bạn trẻ sẽ chạy được lên đến 120,000 cây số, nghĩa là
tương đương với một vòng thế giới đệ tam.
Số tiền thu được sẽ
trao cho tổ chức chống đói và trợ giúp phát triển để tài trợ cho hai dự
án phát triển tại Colombia: một dự án nhằm tái định cư những nạn nhân
của vụ núi lửa tại Armero cách đây hai năm, và một dự án khác nhằm thiết
lập những vườn trẻ tại thủ đô Bogota.
Nhiều bạn trẻ thuộc
các phong trào Công Giáo tiến hành, các nhóm học giáo lý, các học sinh
tại các trường Công Giáo đã hăng say tham gia vào chiến dịch nói trên.
Trong cuộc sống tại
các nước tân tiến ngày nay, ai cũng thấm thía với câu ngạn ngữ: sống là
một cuộc chạy đua! Buổi sáng, người ta chen lấn nhau để lên xe chạy đến
sở làm; buổi chiều, người ta giành giựt nhau một chỗ trên xe để về nhà
sớm. Hàng tháng, người ta phải chạy đua với sự leo thang của vật giá. Và
dĩ nhiên, những tiện nghi mỗi ngày một mới mẻ cũng khiến cho con người
chạy bở hơi tai.
Cuộc chạy đua nào
cũng đưa lại mệt mỏi. Nhưng mệt mỏi hơn cả đó là cuộc chạy đua trong đó
con người không biết mình sẽ đi về đâu... Ðó là hình ảnh của một cuộc
sống không có mục đích.
Thánh Phaolô đã so
sánh cuộc sống của người Kitô với một cuộc chạy đua. Người Kitô cũng cảm
nghiệm được những nhọc mệt trong lộ trình, nhưng họ luôn kiên trì vì
biết chắc đích điểm và phần thưởng đang chờ đợi họ.
Người Kitô cũng kiên
trì chạy đua, bởi vì họ không chạy lẻ loi trong cuộc sống, nhưng họ biết
rằng bên cạnh họ, còn có những người anh em cùng chung sức với họ... Một
vòng tay, một nụ cười, một cử chỉ thân ái, một hành động tương trợ: bao
nhiêu cử chỉ ấy là bấy nhiêu nâng đỡ cho người Kitô trong cuộc hành
trình của họ và cũng là bấy nhiêu ánh sáng soi dẫn trong cuộc chạy đua
của họ.
17 Tháng Chín
Lời Nói
Không Mất Tiền Mua
Mahatma Gandhi,
người đề xướng chủ trương tranh đấu bất bạo động, đến Phi Châu. Ông vào
dùng bữa trong một quán ăn bình dân. Sau khi dùng bữa, ông trả tiền và
nói với người giúp bàn: "Xin cám ơn vì sự tử tế của anh". Người giúp bàn
trả lời: "Thưa ngài, tôi sẽ không bao giờ quên ngài. Từ 25 năm phục vụ ở
đây, tôi chưa bao giờ nghe được một tiếng cám ơn".
"Lời nói không mất
tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Một tiếng cám ơn, một lời
chào hỏi, nếu được thực thi với tất cả chân tình là một biểu lộ của một
lòng tin sâu sắc. Nói một tiếng cám ơn, biểu lộ một cử chỉ thân thiện
với người khác là muốn nói lên rằng tình liên đới giữa con người là một
điều thiết yếu và ta cần có người chung quanh để sống với. Nói một tiếng
cám ơn với người nào đó là khẳng định giá tị và nhân phẩm của người đó.
Nhưng ở đời, có ai mà không cho ta một món quà hay không dạy ta bất cứ
bài học nào đó.
18 Tháng Chín
Những
Giọt Nước Mắt Của Sám Hối
Người Hồi Giáo
thường nói đến ý nghĩa và giá trị của lòng sám hối qua câu chuyện tưởng
tượng như sau:
Một hôm Allah, Ðấng
Khôn Ngoan, truyền cho một sứ thần xuống trần gian để tìm cho được điều
tốt đẹp nhất và mang về Thiên quốc.
Vị sứ thần đáp ngay
xuống một trận chiến nơi máu của những vị anh hùng đang chảy lai láng.
Vị sứ thần thu nhặt một ít máu và mang về trình cho Ðấng Allah. Nhưng
Ðấng Allah xem ra không hài lòng mấy. Ngài nói: "Máu đổ ra cho tổ quốc
và tôn giáo là một điều quý giá, nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp
nhất dưới trần gian".
Vị sứ thần đành phải
giáng trần một lần nữa. Lần này, ngài gặp ngay một đám tang của một
người giàu có, nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi đằng sau quan
tài, vừa đi vừa khóc lóc, vừa xông hương để biểu lộ lòng biết ơn của họ
đối với vị ân nhân. Vị sứ thần bèn thu nhặt hương thơm ngào ngạt và mang
về trời. Lần này, Ðấng Allah mỉm cười đón lấy mùi thơm ngào ngạt. Nhưng
xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng. Ngài nói: "Dĩ nhiên, lòng biết ơn là một
trong những điều tốt đẹp và hiếm có dưới trần gian. Nhưng ta nghĩ rằng
còn có một cái gì khác tốt đẹp hơn".
Lại một lần nữa, vị
sứ thần đành phải vâng lệnh Allah để trở lại trần gian. Phải mất một
thời gian lâu, sau khi đã đi rảo khắp bốn phương, vị sứ thần mới tìm
được điều mong mỏi. Một buổi chiều nọ, ngồi nghỉ mệt bên vệ đường, ngài
bỗng thấy một người đàn ông bên cạnh khóc sướt mướt. Vị sứ thần được
người đàn ông giải thích như sau: "Tô đã chiều theo cơn cám dỗ để phạm
tội... Giờ đây, nước mắt là cơm bữa hằng ngày của tôi". Vị sứ thần bèn
đưa tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và vội vã bay về trời.
Ðấng Allah nhìn thật lâu vào những giọt nước mắt và mỉm cười nói với vị
sứ thần:
"Thế là người đã
hoàn thành tốt sứ mệnh. Quả thật dưới trần gian, không có gì đẹp và hữu
ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc sống. Tuy
nhiên, người đã thấy đó, trước khi vui mừng, ta đã nhìn thật kỹ xuyên
qua những giọt nước mắt. Một lòng sám hối giả dối không có ích lợi gì
cả. Một sự sám hối thành thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng
người thành mùa xuân của Tình Yêu".
Trong Tin Mừng theo
thánh Luca ở đoạn 15 câu 7, Chúa Giêsu đã nói: "Trên trời sẽ vui mừng
gấp bội khi có một người tội lỗi ăn năn hối cải hơn là 99 người công
chính không ăn năn hối cải".
Vinh quang của Thiên
Chúa, niềm vui của Thiên Chúa chính là con người được sống. Và sự sung
mãn, sự sống đích thực chính là ân sủng, là sự sống của Thiên Chúa trong
tâm hồn con người. Sự sống ấy chỉ có thể đến trong tâm hồn con người,
nếu con người biết mở rộng cửa tâm hồn để đón nhận Thiên Chúa... Những
giọt nước mắt sám hối chính là sức đẩy để mở tung cánh cửa tâm hồn vậy.
19 Tháng Chín
Ôi Lạy
Ðấng Tối Cao
Ðể nói lên tình yêu
vô biên và mầu nhiệm của Thiên Chúa, người Hồi Giáo thường kể câu chuyện
sau đây:
Một hôm, Ðấng Allah
cho gọi một thiên sứ đến và sai xuống trần gian. Ngài truyền lệnh cho vị
thiến sứ như sau: "Ngươi hãy xuống trần gian và đưa về đây người đàn bà
góa có bốn đứa con thơ".
Vị thiên sứ ra đi.
Ngài gặp ngay người đàn bà góa đang cho đứa con nhỏ nhất bú. Ngài hết
nhìn người đàn bà với bốn đứa con dại, lại ngước mắt lên nhìn về Ðấng
Allah như xin rút lại lệnh truyền. Làm sao có thể nhẫn tâm để tách biệt
người mẹ với những đứa con thơ còn lại... Nhưng ánh mắt van xin của vị
sứ thần đã không mảy may đánh động được Ðấng Allah. Cuối cùng, vị sứ
thần đành phải vâng lệnh Ðấng Allah để cướp lấy người đàn bà khỏi đám
con thơ và đưa về trời.
Hoàn thành công tác,
nhưng xem chừng vị sứ thần không thể vui được. Vui thế nào được trước
cảnh chia cách giữa mẹ và con. Thấy vị sứ thần buồn bã, Ðấng Allah mới
cho gọi ngài lại và đưa ngài vào giữa sa mạc. Ðấng Allah chỉ cho vị sứ
thần thấy một tảng đá lớn và bảo ngài hãy đập vỡ nó ra...
Tảng đá vừa vỡ ra,
vị sứ thần ngạc nhiên vô cùng, vì từ trong đó, một con sâu nhỏ từ từ bò
ra... Hiểu được ý nghĩa của cử chỉ ấy, vị sứ thần thốt lên: "Ôi lạy Ðấng
tối cao, màu nhiệm thay công cuộc sáng tạo của Ngài. Với sự không ngoan
thượng trí và tình yêu vô biên, Ngài đã không bỏ mặc một tạo vật nhỏ bé
như con sâu kia, thì hẳn Ngài cũng sẽ không quên được bốn đứa bé mồ côi
là con cái của Ngài".
Ðâu là hình ảnh
chúng ta có về Chúa? Ngài là Thiên Chúa từ nhân, luôn tha thứ, Ngài là
người Cha nhân hậu luôn yêu thương săn sóc cho từng đứa con, hay trái
lại, Ngài chỉ là một ông thần độc ác mà vì sợ hãi chúng ta phải chạy đến
để khỏi bị trừng phạt...?
Trở về với Thiên
Chúa, trước tiên là phải gạt bỏ ra khỏi tâm hồn chúng ta hình ảnh bất
xứng mà chúng ta gán cho Chúa. Hãy phục hồi lại trong tâm hồn chúng ta
hình ảnh của một Thiên Chúa mà Tin Mừng đã mạc khải cho chúng ta: đó là
một người Cha luôn yêu thương và không ngừng tha thứ cho chúng ta, một
người Cha mà tình thương vượt hẳn những tính toán cân lường của trí khôn
loài người chúng ta...
Có những lúc chúng
ta cảm thấy tội lỗi đang đè nặng trong tâm tư ư? Hãy mau mắn chạy đến
với Ngài.
Có những lúc đau
khổ, mất mát che phủ khiến chúng ta nghi ngờ tình yêu của Ngài ư? Hãy
tin tưởng rằng, Ngài đang nhìn thấy và cảm thông với từng nỗi khốn khổ
của chúng ta và tình yêu nhiệm màu của Ngài luôn nhào nặn để biến những
đắng cay chua xót ấy thành ân phúc cho chúng ta.
20 Tháng Chín
Bởi Vì
Tôi Rất Yêu Mến Bà!
Một buổi tối nọ, Mẹ
Têrêxa thành Calcutta tiến lại gần một người mà người ta vừa mang vào
căn nhà dành cho những người hấp hối. Ðó là một lão bà. Mình phủ đầy
những mảnh giẻ rách, nước da đen đầy những vết thương hôi thối. Mẹ
Têrêxa đã chùi rửa các vết thương và chăm sóc để ngừa bị nhiễm trùng.
Nhưng người đàn bà đáng thương này đang hấp hối... có lẽ khó mà qua
khỏi, do đó tốt hơn là nên tìm cách an ủi lần cuối cùng bằng một chén
canh nóng và tràn đầy tình thương yêu.
Người đàn bà đáng
thương ấy sững sờ nhìn và hỏi Mẹ Têrêxa bằng một giọng thều thào:
- "Tại sao bà lại
làm như vậy?"
Mẹ Têrêxa trả lời:
- "Bởi vì tôi rất
yêu mến bà..."
Một tia sáng hạnh
phúc, dù vẫn còn pha chút nghi ngờ, phát xuất từ tận đáy lòng, đã ngời
lên khuôn mặt gầy gò của người đàn bà, nơi dấu ấn của tử thần đã bắt đầu
xuất hiện.
- "Ôi bà hãy nhắc
lại một lần nữa đi!"
- "Tôi rất yêu
mến bà". Mẹ Têrêxa lập lại bằng một giọng điệu rất dịu dàng.
- "Hãy nhắc lại,
hãy nhắc lại đi bà".
Người đàn bà đang
bước vào cõi chết xiết chặt tay Mẹ Têrêxa và kéo về phía bà ta, như muốn
lắng nghe rõ hơn, nghe với niềm hạnh phúc tràn trề những lời lẽ tuyệt
vời nhất trên cõi đời...
Bằng chính tình yêu
của mình, Mẹ Têrêxa đã biết nhìn sự suy sụp của tình người, Mẹ đã biết
khám phá ra cái thực thể thiêng liêng Mầu Nhiệm của những con người
nghèo hèn xấu số nhất. Chúng ta cũng hãy luôn nhìn mọi người bằng chính
cái nhìn yêu thương và tôn trọng của chính Chúa đối với mọi người...
21 Tháng Chín
Vị Thánh
Là Ai?
Ngày kia một em bé
được theo mẹ đi chợ. Từ nhà đến chợ, hai người phải đi qua một thánh
đường nguy nga, to lớn. Em bé ngước mắt nhìn thánh đường, chợt em giơ
tay chỉ cho mẹ và nói: "Mẹ xem kìa, những cửa kiếng màu bị đóng đầy bụi,
xem thật dơ bẩn và không đẹp tí nào".
Bà mẹ không nói
không rằng về nhận xét của con, nhưng tiếp tục nắm lấy tay dẫn em tiến
vào bên trong nhà thờ. Tại đây, những cửa kiếng bên ngoài xem ra dơ bẩn,
xấu xí lại trở nên sáng chói và rực rỡ nhiều màu sắc lộng lẫy.
Em bé ngạc nhiên mở
to đôi mắt nhìn những cửa kiếng màu diễn tả nhiều hình ảnh đẹp mắt. Bỗng
mắt em dừng lại ở cửa kiếng sau bàn thờ diễn tả hình của bốn thánh sử
viết Phúc Âm trong lúc ánh mặt trời đang chiếu rọi qua. Em bé hỏi mẹ đó
là những thánh nào và được mẹ giải thích vắn tắt về từng vị thánh.
Vài ngày sau, trong
một lớp giáo lý, tình cờ giáo lý viên hỏi các em: "Này, trong các em có
ai trả lời được: một vị thánh là ai?" Trước một câu hỏi có vẻ không có ý
nghĩa, cả lớp giáo lý thinh lặng, chỉ có em bé được mẹ dẫn vào bên trong
nhà thờ để nhìn ngắm các cửa kiếng giơ tay xin trả lời. Em nói: "Vị
thánh là một người để cho ánh sáng mặt trời chiếu thấu qua".
Kinh nghiệm và câu
trả lời của em bé trên có lẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn phần nào về cuộc
đời của thánh Matthêu, vị thánh Giáo Hội mừng kính hôm nay, trước và sau
khi được Ðức Giêsu kêu gọi, như được chính thánh nhân vắn tắt thuật lại
như sau: Ði khỏi đấy, Ðức Giêsu thấy một người ngồiở bàn thâu thuế, tên
là Matthêu. Chúa bảo ông rằng: "Hãy theo Ta". Ông Matthêu liền đứng dậy
và đi theo Chúa.
Một tiếng gọi và một
hành động đáp trả được diễn tả vắn gọn trong những dòng trên đây có thể
nói được chỉ là bề mặt của trận chiến nội tâm diễn ra từ lâu nơi ông
Matthêu. Một trận chiến giằng co để suy tính thiệt hơn, để cân nhắc cái
lợi và cái bất lợi, để đắn đo nhưng cái mình phải mất với những cái mình
sẽ đạt được, khi ông bỏ mọi sự để theo Chúa:
- Ông phải mất một
nghề hái ra bạc nhưng tìm được một số mệnh và sứ mệnh thật sự có giá trị
vĩnh viễn.
- Ông phải mất một
gia tài to lớn nhưng tìm lại được danh dự.
- Ông phải mất sự
bảo đảm xây dựng trên của cải vật chất để đi theo Ðức Giêsu trong một
cuộc hành trình dẫn đến sự sống mà trước đó ông chưa bao giờ mơ ước.
Về phần Ðức Giêsu,
khi chọn lựa và kêu gọi ông Matthêu, một người hành nghề thâu thuế, bị
các người đồng hương thời đó coi như là người phản quốc, nối giáo cho
giặc, bóc lột đồng bào để làm lợi cho dân ngoại xâm, cũng như bị lên án
là kẻ tội lỗi, biển thủ, gian lận và bị nhóm biệt phái kết án là kẻ tội
lỗi, Ðức Giêsu không nhìn những lỗi lầm, những vết nhơ bên ngoài, nhưng
Ngài nhìn sâu thẳm tận tâm hồn, nhìn tận bên trong và nhất là Ngài đã
lấy ánh sáng của tình yêu thương, lòng nhân hậu, quảng đại và tha thứ
của Thiên Chúa để chiếu sáng và chiếu thấu, biến ông Matthêu từ một
người thâu thuế thành một tông đồ và một thánh sử viết Phúc Âm.
22 Tháng Chín
Người
Lính Mù
Tại nhà ga Verona,
bên Italia năm 1945, dân chúng đang chờ đợi các binh sĩ trở về từ các
trại tập trung của Ðức Quốc Xã. Sự xuất hiện của chuyến xe lửa đã khơi
dậy những tiếng reo vui tưởng chừng như không bao giờ dứt.
Từ trên xe lửa những
tấm thân tiều tụy bắt đầu bước xuống sân ga giữa tiếng cười pha lẫn
tiếng khóc của người thân. Cuối cùng, một người lính trẻ mò mẫm bước đi
từng bước. Anh từ từ tiến về một người đàn bà già yếu và chỉ đủ sức để
thốt lên tiếng "Mẹ". Hai mẹ con ôm chầm lấy nhau... Người mẹ già xót xa:
"Làm sao một người mù như con lại có thể tìm đến với mẹ?" Người lính mù
ấy đáp: "Thưa mẹ, con không nhìn thấy mẹ bằng đôi mắt, nhưng trái tim
con đã hướng dẫn con".
Người ta không chỉ
thấy bằng đôi mắt, nhưng còn bằng chính tâm hồn của mình. Người ta không
chỉ hiểu biết bằng lý trí, nhưng còn bằng cả con tim của mình nữa.
Chúng ta không những
hiểu được thế giới và con người bằng trí khôn của mình, nhưng còn bằng
chính Ðức Tin nữa. Với ánh sáng Ðức Tin, chúng ta đi vào mầu nhiệm của
sự vật bằng chính sự hiểu biết của Thiên Chúa. Hãy để cho ánh sáng của
Thiên Chúa hướng dẫn chúng ta. Hãy nhìn vào con người và thế giới bằng
chính cái nhìn của Thiên Chúa.
23 Tháng Chín
Cậu Bé
Ðau Liệt Trong Bức Tranh
Một trong những bức
tranh bất hủ của danh họa Rafaello, người Italia, hiện đang được cất giữ
trong bảo tàng viện Vatican: đó là bức họa Chúa Giêsu biến hình trên núi
Tabôrê.
Trong bức tranh,
người ta thấy có ba tầng. Ở tầng cao nhất của bức tranh là khuôn mặt và
toàn thân Chúa Giêsu trong cảnh chiếu sáng rực rỡ giữa các tầng mây. Ở�
tầng dưới của bức tranh và kề sát với Chúa Giêsu là ba vị tông đồ Phêrô,
Giacôbê và Gioan trong tình trạng ngây ngất trước sự biến dạng rực rỡ
của Chúa Giêsu. Và ở tầng thấp nhất của bức tranh, người ta thấy một
nhóm môn đệ và một gia đình đang quây quanh một em bé đang đau liệt: tất
cả đều chìm ngập trong một khung cảnh ảm đạm, mờ ảo.
Có lẽ danh họa
Rafaello đã cố gắng giải thích cho chúng ta về sứ điệp của bài Tin Mừng
tường thuật cuộc biến hình của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chính là niềm hy
vọng và là Ðấng cứu chữa con người. Ðứa bé đau liệt trong bức tranh là
chính mỗi người trong chúng ta, là toàn thể nhân loại đang chịu đựng vì
không biết bao nhiêu bệnh tật trong thân xác lẫn tâm hồn. Trong đám môn
đệ đang quây quanh cậu bé đau liệt, Rafaello đã làm nổi bật hai cử chỉ:
cử chỉ của một người môn đệ đang trỏ tay chỉ về cậu bé và cử chỉ của một
người môn đệ khác đang chỉ tay về Chúa Giêsu...
Phải chăng Rafaello
đã không muốn đánh thức ba vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan đang say
sưa chiêm ngưỡng Thánh nhan rực rỡ của Chúa Giêsu mà quên đi cảnh nhân
loại đang quằn quại trong đau thương khốn khổ?
Trong đời sống đạo,
chúng ta dễ rơi vào hai thái cực: hoặc chỉ chăm chú cầu nguyện mà không
đếm xỉa gì đến lòng bác ái đối với tha nhân, hoặc ngược lại, xem hành
động bác ái là một lời cầu nguyện mà không màng đến đời sống nội tâm.
Nơi Chúa Giêsu, cầu
nguyện đưa đến hoạt động và hoạt động dẫn đến cầu nguyện. Mỗi một gặp gỡ
của Ngài với tha nhân cũng là một lời cầu nguyện và mỗi một lời cầu
nguyện của Ngài cũng ôm trọn lấy tất cả những ai mà Ngài đã hoặc sẽ gặp
gỡ.
Chúng ta hãy chiêm
ngắm mẫu gương của Chúa Giêsu... Cả cuộc đời của chúng ta phải là một
lời nguyện dâng lên Thiên Chúa, chứ không chỉ có những lời kinh mà chúng
ta đọc ngoài môi mép.
Người ta không lên
xe để ở mãi trên đó... Một môn sinh không đến thụ giáo để ở mãi bên cạnh
thầy mình... Cũng thế, chúng ta không leo lên núi cao để ở lại mãi trên
đó. Sau cơn ngây ngất của ba vị tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan trên núi
Tacôbê, Chúa Giêsu đã kêu gọi các ngài hãy trở lại với thực tế: đó là
thực tế của những cuộc gặp gỡ, đương đầu và cuối cùng là cái chết.
Từ đỉnh cao của sự cầu nguyện, từ bốn bức tường của nhà thờ, từ cung
thánh của những giây phút ngất ngây trong sự kết hiệp, chúng ta hãy quay
lại với cuộc sống, nơi đó có những nghĩa vụ để thi hành, nơi đó có những
con người để gặp gỡ và yêu thương.
24 Tháng Chín
Hãy
Có Ánh Sáng
Năm 1963, trên màn
ảnh truyền hình, dân chúng Hoa Kỳ đang hồi hộp theo dõi hai phi hành gia
Armstrong và Aldrin đặt chân xuống mặt trăng, thì tại Houston thuộc tiểu
bang Texas, một cậu thanh niên tên là Thomas Franklin Caraway bị đưa lên
ghế điện vì tội cướp của, giết người... Cậu vừa lên 18 tuổi.
Trước đó, trong thời
gian chờ đợi bị xử tử, cậu đã đọc và nghiền ngẫm quyển kinh thánh mà một
người nào đó đã tặng cậu. Khi một ký giả hỏi cậu thích đoạn nào nhất,
cậu giở lại trang đầu quyển kinh thánh và đọc đoạn: "Hãy có ánh sáng và
tức thì ánh sáng đã có". Cậu lặp đi lặp lại: "Và đã có ánh sáng. Ngày
càng trôi qua, tôi càng nghĩ đến điều đó. Tất cả ý nghĩa của cuộc sống
nằm ở đó: ánh sáng đã che chở chúng ta khỏi những đêm dài tăm tối".
Giữa bốn bức tường
đen tối của nhà tù, Tình Yêu của Thiên Chúa đã đánh động được Thomas.
Không có sự dữ nào mà Thiên Chúa không thể biến thành sự thiện... Thiên
Chúa quyền năng không bao giờ mong muốn và tạo nên sự dữ cho con người,
nhưng Tình Yêu của Người mãnh liệt đến nỗi có thể biến sự dữ thành một
cơ may phúc lộc cho con người.
25 Tháng Chín
"Con
Người Bất Hạnh Nhất Trần Gian"
Cuộc đời của nhạc sĩ
Beethoven, ngay cả khi đạt đến đỉnh cao của danh vọng, cũng không phải
là một cuộc đời hạnh phúc. Tất cả những người viết tiểu sử của nhạc sĩ
đều ghi nhận rằng ông đã qua một thời tuổi thơ khốn khổ. Cha ông đã xem
kỳ tài âm nhạc của ông như một cơ hội để làm tiền. Thần đồng âm nhạc đã
phải ngồi vào đàn Piano từ sáng tới chiều, đến độ ông đâm chán cả âm
nhạc. Chỉ có mẹ ông mới là nguồn an ủi duy nhất của ông trong lúc tuổi
thơ, nhưng bà đã mất năm ông mới 17 tuổi.
Năm 28 tuổi,
Beethoven bắt đầu bị điếc. Ông cảm thấy thất vọng hoàn toàn. Và tai họa
đã tiếp diễn cho đến cuối đời ông.
Tuy nhiên, con người
"bất hạnh nhất trần gian ấy" như ông thường nói về mình đã sáng tác
những dòng nhạc bất hủ nhất ở cuối thế kỷ thứ 18 và đầu thế kỷ thứ 19.
Kho tàng ẩn dấu
trong ta chỉ có thể được khám phá và đem ra thi thố với thế giới nếu ta
biết chiến đấu. Ðiều đó đòi hỏi những năm tháng dài, tuy nhiên, trở ngại
cuối cùng mà ta có thể vượt qua sẽ làm ló rạng kho tàng ẩn dấu trong ta.
Thánh Basiliô đã nói: vĩ nhân không phải là người chỉ đọ sức với những
điều cả thể, nhưng chính là biết làm cho những việc tầm thường trở thành
cao cả bằng chính sức mạnh của mình.
26 Tháng Chín
Xin Ðược
Ðánh Giày
Một linh mục thuộc
giáo phận New York bên Hoa Kỳ chuyên lo mục vụ cho các tù nhân đã kể lại
kinh nghiệm như sau:
Một hôm, người được
mời đến thăm một thanh niên da đen sắp sửa bị đưa lên ghế điện vì đã
giết người bạn gái của mình. Như thường lệ, mỗi khi gặp một tử tội sắp
bị hành quyết, vị linh mục thường khuyên nhủ, giải tội và trao ban Mình
Thánh Chúa.
Sau khi đã nhận lãnh
các bí tích cuối cùng, người thanh niên da đen bỗng trầm ngâm suy nghĩ
như muốn nói một điều gì rất quan trọng. Cuối cùng, với tất cả cố gắng
của một người biết mình sắp sửa lìa cõi đời này, anh ta mới thốt lên với
tất cả chân thành:
"Thưa cha, con đã
làm hư hỏng cả cuộc đời. Con chưa hề học được một điều gì hữu ích ngoài
một điều duy nhất: đó là đánh giày.. Xin cha cho con được phép đánh bóng
đôi giày của cha. Như thế, con hài lòng vì nhận được sự tha thứ của
Chúa, bởi vì con không biết làm gì để tạ ơn Chúa trước khi con gặp lại
người bạn gái của con trên Thiên Ðàng".
Và không đợi cho vị
linh mục trả lời, người thanh niên đã cúi gập người xuống và bắt đầu
đánh bóng đôi giày của vị linh mục... Cử chỉ ấy khiến cho vị linh mục
nhớ lại hình ảnh của người đàn bà đã quỳ gối bên chân Chúa Giêsu, đổ dầu
trên đầu, trên chân của Ngài và dùng tóc của bà để lau chân Ngài. "Tội
của con dù có nhiều đến đâu cũng được tha thứ, bởi vì con đã yêu nhiều".
Theo quan niệm công
bình và thưởng phạt của chúng ta, kẻ có tội ắt phải đền tội. Tòa án của
loài người thường cân lường tội trạng của người có tội để tìm ra một
hình phạt cân xứng.
Chúng ta không thể
áp dụng một thứ cán cân như thế vào trong mối tương quan giữa tội lỗi
của chúng ta với sự công thẳng của Thiên Chúa. Nơi Thiên Chúa chỉ có một
trái cân duy nhất: đó là lòng nhân từ. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và
muốn phủ lấp tất cả tội lỗi của chúng ta bằng lòng nhân từ vô biên của
Ngài.
Do đó, khi nói đến
ăn chay đền tội, chúng ta không thể cân lường tội lỗi của chúng ta để
rồi tìm ra một lượng đền tội cho cân xứng. Có hy sinh nào tương xứng
được với tội trạng của chúng ta? Có án phạt nào cân xứng với sự xúc phạm
của chúng ta?
Thiên Chúa không chờ
đợi nơi chúng ta điều gì khác hơn bằng chính Tình Yêu của chúng ta. Với
tình yêu, thì dù một cử chỉ nhỏ mọn cũng trở thành một lễ dâng đẹp lòng
Chúa. Những gì chúng ta dâng lên Chúa, không phải là của cải chúng ta
có, những bố thí chúng ta làm cho người khác, những khổ chế chúng ta tự
áp đặt cho bản thân... mà chính là lòng yêu mến của chúng ta.
27 Tháng Chín
Tuyên Úy
Của Tù Nhân
Hôm nay là ngày kính
nhớ thánh Vinh Sơn đệ Phaolô. Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 17, linh mục
Vinh Sơn được cử đi làm tuyên úy cho các tù khổ sai bị trói vào những
cột chèo lớn trên các thuyền buồm của đế quốc Pháp. Với bản chất nóng
nảy, hiếu thắng, cục mịch... cộng với những phản ứng thô lỗ mà có lẽ vị
linh mục tuyên úy đã bị tiêm nhiễm trong suốt thời kỳ ở với tù nhân, cha
Vinh Sơn đã được một nữ bá tước ra mời làm trưởng nhóm của một số linh
mục đang phục vụ như những thừa sai giữa giới nghèo trong khắp nước
Pháp... Cha Vinh Sơn đã chấp thuận lời đề nghị.
Một khúc quanh lịch
sử không những bắt đầu với cha mà còn cho cả Giáo Hội nữa: các linh mục
dòng thánh Vinh Sơn đệ Phaolô mà chúng ta thường gọi là các cha
Lazaristes đã ra đời từ đó. Ngoài ba nhân đức thông thường ma các tu sĩ
phải khấn giữ, họ còn cam kết phục vụ hoàn toàn cho giới nghèo.
Thời gian sau, với
sự cộng tác của chị Louise de Marillac, cha Vinh Sơn đã thiết lập dòng
Nữ Tử Bác Ái cũng đeo đuổi cùng một mục đích: đó là phục vụ người
nghèo... Cha Vinh Sơn đã định nghĩa dòng nữ này như sau: nhà dòng của họ
là nhà thương, nhà nguyện của họ là nhà thờ giáo xứ, khu nội cấm của họ
là các ngả đường phố xá.
Chúc thư và cũng là
tinh thần của thánh Vinh Sơn đệ Phaolô được chứa đựng trong các lá thư
của ngài. Chúng ta hãy đọc qua một đoạn sau đây: "Hãy cố gắng bằng lòng
ngay giữa những điều làm cho chúng ta bất mãn. Hãy giải thoát tâm trí
con khỏi những điều đang làm con giao động. Chúa sẽ lo liệu cho mọi
sự... Cha van xin con, hãy tín thác nơi Chúa. Con sẽ có mọi sự tâm hồn
con khao khát".
Chúa Giêsu đã bắt
đầu bằng con số không: Ngài nghèo đến nỗi không có nơi gối đầu. Thế
nhưng ngày nay, khi nhìn vào Giáo Hội, người ta nghĩ ngay đến quốc gia
Vatican, với một bảo tàng viện phong phú nhất, với những vương cung
thánh đường lộng lẫy, với những cuộc biểu dương rầm rộ. Người ta cũng có
thể nhìn vào các tòa giám mục đồ sộ.
Các vị sáng lập dòng
cũng thường bắt đầu với con số không. Nhưng ngày nay, có ai chối cãi
được rằng những cơ sở lớn mà người ta thường thấy trong các đô thị lại
thuộc về các hội dòng.
Giáo Hội và cách
riêng các hội dòng có phục vụ người nghèo và có thuộc về người nghèo
không?... Có lẽ, nhiều hội dòng mà mục đích nguyên thủy là phục vụ người
nghèo và sống nghèo, cần phải đấm ngực tự thú rằng mình đã quá đi xa
tinh thần của Ðấng sáng lập... Sống nghèo trước hết đó là sống tín thác
vào Chúa quan phòng. Có thể nói đó là nhân đức trỗi vượt và cũng là mẫu
số chung của các vị thánh: phó thác hoàn toàn vào Tình Yêu của Chúa.
Chúa kêu mời chúng
ta chớ có lo lắng thái quá về ngày mai. Càng lo lắng, con người càng
nuôi dưỡng sự tham lam và càng thiếu lòng tin tưởng vào Chúa. Lòng tin
của chúng ta được đo lường bằng chính sự phó thác vào Chúa.
28 Tháng Chín
Con Vật
Ðầu Ðàn
Một khách lữ hành đi
về những vùng núi xứ Tô Cách Lan, một hôm dừng chân lại bên cạnh một đàn
cừu. Bỗng ông ta chú ý đến một con cừu đang được người mục tử chăm sóc
một cách đặc biệt. Con vật nằm dài trên mặt đất. Chủ nó vừa vuốt ve vừa
nói chuyện với nó một cách dịu dàng, trong lúc tay vẫn không ngừng băng
bó một chân của nó. Người khách bộ hành lại gần và hỏi xem cho biết việc
gì. Thoạt tiên, người chăn chiên tỏ vẻ khó chịu vì phải trả lời. Nhưng
sau đó vẻ thân mật của người bộ hành đã làm cho anh vững lòng, vì thế
anh ta không ngần ngại giải thích:
"Con cừu này có
những đức tính tuyệt hảo của một người hướng đạo. Khi còn lành mạnh, nó
luôn dẫn đầu đàn cừu, biết cách làm cho những con vật khác vâng lời nó
và theo nó. Khổ thay vì quá tự tin nên nó không theo lệnh của tôi và dẫn
đàn cừu theo sở thích riêng của nó. Tôi đã tìm đủ mọi cách để thay vào
chỗ của nó một con đầu đàn khác nhưng vô hiệu, vì hễ con nào có vẻ như
muốn thay nó đều bị nó đánh và xua đuổi. Tình trạng của đàn cừu do đó
trở nên nguy ngập. Tôi buộc lòng phải áp dụng một phương pháp khá đau
đớn".
Nói đến đây người
chăn chiên ngừng lại như bị cảm xúc mạnh. Anh giải thích tiếp như sau:
"Tôi đành phải bẻ gãy chân nó. Kể từ lúc đó, con vật bị thương nên hoàn
toàn tùy thuộc vào tôi. Mỗi buổi sáng, tôi vác nó lên vai ra đồng cỏ. Và
buổi chiều về tôi lại vác nó trên vai đem về. Nó không thể tự mình đi ăn
cỏ được. Vì thế, từ một tháng nay, nó ăn giữa lòng bàn tay của tôi.
Những săn sóc liên tục của tôi đã tạo nên giữa tôi và nó một sự liên hệ
vô cùng mật thiết. Bây giờ có lẽ nó hiểu rằng sau khi đã làm cho nó bị
thương, tôi đã tìm đủ mọi cách để làm giảm bớt sự đau đớn của nó. Về
phần tôi, tôi cũng biết rằng sẽ không tìm được trong tất cả đàn cừu một
con cừu biết vâng lời tôi hơn nó. Trong vài ngày nữa, khi nó khỏe mạnh,
tôi sẽ phục hồi nó lại trong địa vị cũ của nó".
Hình ảnh trên đây
gợi lại phần nào Tình Yêu của Thiên Chúa đối với từng người trong chúng
ta. Cựu ước đã không ngần ngại so sánh Thiên Chúa với một người mục tử.
Người mục tử săn sóc từng con chiên, người mục tử uốn nắn từng con
chiên, người mục tử sửa trị từng con chiên... Nhưng tất cả chỉ vì sự yêu
thương đàn chiên của mình.
Thiên Chúa có thực
sự yêu thương chúng ta không? Ðó là câu hỏi mà chúng ta có quyền đặt ra
trong những mò mẫm tìm kiếm hạnh phúc của chúng ta. Cuộc sống xem chừng
như không diễn ra một cách xuôi chảy cho từng người. Chúng ta không bao
giờ được thỏa mãn hoàn toàn. Ðau khổ, thất bại như những bóng mờ lúc nào
cũng chực sẵn để ập phủ trên chúng ta... Chiến tranh, chết chóc, bệnh
tật, tai ương đã trở thành như tất yếu đối với chúng ta. Một Thiên Chúa
nhân từ, một Thiên Chúa quan phòng, một Thiên Chúa quyền năng lẽ nào lại
để cho đau khổ đè bẹp con người?... Bí ẩn của đau khổ luôn gợi lên trong
chúng ta những thắc mắc về Tình Yêu của Thiên Chúa.
Người Kitô chúng ta
chỉ có thể tìm thấy câu trả lời trong Mầu Nhiệm Thập Giá của Ðức Kitô.
Thánh Gioan đã viết: Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một
của Ngài. Và Người Con Một đó đã yêu đến nỗi đã tự phó nộp mình và chết
trên thập giá.
Tình Yêu của Thiên
Chúa gắn liền với Thập Giá của Ðức Kitô. Ðau khổ đã trở thành ánh sáng
chiếu rọi vào Tình Yêu của Thiên Chúa đối với con người. Nói như thế
không có nghĩa là Thiên Chúa muốn con người phải chịu đau khổ, Thiên
Chúa cũng không tạo ra đau khổ để sửa trị con người. Nhưng qua đau khổ,
Thiên Chúa như muốn hé mở cho con người thấy Ngài là Ðá Tảng, là nơi
nương tựa duy nhất của con người.
29 Tháng Chín
Người Ăn
Cắp Cừu
Tại một miền quê bên
Mỹ, vào thời kỳ lập quốc. Có hai anh em nhà kia bị bắt quả tang đang ăn
cắp cừu. Dân trong làng đã mở tòa án nhân dân để trừng phạt.
Sau khi nghị án, mọi
người đã đồng thanh cho khắc trên trán của tội nhân hai chữ viết tắt S.T
có nghĩa là "Người ăn cắp cừu".
Một trong hai người
ăn trộm không chịu nổi sự sỉ nhục đã trốn sang một vùng đất khác để chôn
chặt dĩ vãng của mình. Nhưng anh không thể xóa nhòa được hai chữ viết
tắt trên trán của mình. Bất cứ một người lạ mặt nào cũng đều tra hỏi anh
về ý nghĩa của hai chữ ấy. Lại một lần nữa, không chịu nổi sự nhục nhã,
anh đã rời bỏ nơi cư ngụ mới để tiếp tục lang thang và cuối cùng mòn mỏi
trong cay đắng, anh đã bỏ mình nơi đất khách quê người.
Nếu người anh của
mình đã bị sự nhục nhã gặm nhấm đến độ phải trốn suốt cả đời mình, thì
người em lại tự nói với mình: "Tôi không thể bỏ trốn chỉ vì ăn cắp mấy
con cừu. Tôi phải ở lại đây và tôi phải tạo lại sự tin cẩn nơi những
người xung quanh và nơi chính tôi".
Với quyết tâm đó,
anh đã trở lại trong xứ của mình. Và không mấy chốc, anh đã xây dựng cho
mình một sự nghiệp cũng như danh thơm của một người thanh liêm chính
trực.
Nhưng cho dù năm
tháng có qua đi, hai chữ S.T vẫn còn ghi đậm trên vầng trán của anh...
Ngày kia, có một người lạ mặt hỏi một cụ già trong làng về ý nghĩa của
hai chữ viết tắt ấy. Cụ già suy nghĩ một hồi rồi trả lời: "Tôi không nhớ
rõ lai lịch của hai chữ viết tắt ấy, nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của
người đó, tôi nghĩ rằng hai chữ viết ấy có nghĩa là Thánh thiện".
Một thi sĩ người Ấn
Ðộ đã gửi tặng cho Ðài Phát Thanh Chân Lý những vần thơ sau đây:
·
"Hãy
tin nơi bạn, vì bạn là hình ảnh của Thiên Chúa.
·
Hãy
tin ở công việc của bạn vì một công việc chính trực là một lời cầu
nguyện.
·
Hãy
tin ở ngày hôm nay vì mỗi phút chứa đựng một dịp may để phụng sự Chúa.
·
Hãy
tin ở những người xung quanh của bạn vì bạn hữu là điều quan trọng cho
một cuộc sống hạnh phúc.
·
Hãy
tin ở hiện tại vì hôm qua đã qua đi và ngày mai sẽ không bao giờ đến.
·
Hãy
tin ở lòng thương của Chúa vì Ngài tha thứ cho bạn. Và bạn hãy tha thứ
cho chính mình".
Thiên Chúa không bao
giờ thất vọng về chúng ta và Ngài mời gọi chính chúng ta cũng đừng thất
vọng về chính mình. Mỗi một may mắn là một dịp để chúng ta dâng lời cảm
tạ và chúc tụng Chúa. Mỗi một thất bại va đau khổ là khởi đầu của một
nguồn ơn dồi dào hơn. Mỗi một vấp phạm là bàn đạp để chúng ta vươn cao
hơn. Bởi vì trong tất cả mọi sự, Thiên Chúa luôn yêu thương chúng ta.
30 Tháng Chín
Tình
Thương Ðáp Trả Hận Thù
Bà Coretta King, vợ
của cố mục sư Martin Luther King, đã ghi lại trong quyển hồi ký của bà
như sau:
Martin ra
trước cửa nhà. Một cách nào đó, đây là giờ phút quan trọng nhất của cuộc
đời của anh.
Trước đó
vài hôm, một quả bom đã được quăng vào nhà. Vợ và con anh suýt bị sát hại.
Ðây là thử thách đầu tiên nặng nề nhất mà anh phải chịu đựng. Ðồng thời
nó cũng là trắc nghiệm để xem anh có thể sống nguyên tắc Kitô và thuyết
bạo động mà anh hằng rao giảng không. Anh xuất hiện một cách bình thản
trước đám đông người da đen đang sôi sục hận thù.
Khi anh vừa
giơ tay lên làm hiệu thì mọi tiếng động bỗng như dừng lại. Anh đã chiếm
lĩnh được tâm hồn mọi người, từ những người đứng tuổi đến các bạn trẻ bốc
đồng nhất, từ các cảnh sát viên cho đến những người sợ hãi đang đứng nép
bên các bậc thang trước cổng nhà.
Với một giọng
nói bình tĩnh, nhẹ nhàng, anh khuyên nhủ mọi người như sau:
"Vợ tôi và
con gái tôi vẫn bình an. Tôi xin anh em hãy trở về nhà và hãy buông khí
giới. Chúng ta không thể giải quyết vấn đề bằng bạo động. Chúng ta phải
yêu thương những người da trắng anh em của chúng ta, dù họ có làm gì cho
chúng ta đi nữa. Chúng ta phải làm cho họ hiểu rằng chúng ta yêu thương
họ thật sự. Chúng ta phải sống như thế đó: nghĩa là lấy tình thương đáp
trả hận thù".
Lời kêu
gọi trên đây của mục sư Luther King và cái chết của ông là một bản sao
trung thành nhất của Tin Mừng: đó là Tin Mừng của Ðấng yêu thương và yêu
thương cho đến chết trên thập giá...
Vào tù ra
khám, bị đòn vọt, trải qua trăm nghìn gian lao khốn khổ do những người
không tiếp nhận Tin Mừng gây ra, thánh Phaolô vẫn có thể khuyên nhủ các
tín hữu Roma như sau:
"Hãy chúc
lành cho kẻ bắt bớ, chúc lành chứ đừng chúc dữ. Hãy vui với kẻvui, hãy
khóc với kẻ khóc. Cùng nhau tâm đầu ý hợp. Ðừng qúa cao vọng về mình.
Trái lại, hãy biết bỏ mình, chuộng phần yếu kém... Ðừng lấy ác báo ác:
điều thiện trước mắt mọi người, hãy cố quan tâm. Hãy sống an hòa với mọi
người... Anh em thân mến, hãy sống an hòa với hết thảy mọi người. Ðừng
báo oán. Chớ để sự dữ thắng được ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ".
Ước gì
những lời khuyên nhủ trên đây trở thành khuôn vàng thước ngọc trong mọi
giao tiếp và gặp gỡ của chúng ta với mọi người.
|