|

T́m hiểu “ Thuyết Tương Đối “ (
Relativism )
trong xă hội đương đại.
Đây là thuyết mới trong lănh vực tôn giáo,
không phải Thuyết Tương Đối của Einstein trong lănh vực khoa học. Thuyết
này đang là mối nguy cơ cho đức tin Công giáo , khiến cho nhiều người
mất niềm tin. Đức Thánh Cha Biển Đức 16 đă nhiều lần nhắc nhở cho Giáo
Hội về nguy cơ này. Thuyết Tương Đối phủ nhận chân lư tuyệt đối , cho
rằng tất cả là tương đối. Từ đó người ta cho rằng đạo nào cũng tốt, có
thể theo nhiều tôn giáo một lúc cũng chẳng sao. Luân lư không c̣n tiêu
chuẩn để định hướng lương tâm, v́ vậy người ta muốn làm ǵ th́ làm,
không c̣n ư thức sự phạm tội nữa.
Để t́m hiểu về lư thuyết này, chúng ta
dựa trên bài diễn văn của Đức Thánh Cha Biển Đức 16 đọc tại buổi họp các
Chủ tịch các Ủy Ban Tín Lư của Hội Đồng Giám Mục Châu Mỹ Latinh , họp
tại Guadalajara, Mexico, năm 1996 , khi ngài c̣n là Hồng Y Ratzinger ,
Tổng Trưởng Thánh Bộ Giáo Lư - Đức Tin của Ṭa Thánh Vatican.
Bởi v́ các anh chị Tông Đồ Fatima chúng
ta không phải là những người có hiểu biết nhiều về thần học, nên chúng
ta không đi sâu vào các chi tiết chuyên môn, mà chỉ t́m hiểu sơ qua cho
biết về những nét chính trong lư thuyết nguy hiểm này mà thôi.
*XXX*
I.- Thuyết Tương Đối trong khoa học.
Trong khoa học thực nghiệm người ta kết
hợp khoa tóan học trừu tượng với vật lư học cụ thể để h́nh thành những
lư thuyết về thế giới vật chất. Những lư thuyết này có thể có những ứng
dụng hữu ích cho đời sống con người mà cũng có thể đưa đến những ứng
dụng tàn phá nguy hiểm cho nhân lọai . Chẳng hạn thế kỷ thứ 5 trước công
nguyên, Archimede của Hy lạp đă khám phá ra sức đẩy của nước và được ứng
dụng vào việc chế tạo thuyền bè. Vào thế kỷ 17, Isaac Newton ( 1642-1727
) đă t́m ra thuyết Sức hấp dẫn của vạn vật để tính được những chuyển
động của các thiên thể trong vũ trụ ; sự tổng hợp các mầu sắc trong ánh
sáng trắng , anh sáng gồm những phân tử , thuyết lượng tử… Newton đă
giải thích rơ về sức hấp dẫn của trái đất khiến các vật thể đều rơi
xuống. Những tính tóan của Newton đă được ứng dụng vào ngành khoa học
không gian, phóng vệ tinh, thám hiểm mặt trăng…
Albert Einstein ( 1879- 1955 ) gốc Do
thái, sinh tại Đức, sang Thụy sĩ học trung học, mang quốc tịch Thụy sĩ,
đưa ra thuyết Tương Đối vào năm 1905 , giải thích hiệu quả của điện
quang ( photoelectric effet ) và nghiên cứu về chuyển đông của nguyên tử.
Năm 1914 trở thành công dân Đức, đọat giải Nobel về vật lư năm 1921.
Thời Đức quốc xă, Einstein trốn khỏi nước Đức, trở thành công dân Hoa kỳ
năm 1940. Năm 1939, Einstein dưới sức ép của một số khoa học gia đă viết
thư cho tổng thống Roosevelt của Hoa kỳ đề nghị chế tạo bom nguyên tử.
Ông cũng nghiên cứu về thuyết lương tử. Thuyết Tương Đối của Einstein
nói về thời gian, theo đó thời gian tùy thuộc vào chuyển động, có nghĩa
thời gian chỉ là tương đối. Nếu một đồng hồ đặt trong một con tầu chạy
nhanh bằng tốc độ ánh sáng th́ đồng hồ đó sẽ đứng yên. ( Các đồng hồ
trong các tiệc cưới của người Việt Nam sống tại Hoa Kỳ thường chạy rất
chậm, chậm hơn ít là 3 tiếng. Giấy mời nói khai mạc lúc 5 giờ chiều
nhưng phải đến 8 giờ mới bắt đầu ). Công thức nổi tiếng của Einstein :
E = mC 2 ( b́nh phương ) . E là năng
lương, m là khối lương vật chất, C là vận tốc ánh sáng ( 300.000km/s)
Con số b́nh phương của vận tốc ánh sáng thật là khủng khiếp. Một vật
chuyển động càng nhanh th́ động năng cung cấp cho nó càng lớn. Động năng
cung cấp cho vật thể đă tích tụ dưới dạng khối lượng , như vậy năng
lượng là khối lượng, và khi khối lượng phân tán sẽ cho trở lại năng
lượng. Lư thuyết này đúng v́ trái bom nguyên tử của Mỹ ( khi đó c̣n là
lọai tư hon ) thả ở Hiroshima và Nagasaki, Nhật bản, tháng 8 năm 1945,
đă giết chết 230.000 người tại mỗi thành phố trong nháy mắt , cả thành
phố biến thành tro bụi. Đó là năng lương phát ra khi phá hủy nguyên tử
của chất uranium.
II.- Thuyết Tương Đối trong tôn giáo ngày
nay.
Giáo Hội do Chúa Kitô thiết lập, trải qua
2000 năm, đă nhiều phen phải đương đầu với những “ bè rối “, tức là
những nhóm người theo một lư thuyết nào đó tách rời khỏi Giáo Hội, kêu
gọi một số người khác theo ḿnh để chống lại Giáo quyền. Trong thế giới
đương đại, những thế lực đi sai đường lối Giáo hội hay đứng ng̣ai Giáo
hội có chủ trương chống phá Giáo Hội có thể kể ra thuyết Mac xít và Thần
học Giải phóng. Thuyết Mác xít chống lại tôn giáo nói chung và chống lại
văn minh Kitô giáo, văn minh Âu châu. Thuyết Mác xít h́nh thành đảng
Cộng Sản, chiếm được chính quyền Nga, tạo ra đế quốc Đông Âu và một số
chư hầu khác, có âm mưu thôn tính ṭan thế giới. Trong thập niên 80 của
thế kỷ trước, tại châu Mỹ la tinh đă nổi lên thuyết Thần Học Giải Phóng
, một lư thuyết dựa trên chủ thuyết Mac xít, dùng danh từ Giải Phóng
thay cho danh từ Cứu Độ trong truyền thống của Giáo Hội Công Giáo. Lư
thuyết này cho rằng chúng ta đang sống trong một thế giới mà con người
không c̣n sống trong sự tốt lành của Thiên Chúa. Nghèo đói, áp bức, bất
công, những người tốt lành, vô tội phải chịu đau khổ. Do đó Thần Học
Giải Phóng cho rằng không thể để ḥan cảnh này tiếp diễn, phải thay đổi
các cơ cấu chính trị của thế giới này, một cơ cấu do tội lỗi và sự dữ mà
ra. Nếu tội lỗi c̣n đầy trong các cơ cấu chính trị, từ đó chúng âm mưu
gây nên sự nghèo đói th́ phải lật đổ chúng bằng những cuộc đấu tranh
chính trị, việc ăn năn cá nhận không đủ. Như vậy việc cứu độ trở thành
một tiến tŕnh chính trị được thuyết Mác xít hướng dẫn. Đức Tin , theo
Thần Học Giải Phóng trở thành thực hành , những công tác mà người giáo
dân phải nhận lănh , nó trở thành niềm hy vọng thực tiễn, một hành động
cứu độ cụ thể trong tiến tŕnh giải phóng.
Sự sụp đổ của Cộng sản ở Nga và Đông Âu
khiến cho thuyết Cứu độ Chính trị thực hành bị lu mờ. Khi các thể chế
chính trị muốn đem lại sự cứu độ, làm công việc của Thiên Chúa, th́ thực
sự chúng lại trở thành ma quỉ. Sự tàn ác của chế độ Cộng Sản bây giờ
được phơi bầy trước lương tâm nhân lọai. Chiến tranh thế giới lần thứ
hai làm chết 60 triệu người th́ chế độ Cộng sản tại các nước đă tiêu
diệt 100 triệu người. Cộng Sản cho rằng ḿnh đă thay thế tôn giáo bằng
một nền chính trị thực hành dựa trên khoa học ( khoa kinh tế chính trị
học theo K. Marx ) . Sự thất bại của một hệ thống duy nhất dựa vào khoa
học để giải quyết những khó khăn của nhân lọai đă đưa đến thuyết Tương
Đối .
1/ Thuyết Tương Đối , một triết lư đang
lên .
Thuyết Tương Đối trở thành vấn đề chính
của Đức Tin , được tŕnh bầy như một lập trường dứt khóat qua những
quan niệm : sự khoan dung và sự hiểu biết nhờ đối thọai và tự do .
Thuyết Tương Đối trở thành nền tảng triết học cho nền dân chủ . Trong
thực tế tất cả mọi phương cách đều chỉ là những mảnh vụn của một cố
gắng đạt đến điều tốt hơn. Một hệ thống tự do phải là một hệ thống mà
các vị trí được liên kết với nhau v́ chúng tương đối và lệ thuộc vào các
ḥan cảnh lịch sử, sẵn sàng đón nhận những diễn biến mới, cho nên một xă
hội tư do phải là một xă hội tương đối. Từ đó mới có tự do và sẵn sàng
cho tuơng lai.
Trong phạm vi chính trị, không có chính
kiến nào ḥan ṭan đúng. Điều tương đối : sự tự do chung sống giữa người
dân , không thể là điều tuyệt đối. Đây là sai lầm của lư thuyết Mac xít
và các nền thần học chính trị. Không phải tất cả mọi sự trên chính
trường đều có thể đạt được với thuyết Tương Đối ḥan ṭan. Có những điều
bất công không bao giờ trở thành công chính, chẳng hạn sự giết người vô
tội, từ khước quyền sống xứng đáng với nhân phẩm của một cá nhân hay một
nhóm người . Trái lại, có những điều công chính không bao giờ trở thành
bất công . Thuyết Tương Đối phát xuất từ thế giới Tây phương với các
dạng tư tưởng triết học của nó, đàng khác nó lại liên kết với các thể
chế triết học và tôn giáo Á châu, đặc biệt là Ấn Độ , làm nên thần học
đa nguyên về tôn giáo và được khai triển dần dần từ thập niên 50, dần
dần thay thế vị trí của Thần học Giải phóng , ở dạng mập mờ và hiện diện
trong những lănh vực khác nhau của nền văn hóa , cố tạo cho ḿnh một
h́nh thức canh tân. Khó có thể tŕnh bầy các đặc tính của nó một cách
gọn gàng.
2/ Thuyết Tương Đối trong thần học : hạ
giá Kitô học .
Người sáng lập : Mục sư Tin Lành, phái
Presbyterian Hoa Kỳ , John Hick, dựa trên triết học của Kant : hiện
tượng và bản thân của vật tính. Chúng ta không nắm được chân lư tối hậu
mà chỉ bóng dáng của chân lư bằng cách nhận thức qua những lăng kính (
hay phạm trù, categories ) khác nhau. Điều chúng ta nắm được chỉ là sự
suy nghĩ theo mức độ của chúng ta, không phải là thực thể đúng nghĩa .
Ông Hick h́nh thành quan niệm này trong
phạm vi Kitô học, sau khi ở Ấn Độ một năm. Ông cho rằng chỉ Đức Giêsu
Nazaret, nhân vật lịch sử là có thật. C̣n Thiên Chúa hằng sống chỉ là
huyền thọai. Chúa Giêsu trở thành một lănh tụ tôn giáo giữa những lănh
tụ khác. Đấng tuyệt đối không thể vào lịch sử, nhưng chỉ có các kiểu
mẫu, các h́nh thức tư tuởng nhắc nhở cho chúng ta về điều mà chúng ta
không bao giờ hiểu rơ được. V́ thế những quan niệm như Hội Thánh, Tín
điều, Bí tích phải mất đi tính cách vô điều kiện, nghĩa là không cần
thiết. Như vậy là nâng ḿnh lên ngang hàngh với Thiên Chúa, làm mất đi
tính cách vô cùng của Thiên Chúa.
Việc xác tín rằng có một chân lư vững
chắc trong lịch sử nơi nhân vật Giêsu Kitô và đức tin của Hội Thánh được
ông Hick coi là chủ thuyết cơ bản tấn công thực sự vào tinh thần hiện
đại, đe dọa chính cho sự tốt lành tối thượng của thời hiện đại , thí dụ
: sự khoan dung và tự do.
Khái niệm đối thọai, trong truyền thống
Plato và Kitô, bị thay đổi ư nghĩa, trở thành tinh hoa của bản tuyên
xưng đức tin của phe Tương Đối, chống lại sự hóan cải và truyền giáo (
Kitô giáo ). Theo đó, đối thọai là đưa lập trường , đức tin của ḿnh ra
ngang hàng với mức độ xác tín của người khác, không coi lập trường của
ḿnh đúng hơn của người khác . Chỉ khi đó mới có đối thọai ( theo
thuyết Tương Đối ). Chỉ bằng cách này mới có sự hợp tác và hợp nhất giữa
các tôn giáo khác nhau. Như vậy thuyết Tương Đối phân hủy môn Kitô học,
nhất là Hội Thánh học, thuyết này trở thành điều luật chính cho tôn giáo.
Ông Hick cho rằng tin vào thiên tính của một con người cụ thể ( ám chỉ
Chúa Giêsu ) đưa đến chủ nghĩa quá khích , tách rời đức tin ra khỏi đức
ái, đó chính là điều phải vượt qua.
3/ Dựa vào các tôn giáo Á châu .
Tư tuởng của ông Hick, tiêu biểu nhất cho
chủ thuyết Tương Đối về tôn giáo, có một sự gần gũi giữa nền thần học
hậu siêu h́nh của Âu châu và nền thần học yếm thế của Á châu. Đối với Á
châu, thần linh không thể lộ ra thế giới bên ng̣ai nơi chúng ta đang
sống, nhưng luôn tỏ lộ trong những suy tư liên hệ, và vẫn ở ng̣ai thế
giới.
Hai nền triết học khác nhau tận căn bản,
nhưng theo thuyết Tương Đối chúng lại bổ túc cho nhau. Thuyết Tương Đối
vô tôn giáo và thực dụng của Âu Mỹ có thể được tôn trọng bởi các tôn
giáo từ Ấn độ, là nơi có vẻ đề cao việc khước từ các tín điều trước mầu
nhiệm của Thiên Chúa và của con người.
C̣n tư tưởng Âu Mỹ th́ củng cố cho cái
nh́n triết học và thần học Ấn Độ về tính tương đối của tất cả các h́nh
thức tôn giáo của Ấn độ. Theo đó nền thần học Kitô giáo của Ấn độ cũng
phải lấy h́nh ảnh Đức Kitô từ vị trí độc nhất, được coi là thuần Tây
phương xuống để đặt ngang hàng với những đấng cứu độ trong thần thọai Ấn
độ ( thần voi Ganesa, thần điểu, thần rắn … ) Chúa Giêsu lịch sử trở
nên không hơn ǵ các nhân vật cứu độ khác trong lịch sử… Như vậy thuyết
Tương Đối trở thành triết lư chính hiệu của nhân lọai , và có sức mạnh
vô địch. Ai chống lại nó là chống lại dân chủ và khoan dung , một nhu
cầu căn bản của cộng đồng nhân lọai ( theo thuyết Tương Đối ).
4/ Tính chính thống ( Orthodoxy ) và tính
chính hành ( Orthopraxis )
Trong thuyết Tương Đối về tôn giáo của
ông Hick, tôn giáo có nghĩa là đi từ sự từ bỏ ḿnh để đi đến thực tại
như là sự hiện hữu của một con người mới , là những kẻ lân cận của ḿnh.
Như vậy th́ không cần đến tôn giáo. Đây là một lối lập luận ngây ngô,
khiếm khuyết. V́ thế mà cựu linh mục Công giáo Paul Knitter đă đưa ra
một tổng hợp mới cụ thể hơn và có nội dung phong phú hơn giữa Á châu và
Âu châu, bằng cách liên kết thần học đa tôn giáo với các thuyết thần học
giải phóng. Đối thọai tôn giáo dựa trên nguyên tắc : tính chính hành (
orthopraxis ) ưu việt hơn so với tính chính thống ( orthodoxy ) , việc
làm có giá trị hơn kiến thức. Tri dị hành nan. Đây là gia sản do thuyết
Mac xít để lại, khi Mac xít rút ra từ sự chối bỏ siêu h́nh học để đi đến
hành động ( praxis ). Knitter xác quyết rằng : không thể biết Đấng
Tuyệt Đối, nhưng có thể tạo ra Đấng ấy. Nhưng nếu đă không biết Đấng
Tuyệt Đối th́ làm sao biết được thế nào là công chính tuyệt đối. Thất
bại của chế độ Cộng Sản là muốn thay đổi thế giới ( cách mạng ) nhưng
không biết điều ǵ tốt và điều ǵ không tốt cho thế giới mới, thay đổi
thế nào, theo chiều hướng nào ? Chủ trương của Cộng Sản là cứ làm đi (
praxis ) rồi sẽ có kết quả. V́ vậy mà Nga sô đào tạo kỹ sư chỉ cần theo
nhu cầu số lượng, không cần chất lượng. Trung Cộng dưới thời Mao Trạch
Đông có phong trào thi đua chế tạo gang thép bằng cách làm các ḷ nung
bằng đất đắp ngay ng̣ai đồng ruộng. Ở Bắc Kinh có thời nhà nước bắt tất
cả dân chúng ra ng̣ai đường lúc 8 giờ sáng, mỗi người cầm một cái nồi
hay mâm đồng và cây củi để đập vào nồi gây tiếng động trong nhiều tiếng
đồng hồ để đuổi chim sẻ, v́ lư luận rằng mỗi con chim sẻ ch́ ăn một nhúm
thóc th́ hàng triệu chim sẻ tại thành Bắc kinh ăn hết bao nhiêu tấn
thóc. V́ vậy gây tiếng động để không cho chim sẻ đáp xuống đất, chúng
bay măi sẽ yếu sức mà chết. Kết quả là chim sẻ chết nhiều, nhưng sâu bọ
làm hại cây hại lúa lại tăng nhiều hơn.
Ta thử xét xem khái niệm chính hành là ǵ
? Các tôn giáo của Ấn Độ nói chung không có tính chính thống mà chỉ có
chính hành. Các tôn giáo Ấn Độ không có một giáo lư chung và phổ cập, và
không cần chấp nhận một cách tuyên xưng đức tin nào để được thuộc về
các tôn giáo này. Nhưng các tôn giáo này có một hệ thống nghi thức mà họ
coi là cần thiết cho việc cứu độ.
Trong các tôn giáo Ấn Độ, người tín hữu
của họ ít hiểu biết về tôn giáo của họ nhưng tuân hành cách kỹ lưỡng
một nghi lễ mà người ấy phải theo cả đời. Orthopraxis ở đây có nghĩa là
luật về các nghi lễ.
Trong các Giáo Hội Công Giáo thời sơ
khai, orthodoxy, doxa, được hiểu là vinh quang, làm vinh danh. Orthodox,
chính thống, có nghĩa là biết và thi hành con đường đúng mà Thiên Chúa
muốn Ngài được vinh tụng. Nó ám chỉ sự sùng kính, và dựa vào sùng kính
mà sống.
Trong phái Tương Đối, orthopraxis không
mang ư nghĩa nghi thức nữa, không c̣n liên hệ với quan niệm của Ấn độ
giáo. Ỡ đây praxis được hiểu theo nghĩa luân lư hay chính trị. Nhưng
trong nghĩa luân lư th́ đối với những người theo thuyết Tương Đối , luân
lư không được đề cập đến, v́ không c̣n vấn đề tốt hay xấu để mà bàn. Nếu
hiểu theo nghĩa xă hội hay chính trị th́ các môn phái Thần Học Giải
Phóng xác tín rằng chủ nghĩa Mác xít vạch cho họ thấy rơ hành vi chính
trị tốt là ǵ. Trong trường hợp này th́ nó là một phương thức về chính
hành được đưa ra cho mọi người, là đem cộng đồng lại với nhau , và phân
biệt nó khỏi những người không thuộc phe của ḿnh. Orthopraxis theo
nghĩa của thuyết Tương Đối hiện đại th́ đó là một khuôn khổ, giả thuyết
bắt buộc về con đường đưa đến tự do. Nhưng tất cả mọi thuyết Tương Đối
đều đi đến một t́nh trạng không bó buộc, v́ thế trở thành hời hợt. Thực
ra các quan niệm Thần Học Giải Phóng của Á châu ngày nay cũng đề ra
những h́nh thức Kitô giáo được coi là thích hợp với tinh thần Á châu, và
họ đặt các sinh họat tôn giáo vào phạm vi chính trị : chính trị được
biến thành tôn giáo ( Hồ Chí Minh trở thành Phật, và được thờ trong chùa
). Điều này trái ngược ḥan ṭan với quan điểm tôn giáo nguyên thủy của
Á châu. Khi mà mầu nhiệm không c̣n giá trị th́ chính trị được biến thành
tôn giáo.
5/ Phái Thời Mới ( New Age )
Thuyết Tương Đối của Hick và Knitter dựa
trên thuyết Duy Lư ( Kant ) tuyên bố rằng lư luận không thể có nhận thức
siêu h́nh. Nền tảng của tôn giáo h́nh thành nhờ đi theo một đường lối
thực tiễn có nhiều hậu quả luân lư hay chính trị. Tuy nhiên cũng có
những môn phái chống lại thuyết Tương Đối cho tất cả là tương đối . Đó
là phái Thời Mới , ( Time of Waterman ) do Raul Le Cour, Alice Bailey
đưa ra vào năm 1945, nói về một trật tự mới và một tôn giáo mới trên thế
giới, kết quả của việc trộn lẫn những yếu tố của Do Thái giáo và Kitô
giáo trong tiến tŕnh thế tục hóa với những yếu tố Ngộ Đạo .( Ngộ
Đạo,Gnosticisme, là lạc giáo xuất hiện vào thế kỷ 2, thời Giáo Hội sơ
khai, là một giáo phái trộn lẫn những tôn giáo Hy lạp, Ai cập, Ba tư …
tin rằng con người có gốc thần linh, như các thần được diễn tả trong
thần thoại Hy lạp … ) Trong phái này có một kiểu thần bí tân thời.
Không cần tin có Đấng Tuyệt Đối, nhưng cần cảm nghiệm Ngài. Thiên Chúa
không phải là một vị cần phải được phân biệt với thế gian, nhưng là một
năng lực thiên nhiên hiện diện trong vũ trụ. Tôn giáo có nghĩa là ḥa
hợp chính ḿnh với ṭan thể vũ trụ. Cứu độ được t́m thấy trong việc ḿnh
được thả lỏng. Người ta t́m kiếm trạng thái xuất thần, sự say sưa trong
vô cùng mà chúng ta có thể cảm nghiệm được trong âm nhạc, vũ điệu ,
những ánh sáng cuồng lọan và những bóng tối ngất ngây và trong đám đông
nhân lọai.
Đây là sự chối từ chính con người. Các
thần minh trở lại. Chúng trở thành đáng tin hơn Thiên Chúa. Các nghi
thức tôn giáo thời sơ khai được canh tân, cá nhân được tháp nhập vào
ṭan thể và được tự giải phóng. Người ta tái lập các tôn giáo và văn hóa
“Tiền Kitô”. Từ đó Kitô giáo chỉ là một cái ǵ được nhập cảng từ bên
ng̣ai , một tinh thần đế quốc cần phải cương quyết lọai trừ, như lọai bỏ
các nền chính trị đế quốc .
Nếu không có sự tiếp xúc của Thiên Chúa
với con người trong các bí tích th́ các bí tích chỉ là những nghi lễ
trống rỗng, chẳng có ích ǵ cho con người. Từ đó đi đến việc t́m kiếm sự
say sưa xuất thần mà đam mê của nó có thể biến đổi chúng ta trong giây
phút thành các thần minh, cho chúng ta cảm thấy trong chốc lát niềm vui
của sự vô hạn. Nếu sự tuyệt đối của chính trị càng phát triển mạnh th́
sự hấp dẫn của những điều vô lư và sự từ chối sự thật trong đời sống
hàng ngày sẽ ngày càng mạnh hơn.
6/ Chủ nghĩa Thực Dụng với đời sống hàng
ngày của Giáo Hội.
Những giải pháp cấp tiến và chủ nghĩa
thực dụng của phái Thần Học Giải Phóng đă phát sinh một chủ nghĩa Thực
dụng Xám của đời sống hàng ngày của Giáo Hội, trong đó mọi sự dường như
vẫn tiếp tục như thường, nhưng thực sự th́ đức tin đă bị tiêu hao và hầu
như trở thành vô nghĩa . Theo Đức Hồng Y Ratzinger , có 2 hiện tượng
đáng lo ngại :
a/ Chủ trương đưa nguyên tắc đa số
vào Đức Tin và phong tục. Kết quả là dân chủ hóa Hội Thánh. Những
điều phải tin là những điều không hiển nhiên đối với đa số. Một đức tin
mà chúng ta có thể quyết định ( theo đa số ) th́ không c̣n phải là Đức
Tin tuyệt đối nữa. Đức Tin cùng với cách sống đức tin phải là từ Chúa mà
đến qua Hội Thánh và tác vụ bí tích. Nếu không, Đức Tin đó sẽ không hiện
hữu cách tuyệt đối. Nhiều người bỏ đức tin v́ họ coi nó như được định
đọat từ những nhu cầu, giống như chương tŕnh của các đảng phái. Người
có quyền là người quyết định những điều nào là thành phần của Đức Tin.
Như thế trong Hội Thánh điều quan trọng là là làm sao nắm được quyền
bính, mà nếu không nắm được th́ tốt hơn là hăy bỏ Đức Tin.
b/ Phụng vụ . Các giai đọan khác
nhau của canh tân phụng vụ đă làm cho nhiều người đưa ra ư kiến là người
ta có thể tự ư thay đổi phụng vụ. Tất cả có thể thay đổi được , trừ lời
Truyền Phép.
Theo khuynh hướng của chủ nghĩa duy lư
và đạo đức của thập niên 70 và 80 ( thế kỷ trước ) th́ ngày nay người ta
nhàm chán phụng vụ thuần túy và đọc ra tiếng, mà t́m một thứ phụng vụ
sống động, rất gần gũi với phái Thời Mới, t́m những ǵ mê mẩn và ngất
ngây chứ không t́m sự thờ phương hợp lư.
Trong các cộng đồng đang có khuynh hướng
này. V́ lư do đó chúng ta cần phải cảnh giác để không đi vào trường phái
tin vào một Tin Mừng khác với Tin Mừng mà Chúa đă ban cho chúng ta .
7/ Đức Tin và lư trí.
Một câu hỏi được đặt ra là tại sao có
nhiều người t́m cách đi ra khỏi con đường của Giáo Hội đă đi qua 2000
năm lịch sử : Thánh Thiện, Công Giáo, Tông Truyền ? Các trường phái Thần
Học Giải Phóng, Tương Đối, Thời Mới đều tỏ ra lúng túng và không giải
đáp được ước muốn cải cách của họ, đáp ứng được yêu cầu của những người
không c̣n muốn tin vào tín lư truyền thống của Giáo Hội nữa ?
Tại sao Thần học Cổ điển bất lực trước
những điều đang xẩy ra ? Yếu điểm của nó là ǵ ?
Theo Đức Hồng Y Ratzinger, tức là Đức
Thánh Cha Biển Đức 16, th́ đó là v́ tất cả họ đều thiếu niềm tin vào Đức
Kitô.
Hick và Knitter đă tham kiến các nhà Chú
giải Thánh kinh. Những người này cho rằng Chúa Giêsu đă không bao giờ
tuyệt đối coi ḿnh là Con Thiên Chúa hay Thiên Chúa nhập thể, nhưng sau
đó chính các Môn Đệ của Người đă từ từ dựng nên chuyện đó. Hick và
Knitter cũng dựa vào triết lư của Kant, cho rằng người ta không thể nhận
diện được Đấng Tuyệt Đối trong lịch sử. Cơ cấu nhận thức của chúng ta
không thể nào chứng minh những ǵ mà đức tin Kitô giáo xác tín.Do đó các
mầu nhiệm, phép lạ, bí tích đều là mê tín dị đoan.
Theo Đức Thánh Cha Biển Đức 16 th́ Hick
và Knitter không thể được chống đỡ bằng các chú giải Thánh Kinh nói
chung, như là có một kết luận rơ ràng mà mọi người đều đạt đến. Điều này
không xẩy ra được trong nghiên cứu lịch sử , v́ không thể có một thứ
chắc chắn như vậy, và lại càng không thể xẩy ra được đối với những vấn
đề không ḥan ṭan chỉ thuộc về lịch sử và văn chương , có giá trị vượt
tầm mức của quá khứ và giải thích bản văn. Giả sử các nhà chú giải Thánh
Kinh đều nghĩ như nhau th́ lấy ǵ làm căn bản cho đa số ấy ? Các nhà
chú giải Thánh Kinh nghĩ như Hick và Knitter v́ họ có cùng quan điểm
triết học. Chính triết học đă phát sinh ra các nhà chú giải Thánh Kinh.
Các nhà chú giải Thánh Kinh không thể khám phá điều ǵ không phải là sự
thật trong các Sách Thánh, nếu họ đă biết trước là Chúa Giêsu không thể
là Thiên Chúa, vá các bí tích, phép lạ chỉ là mê tín dị đoan. Phương
pháp phân tích lịch sử là cách để biết về quá khứ mà thôi. Người ta phải
giả sử rằng lịch sử đồng nhất trên nguyên tắc. Nhưng con người và thế
giới rất đa dạng , không thể bị định đọat bởi các định luật và giới hạn.
Các nhà chú giải Thánh Kinh không đem Thánh Kinh đến cho tôi hôm nay,.
trong cuộc đời này , mà chỉ tŕnh bầy Thánh Kinh ḥan ṭan trong quá khứ.
Nếu trung thành với phương pháp này th́ chỉ c̣ thể cho chúng ta thấy Đức
Kitô trong quá khứ mà không bao giờ có thể cho chúng ta thấy Đức Kitô
của hôm qua, hôm nay, và măi măi .
Vấn đề của việc giải thích Thánh Kinh là
nó nối kết với vấn đề của triết học. Nhưng lư luận thực chứng đă khiến
cho Đức Tin trở nên nghèo nàn. Nếu siêu h́nh học c̣n bị đóng lại, nếu
triết lư của Kant không thể vượt qua được th́ Đức Tin sẽ trở nên hao
ṃn. Không thể lấy triết lư độc lập với Đức Tin làm nền tảng cho Đức
Tin, bởi v́ triết học luôn thay đổi. Nhưng ngược lại cũng sai lầm khi
cho rằng Đừc Tin là một sự ngược đời thuần túy chỉ có thể hiện hữu ngược
với lư trí và không lệ thuộc vào lư trí. Đức Tin không chống lại lư
trí, không ở ng̣ai lư trí , nhưng nó làm cho lư trí được ḥan bị. Đức
Tin và Triết học cần hỗ trợ cho nhau. “ Lư trí sẽ không cứu được ( con
người ) nếu không có Đức Tin , nhưng Đức Tin không có lư trí sẽ không
phải là con người “ .
8/ Thay cho kết luận , triền vọng của
Đức Tin.
Trong thế kỷ 20, thuyết Tương Đối của
Einstein trong lănh vực khoa vật lư học được coi là vô địch, là chân lư
chắc chắn. Nhưng thời gian đă trả lời khác hẳn. Ngày nay thuyết Tương
Đốti của Einstein đă bị các thuyết khác qua mặt. Theo thuyết Tương Đối,
Einstein chứng minh rằng vũ trụ đứng yên và có kích thước không thay
đổi. Năm 1922, Alexandre Friedman sóat lại các phương tŕnh tóan học của
Einstein và t́m ra trong đó một con tóan đại số sai. Sau khi sửa lại,
Friedman nhận thấy rằng cơ cấu của vũ trụ ḥan ṭan biến đổi khác hẳn.
Vũ trụ sống động chứ không đứng yên , nó có thể bành trướng hay co rút
lại. Điều này trùng hợp với kết quả thu được bởi Edwin Hubble khi dùng
kính quang phổ phân tích ánh sáng phát ra từ các tinh vân, các đảo trong
vũ trụ. Ông nhận thấy 80% các thiên thể cho một quang phổ mà các vạch di
chuyển về phía hồng nội tuyến. Điều này chứng tỏ các nguồn áng sáng đang
chuyển động xa dần địa cầu. Các tinh vân, thiên hà càng ở xa th́ vận
tốc di chuyển càng lớn. Tức là vận tốc bành trướng của vũ trụ tăng theo
khỏang cách.
Hiện nay đường kính vũ trụ tăng thêm 25
triệu km trong một giây đồng hồ ( 25.000.000km/s ) . Và trong một tỷ
năm tới vũ trụ sẽ gấp đôi bây giờ. Vậy khi mới thành h́nh vũ trụ chỉ là
một khối duy nhất và cuộc bành trướng đă khởi đầu cách nay khỏang 15 tỷ
năm.
Với thời gian t́m ṭi nghiên cứu, sau
Einstein đă có thuyết Le Maitre, thuyết Tolman, thuyết Hoyle Narlikar
đưa ra các lối giải thích khác về vũ trụ.
Thí dụ thuyết của Fred Hoyle và Jayant
Vichnou Narlikar cho rằng tất cả các vật chất trong vũ trụ, dù nhỏ đến
đâu, đều có một sự liên hệ mật thiết với nhau. Nếu lọai bỏ các ngôi sao
gần mặt trời th́ chuyển động của trái đất sẽ thay đổi rất nhiều, do sự
biến đổi của khối lượng mặt trời. Thuyết này đưa đến một ư niệm : vũ trụ
hiện thời và các yếu tố vật lư như năng lượng, lực hấp dẫn , cường độ
sáng của tinh tú , v.v…đều tùy thuộc các cơ cấu kiến trúc tổng quát của
vũ trụ.
Giả sử phân nửa số lượng vật chất, hành
tinh, tinh tú trong không gian biến mất th́ chuyện ǵ sẽ xẩy ra ?
Theo Newton và Einstein th́ không có ǵ
xẩy ra cả. Nhưng theo Hoyle – Narlicar th́ mặt trời sẽ hút các hành tinh
hai lần mạnh hơn và phát ra sức nóng gấp trăm lần. Trái đất sẽ bị cháy
bùng lên rồi tan thành hơi. ( Đó là ngày tận thế ? )
Thuyết Tương Đối của Hick về tôn giáo
cũng sẽ bị vượt qua , bị đào thải.
Đức Hồng Y Ratzinger cho rằng trong t́nh
trạng văn hóa ngày nay, thực sự chỉ nhờ phép lạ mà chúng ta vẫn c̣n Đức
Tin Kitô , bất chấp mọi sự, một Đức Tin trọn vẹn, trong sáng của Tân Ước
và của Hội Thánh trong mọi thời đại. Bởi v́ Đức Tin ḥa hợp với bản chất
con người .
Trong con người có một khao khát sự vô
biên mà không ai có thể dập tắt được. Người ta đă thử rất nhiều, nhưng
không một câu trả lời nào có thể thỏa măn được sự khao khát này. Chỉ có
chính Thiên Chúa là Đấng trở thành hữu hạn để mở sự hữu hạn của chúng ta
ra, và dẫn chúng ta đến chiều rộng của sự vô biên của Ngài để trả lời về
sự hiện hữu của chúng ta. V́ lư do này mà Đừc Tin Kitô cũng t́m được con
người ngày nay. Nhiệm vụ của chúng ta là phục vụ Đức Tin với một tinh
thần khiêm nhường, hết ḷng, hết sức và hết trí khôn của chúng ta .
Seattle,
20-6-2009.
ĐĐP.
|
|