THÔNG ĐIỆP SPE SALVI
của
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
gửi
Chư Vị Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ Nam Nữ cùng Toàn Thể Tín
Hữu Giáo Dân
về
Niềm Hy Vọng Kitô Giáo
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh
http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/encyclicals/documents/hf_ben-xvi_enc_20071130_spe-salvi_en.html
(những chỗ được in đậm lên
là do tự ý của người dịch trong việc làm nổi bật những điểm chính
yếu quan trọng)
Hình
thái thực sự của niềm hy vọng Kitô giáo
24.
Một lần nữa chúng ta đặt vấn đề: Chúng ta có thể hy vọng những gì?
Và chúng ta không thể hy vọng những chi? Trước hết, chúng ta cần
phải công nhận rằng sự tiến bộ về lời lãi chỉ có thể xẩy ra ở lãnh
vực vật chất. Ở đây, giữa kiến thức gia tăng của chúng ta về cấu
trúc của chất thể và theo chiều hướng của những thứ sáng chế tiến bộ
hơn bao giờ hết, chúng ta tỏ tường thấy được sự tiến bộ liên tục
hướng tới một thứ thông suốt về thiên nhiên hơn bao giờ hết. Tuy
nhiên, nơi lãnh vực nhận thức về đạo lý và quyết định về luân lý,
thì không có một khả năng chồng chất gia tăng tương tự vì lý do đơn
giản đó là tự do của con người bao giờ cũng mới mẻ và họ lúc nào
cũng cần phải thực hiện những quyết định mới. Những quyết định này
không bao giờ lại được người khác thực hiện trước cho chúng ta – nếu
có xẩy ra như thế chúng ta sẽ chẳng còn tự do nữa. Tự do là ở chỗ
nơi những quyết định trọng yếu, hết mọi người và hết mọi thế hệ là
một khởi điểm mới. Dĩ nhiên, các thế hệ mới có thể xây dựng trên
kiến thức và kinh nghiệm của những ai đi trước, và họ có thể rút tỉa
kho tàng luân lý của toàn thể nhân loại. Thế nhưng họ cũng có thể
loại bỏ nó, vì nó có thể không bao giờ là những gì minh nhiên giống
như cách thức của những sáng chế về vật chất. Kho tàng luân lý của
nhân loại không sẵn có trong tay như những loại dụng cụ chúng ta sử
dụng; nó hiện lên như một lời kêu gọi tự do và là một tiềm năng cho
tự do. Tuy nhiên, điều ấy có nghĩa là:
a) Tình
trạng đúng đắn về các sự vụ của con người, tình trạng an lành về
luân lý của thế giới không bao giờ được bảo đảm chỉ qua nguyên các
cấu trúc, cho dù chúng có tốt đẹp tới đâu. Những cấu trúc như vậy
chẳng những quan trọng mà còn cần thiết nữa; tuy nhiên, chúng không
thể và không được loại ra rìa tự do của con người. Thậm chí những
cấu trúc tốt đẹp nhất cũng chỉ tác hiệu khi cộng đồng được tác động
bởi những niềm xác tín có thể phấn khích con người tự do chấp nhận
trật tự xã hội. Tự do cần đến niềm xác tín; niềm xác tín không tự
mình hiện hữu, nhưng bao giờ cũng được cộng đồng ciếm thủ một cách
mới mẻ.
b) Vì con
người bao giờ cũng tự do và vì tự do của họ bao giờ cũng mỏng dòn,
mà vương quốc của thiện chí không bao giờ được hoàn toàn thiết dựng
trên thế giới này. Bất cứ ai hứa hẹn một thế giới tốt đẹp hơn là
những gì bảo đảm sẽ kéo dài tới vô cùng bất tận là đang tung ra lời
hứa hẹn giả tạo; họ tỏ ra coi nhẹ tự do của con người. Tự do cần
phải liên lỉ chiếm lấy vì sự thiện. Việc tự do chấp nhận sự thiện
không bao giờ hiện hữu chỉ bởi chính nó. Nếu có những cấu trúc có
thể bảo đảm một cách bất khả vãn hồi một tình trạng – sự thiện – của
thế giới này, thì tự do của con người sẽ bị chối bỏ, và vì thế những
cấu trúc ấy sẽ không phải là những cấu trúc tốt đẹp tí nào cả.
25
Điều này có nghĩa là hết mọi thế hệ có phận sự tham gia một cách mới
mẻ vào việc tận tụy tìm kiếm cách thức chính đáng trong việc xếp đặt
các sự vụ của con người; phần vụ này không bao giờ hoàn trọn một
cách đơn giản. Tuy nhiên, hết mọi thế hệ cũng cần phải thực hiện
việc góp phần của mình vào việc thiết lập những cấu trúc chủ chốt
cho tự do và sự thiện, những cấu trúc có thể giúp cho thế hệ theo
sau như là một thứ hướng dẫn cho việc sử dụng thích đáng tự do của
con người; bởi thế, bao giờ cũng ở trong những giới hạn của con
người, những cấu trúc này cũng cống hiến một thứ bảo đảm nào đó cho
tương lai. Nói cách khác: những cấu trúc tốt đẹp hữu ích, nhưng tự
mình chúng không đủ. Con người không bao giờ có thể được cứu chuộc
chỉ từ bên ngoài. Francis Bacon và những ai theo trào lưu tri thức
của thời tân tiến được ông gợi hứng đều sai lầm khi tin rằng con
người được cứu chuộc nhờ khoa học. Một thứ mong đợi như thế lầnhững
gì đòi hỏi khoa học quá nhiều; loại hy vọng này là những gì lừa dối.
Khoa học có thể góp phần lớn lao trong việc làm cho thế giới và con
người trở nên nhân bản hơn. Tuy nhiên, nó cũng có thể hủy hoại nhân
loại và thế giới trừ phi nó được lèo lái bởi những năng lực ở bên
ngoài nó. Mặt khác, chúng ta cũng cần phải nhìn nhận rằng Kitô giáo
tân thời, đụng đầu chạm trán trước những thành công của khoa học
trong việc gia tăng cấu tạo thế giới, phần lớn đã thu hẹp chú trọng
của mình vào cá nhân và việc cứu độ của họ. Khi làm thế, Kitô giáo
tân tiến đã giới hạn chân trời hy vọng của mình và đã không nhận
thấy một cách đầy đủ tính chất cao cả nơi các công việc của mình –
cho dù nó đã tiếp tục chiếm đạt được những điều lớn lao trong việc
hình thành con người và trong việc chăm sóc cho thành phần yếu kém
và thành phần khổ đau.
26 Khoa học không phải là những gì cứu chuộc con người: con
người được tình yêu cứu chuộc. Điều này thậm chí áp dụng cho cả thế
giới ngày nay. Khi người ta có được cảm nghiệm về một tình yêu cao
cả trong đời sống của mình, thì đó là lúc “cứu chuộc” cống hiến một
ý nghĩa mới cho đời sống của họ. Thế nhưng chẳng bao lâu họ cũng
nhận thấy rằng tình yêu được ban cho họ tự mình không thể giải quyết
được vấn nạn cho cuộc đời của họ. Nó là một thứ tình yêu mỏng dòn.
Nó có thể bị sự chết hủy diệt đi. Con người cần một thứ tình yêu vô
vị lợi. Họ cần niềm tin tưởng khiến họ có thể nói rằng: “dù sự chết
hay sự sống, dù thiên thần hay quản thần, dù hiện tại hay tương lai,
dù quyền năng, dù trời cao hay vực thẳm, dù bất cứ sự gì trong tất
cả thiên nhiên này, cũng sẽ không thể nào làm tôi tách khỏi tình yêu
của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng tôi” (Rm 8:38-39).
Nếu tình yêu tuyệt đối này hiện hữu, bằng những gì hoàn toàn vững
chắc của nó, thì bấy giờ – chỉ bấy giờ – con người “được cứu chuộc”,
dù bâ71t cứ gì xẩy ra cho những hoàn cảnh đặc biệt của họ. Đó là
những gì có nghĩa rằng Chúa Giêsu Kitô đã “cứu chuộc” chúng ta. Nhờ
Người cúng ta đã trở nên vững chắc về Thiên Chúa, một Vị Thiên Chúa
không phải là một “nguyên nhân đệ nhất” xa vời với thế giới này, vì
Người Con duy nhất của Ngài đã làm người và bởi Người hết mọi người
có thể nói rằng: “Tôi sống bởi niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã
yêu thương tôi và hiến mình vì tôi” (Gal 2:20).
27. Về ý nghĩa này thật sự là ai không biết Thiên Chúa, cho dù
họ có vui vẻ với đủ loại hy vọng, cuối cùng cũng chẳng có hy vọng gì,
chẳng có niềm hy vọng cao cả có thể bảo trì cả đời sống (cf. Eph
2:12). Niềm hy vọng cao cả chân thực của con người có thể vững mạnh
bất chấp tất cả mọi thất vọng chỉ có thể là Thiên Chúa – Vị Thiên
Chúa đã yêu thương chúng ta và là Đấng tiếp tục yêu thương chúng ta
“cho đến cùng”, cho đến khi tất cả “được hoàn tất” (cf Jn 13:1 &
19:30). Ai được tình yêu tác động bắt đầu nhận thấy sự sống thật sự
là gì. Họ bắt đầu nhận thấy ý nghĩa của lời về niềm hy vọng được
chúng ta gặp thấy trong Nghi Thức Rửa Tội: nhờ đức tin tôi đợi trông
“sự sống đời đời” – sự sống chân thực, hoàn toàn và vững chắc, nơi
tất cả tầm vóc viên mãn của nó, là một sự sống đơn giản. Chúa Giêsu,
Đấng đã nói rằng Người đến để chúng ta được sự sống và là một sự
sống viên trọn, sự sống dồi dào viên mãn (cf Jn 10:10), cũng đã giải
thích cho chúng ta biết “sự sống” là gì: “sự sống đời đời đó là họ
nhận biết Cha là Thiên Chúa chân thật duy nhất và Đấng Cha sai là
Giêsu Kitô” (Jn 17:3). Sự sống, theo ý nghĩa đích thực của nó, không
phải là một cái gì đó chúng ta có chỉ ở nơi bản thân mình hay bởi
bản thân mình: nó là một mối liên hệ. Và sự sống nơi toàn tính của
nó là một mối liên hệ với Đấng là nguồn mạch của sự sống. Nếu chúng
ta liên hệ với Đấng không chết, Đấng là Sự Sống và là chính Tình Yêu,
thì chúng ta ở trong sự sống. Bấy giờ chúng ta “đang sống”.
28. Tuy nhiên, đến đây vấn đề được đặt ra là như thế thì
chúng ta lại chẳng một lần nữa trở lại với một thứ ý thức cá nhân về
việc cứu độ hay sao, về niềm hy vọng cho bản thân mình thôi sao,
những gì không phải là niềm hy vọng thực sự, vì nó bỏ quên và không
chú ý tới người khác? Thật vậy, chúng ta không như thế! Mối liên hệ
của chúng ta với Thiên Chúa được thiết lập nhờ mối hiệp thông với
Chúa Giêsu – chúng ta không thể một mình chiếm được nó và bằng những
phương tiện của chúng ta mà thôi. Mối liên hệ này với Chúa Giêsu dù
sao cũng là một mối liên hệ với Đấng đã hiến mình làm giá chuộc cho
tất cả mọi người (cf 1Tm 2:6). Việc hiệp thông với Chúa Giêsu Kitô
kéo chúng ta vào việc “trở thành mọi sự cho mọi người” của Người; nó
trở thành cách hiện hữu của chúng ta. Người thúc đẩy chúng ta sống
cho kẻ khác, nhưng chỉ qua mối hiệp thông vơiù Người nó mới thực sự
có thể sống cho người khác, cho toàn khối. Về vấn đề này tôi muốn
trích lời của vị đại Tiến Sĩ Hy Lạp của Giáo Hội là Thánh Maximus
the Confessor (+ 662), vị khởi đầu khuyên chúng ta đừng coi gì hơn
việc hiểu biết và mến yêu Thiên Chúa đã tiến mau sang những thực
hành cụ thể: “Kẻ nào mến yêu Thiên Chúa không thể nào gắn bó với
tiền bạc mà là ban phát theo đường lối của Thiên Chúa… cùng một kiểu
cách hợp với mức độ của công lý” (19). Tình yêu mến Thiên Chúa dẫn
đến chỗ tham dự vào đức công chính và lòng quảng đại của Thiên Chúa
đối với người khác. Việc mến yêu Thiên Chúa đòi phải có một thứ tự
do nội tâm không bị dính bén với tất cả những gì mình có cũng như
tất cả mọi sản vật thể chất: tình yêu mến Thiên Chúa được thể hiện
nơi trách nhiệm đối với kẻ khác (20). Cái liên kết giữa tình yêu
Thiên Chúa và trách nhiệm đối với kẻ khác có thể thấy được một cách
đặc biệt nơi đời sống của Thánh Âu Quốc Tinh (Augustino). Sau khi
trở lại với đức tin Kitô giáo, ngài đã quyết định, cùng với một số
bạn hữu đồng chí sống một cuộc đời hoàn toàn cho lời Chúa và cho
những sự đời sau. Ý định của ngài đó là thực hành một đời sống Kitô
giáo theo lý tưởng của đời sống chiêm niệm được bày tỏ nơi đại
truyền thống của triết học Hy Lạp, nhờ đó chọn được “phần tốt hơn” (cf
Lk 10:42). Tuy nhiên, sự việc lại trở thành khác hẳn. Trong khi đang
tham dự phụng vụ Chúa Nhật ở phố cảng Hippo, ngài đã được vị Giám
Mục kêu gọi ra khỏi cộng đồng này và ép buộc ngài thụ phong để thi
hành thừa tác vụ linh mục ở thành phố ấy. Nhìn lại lúc bấy giờ, ngài
đã viết trong cuốn Tự Thú của mình rằng: “Cảm thấy rùng mình
vì tội lỗi của mình và gánh nặng khốn nạn của mình, con đã quyết tâm
và trù tính tẩu thoát vào nơi hoang vắng; thế nhưng, Chúa đã cản trở
con và đã ban cho con sức mạnh khi phán: ‘Chúa Kitô đã chết cho tất
cả mọi người, để những ai sống không còn sống cho mình nữa mà là cho
Đấng đã chết vì họ’ (cf 2Cor 5:15)” (21). Chúa Kitô đã chết cho tất
cả mọi người. Để sống cho Người nghĩa là để cho mình được Người liên
kết với việc Người sống cho kẻ khác.
29- Đối với Thánh Âu Quốc Tinh điều ấy có nghĩa là một sự sống
hoàn toàn mới mẻ. Ngài đã có lần diễn tả đời sống hằng ngày của ngài
như sau: “Những gì hỗn loạn đã được chỉnh đốn, ai buồn chán được
phấn khởi hân hoan, kẻ yếu kém được nâng đỡ hỗ trợ; các kẻ chống đối
Phúc Âm cần phải được bác bẻ, các kẻ thù quỉ quyệt của nó cần phải
được canh chừng; người thất học cần phải được dạy dỗ, ai biếng nhác
được thôi thúc phấn chấn, kẻ tranh cãi được chặn lại; người kiêu
hãnh cần phải được đặt vào đúng vị trí của mình, kẻ thất vọng được
phấn khởi hơn, những ai tranh giành cãi cọ được hòa giải; kẻ thiếu
thốn được giúp đáp; người bị áp bức được giải phóng, người lành được
khích lệ, kẻ xấu được khoan dung chịu đựng; tất cả được yêu thương”
(22). “Phúc Âm làm tôi kinh hãi” (23) – khi tạo nên một nỗi sợ hãi
lành mạnh ngăn cản chúng ta khỏi soông cho bản thân mình và thôi
thúc chúng ta truyền đạt niềm hy vọng chung của chúng ta. Giữa những
nỗi khó khăn trầm trọng đang gây khó khăn cho Hoàng Đế Rôma – và gây
ra mối đe dọa trầm trọng cho Phi Châu Rôma là phần đế quốc thực sự
bị hủy diệt vào cuối đời của Thánh Âu Quốc Tinh – đây là những gì
ngài đã phác họa ra để làm: đó là truyền đạt niềm hy vọng, niềm hy
vọng ngài có được từ đức tin và những gì, hoàn toàn ngược lại với
tính khí hướng nội của mình, khiến ngài cương quyết hết sức tham gia
vào việc xây dựng thành phố này. Trong cùng chương của cuốn Tự Thú,
chương cho thấy lý do quyết liệt về việc ngài dấn thân “cho tất cả
mọi người”, ngài nói rằng Chúa Kitô “đã chuyển cầu cho chúng ta,
bằng không tôi chắc chắn cảm thấy thất vọng. Những nỗi hèn yếu của
tôi thì nhiều và trầm trọng, thật vậy, nhiều và trầm trọng, thế
nhưng phương dược của Chúa còn dồi dào hơn thế nữa. Chúng con có lẽ
nghĩ rằng lời của Chúa là những gì xa biệt vơớ mối liên kết với con
người, và vì thế chúng con tự cảm thấy thất vọng, nếu Lời này không
hóa thành nhục thể và ở giữa chúng con” (24). Cậy dựa vào sức mạnh
nơi niềm hy vọng này của mình, Thánh Âu Quốc Tinh hoàn toàn dấn thân
cho thành phần dân chúng bình thường cũng như cho thành phố của ngài
– từ bỏ tính chất cao sang về đời sống thiêng liêng của mình, ngài
đã thực hiện việc giảng dạy và tác hành một cách giản dị với thành
phần bình dân.
30- Chúng ta hãy tóm lại những gì đã được trình bày cho tới
đây theo tiến trình suy tư chia sẻ của chúng ta. Ngày ngày con người
cảm thấy nhiều niềm hy vọng khá hơn hay thường hơn, những niềm hy
vọng khác loại nhau tùy theo các giai đoạn khác nhau trong đời sống
của họ. Đôi khi một trong những niềm hy vọng ấy hoàn toàn là những
gì thỏa đáng không cần đến bất cứ các niềm hy vọng khác. Giới trẻ có
thể có niềm hy vọng về một thứ tình yêu hoàn toàn mãn nguyện; niềm
hy vọng về một vai trò nào đó trong nghề nghiệp của mình, hay về một
thành đạt nào đó có tính chất quyết liệt cho cả đời sống của họ. Tuy
nhiên, khi những niềm hy vọng ấy được nên trọn thì họ thấy rõ rằng
chúng thực sự không phải là tất cả. Vấn đề hiển nhiên ở đây là con
người cần đến một niềm hy vọng còn hơn thế nữa. Rõ ràng là chỉ có
những gì là vô cùng mới thỏa đáng được họ, những gì bao giờ cũng hơn
cả những cái họ vẫn có thể chiếm đạt. Về vấn đề này thời đương đại
của chúng ta đây đã triển khai một niềm hy vọng trong việc tạo nên
một thế giới toàn hảo, một thế giới nhờ kiến thức khoa học và dựa
vào chính trị một cách khoa học, dường như đã là những gì khả đạt.
Bởi vậy niềm hy vọng của Thánh Kinh nơi Vương Quốc của Thiên Chúa đã
bị chiếm chỗ bởi niềm hy vọng vào vương quốc của con người, niềm hy
vọng về một thế giới tốt đẹp hơn sẽ thực sự là “Vương Quốc của Thiên
Chúa”. Cuối cùng thì đó dường như là niềm hy vọng cao cả và thực
tiễn con người cần phải có. Có thời nó đã có thể làm phấn khởi tất
cả năng lực của con người. Mục tiêu cao cả này dường như đáng được
hoàn toàn dấn thân thực hiện. Tuy nhiên, qua giòng thời gian, nó cho
thấy rõ ràng rằng niềm hy vọng ấy chỉ là những gì tụt hậu. Đặc biệt
là nó hiển nhiên cho thấy rằng đó có thể là một niềm hy vọng cho thế
hệ tương lai nhưng không phải cho tôi.
Tuy
nhiên, nhiều cái “cho tất cả mọi người” này có thể thuộc về niềm hy
vọng cao cả – vì tôi không thể hạnh phúc mà lại thiếu những người
khác hay ngược lại với họ – vấn đề vẫn đúng thật là một niềm hy vọng
không liên quan riêng tư tới tôi thì không phải là niềm hy vọng thực
sự. Vấn đề cũng rõ ràng là niềm hy vọng ấy phản lại tự do, vì các sự
vụ của con người lệ thuộc ở mỗi thế hệ vào những quyết định tự do
của những ai liên quan tới. Nếu thứ tự do này bị tước mất, như là
một kết quả của những điều kiện hay cấu trúc nào đó, thì cuối cùng
thế giới này sẽ không tốt lành gì vì một thế giới phi tự do không
thể nào lại là một thế giới tốt đẹp. Bởi thế, khi chúng ta cần phải
luôn dấn thân cho việc cải tiến thế giới, thì thế giới tốt đẹp hơn
mai ngày không thể nào là nội dung thích hợp và thỏa đáng cho niềm
hy vọng của chúng ta. Về vấn đề này vấn đề luôn được đặt ra là: khi
nào thì thế giới trở nên “tốt đẹp hơn”? Cái gì làm cho nó tốt lành?
Chúng ta cần phải dựa vào tiêu chuẩn nào để thẩm định về cái tốt
lành của nó? Đâu là đường lối dẫn đến “sự tốt lành” này?
31- Một lần nữa, chúng ta hãy nói rằng: chúng ta cần có những
niềm hy vọng khá hơn hay thường hơn giữ chúng ta ngày ngày tiến bước.
Thế nhưng, những thứ hy vọng này vẫn không đủ nếu thiếu niềm hy vọng
cao cả, một niềm hy vọng trổi vượt hơn hết mọi sự khác. Niềm hy vọng
cao cả này chỉ có thể là một mình Thiên Chúa, Đấng bao gồm toàn thể
thực tại và là Đấng có thể ban xuống trên chúng ta những gì tự bản
thân mình chúng ta không thể đạt được. Sự kiện nó đến với chúng ta
như một tặng ân thực sự là những gì thuộc về niềm hy vọng. Thiên
Chúa là nền tảng của hy vọng, chứ không phải là bất cứ thần linh nào,
mà là Vị Thiên Chúa có dung nhan con người và là Đấng đã yêu thương
chúng ta tới cùng, từng người chúng ta và toàn thể nhân loại. Vương
quốc của Ngài bởi thế không phải là những gì tưởng tượng, được định
vị ở một tương lai chẳng bao giờ có; Vương quốc của Ngài hiện diện ở
bất cứ nơi đâu Ngài được mến yêu và bất cứ chỗ nào tình Ngài vươn
tới chúng ta. Chỉ một mình tình yêu của Ngài mới ban cho chúng ta
khả năng điềm đạm kiên trì từng ngày, không ngừng được niềm hy vọng
thôi thúc, trong một thế giới tự bản chất vốn bất toàn. Tình yêu của
Ngài đồng thời là những gì bảo đảm cho cuộc sống của chúng ta về
những gì chúng ta chỉ có thể mơ hồ cảm giác thấy và lại là những gì
ở tận thâm tâm mình chúng ta đang chờ đợi, đó là một sự sống là sự
sống “thực sự”. Giớ đây, trong phần cuối cùng, chúng ta hãy khai
triển tư tưởng này chi tiết hơn khi chúng ta tập trung vào một số
“những khung cảnh” chúng ta có thể học bằng thực hành niềm hy vọng
cùng với việc thi hành của nó.