“Thiên Chúa đang sống động, và Ngài cần thành phần phục vụ Ngài và mang Ngài đến cho kẻ khác. Trở thành linh mục là những gì có ý nghĩa …”

 

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI – Thư Gửi Các Chủng Sinh 

 

 

Chủng Sinh thân mến,

 

Vào Tháng 12 năm 1941, tôi đã đi quân dịch, vị lãnh binh hỏi từng người chúng tôi những gì chúng tôi đã dự tính làm trong tương lai. Tôi đã trả lời rằng tôi muốn trở thành một linh mục Công giáo. Vị trung úy này trả lời rằng: “Thế thì anh phải tìm một cái gì khác rồi đó. Ở một Đức quốc mới này không còn cần đến các linh mục đâu”. Tôi đã thừa biết rằng “tân Đức quốc” ấy đã hết thời rồi, và sau cuộc tàn hại khủng khiếp gây ra bởi cuộc điên dại này trên xứ sở ấy, các vị linh mục sẽ được cần hơn bao giờ hết. Hôm nay đây tình trạng này đã hoàn toàn thay đổi. Mặc dù thế, ở thời buổi này, bằng những cách thức khác nhau, nhiều người cũng nghĩ rằng chức linh mục Công giáo không phải là một ‘việc làm - job’ cho tương lai, nhưng là những gì thuộc về quá khứ hơn nữa. Các bạn thân mến, các bạn đã quyết định xin vào chủng viện để dọn mình thi hành thừa tác vụ linh mục trong Giáo Hội Công giáo, bất chấp những ý nghĩ và những chống đối như thế. Các bạn đã thực hiện một việc tốt đẹp. Vì bao giờ người ta cũng cần đến Thiên Chúa, thậm chí ở một thời đại của một thế giới kỹ thuật tân kỳ và toàn cầu hóa: họ bao giờ cũng cần đến Vị Thiên Chúa là Đấng tỏ mình ra nơi Đức Giêsu Kitô, Vị Thiên Chúa muốn qui tụ chúng ta lại trong Giáo Hội hoàn vũ để học biết với Người và nơi Người ý nghĩa đích thực của sự sống cũng như để chống đỡ và áp dụng các tiêu chuẩn của lòng nhân đạo đích thực. Ở đâu không còn nhận thức Thiên Chúa thì ở đó đời sống trở nên trống rỗng; không gì là đủ. Bấy giờ con người tìm cách thoát ly vào một cuộc sống lửng lơ và bạo động; những điều ấy chính là những gì đang gia tăng đe dọa giới trẻ. Thiên Chúa đang sống động. Ngài đã tạo dựng nên  hết mọi người trong chúng ta và Ngài biết tất cả chúng ta. Ngài cao cả đến nỗi Ngài có giờ cho những điều nhỏ mọn trong cuộc đời của chúng ta: ‘Hết mọi sợi tóc trên đầu của các con đã được đếm cả rồi’. Thiên Chúa đang sống động, và Ngài cần thành phần phục vụ Ngài và mang Ngài đến cho những kẻ khác. Thật là ý nghĩa khi trở thành một linh mục: thế giới đang cần đến các linh mục, các mục tử, hôm nay, mai ngày và mãi mãi, cho đến tận cùng thời gian.

 

Chủng viện là một cộng đồng hành trình tiến đến thừa tác vụ linh mục. Tôi đã nói đến một điều rất quan trọng ở nơi đây, đó là người ta không tự mình trở thành linh mục. ‘Cộng đồng các môn đệ’ là những gì thiết yếu, mối hiệp thông của những ai muốn phục vụ Giáo Hội bao rộng hơn. Trong bức thư này – khi nghĩ về thời của tôi ở trong chủng viện - tôi muốn vạch ra một vài yếu tố được tôi coi là quan trọng cho những năm hành trình ấy của các bạn.

 

1.     Bất cứ ai muốn trở thành linh mục, trước hết và trên hết, cần phải là một “con người của Thiên Chúa”, như thành ngữ được Thánh Phaolô sử dụng (1Tim 6:11). Đối với chúng ta, Thiên Chúa không phải là một thứ giả thuyết trừu tượng; Ngài không phải là một kẻ lạ mặt nào đó xuất hiện sau cuộc ‘big bang – đại phát nổ’. Thiên Chúa đã tỏ mình ra nơi Đức Giêsu Kitô. Trên dung nhan của Đức Giêsu Kitô chúng ta thấy được dung nhan của Thiên Chúa. Nơi lời của Người chúng ta nghe thấy chính Thiên Chúa nói với chúng ta. Bởi thế, điều quan trọng nhất trên con đường chúng ta tiến tới chức linh mục và trong suốt cuộc đời linh mục của chúng ta đó là mối liên hệ riêng tư của chúng ta đối với Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Vị linh mục không phải là vị lãnh đạo của một thứ hiệp hội mà vị linh mục này cố gắng để bảo trì và phát triển các phần tử của nó. Vị linh mục là sứ giả của Thiên Chúa đối với dân của mình. Vị linh mục muốn dẫn họ đến cùng Thiên Chúa và nhờ đó duy trì một mối hiệp thông chân thực giữa tất cả mọi con người nam nữ. Đó là lý do tại sao, các bạn thân mến, thật là vấn đề quan trọng trong việc các bạn biết sống thân mật liên tục với Thiên Chúa. Khi Chúa nói với chúng ta rằng ‘hãy cầu nguyện liên lỉ’, rõ ràng là Người không muốn chúng ta đọc các kinh nguyện vô cùng bất tận, nhưng muốn chúng ta đừng bao giờ mất đi tình trạng thân mật nội tâm của chúng ta với Thiên Chúa. Cầu nguyện nghĩa là lớn lên nơi mối thân tình này. Bởi vậy, ngày sống của chúng ta đây cần phải bắt đầu và kết thúc bằng kinh nguyện; chúng ta cần phải lắng nghe Thiên Chúa khi đọc Thánh Kinh; chúng ta cần phải chia sẻ với Ngài nỗi ước muốn của chúng ta và các niềm hy vọng của chúng ta, các niềm vui của chúng ta cùng các khốn khó của chúng ta, các thứ thua bại của chúng ta và các lời tạ ơn của chúng ta về tất cả những phúc lành của Ngài, nhờ đó hằng sống trước nhan Ngài như điểm tựa của đời sống của chúng ta. Có thế chúng ta mới càng nhận biết những suy yếu của mình mà cải tiến, thế nhưng chúng ta cũng tiến đến chỗ cảm nhận được tất cả những vẻ đẹp và sự thiện cúng ta nhận lãnh nhưng không hằng ngày và nhờ đó gia tăng lòng biết ơn. Nhờ lòng biết ơn chúng ta cảm thấy hân hoan là Thiên Chúa gần gũi chúng ta và chúng ta có thể phụng sự Ngài.

 

2.     Đối với chúng ta Thiên Chúa không chỉ là Lời. Nơi các bí tích Ngài ban chính bản thân mình cho chúng ta, qua các thực tại thể lý. Ở tâm điểm mối liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa và lối sống của chúng ta đó là Thánh Thể. Việc cử hành Thánh Thể một cách sốt sắng, nhờ đó gặp gỡ Chúa Kitô một cách riêng tư, phải là tâm điểm của tất cả mọi ngày sống của chúng ta. Theo Thánh Cyprian cắt nghĩa về Kinh Chúa dạy trong Phúc Âm, ‘xin cho chúng con hôm nay lương tực hằng ngày’, thánh nhận nói rằng trong số những sự khác thì lương thực ‘của chúng ta’ – lương thực chúng ta lãnh nhận như người Kitô hữu trong Giáo Hội – là chính Chúa Giêsu Thánh Thể. Bởi thế, nơi lời nguyện này của Kinh Lạy Cha, chúng ta cầu xin Ngài để Ngài ban cho chúng ta lương thực ‘của chúng ta’; để lương thực ấy có thể luôn luôn nuôi dưỡng đời sống của chúng ta; để Chúa Kitô Phục Sinh, Đấng ban mình cho chúng ta trong Thánh Thể, thực sự hình thành toàn thể cuộc đời của chúng ta bằng ánh quang rạng ngời của tình yêu thần linh Người. Việc cử hành Thánh Thể cách thích đáng bao gồm việc hiểu biết, ý thức và mến yêu phụng vụ Giáo Hội nơi hình thức cụ thể của phụng vụ. Nơi phụng vụ chúng ta cầu nguyện với thành phần tín hữu của hết mọi thời đại – quá khứ, hiện tại và tương lai đều hiệp lại thành một đại ca đoàn cầu nguyện. Theo kinh nghiệm bản thân của mình tôi có thể nói thật là hứng thú khi biết được tất cả những gì đã phát triển như thế nào, biết được cái cảm nghiệm cao cả của đức tin được phản ảnh nơi cấu trúc của Thánh Lễ như thế nào, và biết được làm thế nào nó được hình thành bằng việc cầu nguyện của nhiều thế hệ.

 

3.     Bí tích Thống Hối cũng quan trọng. Bí tích này dạy cho tôi thấy bản thân mình như Thiên Chúa thấy tôi, và bí tích ấy bắt tôi phải chân thành với bản thân mình. Bí tích ấy dẫn tới tới sự khiêm nhượng. Có lần Cha Sở Họ Ar nói: ‘Bạn nghĩ rằng chẳng có nghĩa gì cả nếu hôm nay được giải tội mà ngày mai bạn biết rằng bạn sẽ phạm lại cùng một tội ấy”. Ngài tiếp tục nói: “Tuy nhiên, Thiên Chúa quên  ngay các tội ngày mai để ban ơn cho các bạn hôm nay’. Cho dù chúng ta không phải tiếp tục chống chọi với cùng những sa phạm, cũng cần phải chống lại tính chất thô nhám của linh hồn chúng ta và tình trạng dửng dưng lạnh lùng chỉ muốn theo đường lối chúng ta đang sống. Đừng lo ngại mà cần phải thúc đẩy tiến lên với lòng tri ân nhận thức rằng Thiên Chúa hằng tiếp tục tha thứ cho chúng ta – tuy nhiên cũng đừng có thái độ dửng dưng lạnh lùng là những gì có thể dẫn chúng ta tới chỗ từ bỏ tất cả cuộc đối chọi nên thánh và tự cải tiến. Hơn nữa, để cho mình được thứ tha, tôi biết tha thứ cho kẻ khác. Nơi việc nhìn nhận nỗi hèn yếu của mình, tôi cần nhẫn nại và thông cảm hơn về những sa phạm của tha nhân.

 

4.     Tôi xin các bạn hãy tỏ ra coi trọng việc đạo đức phổ thông, tuy khác nhau theo các nền văn hóa nhưng bao giờ cũng rất giống nhau, vì tâm hồn của con người tối hậu cũng chỉ là một và như nhau. Chắc hẳn lòng đạo đức phổ thông có khuynh hướng về những gì là phi lý, và có những lúc trở thành một cái gì đóng nông cạn. Tuy nhiên sẽ hoàn toàn sai lầm khi loại trừ nó đi. Nhờ lòng đạo đức ấy, đức tin đã đi vào lòng con người và thuộc về gia sản chung của lòng cảm mến và những tập tục, hình thành đời sống và cảm xúc của cộng đồng. Lòng đạo đức phổ thông bao giờ cũng cần được thanh tẩy và tái tập trung, tuy nhiên, nó đáng cho chúng ta mộ mến và thực sự làm cho chúng ta thành ‘Dân Chúa’.

 

5.     Thời gian của các bạn trong chủng viện trước hết cũng là thời gian học hỏi. Đức tin Kitô giáo có một chiều kích thật sự là hữu lý và tri thức. Nếu nó thiếu chiều kích này thì nó không còn là mình nữa. Thánh Phaolô nói về một ‘tiêu chuẩn giảng dạy’ là những gì chúng ta được ký thác cho nơi Phép Rửa (Rm 6:17). Tất cả các bạn đều biết rằng những lời của Thánh Phêrô được các thần học gia thời trung cổ coi như là việc biện minh cho một nền thần học hữu lý và khoa học: “Hãy sẵn sàng tự vệ trước bất cứ ai muốn anh em cho biết về niềm hy vọng ở nơi anh em” (1Pt 3:15). Việc học biết để làm sao thực hiện được việc bênh vực như thế là một trong những trách vụ căn bản của những năm các bạn ở chủng viện. Tôi chỉ có thể xin các bạn như thế này: Hãy dấn thân học hành! Hãy lợi dụng những tháng năm học hành của mình! Các bạn sẽ không hối tiếc về nó. Chắc hẳn những môn các bạn đang học dường như hay tách rời khỏi việc thực hành của đời sống Kitô giáo và thừa tác mục vụ. Tuy nhiên hoàn toàn sai lầm khi bắt đầu đặt vấn đề giá trị thực tiễn của chúng bằng cách đặt vấn đề: Điều này liệu có giúp ích cho tôi trong tương lai hay chăng? Nó có hữu ích một cách cụ thể hay một cách mục vụ hay chăng? Vấn đề không phải chỉ học những điều hiển nhiên hữu ích mà còn hiểu biết và cảm nhận được cái cấu trúc nội tại của đức tin như toàn khối nữa, nhờ đó nó mới có thể trở thành một đáp ứng cho các vấn nạn của dân chúng, những vấn nạn bề ngoài thay đổi từ thế hệ này tới thế hệ khác nhưng tựu kỳ trung vẫn thế. Đó là lý do cần phải vượt ra ngoài những vấn đề thay đổi của một thời điểm để nắm bắt được những vấn đề thực sự, nhờ đó hiểu được đâu là những câu trả lời thực sự là các giải đáp. Cần phải có một kiến thức thấu đáo toàn vẹn về Thánh Kinh, nơi mối liên kết của cả Cựu Ước lẫn Tân Ước: việc hình thành các bản văn, những đặc tính văn chương của các bản văn này, tiến trình hình thành sổ bộ thánh kinh, mối hiệp nhất sinh động nội tại của thánh kinh, một mối hiệp nhất có thể không hiển hiện ngay trước mắt nhưng thực sự cống hiến cho từng bản văn trọn vẹn ý nghĩa của mình. Cần phải làm quen với các vị Giáo Phụ và các đại Công Đồng là những biến cố Giáo Hội đã thích đáng, qua việc suy tư tràn đầy đức tin, những phát biểu thiết yếu về Thánh Kinh. Tôi có thể nói tiếp một cách dễ dàng. Những gì chúng ta gọi là thần học tín lý là kiến thức về những gì chất chứa cá biệt của đức tin trong mối hiệp nhất của những chất chứa ấy, cái hiệp nhất thực sự là tính chất giản đơn tối hậu của chúng: mỗi một yếu tố riêng, cuối cùng, chỉ là một bộc lộ của đức tin chúng ta vào Vị Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã tỏ mình cho chúng ta và tiếp tục làm như thế. Tôi không cần nói tới tầm quan trọng của việc hiểu biết về những vấn đề thiết yếu của thần học luân lý và giáo huấn Công giáo về xã hội. Ngày nay tầm quan trọng của khoa thần học đại kết và của một kiến thức về các cộng đồng Kitô giáo khác nhau là những gì hiển nhiên; cần phải có một khóa nhập môn căn bản cho các tôn giáo chính chưa nói đến triết lý là kiến thức về tiến trình của con người trong việc vấn nạn và tìm kiếm những gì đức tin tìm cách đáp ứng. Thế nhưng các bạn cũng cần học để hiểu và – tôi dám nói – để yêu thích giáo luật, cảm nhận được sự cần thiết của khoa này và coi trọng những áp dụng cụ thể của nó: một xã hội không luạt lệ sẽ là một xã hội không có quyền lợi. Luật lệ là điều kiện của tình yêu. Tôi sẽ không tiếp tục với bản liệt kê này, nhưng tôi chỉ nói một lần nữa là việc yêu thích học hỏi khoa thần học và thi hành nó một cách ý thức rõ ràng là khoa thần học được gắn bó với cộng đồng sống động của Giáo Hội, một cộng đồng, bằng quyền bính của mình, không phải là phản đề của khoa thần học mà phỏng định của nó. Tách khỏi cộng đồng sống động này, khoa thần học sẽ không còn là mình nữa, thay vào đó, nó sẽ trở thành một thứ hỗn tạp của các môn học khác nhau thiếu mối hiệp nhất nội tâm. 

 

6.     Những năm các bạn ở chủng viện cũng cần phải một thời gian trưởng thành về tầm vóc con người nữa. Đối với vị linh mục, người được kêu gọi để hộ tống kẻ khác trong cuộc hành trình của cuộc đời cho đến ngưỡng cửa sự chết, cần phải có một mức quân bình đúng đắn giữa con tim và trí khôn, giữa lý trí và cảm tình, giữa thân xác và linh hồn, và trở nên toàn vẹn về nhân bản. Đối với các thần đức, truyền thống Kitô giáo luôn liên kết với các nhân đức trụ xuất phát từ kinh nghiệm và triết lý của con người, và một cách chung chung hơn, từ truyền thống đạo lý lành mạnh của nhân loại. Thánh Phaolô đã làm rất sáng tỏ vấn đề này với tín hữu giáo đoàn Philiphê: ‘Hỡi anh em, sau hết, bất cứ những gì là đúng, bất cứ những gì là khả kính, bất cứ những gì là chính đáng, bất cứ những gì là tinh tuyền, bất cứ những gì là mãn nguyện, bất cứ những gì là đáng khen, nếu có bất cứ những gì là tuyệt hảo và nếu có bất cứ những gì đáng ca ngợi, thì hãy nghĩ đến những điều ấy” (4:8). Vấn đề này cũng bao gồm cả việc hòa nhập của tính dục  với toàn thể con người. Tính dục là tặng ân của Đấng Hóa Công, tuy nhiên nó cũng là một công việc liên quan tới việc phát triển của con người hướng tới tầm mức trưởng thành về nhân bản. Khi nó không hòa nhập trong con người thì tính dục trở thành tầm thường và hủy diệt. Ngày n ay chúng ta có thể thấy nhiều thí dụ về vấn đề này nơi xã hội của chúng ta. Gần đây chúng ta đã hết sức chán nản thấy rằng có một số linh mục bôi bẩn thừa tác vụ linh mục của mình bằng việc lạm dụng tình dục trẻ em và giới trẻ. Thay vì hướng dẫn con người đạt đến tầm mức trưởng thành về nhân bản hơn nữa và nêu gương sáng cho họ thì hành vi cử chỉ lạm dụng của họ đã gây ra tai hại lớn lao khiến chúng ta hết sức cảm thấy hổ thẹn và hối tiếc.Vì hậu quả của tất cả những điều ấy, nhiều người, có lẽ thậm chí cả một số trong các bạn, có thể đặt vấn đề là làm linh mục có tốt hay chăng; việc chọn sống đời độc thân có ý nghĩa gì như là một lối sống thực sự là con người. Tuy nhiên, kể cả việc lạm dụng đáng trách nhất cũng không thể nào đánh mất đi uy tín của sứ vụ linh mục, một sứ vụ vẫn cao cả và tinh tuyền. Tạ ơn Chúa, tất cả chúng ta đều biết đến các vị linh mục gương mẫu, những con người được hình thành bởi đức tin của họ, những con người làm chứng rằng người ta có thể đạt được một nhân tính đích thực, tinh tuyền và trưởng thành ở đời sống này, đặc biệt là đời sống độc thân. Phải công nhận rằng những gì đã xẩy ra làm cho tất cả chúng ta càng tỉnh táo và canh chừng hơn nữa, chính vì để xem xét lại bản thân mình một cách tha thiết trước nhan Thiên Chúa, khi chúng ta tiến tới thiên chức linh mục, nhờ đó biết được đây có phải là ý Ngài muốn cho tôi hay chăng. Vị giải tội của các bạn và các bề trên của các bạn có trách nhiệm hỗ trợ các bạn và trên  con đường nhận thức này. Nó là một phần thiết yếu trong cuộc hành trình của các bạn trong việc thựa hành các nhân đức nhân bản nồng cốt, bằng ánh mắt của các bạn gắn chặt vào Vị Thiên Chúa là Đấng đã tỏ mình ra nơi Chúa Kitô, và bằng việc để mình được Ngài thanh tẩy cho mới mẻ hơn.

 

7.     Nguồn gốc của ơn gọi linh mục ngày nay khác nhau và tạp nham hơn trong quá khứ. Ngày nay quyết định làm linh mục thường được hình thành sau khi người ta đã đảm nhận một nghề nghiệp trần thế nào đó. Thường thì nó phát triển trong các Cộng đồng, đặc biệt là trong các Phong trào, những phong trào thiên về việc hội ngộ chung với Chúa Kitô và Giáo Hội của Người, thiên về các cảm nghiệm và niềm vui thiêng liêng trong việc phục vụ đức tin. Nó cũng chín mùi nơi chính việc gặp gỡ rất riêng tư với những gì là cao sang và hèn yếu của cuôc sống con người. Bởi thế, các dự sinh làm linh mục thường sống ở những lục địa rất khác nhau về thiêng liêng. Khó có thể nhận thấy được những yếu tố chung nơi trách nhiệm tương lai của người ta và đường lối thiêng liêng của nó. Chính vì lý do ấy mà chủng viện trở thành quan trọng như là một cộng đồng tiến bước bên trên và bên ngoài những khác biệt về linh đạo. Các Phong trào là một vấn đề sáng giá. Các bạn biết tôi trân quí chúng biết bao và yêu chuộng chúng như là một tặng ân của Thánh Linh cho Giáo Hội. Tuy nhiên, chúng cần phải được thẩm định bằng việc chúng cởi mở với những gì thật sự là Công giáo, với sự sống của toàn thể Giáo Hội Chúa Kitô, một sự sống có tính chất khác nhau đối với tất cả mọi người vẫn chỉ là một. Chủng viện là thời gian các bạn học với nhau và học nơi nhau. Trong đời sống cộng đồng, một đời sống có những lúc khó khăn, các bạn cần phải biết quảng đại và nhẫn nại, chẳng những chịu đựng nhau mà còn làm phong phú nhau, để mỗi người các bạn có thể đóng góp các tặng ân của mình cho toàn thể, như thể tất cả đều phục vụ cùng một Giáo Hội, cùng một Chúa. Học đường nhẫn nại này thật sự là việc chấp nhận lẫn nhau và thông cảm nhau trong mối hiệp nhất của Thân Mình Chúa Kitô, là một phần quan trọng của những năm ở chủng viện.

 

Các chủng sinh thân mến, với những giòng vắn vỏi này, tôi muốn các bạn biết rằng tôi thường nghĩ đến các bạn như thế nào, nhất là trong những lúc khó khăn đây, và tôi gần gũi với các bạn ra sao trong lời nguyện cầu. Xin cầu cho tôi với, để tôi thi hành tốt đẹp thừa tác vụ của tôi, bao lâu Chúa muốn. Tôi ký thác cuộc hành trình dọn mình làm linh mục của các bạn cho việc bảo vệ từ mẫu của Mẹ Maria Rất Thánh mà ngôi nhà của Mẹ là học đường của sự thiện hảo và ân sủng. Xin Thiên Chúa Toàn Năng chúc lành cho tất cả các bạn, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.

 

Tại Vatican ngày 18/10/2010 Lễ Thánh Tông Đồ Luca.

 

Thiết tha trong Chúa

Giáo Hoàng Biển Đức XVI

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch trực tiếp từ mạng điện toán toàn cầu của Tòa Thánh

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/letters/2010/documents/hf_ben-xvi_let_20101018_seminaristi_en.html