Tông Hun

 

LI CHÚA

 

ca

Đức Thánh Cha Bin Đức XVI

gi

Các V Giám Mc, Giáo Sĩ, Tu Sĩ và Giáo Dân

về

Li ca Thiên Chúa trong Đời Sng và S V ca Giáo Hi

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

chuyển dịch trực tiếp từ

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/apost_exhortations/documents/hf_ben-xvi_exh_20100930_verbum-domini_en.pdf

  

Phần Một

 Lời Thiên Chúa – Verbum Dei

 

“Từ ban đầu đă có Lời, và Lời ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa…

và Lời đă hóa thành nhục thể” (Jn 1:1,14)

 

 

Việc Dẫn Giải Thánh Kinh trong Giáo Hội

 

Mối nguy hiểm của nhị nguyên thuyết và của một thứ dẫn giải bị tục hóa

 

35.      Về vấn đề này, chúng ta cần phải đề cập tới cái nguy hiểm trầm trọng hiện nay về một đường lối nhị trùng đến với Thánh Kinh. Để phân biệt hai mức độ của đường lối đến với Thánh Kinh không có nghĩa là tách biệt chúng hay chống lại chúng, cũng không chỉ cặp đôi chúng. Chúng hiện hữu chỉ trong mối hỗ tương. Tiếc thay, một thứ phân rẽ vô bổ đôi khi tạo nên một chướng ngại vật giữa việc dẫn giải thánh kinh và khoa thần học, và điều này “xẩy ra thậm chí ở cả những mức độ hàn lâm cao nhất” (109). Ở đây tôi muốn đề cập tới những hậu quả đáng lo ngại nhất cần phải tránh. 

 

a) Trước hết và trên hết, nếu công việc của nhà dẫn giải thánh kinh được thu gọn vào nguyên tầm mức đầu tiên, th́ Thánh Kinh trở thành một cuốn sách chỉ thuộc về quá khứ mà thôi: “Người ta có thể rút tỉa từ nó các công hiệu về luân lư, người ta có thể biết lịch sử, thế nhưng Cuốn Sách này chỉ nói về quá khứ, và việc dẫn giải không c̣n thực sự có tính cách thần học mà trở thành một thứ ghi chép hoàn toàn về lịch sử, lịch sử của văn chương” (110). Hiển nhiên là một đường lối suy giảm như thế không bao giờ có thể hiểu được biến cố mạc khải của Thiên Chúa qua Lời của Ngài, một lời được truyền đạt cho chúng ta nơi Truyền Thống sống động và Thánh Kinh.

 

b) Vấn đề thiếu hụt đi một thứ dẫn giải về đức tin liên quan tới Thánh Kinh không phải chỉ là một thứ thiếu vắng; thay vào vị trí của nó là một thứ dẫn giải khác, một thứ thực chứng và là một thứ dẫn giải bị tục hóa mà cuối cùng theo niềm xác tín rằng Thần Linh không can thiệp vào lịch sử của nhân loại. Theo thứ dẫn giải này th́ bất cứ ở đâu dường như có một yếu tố thần linh th́ cần phải cắt nghĩa một cách nào đó khác đi, giảm thiểu hết mọi sự xuống thành yếu tố loài người. Điều này dẫn đến những giải thích chối bỏ tính chất lịch sử của các yếu tố thần linh (111).

 

c) Chủ trương này chỉ có thể tác hại tới đời sống của Giáo Hội, gây ngờ vực cho các mầu nhiệm chính yếu của Kitô giáo cũng như tính chất lịch sử của các mầu nhiệm ấy – chẳng hạn như việc thiết lập Thánh Thể và việc phục sinh của Chúa Kitô. Như thế là áp đặt một thứ dẫn giải theo triết lư, một dẫn giải phủ nhận cái khả thể là Thần Linh có thể tiến vào và hiện diện trong lịch sử. Việc thừa nhận thứ dẫn giải này trong những cucộc nghiên cứu về thần học không thể nào tránh được việc gây ra một cuộc phân rẽ đối chát giữa cuộc dẫn giải chỉ hạn hẹp ở tầm mức đầu tiên với khoa thần học hướng tới chỗ linh thiêng hóa ư nghĩa của Thánh Kinh, thứ thần học sẽ không tôn trọng tính chất lịch sử của mạc khải. Tất cả những điều ấy cũng chất chứa một thứ tác dụng tiêu cực nơi đời sống thiêng liêng và hoạt động mục vụ; “v́ không có tầm mức thứ hai của khoa phương pháp học mà một vực thẳm sâu xa đă mở ra giữa việc dẫn giải theo khoa học và lectio dinina. Điều này có thể gây ra t́nh trạng thiếu sáng tỏ trong vấn đề soạn dọn các bài giảng” (112). Cũng cần phải nói rằng cái phân rẽ này có thể tạo nên lầm lẫn và thiếu tính chất vững vàng trong việc huấn luyện về tri thức cho các dự sinh thi hành các thừa tác vụ của giáo hội (113). Tóm lại, “bao lâu việc dẫn giải thánh kinh không phải là thần học, th́ Thánh Kinh không thể nào là linh hồn của thần học, ngược lại, bao lâu thần học không thiết yếu là việc giải thích Thánh Kinh của Giáo Hội th́ thần học ấy không c̣n nền tảng nữa” (114). Bởi thế, chúng ta cần thận trọng hơn nữa chú ư tới những qui định của Hiến Chế Tín Lư Dei Verbum về vấn đề này.

(c̣n tiếp)