Tông Hun

 

LI CHÚA

 

ca

Đức Thánh Cha Bin Đức XVI

gi

Các V Giám Mc, Giáo Sĩ, Tu Sĩ và Giáo Dân

về

Li ca Thiên Chúa trong Đời Sng và S V ca Giáo Hi

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

chuyển dịch trực tiếp từ

http://www.vatican.va/holy_father/benedict_xvi/apost_exhortations/documents/hf_ben-xvi_exh_20100930_verbum-domini_en.pdf

  

Phần Một

 Lời Thiên Chúa – Verbum Dei

 

“Từ ban đầu đă có Lời, và Lời ở với Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa…

và Lời đă hóa thành nhục thể” (Jn 1:1,14)

 

 

Việc Dẫn Giải Thánh Kinh trong Giáo Hội

 

 

Giáo Hội như khung cảnh chính yếu cho việc dẫn giải thánh kinh

 

29.      Một đề tài chính khác được nêu lên trong Thượng Nghị giờ đây tôi muốn lưu ư tới đó là việc dẫn giải Thánh Kinh trong Giáo Hội. Mối liên hệ nội tại giữa Lời và đức tin là những ǵ làm sáng tỏ là việc dẫn giải xác thực về thánh kinh chỉ có thể thực hiện trong đức tin của Giáo Hội, một đức tin theo khuôn mẫu nơi lời fiat của Mẹ Maria. Thánh Bonaventura nói rằng không có đức tin cũng không có chiếc ch́a khóa để mở sách thánh: “Chiếc ch́a khóa này là kiến thức về Chúa Giêsu Kitô, Đấng từ Người, như từ một suối nước, chảy ra niềm tin tưởng và hiểu biết toàn bộ Thánh Kinh. Bởi thế, bất cứ ai cũng không thể nào đạt được kiến thức về sự thật này trừ phi trước hết họ được thấm nhiễm niềm tin tưởng nơi Chúa Kitô, Đấng là đèn sáng, là cổng vào và là nền tảng cho tất cả Thánh Kinh” (84). Và Thánh Toma Aquinas, trích dẫn lời Thánh Âu Quốc Tinh, đă nhấn mạnh rằng “chữ nghĩa, thậm chí của Phúc Âm, sẽ là những ǵ sát hại, nếu không có ân sủng bên trong của niềm tin chữa lành” (85). Ở đây chúng ta có thể vạch ra một tiêu chuẩn căn bản cho việc dẫn giải Thánh Kinh: khung cảnh chính yếu cho việc giải thích thánh kinh đó là đời sống của Giáo Hội. Đây không phải là việc chấp nhận môi trường Giáo Hội như là một thứ qui luật ngoại tại chi phối thành phần dẫn giải Lời Chúa, mà là những ǵ được đ̣i hỏi bởi chúng bản chất của Thánh Kinh và là đường lối được từ từ h́nh thành. “Các truyền thống đức tin đă h́nh thành môi trường sống động cho hoạt động văn chương của các tác giả Thánh Kinh. Việc hội nhập các truyền thống này vào môi trường ấy cũng bao gồm cả một thứ chia sẻ vào cả đời sống về phụng vụ và ngoại tại của các cộng đồng, nơi thế giới tri thức của họ, nơi văn hóa của họ và nơi cuộc thăng trầm lịch sử chung của họ. Trong cùng một cách thức như thế, việc giải thích Thánh Kinh đ̣i thành phần dẫn giải thánh kinh phải hoàn toàn tham dự vào đời sống và đức tin của cộng đồng tin tưởng vaà thời điểm của họ” (86). Bởi thế, “v́ Thánh Kinh cần phải được đọc và giải thích theo chiều hướng của cùng Vị Thần Linh linh ứng viết Thánh Kinh” (87), các nhà dẫn giải thánh kinh, thần học gia và toàn thể Dân Chúa cần phải tiến tới với Thánh Kinh như những ǵ Thánh Kinh thực sự là, là Lời Chúa được chuyển đạt cho chúng ta qua ngôn ngữ loài người (cf. 1 Th 2:13). Đó là một luận cứ liên tục ẩn tàng trong chính Thánh Kinh: “Không lời tiên tri nào trong thánh kinh là vấn đề tùy theo con người giải thích, v́ không có lời tiên tri nào bị chi phối bởi tác lực của con người, nhưng con người được Thánh Linh tác động để nói những ǵ Thiên Chúa muốn” (2 Pet 1:20-21). Ngoài ra, chính đức tin của Giáo Hội nhận biết Lời Chúa trong Thánh Kinh; như Thánh Âu Quốc Tinh nêu lên một cách đáng ghi nhớ rằng: “Tôi sẽ không tin Phúc Âm, nếu thẩm quyền của Giáo Hội Công giáo không khiến tôi làm như thế” (88). Thánh Linh, Đấng ban cho Giáo Hội sự sống, giuú chúng ta có thể giải thích Thánh Kinh một cách có thế giá. Thánh Kinh là cuốn sách của Giáo Hội, và vị trí thiết yếu của Thánh Kinh trong đời sống của Giáo Hội làm phát sinh ra việc giải thích xác thực của Thánh Kinh.

 

30.      Thánh Giêrônimô nhắc lại rằng chúng ta đừng bao giờ chỉ tự ḿnh đọc Thánh Kinh. Chúng ta đụng phải nhiều cánh cửa bịt bùng và chúng ta dễ dàng rơi vào sai lầm. Thánh Kinh được viết bởi Dân Chúa và cho Dân Chúa, dưới sự linh ứng của Thánh Linh. Chỉ trong mối hiệp thông này với Dân Chúa chúng ta với tư cách như là một “cái chúng ta” mới có thể tiến vào tâm điểm của sự thật được chính Thiên Chúa muốn truyền đạt cho chúng ta (89). Thánh Giêrônimô, v́ chủ trương rằng “không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô” (90), đă nói rằng chiều kích giáo hội của việc giải thích Thánh Kinh không phải là một đ̣i hỏi bị áp đặt từ bên ngoài: Cuốn Sách này là chính tiếng nói của thành phần Dân Thiên Chúa lữ hành, và chị ở trong đức tin của Dân này, chúng ta có thể nói trở nên am hợp để hiểu được Thánh Kinh. Việc giải thích Thánh Kinh một cách xác thực bao giờ cũng cần phải ḥa hợp với đức tin của Giáo Hội Công giáo. Bởi thế thánh nhân đă viết cho một vị linh mục rằng: “Hăy mạnh mẽ gắn bó với tín lư truyền thống con đă được truyền dạy, nhờ đó con mới có thể huấn dụ theo tín lư lành mạnh và làm tiêu tán những ǵ phản nghịch nó” (91).

 

Những phương thức tiến đến với Sách Thánh không quan tâm ǵ tới đức tin có thể gợi lên được những yếu tố hay ho ở lănh vực cấu trúc và h́nh thức của bản văn, thế nhưng chắc chắn cho thấy chúng chỉ là những nỗ lực không hoàn toàn về sơ bộ lẫn cấu trúc. Như Ủy Ban Thánh Kinh của Ṭa Thánh, qua việc làm âm vang một nguyên tắc được chấp nhận của vấn đề dẫn giải thánh kinh tân thời, đă nói: “phương tiện để tiến đến chỗ hiểu biết một cách thích đáng các bản văn thánh kinh chỉ được ban cho những ai có một mối quan hệ với những ǵ bản văn này đang nói căn cứ vào kinh nghiệm của đời sống” (92). Tất cả những điều này giúp làm sáng tỏ hơn mối liên hệ giữa đời sống thiêng liêng và việc dẫn giải thánh kinh. “Khi dộc giả trưởng thành trong đời sống theo Thần Linh, th́ họ cũng phát triển khả năng hiểu biết những thực tại được Thánh Kinh nói tới” (93). Cường độ của một cảm nghiệm đích thực về giáo hội chỉ có thể dẫn tới chỗ phát triển kiến thức xác thực trong đức tin liên quan tới Thánh Kinh; trái lại, việc đọc Thánh Kinh theo đức tin dẫn tới chỗ phát triển vào chính đời sống của Giáo Hội. Ở đây, một lần nữa, chúng ta có thể thấy sự thật về lời quả quyết danh tiếng của Thánh Grêgôriô Cả: “Những lời thần linh cùng lớn lên với những ai đọc những lời thần linh này” (94). Việc lắng nghe Lời Chúa dẫn vào và phát triển mối hiệp thông của giáo hội với tất cả những ai tiêá b ước theo đức tin.

 

“Linh hồn của khoa thần học thánh”

 

31.      “Việc học hỏi các trang sách thánh thực sự phải là chính linh hồn của khoa thần học” (95); lời trích dẫn này từ Hiến Chế Tín Lư Dei Verbum qua nhiều năm tháng càng ngày càng trở nên quen thuộc. Thành phần học giả về thần học và dẫn giải thánh kinh, trong giai đoạn sau Công Đồng Chung Vaticanô II, đă thường qui chiếu về lời bày tỏ này như là những ǵ tiêu biểu cho việc tái chuyên chú tới Thánh Kinh. Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới XII cũng thường ám chỉ tới câu nói thời danh này để bày tỏ mối liên hệ giữa việc nghiên cứu về lịch sử với một thứ giải thích của đức tin liên quan tới sách thánh. Các Nghị Phụ hân hoan công nhận rằng việc học hỏi Lời Chúa trong Giáo Hội đă phát triển trong những thập niên mới đây, và các vị bày tỏ niềm tri ân chân thành tới nhiều thánh kinh dẫn giải gia và thần học gia, bằng việc hiến dâng, dấn thân và khả năng, tiếp tục thực hiện việc đóng góp thiết yếu vào việc hiểu biểt sâu xa hơn ư nghĩa của Thánh Kinh, như khi họ giải quyết các vấn đề phức tạp gây khó khăn cho những việc nghiên cứu thánh kinh trong thời đại của chúng ta (96). Niềm tri ân chân thành cũng được bày tỏ cùng các phần tử thuộc Ủy Ban Thánh Kinh của Ṭa Thánh, quá khứ cũng như hiện tại, thành phần hợp tác chặt chẽ với Thánh Bộ Tín Lư Đức Tin, tiếp tục cống hiến khả năng chuyên môn của ḿnh trong việc khảo xét những vấn đề đặc biệt được nêu lên từ việc học hỏi Thánh Kinh. Thượng Nghị này cũng cảm thấy cần phải nh́n vào hiện trạng của các việc học hỏi thánh kinh cùng với chỗ đứng của việc học hỏi này trong lănh vực của khoa thần học. Thành quả về mục vụ của hoạt động Giáo Hội cũng như của đời sống thiêng liêng nơi thành phần tín hữu lệ thuộc phần lớn vào hoa trái của mối liên hệ giữa việc dẫn giải thánh kinh với khoa thần học. Đó là lư do tôi cảm thấy quan trọng để nêu lên một vào chia sẻ xuất phát trong cuộc bàn luận về đề tài này trong các phiên họp của Thượng Nghị.

 

Việc phát triển các cuộc nghiên cứu Thánh Kinh và Huấn quyền của Giáo Hội

 

32.      Trước hết mọi sự, chúng ta cần nh́n nhận các ích lợi được việc dẫn giải b́nh luận theo lịch sử và các phương pháp mới được khai triển về việc phân tích bản văn đă mang lại sinh động cho Giáo Hội (97). Đối với kiến thức của Công giáo về Thánh Kinh th́ việc chú ư tới các phương pháp như vậy là những ǵ bất khả châm chước, những phương pháp thực sự có liên hệ tới việc hiện thức của biến cố Nhập Thể: “Nhu cầu này là thành quả của nguyên tắc Kitô giáo được công thức hóa theo Phúc Âm Thánh Gioan 1:14: Verbum caro factum est - Lời đă hóa thành nhục thể. Sự kiện về lịch sử là một chiều kích cấu tạo nên đức tin Kitô giáo. Lịch sử cứu độ không phải là một khoa phương pháp học, mà là một lịch sử thực sự, và v́ thế nó cần phải được nghiên cứu học hỏi bằng những phương pháp nghiên cứu nghiêm chỉnh về lịch sử” (98). Việc nghiên cứu học hỏi Thánh Kinh đ̣i phải có một kiến thức về những phương pháp thẩm tra này cùng với việc áp dụng xứng hợp của chúng. Cho dù thật sự là thành phần học giả đă bày tỏ nhiều cảm nhận của họ về tầm quan trọng của những phương pháp này trong giai đoạn tân tiến, cho dù không phải ở cùng một tầm mức ở hết mọi nơi, tuy nhiên truyền thống lành mạnh của Giáo Hội bao giờ cũng chứng tỏ một tấm ḷng quí mến đối với việc nghiên cứu học hỏi về “chữ nghĩa”. Ở đây chúng ta chỉ cần nhắc lại nền văn hóa đan tu, một nền văn hóa là nền tảng tối hậu của văn hóa Âu Châu; ở tận căn gốc của nó là một mối quan tâm về Lời. Ḷng ước muốn Thiên Chúa bao gồm t́nh yêu đối với Lời ở tất cả mọi chiều kích của nó: “v́ nơi lời của Thánh Kinh, Thiên Chúa đến với chúng ta và chúng ta đến với Ngài, chúng ta cần phải biết thấm nhập cái bí mật của ngôn ngữ, để hiểu được ngôn ngữ ấy với cấu trúc của nó và thể thức diễn tả của nó. Bởi thế, v́ việc t́m kiếm Thiên Chúa mà các khoa học trần thế dẫn đến chỗ hiểu biết hơn ngôn ngữ đă trở thành những ǵ là quan trọng” (99). 

 

33.      Huấn quyền sống động của Giáo Hội, một huấn quyền có trách nhiệm “cống hiến một dẫn giải xác thực Lời Chúa, hoặc bằng h́nh thức thành văn hay bằng h́nh thức truyền thống” (100), đă can thiệp một cách khéo léo và quân b́nh liên quan tới việc xác đáng đáp ứng với vấn đề giới thiệu những phương pháp mới mẻ về sự phân  tích theo lịch sử. Tôi đặc biệt nghĩ đến các Thông Điệp Providentissimus Deus của Đức Giáo Hoàng Leo XIII và Divino Afflante Spiritu của Đức Giáo Hoàng Pius XII. Vị tiền nhiệm khả kính của tôi Gioan Phaolô II đă nhắc lại tầm quan trọng của những văn kiện ấy nhân dịp mừng kỷ niệm 100 năm và 50 năm việc ban hành hai thông điệp này (101). Việc can thiệp của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII đă có công bênh vực việc bảo vệ sự dẫn giải Thánh Kinh của Công giáo khỏi cuộc xâm nhập của chủ nghĩa duy lư, tuy nhiên vẫn không t́m cách ẩn náu vào một ư nghĩa thiêng liêng tách khỏi lịch sử. Chẳng những không xa tránh việc nhận định về khoa học, Giáo Hội chỉ tỏ ra thận trọng về “những ư nghĩ tiền thức chủ trương cần phải đặt trên khoa học, thế nhưng thực tế lại là những ư nghĩ lén lút làm cho khoa học tách ĺa khỏi lănh vực của nó” (102). Đức Giáo Hoàng Piô XII lại phải đương đầu với những cuộc tấn công về phần những ai đề ra một thứ dẫn giải được gọi là dẫn giải thần bí loại trừ đi bất cứ h́nh thức theo phương thức khoa học nào. Thông Điệp Divino Afflante Spiritu đă cẩn thận tránh đi bất cứ gợi ư nào về một thứ phân đôi giữa “viện dẫn giải thánh kinh theo khoa học” để sử dụng vào vấn đề hộ giáo với “việc giải thích thiêng liêng nhắm đến việc sử dụng nội bộ”; trái lại, Thông Điệp này đă khẳng định cả “ư nghĩa thần học của nghĩa đen được xác định theo phương pháp” và sự kiện là “việc quyết định ư nghĩa thiêng liêng… tự nó thuộc về lănh giới của khoa học dẫn giải thánh kinh” (103). Như thế, cả hai văn kiện đă loại trừ “một thứ phân rẽ giữa nhân loại và thần linh, giữa việc nghiên cứu theo khoa học và việc tôn trọng đức tin, giữa nghĩa đen và nghĩa thiêng liêng” (104). Việc cân bằng này sau đó được duy tŕ bởi văn kiện năm 1993 của Ủy Ban Thánh Kinh của Ṭa Thánh: “trong việc dẫn giải thánh kinh của ḿnh, các nhà dẫn giải Công giáo không bao giờ được quên rằng những ǵ họ đang dẫn giải là Lời Chúa. Công việc chung của họ không hoàn trọn khi họ chỉ khẳng định về các mạch nguồn, xác định các h́nh thức hay giải thích về những phương thức theo văn tự. Họ đạt được đích điểm thực sự của công việc họ làm chỉ khi nào họ giải thích ư nghĩa của bản văn thánh kinh như là Lời Chúa cho ngày hôm nay” (105).

 

Việc dẫn giải Thánh Kinh của Công Đồng: Một hướng dẫn cần phải được thấm nhuần

 

34.      Trên căn bản này, người ta có thể cảm nhận hơn nữa những nguyên tắc quan trọng của việc giải thích thích đáng với việc dẫn giải thánh kinh của Công giáo được Công Đồng Chung Vaticanô II đề ra, nhất là trong Hiến Chế Tín Lư Lời Chúa: “Vấn đề ở đây là, trong Thánh Kinh, Thiên Chúa nói qua con người theo cách thức loài người, nên các nhà giải thích Thánh Kinh, nếu muốn nắm bắt được những ǵ Thiên Chúa muốn truyền đạt cho chúng ta, cần phải thận trọng t́m kiếm ư nghĩa thực sự có trong trí óc của những vị tác giả thánh, một thứ ư nghĩa được Thiên Chúa đă nghĩ đến đâu vào đấy để tỏ ra nhờ môi giới lời lẽ của các vị” (106). Một mặt Công Đồng nhấn mạnh đến việc nghiên cứu học hỏi về các thể loại văn chương cùng bối cảnh lịch sử như là những yếu tố căn bản để hiểu được ư nghĩa muốn viết ra bởi các vị tác giá thánh. Đàng khác, v́ Thánh Kinh cần phải được cắt nghĩa theo cùng Vị Thần Linh đă linh ứng viết ra các cuốn Sách Thánh, mà Hiến Chế Tín Lư này đă nêu lên 3 tiêu chuẩn để cảm nhận được chiều kích thần linh của Thánh Kinh: 1) bản văn cần phải được giải thích bằng cách lưu ư tới mối hiệp nhất của toàn bộ Thánh Kinh; ngày nay điều này được gọi là dẫn giải thánh kinh theo qui tắc của Giáo Hội; 2) việc giải thích được lấy từ Truyền Thống sống động của toàn thể Giáo Hội; và sau hết, 3) cần phải tỏ ra tôn trọng vấn đề suy loại về đức tin. “Chỉ khi nào cả hai lănh vực về phương pháp học là phương pháp b́nh luận về lịch sử và phương pháp về thần học, được tôn trọng th́ người ta mới có thể nói về một thứ dẫn giải thánh kinh theo thần học, một thứ dẫn giải thánh kinh xứng đáng với cuốn sách ấy” (107). Các Nghị Phụ của Thượng Nghị đă nói rằng hoa trái tốt đẹp mang lại nhờ việc sử dụng việc nhiên cứu phương pháp tân tiến b́nh luận theo lịch sử là những ǵ bất khả phủ nhận. Trong khi việc dẫn giải thánh kinh theo hàn lâm, bao gồm việc dẫn giải của các học giả Công giáo, có khả năng cao trong lănh vực của khoa phương pháp học b́nh luận về lịch sử và những phát triển mới nhất của nó, cũng cần phải nói rằng cần phải tương đối chăm chú tới chiều kích thần học của các bản văn Thánh Kinh, nhờ đó những bản văn này mới có thể được hiểu sâu xa hơn theo 3 yếu tố được Hiến Chế Tín Lư Dei Verbum đề cập tới (108).

 

Mối nguy hiểm của nhị nguyên thuyết và của một thứ dẫn giải bị tục hóa

 

35.      Về vấn đề này, chúng ta cần phải đề cập tới cái nguy hiểm trầm trọng hiện nay về một đường lối nhị trùng đến với Thánh Kinh. Để phân biệt hai mức độ của đường lối đến với Thánh Kinh không có nghĩa là tách biệt chúng hay chống lại chúng, cũng không chỉ cặp đôi chúng. Chúng hiện hữu chỉ trong mối hỗ tương. Tiếc thay, một thứ phân rẽ vô bổ đôi khi tạo nên một chướng ngại vật giữa việc dẫn giải thánh kinh và khoa thần học, và điều này “xẩy ra thậm chí ở cả những mức độ hàn lâm cao nhất” (109). Ở đây tôi muốn đề cập tới những hậu quả đáng lo ngại nhất cần phải tránh. 

 

a) Trước hết và trên hết, nếu công việc của nhà dẫn giải thánh kinh được thu gọn vào nguyên tầm mức đầu tiên, th́ Thánh Kinh trở thành một cuốn sách chỉ thuộc về quá khứ mà thôi: “Người ta có thể rút tỉa từ nó các công hiệu về luân lư, người ta có thể biết lịch sử, thế nhưng Cuốn Sách này chỉ nói về quá khứ, và việc dẫn giải không c̣n thực sự có tính cách thần học mà trở thành một thứ ghi chép hoàn toàn về lịch sử, lịch sử của văn chương” (110). Hiển nhiên là một đường lối suy giảm như thế không bao giờ có thể hiểu được biến cố mạc khải của Thiên Chúa qua Lời của Ngài, một lời được truyền đạt cho chúng ta nơi Truyền Thống sống động và Thánh Kinh.

 

b) Vấn đề thiếu hụt đi một thứ dẫn giải về đức tin liên quan tới Thánh Kinh không phải chỉ là một thứ thiếu vắng; thay vào vị trí của nó là một thứ dẫn giải khác, một thứ thực chứng và là một thứ dẫn giải bị tục hóa mà cuối cùng theo niềm xác tín rằng Thần Linh không can thiệp vào lịch sử của nhân loại. Theo thứ dẫn giải này th́ bất cứ ở đâu dường như có một yếu tố thần linh th́ cần phải cắt nghĩa một cách nào đó khác đi, giảm thiểu hết mọi sự xuống thành yếu tố loài người. Điều này dẫn đến những giải thích chối bỏ tính chất lịch sử của các yếu tố thần linh (111).

 

c) Chủ trương này chỉ có thể tác hại tới đời sống của Giáo Hội, gây ngờ vực cho các mầu nhiệm chính yếu của Kitô giáo cũng như tính chất lịch sử của các mầu nhiệm ấy – chẳng hạn như việc thiết lập Thánh Thể và việc phục sinh của Chúa Kitô. Như thế là áp đặt một thứ dẫn giải theo triết lư, một dẫn giải phủ nhận cái khả thể là Thần Linh có thể tiến vào và hiện diện trong lịch sử. Việc thừa nhận thứ dẫn giải này trong những cucộc nghiên cứu về thần học không thể nào tránh được việc gây ra một cuộc phân rẽ đối chát giữa cuộc dẫn giải chỉ hạn hẹp ở tầm mức đầu tiên với khoa thần học hướng tới chỗ linh thiêng hóa ư nghĩa của Thánh Kinh, thứ thần học sẽ không tôn trọng tính chất lịch sử của mạc khải. Tất cả những điều ấy cũng chất chứa một thứ tác dụng tiêu cực nơi đời sống thiêng liêng và hoạt động mục vụ; “v́ không có tầm mức thứ hai của khoa phương pháp học mà một vực thẳm sâu xa đă mở ra giữa việc dẫn giải theo khoa học và lectio dinina. Điều này có thể gây ra t́nh trạng thiếu sáng tỏ trong vấn đề soạn dọn các bài giảng” (112). Cũng cần phải nói rằng cái phân rẽ này có thể tạo nên lầm lẫn và thiếu tính chất vững vàng trong việc huấn luyện về tri thức cho các dự sinh thi hành các thừa tác vụ của giáo hội (113). Tóm lại, “bao lâu việc dẫn giải thánh kinh không phải là thần học, th́ Thánh Kinh không thể nào là linh hồn của thần học, ngược lại, bao lâu thần học không thiết yếu là việc giải thích Thánh Kinh của Giáo Hội th́ thần học ấy không c̣n nền tảng nữa” (114). Bởi thế, chúng ta cần thận trọng hơn nữa chú ư tới những qui định của Hiến Chế Tín Lư Dei Verbum về vấn đề này.

 

Đức tin và lư trí đối với Thánh Kinh

 

36.      Tôi tin rằng những ǵ Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đă viết về vấn đề này trong Thông Điệp Đức Tin và Lư Trí – Fides et Ratio của ngài, có thể giúp hiểu trọn vẹn hơn việc dẫn giải Thánh Kinh và mối liên hệ của việc dẫn giải này với toàn thể khoa thần học. Ngài đă nói rằng chúng ta không được coi thường “mối nguy hiểm sẵn có trong việc t́m cách rút lấy sự thật của Thánh Kinh từ việc sử dụng chỉ duy một phương pháp mà thôi, trong khi không lưu ư tới nhu cầu cần phải thực hiện một thứ dẫn giải toàn diện hơn giúp cho nhà dẫn giải, cùng với toàn thể Giáo Hội, đạt được ư nghĩa trọn vẹn của các bản văn. Những ai dấn thân học hỏi Thánh Kinh bao giờ cũng cần phải nhớ rằng những phương thức khác nhau của việc dẫn giải ư nghĩa có những trụ cột của ḿnh, cần phải cẩn thận thẩm định trước khi chúng được áp dụng vào các bản văn thánh” (115).     

 

Tư tưởng nh́n xa trông rộng này giúp chúng ta có thể thấy được một phương thức dẫn giải ư nghĩa đối với Thánh Kinh thể hiện ra sao về mối liên hệ thích đáng giữa đức tin và lư trí. Thật vậy, việc giải thích bị tục hóa về thánh kinh là sản phẩm của nỗ lực lư trí về cấu trúc loại trừ bất cứ khả thể diúp Thiên Chúa có thể tiến vào đời sống của chúng ta và nói với chúng ta bằng ngôn ngữ loài người. Cả ở đây nữa, chúng ta cần phấn khích một thứ nới rộng phạm trù của lư trí (116).  Trong việc áp dụng các phương pháp phân tích lịch sử, không được chiều theo một qui chuẩn nào vạch ra trước việc Thiên Chúa tự tỏ ḿnh ra trong lịch sử nhân loại. Mối hiệp nhất giữa hai tầm mức đang diễn tiến trong việc giải thích Thánh Kinh bao hàm thành một chữ là việc ḥa hợp của đức tin và lư trí.  Đàng khác, cần có một đức tin mà, nhờ bảo tŕ mối liên hệ thích đáng với lư trí đúng thực, không bao giờ lại thoái hóa thành chủ nghĩa duy tín, một chủ nghĩa trong trường hợp Thánh Kinh sẽ đâm đầu vào chủ nghĩa bảo thủ. Đàng khác, nó cũng cần đến cả một thứ lư trí mà, trong việc thẩm tra về các yếu tố lịch sử hiện diện trong Thánh Kinh, được đánh dấu bằng việc cởi mở và không loại trừ a priori bất cứ sự ǵ vượt ra ngoài tầm mức đối chiếu của nó.  Ở bất cứ trường hợp nào, tôn giáo của Lời nhập thể, khó có thể thất bại để sâu xa trở thành hữu lư cho bất cứ ai, thành phần thành tâm t́n kiếm sự thật và ư nghĩa tối hậu cho đời sống và lịch sử của họ.   

 

Ư nghĩa văn tự và ư nghĩa thiêng liêng

 

37.      Một đóng góp quan trọng vào việc tái phục hồi một thứ dẫn nghĩa thánh kinh thích đáng, như Thượng Nghị Giám Mục nhắc tới, cũng xuất phát từ việc tái chú trọng tới các Vị Giáo Phụ của Giáo Hội cùng với phương thức dẫn nghĩa thánh kinh của các vị (117). Các Vị Giáo Phụ của Giáo Hội cho thấy một khoa thần học vẫn c̣n giá trị lớn lao cho đến ngày nay, v́ tâm điểm của phương thức này là việc học hỏi nghiên cứu thánh kinh như là một toàn bộ. Thật vậy, các Vị Giáo Phụ chính yếu và thực sự là những nhà dẫn giải Thánh Kinh” (118). Gương của họ có thể “dạy cho thành phần dẫn giải tân thời về thánh kinh một phương phức thực sự là đạo nghĩa đối với Thánh Kinh, và cũng là một thứ giải thích luôn hợp với các qui chuẩn về hiệp thông với kinh nghiệm của Giáo Hội, một Giáo Hội hầh tŕnh qua gịng lịch sử theo hướng dẫn của Thánh Linh” (119).

 

Trong khi vấn đề rơ ràng là thiếu những phương tiện về ngữ văn và lịch sử trong tầm tay của việc dẫn giải tân tiến về thánh kinh, th́ tuyền thống giáo phụ và thời trung cổ lại có thể thấy được các ư nghĩa khác nhau của Thánh Kinh, bắt đầu bằng nghĩa đen, tức là “cái ư nghĩa được chuyển đạt bởi những lời của Thánh Kinh và được khám phá ra nhờ việc dẫn giải theo đúng các qui luật của việc giải thích lành mạnh” (120). Thánh Thomas Aquinas chẳng hạn, đă nói rằng “tất cả mọi ư nghĩa của Thánh Kinh đều căn cứ vào nghĩa đen” (121). Tuy nhiên, cần phải nhớ rằng ở vào thời các thánh giáo phụ và thời trung cổ hết mọi h́nh thức dẫn giải thánh kinh, bao gồm cả h́nh thức về văn từ, đều được thực hiện dựa trên đức tin, mà không cần phải phân biệt giữa nghĩa đen nghĩa thiêng liêng. Về vấn đề này người ta có thể đề cập tới hai câu thơ cho thấy mối liên hệ giữa các ư nghĩa khác nhau của Thánh Kinh:

 

Littera gesta docet, quid credas allegoria, Moralis quid agas, quo tendas anagogia - Chữ nghĩa th́ nói về việc làm; nghĩa bóng nói về sự thật; nghĩa luân lư nói về hành động của chúng ta; nghĩa thần bí nói về định mệnh của chúng ta” (122)

 

Ở đây chúng ta có thể thấy được mối hiệp nhất và tương liên giữa nghĩa đen nghĩa thiêng liêng, là nghĩa về phần ḿnh được phụ cia thành 3 ư nghĩa liên quan tới nội dung của đức tin, tới đời sống luân lư cũng như tới khát vọng cánh chung của chúng ta.

 

Tóm lại, trong khi nh́n nhận tính chất hiệu thành và cần thiết, cũng như các giới hạn, của phương pháp b́nh luận về lịch sử, chúng ta học được từ các Vị Giáo Phụ là việc dẫn giải thánh kinh “thực sự trung thành với ư hướng thích đáng của các sách thánh khi việc này chẳng những tiến đến tâm điểm của các cuốn sách ấy để thấy được thực tại của đức tin được diễn tả ở đó, mà c̣n t́m cách liên hệ thực tại này với cảm nghiệm của đức tin trong thế giới hiện tại của chúng ta” (123). Chỉ khi nào hướng về chân trời này chúng ta mới nhận thấy rằng Lời Chúa là những ǵ sống động và được ngỏ cùng từng người chúng ta ở nơi đây và vào lúc này đây của cuộc đời chúng ta. Theo chiều hướng ấy, định nghĩa của Ủy Ban Thánh Kinh của Ṭa Thánh về ư nghĩa thiêng liêng, như được hiểu bởi đức tin Kitô giáo, vẫn hoàn toàn c̣n nguyên giá trị của nó: nó là “ư nghĩa được bày tỏ bởi các sách thánh kinh khi đọc lên dưới tác động của Thánh Linh, trong bối cảnh của mầu nhiệm Chúa Kitô vượt qua cũng như của sự sống mới từ đó xuất phát. Bối cảnh này thực sự hiện hữu. Nơi bối cảnh ấy Tân Ước nh́n nhận việc nên trọn của các Sách Thánh. V́ thế hết sức đáng đọc lại Thánh Kinh theo chiều hướng của bối cảnh mới này, bối cảnh về sự sống trong Thần Linh” (124).

 

Nhu cầu cần vượt lên trên “chữ nghĩa”

 

38.      Vic tái nhn thc vai tṛ tương giao gia các ư nghĩa khác nhau ca Thánh Kinh bi thế tr thành nhng ǵ thiết yếu để thy rơ được cuc vượt qua t văn t ti tinh thn. Đây không phi là mt cuc vượt qua t động, t phát; trái li, văn t cn phi được siêu vit hơn: “Li Chúa không bao gi ch là nhng ǵ ngang hàng vi văn t ca cun sách. Để đạt đến cuc vượt qua này cn phi được tiến hành và tri qua mt tiến tŕnh hiu biết được hướng dn bi tác động ni tâm ca toàn cc th, và do đó nó cũng cn phi tr thành mt tiến tŕnh quan trng” (125). đây chúng ta thy được lư do ti sao mt tiến tŕnh đích thc ca vic gii thích không bao gi ch thun là mt tiến tŕnh v tri thc mà c̣n là mt tiến tŕnh được cm nghim, đ̣i phi hoàn toàn gn bó vào đời sng ca Giáo Hi, tc là vào s sng “theo Thn Linh” (Gal 5:16). Nhng qui chun được n định Đon 12 trong Hiến Chế Tín Lư Dei Verbum bi thế tr nên rơ ràng hơn: vic tiến hành không th xy ra liên quan ti mt mnh văn t riêng tư nào, tr phi nó được thy liên h vi toàn th Thánh Kinh. Tht vy, đích đim mà chúng ta cn phi tiến hành ti là Li duy nht. Có mt thm trng ni ti xy ra trong tiến tŕnh này, v́ vic vượt qua xy ra theo quyn lc ca Thn Linh không th nào tránh được vic liên h vi t do ca tng người. Thánh Phaolô đă sng cuc vượt qua này mt cách trn vn trong đời sng ca ḿnh. Theo li ca ngài: “ch nghĩa th́ giết hi c̣n Thn Linh ban s sng” (2Cor 3:6), ngài đă bày t, bng nhng t ng quyết lit, tính cht quan trng ca tiến tŕnh siêu vit trên văn t mà tiến đến ch hiu văn t ch theo chiu hướng tng th. Thánh Phaolô đă nhn thc được rng: “Thn Linh ca nim t do có mt danh xưng và v́ thế t do đó có mt tiêu chun ni ti: ‘Chúa là Thn Linh và đâu có Thn Linh ca Chúa th́ đấy có t do’ (2Cor 3:17). V Thn Linh ca t do này không phi ch là tư tưởng riêng ca nhà dn gii thánh kinh, là quan đim riêng ca nhà dn gii thánh kinh. V Thn Linh này là Chúa Kitô, và Chúa Kitô là Chúa, Đấng t cho chúng ta thy đường li” (126). Chúng ta biết rng đối vi c Thánh Âu Quc Tinh (Augustinô) th́ cuc vượt qua này va là nhng ǵ thm thê va thanh thoát; ngài đă tiến ti ch tin tưởng Thánh Kinh – mt thánh kinh đầu tiên đă khiến ngài cm thy như là nhng ǵ rt ri rc t chúng chng liên h ǵ vi nhau và có nhng ch li rt ti t – nh chính tiến tŕnh siêu vượt trên văn t này, mt tiến tŕnh ngài hc được t Thánh Ambrôsiô v vic gii thích theo khoa mẫu dáng học, mt cách gii thích cho thy toàn th Cu Ước là đường dn đến Chúa Giêsu Kitô. Đối vi Thánh Âu Quc Tinh, vic siêu vit trên ư nghĩa văn t làm cho chính văn t tr thành kh tín hơn, và giúp cho ngài cuoôi cùng có th t́m thy câu tr li cho nim khc khoi sâu xa trong ni tâm và ni khát vng chân lư ca ngài (127).

 

Mối hiệp nhất nội tại của Thánh Kinh

 

39.      Trong cuc vượt qua t văn t ti tinh thn, chúng ta c̣n hc thy được, trong truyn thng cao c ca Giáo Hi, mi hip nht ca Thánh Kinh, được bt ngun t mi hip nht ca Li Chúa, Li thách đố đời sng ca chúng ta và liên l kêu gi chúng ta ăn năn hoán ci (128). đây, nhng li ca Hugh of Saint Victor vn là mt ch dn vng chc: “Tt c Thánh Kinh thn linh ch là mt cun sách, và cun sách duy nht này là Chúa Kitô, nói v Chúa Kitô và nên trn nơi Chúa Kitô” (129). Tt nhiên khi nh́n Thánh Kinh theo thun chiu hướng lch s hay văn t th́ Thánh Kinh không phi là mt cun Sách duy nht na, mà là mt tng hp các cun sách v văn chương được viết ra qua gịng lch s mt ngàn năm hay dài hơn, và nhng cun sách riêng r ca nó không d dàng thy được có mt mi hip nht ni ti; trái li, chúng ta rơ ràng thy được cái bt nht gia nhng cun sách riêng r này. Đó đă tng là trường hp ca Thánh Kinh Do Thái, b thánh kinh được Kitô hu chúng ta gi là Cu Ước. C̣n hơn thế na nếu Kitô hu chúng ta liên kết Tân Ước và các bn văn ca Tân Ước như là mt th mu cht v thích nghĩa đối vi Thánh Kinh ca dân Do Thái, như thế vic gii thích Thánh Kinh ca Dân Do Thái như đường li dn ti Chúa Kitô. Tân Ước thường không s dng t ng “Scripture” (cf. Rom 4:3; 1 Pet 2:6) mà là “ the Scriptures ” (cf. Mt 21:43; Jn 5:39; Rom 1:2; 2 Pet 3:16), mt t ng dù sao cũng được thy nơi toàn th ca nó như là mt Li Chúa duy nht ng cùng chúng ta (130). Điu này làm sáng t vn đề là con người ca Chúa Kitô là nhng ǵ cng hiến mi hip nht cho toàn th “Scriptures” liên quan ti “Li” duy nht này. Như thế chúng ta có th hiu nhng li Đon 12 trong Hiến Chế Tín Lư Dei Verbum, nhng li cho thy mi hip nht ni ti ca toàn th Thánh Kinh như là mt qui chun quyết lit cho mt th dn gii đứng đắn v đức tin.

 

Mối liên hệ giữa Cựu Ước và Tân Ước

 

40.      Căn cứ vào mối hiệp nhất của các cuốn sách thánh kinh nơi Chúa Kitô, các thần học gia cũng như các vị mục tử cần phải ư thức được mối liên hệ giữa Cựu Ước và Tân Ước. Trước hết, vấn đề hiển nhiên cho thấy rằng chính Tân Ước công nhận Cựu Ước như là Lời Chúa và v́ thế chấp nhận thẩm quyền Thánh Kinh của dân Do Thái (131). Tân Ước mặc nhiên công nhận các cuốn sách thánh này bằng việc trích lại nhiều phần của các cuốn sách ấy cũng như bằng việc thường ám chỉ tới các đoạn thuộc những cuốn Sách Thánh này. Tân Ước minh nhiên công nhận những cuốn sách ấy bằng việc trích dẫn nhiều phần trong chúng như là những ǵ cần phải căn cứ để lập luận. Trong Tân Ước, một lập luận được căn cứ vào các sách của Cựu Ước nhờ đó có được một phẩm chất tối hậu, vượt trên phẩm chất của thứ lập luận thuần nhân loại. Trong Phúc Âm thứ tư, Chúa Giêsu đă nói rằng: “Không thể loại bỏ Thánh Kinh” (Jn 10:35) và Thánh Phaolô c̣n đặc biệt làm sáng tỏ là mạc khải Cựu Ước vẫn c̣n giá trị đối với Kitô hữu chúng ta (cf. Rom 15:4; 1 Cor 10:11). (132). Chúng ta cũng khẳng định rằng “Chúa Giêsu Nazarét là một người Do Thái và Thánh Địa là quê cha đất tổ của Giáo Hội” (133): các gốc tích của Kitô giáo đều được thấy nơi Cựu Ước, và Kitô giáo tiếp tục kín múc dưỡng chất từ những gốc rễ này. Bởi thế, tín lư Kitô giáo lành mạnh bao giờ cũng chống lại tất cả những h́nh thức Marcionism mới, những h́nh thức,c bằng những cách thức khác nhau, có khuynh hướng muốn biến Cựu Ước đối nghịch với Tân Ước (134). 

                                                                        

Hơn nữa, chính Tân Ước cho ḿnh liên tục với Cựu Ước và cho thấy rằng nơi mầu nhiệm về đời sống, cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Kitô, các cuốn Sách Thánh của dân Do Thái đă được hoàn toàn nên trọn. Tuy nhiên, cần phải được nhận thấy rằng quan niệm về việc nên trọn này của các cuốn Sách Thánh là một quan niệm phức tạp, v́ nó có 3 chiều kích: một khía cạnh căn bản của việc liên tục với mạc khải Cựu Ước, một khía cạnh của việc bất liên tục và khía cạnh của việc nên trọnsiêu việt tính. Mầu nhiệm về Chúa Kitô là những ǵ liên tục về ư hướng nơi việc sùng bái có tính chất hy tế của Cựu Ước, nhưng mầu nhiệm về Chúa Kitô này trổi vượt một cách rất khác nhau, xứng với một số lời tiên tri và v́ thế tiến tới một tầm mức hoàn hảo chưa từng đạt đến trước đó. Cựu Ước chất chứa nhiều căng thẳng giữa khía cạnh cấu tạo và khía cạnh tiên tri của ḿnh. Mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô là những ǵ hoàn toàn am hợp – mặc dù ở chỗ không thể nào dự đoán trước – với các lời tiên tri cũng như những ám chỉ của các cuốn Sách Thánh; tuy nhiên, mầu nhiệm này cho thấy những khía cạnh rơ ràng về việc bất liên tục liên quan tới những cơ cấu của Cựu Ước.

 

41.     Những cứu xét này cho thấy tầm quan trọng đặc thù của Cựu Ước đối với Kitô hữu, trong khi đó cũng mang lại tính chất mới mẻ của việc giải thích theo Kitô học. Từ thời các vị tông đồ và nơi truyền thống sống động của ḿnh, Giáo Hội đă nhấn mạnh đến mối hiệp nhất nơi dự án của Thiên Chúa ở cả hai Giao Ước nhờ việc sử dụng khoa mẫu học (typology); phương thức này không có ǵ là chuyên chế nhưng có tính chất nội tại đối với các biến cố được thuật lại trong sách thánh và v́ thế liên quan tới toàn bộ Thánh Kinh. Khoa mẫu học “nhận thức được nơi các việc làm của Thiên Chúa trong Cựu Ước đều là những tiền thân của những ǵ Ngài hoàn tất khi thời gian nên trọn nơi bản thân của Người Con nhập thể của Ngài” (135). Bởi thế, Kitô hữu đọc Cựu Ước theo chiều hướng Chúa Kitô tử giá và phục sinh. Cho dù việc giải thích theo khoa mẫu dáng học này cho thấy nội dung khôn cùng của Cựu Ước từ quan điểm của Tân Ước, chúng ta cũng không được quên rằng Cựu Ước vẫn giữ được giá trị tiềm tàng là mạc khải của ḿnh, như chính Chúa Kitô của chúng ta đă khẳng định (cf. Mk 12:29-31). Thế nên, “Tân Ước cần phải được đọc theo chiều hướng Cựu Ước. Việc giảng dạy giáo lư của Kitô giáo thời sơ khai đă liên tục sử dụng Cựu Ước (cf. 1 Cor 5:6-8; 1 Cor 10:1- 11)” (136). Đó là lư do các Nghị Phụ của Thượng Nghị đă nói rằng “kiến thức của người Do Thái về Thánh Kinh có thể trở thành hữu ích cho Kitô hữu trong việc họ hiểu biết và nghiên cứu các cuốn Sách Thánh” (137).

 

“Tân Ước được ẩn dấu nơi Cựu Ước và Cựu Ước được tỏ lộ nơi Tân Ước” (138), như Thánh Âu Quốc Tinh đă sâu sắc nhận định. Bởi thế, cần phải làm sáng tỏ nơi cả môi trường về mục vụ và hàn lâm mối liên hệ chặt chẽ giữa hai Giao Ước này, hợp với châm ngôn của Thánh Grêgôriô Cả: “những ǵ Cựu Ước hứa hẹn th́ Tân Ước làm sáng tỏ; những ǵ Cựu Ước loan báo một cách kín đáo th́ Tân Ước công khai loan báo như là hiện tại. Thế nên, Cựu Ước là một lời tiên tri của Tân Ước; và lời chú giải tuyệt hảo về Cựu Ước là Tân Ước” (139).

Những đoạn “tối” của Thánh Kinh

42.      Trong vic bàn đến mi liên h gia Cu Ước và Tân Ước, Thượng Ngh cũng lưu tâm ti nhng đon trong Thánh Kinh, mà v́ nhng ǵ là bo động và vô luân đôi khi được cht cha, cho thy tính cách m mt và khó khăn. đây, trước hết và trên hết chúng ta cn phi nh rng mc khi thánh kinh được cm r sâu trong lch s. D án ca Thiên Chúa được t hin mt cách tun t như tiến và chm chm được hoàn tt, theo nhng giai đon ni tiếp nhau , cho dù nhân loi có kháng c. Thiên Chúa đă chn mt dân tc và nhn ni thc hin vic dn dt cùng giáo dc h. Vn đề mc khi là vic được phù hp vi tm mc v văn hóa và luân lư ca nhng thi đim cách bit và v́ thế din t nhng s kin và nhng tp tc, chng hn như vic bp bm và la đảo, cũng như nhng hành động bo lc và tàn sát, mà không hin nhiên t ra bài bác nhng điu như thế. Điu y có th được gii thích bi bi cnh v lch s, tuy nhiên nó có th làm cho thành phn độc gi tân tiến b di li, nht là nếu h không lưu ư ti nhiu vic làm “ti tăm” được hành x qua các thế k cũng như trong thi đại ca chúng ta đây. Trong Cu Ước, vic rao ging ca các v tiên tri đă mnh m thách đố hết mi th bt chính và bo lc, cho dù là tp th hay cá nhân, và do đó tr thành đươờg li Thiên Chúa s dng để hun luyn dân ca Ngài để sa son cho Phúc Âm. Bi thế, tht là sai lm khi b qua nhng đon Thánh Kinh gây bi rôi trc trc cho chúng ta y. Trái li, chúng ta cn phi ư thc rng vic gii nghĩa xác đáng các đon thánh kinh y đ̣i hi phi có mt tŕnh độ chuyên môn do được đào luyn để có th gii thích các sách thánh theo bi cnh văn chương lch s ca chúng cũng như theo quan đim ca Kitô giáo là quan đim cht cha cái then cht cho vic gii thích ti hu ca ḿnh đó là “Phúc Âm và gii răn mi ca Chúa Giêsu Kitô được th hin nơi mu nhim vượt qua” (140). Tôi khuyến khích các hc gi và các v mc t hăy giúp cho tt c mi tín hu tiến ti nhng đon thánh kinh y bng mt th gii thích giúp cho ư nghĩa ca chúng có th được sáng t trong mu nhim ca Chúa Kitô.  

Kitô hữu, Người Do Thái và Thánh Kinh

43.      Sau khi cứu xét đến mối liên hệ chặt chẽ giữa Tân Ước và Cựu Ước, giờ đây chúng ta dĩ nhiên hướng tới một mối liên kết đặc biệt giữa Kitô hữu và người Do Thái được xuất phát từ mối liên hệ ấy, một mối liên kết không bao giờ được coi thường. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, khi nói đến người Do Thái, đă gọi họ là “’những người anh em yêu dấu’ của chúng ta trong đức tin của Abraham là vị Tổ Phụ của chúng ta” (141). Việc nh́n nhận sự kiện này không phải là vấn đề chẳng lưu tâm ǵ tới những trường hợp bất liên tục được Tân Ước khẳng định liên quan tới những cơ cấu của Cựu Ước, lại càng chẳng lưu tâm ǵ tới việc nên trọn của các cuốn Sách Thánh nơi mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô, Đấng được nh́n nhận là Đấng Thiên Sai và là Con Thiên Chúa. Cũng thế, cái khác biệt sâu xa và toàn diện này không hề bao hàm tính chất thù nghịch với nhau. Gươncg của Thánh Phaolô (cf. Rom 9-11) đă cho thấy ngược lại là “một thái độ tôn kính, cảm mến và yêu thương đối với dân Do Thái là thái độ Kitô giáo thực sự nơi t́nh trạng hiện nay, một t́nh trạng nhiệm mầu trong toàn thể dự án tích cực của Thiên Chúa” (142).   

Thật vậy, Thánh Phaolô đă nói về người Do Thái rằng: “về việc tuyển chọn th́ họ là thành phần được mến thương do bởi cha ông tổ phụ của họ, v́ những ân ban và tiếng gọi của Thiên Chúa là những ǵ bất khả văn hồi!” (Rom 11:28-29). Thánh Phaolô cũng sử dụng h́nh ảnh sống động về cây olive để diễn tả mối liên hệ rất chặt chẽ giữa Kitô hữu và người Do Thái: Giáo Hội của Dân Ngoại như chồi của một cây olive hoang dại, được ghép vào cây olive tốt tươi là thành phần dân của Giao Ước (cf. Rom 11:17-24). Nói cách khác, chúng ta có được dưỡng thực của chúng ta từ cùng nguồn gốc thiêng liêng ấy. Chúng ta gặp gỡ nhau như những người anh chị em, thành phần có những lúc trong lịch sử của ḿnh bị căng thẳng trong mối liên hệ, nhưng hiện nay mạnh mẽ dấn thân cxây dựng những chiếc cầu nối t́nh hữu nghị lâu bền (143). Như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đă có lần nói: “Chúng ta có nhiều điều chung. Cùng nhau chúng ta có thể thực hiện nhiều sự cho ḥa b́nh, công lư cũng như cho một thế giới huynh đệ hơn và nhân baả hơn” (144).  

Một lần nữa tôi muốn nói rằng Giáo Hội trân trọng biết bao việc Giáo Hội đối thoại với người Do Thái. Bất cứ khi nào thích đáng, cần phải tạo cơ hội để gặp gỡ và trao đổi một cách công khai cũng như tư riêng, nhờ đó làm gia tăng việc tương kiến, tương kính và và tương hợp, cũng như trong việc học hỏi nghiên cứu các cuốn Sách Thánh.

Việc bảo thủ giải thích Thánh Kinh  

44.      Việc chúng ta chú trọng tới những khía cạnh khác nhau của vấn đề giải thích thánh kinh giờ đây cho phép chúng ta cứu xét tới một đề tài xuất hiện một số lần trong cuộc Thượng Nghị, đó là đề tài về việc bảo thủ giải thích thánh kinh (145). Ủy Ban Thánh Kinh của Ṭa Thánh, trong văn kiện của ḿnh là Việc Giải Thích Thánh Kinh trong Giáo Hội, đă đề ra một số hướng dẫn quan trọng. Ở đây tôi đặc biệt muốn nói tới những phương thức không tôn trọng tính chất chân thực của sách thánh, nhưng lại cổ vơ những thứ giải thích chủ quan và độc đoán. “Việc giải thích theo nghĩa đen” bị đối lại bởi đường lối bảo thủ thực sự cho thấy một thứ phản bội của cả nghĩa về văn tự lẫn nghĩa về thiêng liêng, và mở đường cho các h́nh thức mạo dụng khác nhau, chẳng hạn như bằng việc gieo rắc những lời giải thích Thánh Kinh bài giáo hội. “Vấn đề căn bản nơi việc giải thích bảo thủ đó là, khi từ chối không muốn lưu ư tới tính chất lịch sử của mạc khải thánh kinh, nó làm cho ḿnh không thể nào chấp nhận được tất cả sự thật của chính việc nhập thể. Về những mối liên hệ với Thiên Chúa, chủ trương bảo thủ t́m cách tránh né bất cứ những ǵ sát cận gần gữi giữa thần linh và nhân loại… đó là lư do nó có khuynh hướng coi sách thánh như thể được Thần Linh đọc cho viết chính tả vậy. Nó không công nhận là Lời Chúa đă được h́nh thành theo ngôn ngữ và cách diễn đạt tùy theo các giai đoạn khác nhau” (146). Đàng khác, Kitô giáo nhận thấy nơi những chữ nghĩa chính Ngôi Lời, Logos, Đấng tỏ hiện mầu nhiệm của ḿnh ra qua tính chất phức tạp và thực tại của lịch sử nhân loại (147). Đáp ứng thực sự cho một thứ đường lối bảo thủ đó là “việc giải thích Thánh Kinh tràn đầy đức tin”. Cách thức giải thích này, “được thực hành từ xa xưa trong truyền thống của Giáo Hội, t́m kiếm chân lư cứu độ cho sự sống của cá nhân Kitô hữu cũng như cho Giáo Hội. Nó nh́n nhận giá trị về lịch sử của truyền thống thánh kinh. Chính v́ giá trị của truyền thống như là một chứng từ lịch sử mà việc đọc thánh kinh như thế t́m cách khám phá ra ư nghĩa sống động của Thánh Kinh cho những cuộc sống của các tín hữu ngày nay” (148), trong khi đó vẫn không bỏ qua việc môi giới của nhân loại nơi cuốn sách được linh ứng viết ra cùng với các thể loại văn từ của nó.

Vic đối thoi gia các v mc t, thn hc gia và các nhà dn gii Thánh Kinh

 

45.      Việc giải thích đích thực của đức tin có một vào thành quả quan trọng cho hoạt động mục vụ của Giáo Hội. Chính các vị Nghị Phụ của Thượng Nghị, chẳng hạn, đă khuyên dụ một mối liên hệ hoạt động chặt chẽ hơn giữa các vị mục tử, các nhà dẫn giải thánh kinh và các thần học gia. Các Hội Đồng Giám Mục có thể phát động những cuộc gặp gỡ như thế nhắm “mục đích cổ vơ mối hiệp thông hơn nữa nơi việc phục vụ Lời Chúa” (149). Việc hợp tác loại này sẽ giúp cho tất cả mọi người thi hành công việc của ḿnh moôt cấh hiệu nghiệm hơn cho thiện ích của toàn thể Giáo Hội. Đối với cả các vị học giaảnữa, chiều hướng mục vụ này bao gồm việc tiến đến với sách thánh bằng ư thức rằng đó là sứ điệp Chúa muốn ngỏ cùng chúng ta v́ phần rỗi của chúng ta. Theo những lời của Hiến Chế Tín Lư Dei Verbum th́ “các nhà dẫn giải Thánh kinh Công giáo và các nhân viên khác ở lănh vực của khoa thần học thánh cần phải chuyeê cần làm việc với nhau và dưới ánh mắt canh chừng của huấn quyền thánh. Khi sử dụng các kỹ thuật thích đáng, họ cần phải cùng nhau khảo sát và giải thích các sách thánh môä cách hết sức có thể của những kẻ là thừa tác viên của Lời Chúa có thể ban phát cấh hiệu năng dưỡng chất Thánh Kinh cho dân Chúa. Dưỡng chất này lầnhững ǵ soi sáng trí khôn, kiên cường ḷng muốn và nung nấu tâm can của những con người nam nữ bằng t́nh yêu của Thiên Chúa” (150).

 

Thánh Kinh và đại kết Kitô giáo

 

46.       Nhn thc rng nn tng ca Giáo Hi nơi Chúa Kitô, Li ca Thiên Chúa nhp th, Thượng Ngh mun nhn mnh đến tính cách tâm đim ca nhng vic nghiên cu hc hi thánh kinh trong vic đối thoi đa kết nhm đến chôăhoàn toàn th hin mi hip nht ca tt c mi tín hu trong Chúa Kitô (151). T Thánh Kinh cht cha li cu nguyn cm động ca Chúa Giêsu dâng lên Cha cho các môn đệ ca Người được hip nht nên mt, nh đó thế gii tin tưởng (cf. Jn 17:21). Tt c nhng điu y ch có th cng c nim xác tín ca chúng ta rng bng vic cùng nhau lng nghe và suy nim Thánh Kinh, chúng ta cm nghim thy mt mi hip thông thc s cho dù chưa trn vn (152); “bi thế vic cùng lng nghe Thánh Kinh thôi thúc chúng ta hướng đến ch đối thoi bác ái và giúp phát trin vic đối thoi chân lư” (153). Vic cùng nhau lng nghe Li Chúa, tham gia vào vic lectio dinina đọc li Chúa trong thánh kinh, chúng ta để ḿnh được tác động trước tính cht mi m khôn cùng ca Li Chúa không bao gi c h, thng vượt cái điếc lác ca chúng ta trước nhng li không hp vi nhng ư nghĩ hay thành kiến ca chúng ta, lng nghe và hc hi trong mi hip thông ca thành phn tín hu thuc hết mi la tui; tt c nhng điu y tiêu biu cho mt đường li tiến đến ch hip nht trong đức tin như là mt tác động đáp ng lng nghe Li Chúa (154). Nhng li ca Công Đng Chung Vaticanô II đă làm sáng t v vn đề này: “trong chính cuc đối thoi liên tôn, Thánh Kinh là dng c quí báu trong bàn tay toàn năng ca Thiên Chúa để đạt ti mi hip nht được Chúa Kitô mong mun cho tt c chúng ta” (155). Bi thế, cn phi gia tăng nơi vic hc hi đại kết vic bàn lun và nhng vic c hành Li Chúa, tùy theo các tiêu chun hin hành và nhng truyn thng khác nhau (156). Nhng vic c hành này làm gia tăng ước nguyn đại kết, và nếu được thi hành mt cách xng hp, chúng cho thy nhng giây phút thiết tha thc s nguyn cu xin Chúa làm cho mau chóng ti ngày tt c chúng ta cui cùng s có th ngi vào cùng mt bàn và ung cùng mt chén. Tuy nhiên, trong khi đáng và được quyn c vơ nhng gi phng v như thế, cũng cn phi lưu ư là đối vi tín hu nhng gi phng v này không được coi như thay thế cho vic c hành Thánh L các ngày Chúa Nht hay các l trng buc.   

 

Trong vic hc hi và cu nguyn này, chúng ta b́nh tâm nh́n nhn nhng khía cnh vn c̣n cn phi được khai phá sâu xa hơn na cũng như nhng khía cnh chúng ta vn c̣n khác bit nhau, chng hn như vic hiu vn đề thm quyn gii thích trong Giáo Hi và vai tṛ quyết lit ca hun quyn (157).

 

Sau hết, tôi mun nhn mnh đến nhng li phát biu ca các v Ngh Ph ca Thượng Ngh v tm quan trng ca nhng bn dch Thánh Kinh sang các ngôn ng khác nhau. Chúng ta biết rng vic dch thut mt cun sách không phi ch là mt công vic có tính cách máy móc, mà mt nghĩa nào đó thuoôc v vic gii thích. V vn đề này, Đng Đáng Kính Gioan Phaolô II đă nhn định rng “bt c ai nh li nhng cuc tranh căi nng n biết bao v Thánh Kinh đă nh hưởng ti nhng cuc chia r, nht là Tây phương, có th cm nhn được bước tiến quan trng được các bn dch chung này cho thy” (158). Vic c vơ nhng bn dch chung Thánh Kinh thuc v công cuc ca đại kết. Tôi xin cám ơn tt c nhng ai dn thân vào công vic quan trng này, và tôi phn khích h hăy kiên tŕ vi các n lc ca ḿnh.

 

Các thành qu cho vic hc hi v thn hc

 

47.      Mt thành qu na ca vic thích đáng gii thích ca đức tin liên quan ti nhng hàm ư cn thiết ca nó đối vi vic đào luyn v dn gii thánh kinh và v thn hc, nht là vic đào luyn các ng sinh làm linh mc. Cn phi cn thn bo đảm rng vic hc hi Thánh Kinh thc s là linh hn ca khoa thn hc v́ nó được công nhn là Li Chúa được ng cùng thế gii ngày nay, cùng Giáo Hi cũng như tng cá nhân mi người chúng ta. Các qui tc được n định S 12 Hiến Chế Tín Lư Dei Verbum cn phi được thc s chú ư và tr nên đối tượng sâu xa hc hi. Không được phn khích các quan nim nghiên cu có tính cách hc gi cn được coi là nhng ǵ trung dung liên quan ti Thánh Kinh. Cũng như vic hc nguyên ng được s dng để viết Thánh Kinh và các phương pháp xng hp ca vic gii thích, các sinh viên cn phi có mt đời sng thiêng liêng sâu xa, để cm nhn được rng Thánh Kinh ch có th hiu được nếu Thánh Kinh đi vào đời sng.

 

Theo nhng chiu hướng y, tôi mun rng vic hc hi Li Chúa, c li được truyn li và thành văn, được liên tc thi hành bng mt tinh thn giáo hi sâu xa, và vic đào luyn v hàn lâm phi lưu tâm nhng can thip thích đáng ca hun quyn, mt hun quyn “không vượt tri hơn Li Chúa mà là tôi t ca Li Chúa. Hun quyn ch dy nhng ǵ đă được truyn li cho ḿnh. Theo lnh thn linh và nh Thánh Linh tr giúp, hun quyn lng nghe Li Chúa mt cách st sng, canh gi Li Chúa mt cách trân trng và tŕnh bày Li Chúa mt cách trung thành” (159). Bi thế cn phi lưu ư là li hướng dn y thông đạt vic công nhn là “Thánh Truyn, Thánh Kinh và hun quyn ca Giáo Hi liên h và liên kết vi nhau ti độ không mt yếu t nào trong 3 yếu t có th tn ti mà li thiếu mt các yếu t kia” (160) Tôi hy vng rng, trong vic trung thành vi giáo hun ca Công Đng Chung Vaticanô II, vic hc hi Thánh Kinh, vic đọc Thánh Kinh trong mi hip thông ca Giáo Hi hoàn vũ, s thc s là linh hn ca các cuc nghiên cu hc hi v thn hc (161).

 

Các v Thánh và vic gii thích Thánh Kinh

 

48.      Vic gii thích Thánh Kinh s vn c̣n thiếu sót không đầy đủ nếu không được bao gm c vic lng nghe nhng ai thc s đă sng Li Chúa, tc là các thánh nhân (162). Tht vy, “ viva lectio est vita bonorum ” (163). Vic gii thích Thánh Kinh sâu xa nht xut phát chính t nhng ai để ḿnh được h́nh thành bi Li Chúa qua vic lng nghe, đọc và chuyên cn suy nim.

 

Chc chn không phi là t́nh c mà các trào lưu linh đạo cao c trong lch s Giáo Hi được bt ngun theo căn c hin nhiên vào Thánh Kinh. Chng hn tôi đang nghĩ đến Thánh Antôn Đan Vin Ph, v đă cm thy kích động khi nghe thy li ca Chúa Kitô: “nếu con mun nên trn lành, hăy đi mà bán đi nhng ǵ con có mà cng hiến cho k nghèo, th́ con s được kho tàng trên tri và hăy đến mà theo Ta” (Mt 19:21) (164). Cũng không kém phn cm kích vi vn đề được Thánh Basiliô C đặt ra trong cun Moralia: “Du hiu chuyên bit ca đức tin là ǵ? Đó là hoàn toàn và cương quyết tin rng nhng li được Thiên Chúa linh ng là chân tht… Du hiu chuyên bit ca thành phn tín hu là ǵ? Đó là sng am hp vi nim tin tưởng này đối vi ư nghĩa ca nhng li Thánh Kinh, không dám thêm bt mt điu ǵ” (165). Thánh Bin Đc, trong Bn Lut ca ḿnh, qui v Thánh Kinh như là “qui tc hoàn ho nht đối vi đời sng con người” (166). Thánh Phanxicô Assisi – chúng ta biết được t Thomas of Celano – “khi nghe thy các môn đệ ca Chúa Kitô không được có vàng bc hay tin nong, túi b, bánh ăn, gy đi đường, giy dép hay hai áo… th́ lin hoan h than lên trong Thánh Linh răèng: ‘Đó là nhng ǵ tôi mun, đó là nhng ǵ tôi kêu xin, tôi hết ḷng mong làm điu này!’” (167). Thánh Clara Assisi cũng hoàn toàn cm nghim như Thánh Phanxicô, ngài viết: “H́nh thc cuc sng ca Ḍng Ch Em Nghèo là như thế này: tuân gi Phúc Âm thánh ca Chúa Giêsu Kitô Chúa cúng ta” (168). C Thánh Đaminh cũng “đă t ḿnh ra mi nơi là mt con người ca Phúc Âm nơi ngôn t cũng như nơi vic làm” (169), và mun tu sĩ ḍng ca ngài cũng là “nhưữg con người cu Phúc Âm” (170). Thánh Teresa Avila Ḍng Carmelo, v mà trong các bn văn ca ḿnh liên tc s dng nhng híh nh thánh kinh để ct nghĩa các cm nghim thn bí ca ḿnh, nói rng cính Chúa Giêsu đă t cho ngài biết rng “tt c mi s d trên thế gii này xut phát t vic không biết mt cách rơ ràng các chân lư ca Thánh Kinh” (171). Thánh Thérèse Hài Đng Giêsu đă khám phá ra t́nh yêu là ơn gi ca bn thân ḿnh nh mit mài vi Thánh Kinh, nht là các Đon 12-13 ca Thư Nht gi Corinto (171); cũng v thánh này đă din t sc thu hút ca Thánh Kinh như thế này: “Con va thoáng nh́n Phúc Âm, th́ lp tc con hít th hương thơm ca đời sng Chúa Giêsu và con biết hướng v nơi đâu” (173).

 

Hết mi v thánh như là mt tia sáng ta ra t Li Chúa: chúng ta có th nghĩ đến Thánh Ignatius of Loyola trong vic ngài t́m kiếm chân lư cũng như trong vic ngài nhn tc các th tinh thn; Thánh Gioan Bosco trong vic ngài say mê giáo dc gii tr; Thánh Gioan Maria Vianney trong vic ngài nhn thc đưoơc tm mc cao c ca thiên chc linh mc như là mt tng ân va là mt vic làm; Thánh Piô of Pietrelcina trong vic ngài phc v như dng c ca t́nh thương thn linh; Thánh Josemaria Escrivá trong vic ngài ging dy v ơn gi ph quát nên thánh; Chân Phước Teresa Calcutta, v tha sai ca bác ái Thiên Chúa đối vi thành phn nghèo nht trong các người nghèo, và ri các v t đạo b c nghĩa Nazi và Cng sn sát hi, tiêu biu là Thánh Teresa Benedicta Thánh Giá (Edith Stein), mt n đan sĩ Ḍng Carmelo, và Chân Phước Aloysius Stepinac, Hng Y Tng Giám Mc Zagreb (49).

 

S thánh thin được tác động bi Li Chúa bi thế, mt cách nào đó, thuc v truyn thng ngôn s, t đó Li Chúa biến chính đời sng ca v tiên tri thành tôi t phc v cho ḿnh. Theo ư nghĩa này, s thánh thin trong Giáo Hi  to nên mt th gii thích Thánh Kinh không th nào được coi thường. Thánh Linh, Đng đă linh ng cho các v tác gi thánh cũng là v Thn Linh đă thôi thúc các thánh hiến đời sng ca ḿnh cho Phúc Âm. Trong vic n lc hc theo gương ca các v, chúng ta bt đầu tiến bước ctrên con đường vng chc hướng ti vic gii thích Li Chúa mt cách sng động và hiu năng.

 

Chúng ta đă thy mt nhân chng trc tiếp cho mi liên h gia thánh thin và Li Chúa này trong Thượng Ngh Giám Mc Thế Gii XII, khi 4 v thánh mi được tôn phong ngày 12/10 Qung Trường Thánh Phêrô: Gaetano Errico, linh mc sáng lp Ḍng Chư Tha Sai Thánh Tâm Giêsu Maria; M Maria Bernarda Butler, người Thy Sĩ truyn giáo Ecuador và Colombia; N Tu Alphonsa Đc M Hoài Thai Vô Nhim, v thánh được tuyên phong tiên khi người n Đ; và n giáo dân tr người Ecuado là Narcisa de Jesús Martillo Morán. Bng đời sng ca ḿnh, các v đă chng thc trước thế gii và Giáo Hi v hoa trái trường tn ca Phúc Âm Chúa Kitô. Nh li chuyn cu ca nhng v thánh được tuyên phong vào thi đim thượng ngh v Li Chúa này, chúng ta hăy xin Chúa cho đời sng ca chúng ta được tr thành “mnh đất tt”, nơi v giao văi thn linh vun trng Li Chúa, nh đó Li Chúa tr sinh trong chúng ta các hoa trái thánh đức. “gp 30, 60 100” (Mk 4:20).