Dẫn Nhập:
Vui Mừng và Hy Vọng
TẠI SAO?
hìn vào thế giới
vừa mở màn cho một tân thiên niên kỷ thứ ba hôm nay đây, chúng
ta thấy gì? Nếu không phải là một thế giới hết sức văn minh về
vật chất, song lại là một thế giới văn minh chứa đầy những bất
ổn nơi sinh hoạt xã hội, khiến cho tâm thần con người lúc nào
cũng sống trong lo âu sợ hãi! Đến nỗi, con người lo sợ bị hủy
diệt bởi chính những gì do bàn tay mình tạo nên, điển hình nhất
là bom hạch nhân, thuốc á phiện, thuốc ngừa thai, luật phá thai,
luật dùng súng, luật trợ tử v.v. Thậm chí con người càng ngày
càng đâm ra sợ hãi nhau hơn nữa và nghi kỵ nhau hơn nữa, nhất là
từ sau biến cố tấn công khủng bố 911 tại ngay trung tâm của một
đệ nhất siêu cường quốc Hoa Kỳ.
Tại sao văn minh về
khoa học và kỹ thuật siêu đẳng đang tiến lên đến tuyệt đỉnh ngày
nay, một thứ văn minh mang lại cho con người đầy những tiện nghi
về vật chất chưa bao giờ có, chẳng những nó không làm cho con
người thêm hạnh phúc, trái lại, nó lại càng làm cho bản thân con
người trở nên lạc loài hơn bao giờ hết, từ đó, nó cũng làm cho
cả đại gia đình nhân loại tan nát hơn bao giờ hết như thế?
Thật vậy, nếu những
phát minh về khoa học và kỹ thuật ngày nay cho thấy mức độ vượt
bực nơi văn minh vật chất của con người tân tiến thế nào, thì
những ý thức về nhân bản và các hoạt động tranh đấu cho nhân
quyền ngày nay cũng cho thấy tâm linh của con người đã hết sức
trưởng thành như vậy. Con người đã không còn ở trong thời hồng
hoang “ăn lông ở lỗ” nữa, mà là thời nhà lầu xe hơi, tivi tủ
lạnh, điện thoại điện toán, phi cơ phản lực. Con người đã không
còn ở trong thời đa thê, cũng là thời “cha mẹ đặt đâu con ngồi
đó” nữa, thời coi phụ nữ như đầy tớ hay chỉ là hạng người thứ
yếu trong xã hội, mà là thời “nhất phu nhất phụ”, thời “tự do
luyến ái”. Con người cũng không còn ở trong thời quân chủ chuyên
chế, vua là thiên tử, cầm vận mệnh chúng dân trong tay nữa, mà
là thời cộng hòa dân chủ, “ý dân là ý trời” v.v.
Thế nhưng, oái oăm
thay, chính lúc con người nhận thức được chính mình như thế,
chính lúc họ ban hành những đạo luật về việc tôn trọng nhân
quyền, điển hình nhất là Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền được Tổ Chức
Liên Hiệp Quốc công bố năm 1948, tức sau hai trận Thế Chiến I và
II thuộc tiến bán thế kỷ 20, thì lại là lúc con người bắt đầu tỏ
ra đối chọi nhau nhất, đố kỵ nhau nhất, đàn áp nhau nhất và sát
hại nhau nhất. Người ta đã không đối chọi nhau là gì? - Giữa chủ
nghĩa Cộng Sản và đường lối tôn giáo, giữa trào lưu Pro-Choice,
phò quyền tự quyết, và Pro-Life, phò quyền sự sống? Người ta đã
không đố kỵ nhau là gì? – Giữa Hồi Giáo và Kitô Giáo, hay giữa
Ấn Giáo và Kitô Giáo, giữa Hồi Giáo và Do Thái Giáo, giữa Hồi
Giáo và Tây Phương, hoặc giữa các chủng tộc với nhau trong cùng
một quốc gia ở Đông Âu sau khi Chiến Tranh Lạnh hạ màn? Người ta
đã không đàn áp nhau là gì? – Giữa nước tân tiến với nước chậm
tiến, hay giữa nước tân tiến với nước đang tiến! Người ta cũng
đã không sát hại nhau là gì? - Giữa thai mẫu và thai nhi, giữa
thày thuốc chữa trị và bệnh nhân bất trị! v.v.
Nếu chính lúc con
người càng trở nên văn minh chẳng những về vật chất mà còn cả về
nhân bản như thế lại là lúc con người càng trở nên lạc loài và
băng hoại, thì phải chăng văn minh vật chất tự nó là những gì
không tốt, hay ít nhất nó cũng là những gì hoàn toàn gây bất lợi
cho con người? Bởi thế, phải chăng con người cần phải trở về
nguồn, về với thời khởi nguyên hoang sơ, thời được Thánh Kinh Do
Thái Giáo và Kitô Giáo diễn tả về hai con người nam nữ đầu tiên
còn ở trong tình trạng “trần truồng không biết xấu hổ”, tức thời
con người bấy giờ chưa biết đến tội lỗi là gì, thời tâm hồn của
con người còn hoàn toàn ngây thơ vô tội, nên đời sống của họ
cũng hết sức tự do thanh thoát ngay trên trần gian này, đến nỗi,
họ bấy giờ như đang sống ở một thiên đường trần thế, chứ không
phải một thứ “thiên đường treo” của thời tân tiến ngày nay?
Thật ra, nếu văn
minh ngày nay, cả về phương diện vật chất lẫn nhân bản, là dấu
chứng tỏ nhân loại chúng ta đã thực sự trưởng thành về tâm lý và
phát triển về thể lý, thì văn minh là một tiến trình cần phải có
để chứng tỏ con người quả là một loài “linh ư vạn vật”, loài làm
chủ trái đất. Và như thế văn minh tự nó chắc chắn phải mang lại
phúc lợi đích thực cho con người. Ở chỗ, chẳng những nó làm cho
bản thân con người được toàn diện thăng tiến, mà còn làm cho cả
xã hội loài người được trở thành một đại gia đình nhân loại, mọi
người biết yêu thương nhau như bản thân mình, sống với nhau hết
sức thuận hòa đầm ấm trong Vui Mừng và Hy Vọng.
THẾ NÀO?
Nếu vui mừng là
trạng thái của hạnh phúc và là biểu hiện cho hạnh phúc nơi đời
sống của con người thì hy vọng chính là lẽ sống nơi chính bản
thân con người vậy. Một con người đi tìm cái chết qua việc tự tử
là một con người đã chán sống, đã hoàn toàn thất vọng về cuộc
sống, tức đã không tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời. Thật ra, nếu
phân tích sâu xa tâm lý của con người tự tử, chúng ta thấy họ
chính là con người yêu đời nhất, vì họ muốn thoát khỏi cảnh cùng
cực của cuộc đời, tức muốn được hạnh phúc, một thứ hạnh phúc đối
với họ bấy giờ, chỉ có chết đi mới hết khổ, mới được giải thoát.
Nghĩa là, con người tự tử đã đi tìm sự sống trong chính cái chết,
ở chỗ, chính lúc họ tìm cái chết là họ vẫn ngầm nuôi một niềm hy
vọng, hy vọng thoát khổ, hy vọng được giải thoát...
Tóm lại, con người
sống trên đời này, cho tới chết, cho tới giây phút cuối cùng của
cuộc đời, lúc nào cũng sống trong hy vọng! Hy vọng quả thực là
và chính là lẽ sống của con người chúng ta vậy.
Thật thế, hy vọng
chính là lẽ sống của con người và cho con người, chẳng những để
họ sống trên đời và còn là hơi thở cuối cùng đưa họ đi vào vĩnh
cửu nữa. Nếu vui mừng là lửa của một ngọn đuốc thì hy vọng là
dầu nơi ngọn đuốc ấy. Lửa chỉ tắt khi nào ngọn đuốc hết dầu thế
nào, con người cũng chỉ thoi thóp sống hay chán chường sống,
thậm chí đi đến chỗ tự hủy diệt sự sống của mình, về khía cạnh
tâm lý hay thể lý, cũng chỉ vì họ đã bị cạn kiệt hy vọng, hết hy
vọng, hay tuyệt vọng.
Nếu còn một tia hy
vọng, tức còn thấy được mập mờ ánh sáng cuối đường hầm, họ đã
không chôn vùi sự sống dưới ngôi mồ vô vọng như vậy. Không phải
hay sao, cho dù chúng ta có ở các đảo tị nạn Đông Nam Á lâu mấy
đi nữa, 5 năm, 10 năm, nếu biết được chắc chắn ngày mình sẽ được
đi tị nạn đến những nơi mình muốn, chẳng hạn được vào Hoa Kỳ,
thường được gọi là “thiên đường Mỹ quốc”, thì dù bấy giờ chúng
ta có phải sống trong cảnh khổ cực đến thế nào chăng nữa, chúng
ta cũng vẫn vui sống và ham sống.
Con người chỉ vui
mừng khi có hy vọng, còn hy vọng hay đầy hy vọng; và hy vọng
chính là tác nhân, là động lực làm cho con người vui mừng. Nếu
vui mừng là hương hoa hay bông hoa thì hy vọng là nụ hoa. Vui
Mừng và Hy Vọng là thế đó.
Thế nhưng, phũ
phàng thay, thực tế cho thấy, có những lúc chính hy vọng lại
chất chứa đầy những thất vọng. Chúng ta đã chẳng nghe có những
trường hợp của người Việt hải ngoại chúng ta hay sao, khi đã vào
được “thiên đường Mỹ quốc” rồi, một thiên đường đã làm họ liều
chết trên biển cả để tìm kiếm cho bằng được, cuối cùng, đã hoàn
toàn thất vọng, muốn trở về lại Việt Nam, vì họ đã chứng kiến
thấy những chướng tai gai mắt, thậm chí đã bị tan nát gia đình
ngay tại chính thiên đường trần gian này?
Bởi
thế, vấn đề ở đây không phải chỉ cần hy vọng là sẽ vui mừng, chỉ
cần hy vọng là sẽ vui sống, song là ở chỗ hy vọng những gì!
Nếu chất dầu không
tinh khiết, thì ngọn lửa nơi cây đuốc sẽ chỉ le lói tỏa ra với
đầy những làn khói khét lẹt đen ngòm, và có thể bị vụt tắt bất
cứ lúc nào, chất dầu hy vọng của chúng ta cũng vậy, nếu không
chính đáng, không siêu việt, ngọn lửa niềm vui của chúng ta cũng
chỉ là một ngọn lửa vui mừng thoi thóp phập phồng vậy thôi, một
ngọn lửa vui mừng tỏa ra đầy những làn khói chua chát đắng cay,
và cuối cùng bị vụt tắt với những chán chường thất vọng, khi
ngọn lửa vui mừng yếu ớt này gặp phải thực tế phũ phàng, gặp
phải phong ba bão tố trong cuộc đời.
Như thế, để bắt đầu
thắp lên ngọn lửa vui mừng, chúng ta cần phải có dầu hy vọng, và
nếu dầu hy vọng này nguyên chất, chắc chắn nó sẽ trở thành một
động lực mãnh liệt, thành đôi cánh đại bàng giúp chúng ta bay
cao, bay tới một thực tại vui mừng là chân trời trường sinh vinh
phúc của cuộc đời, một thực tại là cùng đích của thân phận làm
người chúng ta, một thực tại mà nếu không đạt được, chúng ta
thực sự đã đánh mất bản thân mình, đã hoàn toàn không tìm thấy ý
nghĩa của cuộc đời con người sống trên trần gian, tức đã không
sống trọn Ơn Gọi Làm Người của mình vậy! Bởi thế, để bắt đầu
thắp lên ngọn lửa vui mừng cho cuộc đời của mình, chúng ta hãy
tẩm con người của chúng ta bằng một thứ dầu hy vọng nguyên chất.
Một khi chúng ta ý
thức được Ơn Gọi Làm Người của mình, không phải bằng một kiến
thức suông, mà là bằng một niềm xác tín sống động và bất biến về
Thực Tại Làm Người: - con người là ai? - từ đâu mà đến? - sống
để làm gì? - chết rồi ra sao? v.v. chắc chắn, niềm xác tín nhân
bản chân chính này sẽ mang lại cho từng người chúng ta, cũng như
cho mọi người chúng ta, Vui Mừng và Hy Vọng, nhờ đó, chúng ta sẽ
vỗ cánh bay cao trên bầu trời “Hạnh Phúc Là Viên Mãn Yêu
Thương” của một cuộc “Đời Thênh Thang Sống”.