Cha Batôlômêô NGUYỄN VĂN THẬT (1902 – 1996)

Âm thầm, khiêm tốn, “đến đúng lúc, đi đúng lúc”

1. Cha sở của làng quê

Cha Batôlômêô Nguyễn Văn Thật sinh ngày 02 tháng 02 năm 1902, trong một gia đ́nh nghèo, đạo đức tại họ đạo Thủ Ngữ, xă Xuân Đông, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang, giáo phận Mỹ Tho.

- 1914 – 1922: Học Tiểu chủng viện Sài G̣n.

- 1922 – 1928: Học Đại chủng viện Sài G̣n.

Thời gian thụ huấn ở Chủng viện, Batôlômêô Nguyễn Văn Thật luôn tỏ ra là một chủng sinh có kỷ luật, siêng năng học tập, có năng khiếu về âm nhạc và có triển vọng tốt về ơn gọi làm linh mục.

Ngày 25 tháng 05 năm 1929, thầy Batôlômêô Nguyễn Văn Thật được lănh nhận chức linh mục.

Từ năm 1929 đến năm 1993, cha Batôlômêô đă lần lượt được sai đến phục vụ các họ đạo sau:

- 1929 – 1933: Cha phó họ đạo Vũng Tàu;

- 1933 – 1935: Cha sở họ đạo Cái Quau;

- 1935 – 1959: Cha sở họ đạo Rạch Cầu;

- 1959 – 1962: Cha sở họ đạo Đức Ḥa;

- 1962 – 1993: Cha sở họ đạo Trà Đư;

- 1993 – 1996: Hưu dưỡng tại Nhà Chung và Rạch Cầu;

- 04-07-1996: Được Chúa gọi về, an táng tại họ đạo Rạch Cầu.

Sinh ra và lớn lên ở nông thôn, khi trở thành linh mục phần lớn cuộc đời sứ vụ của cha cũng ở nông thôn nên cha rất hiểu cuộc sống của người giáo dân miền quê và thông cảm với họ.

Giáo dân ở những nơi cha đến phục vụ, mỗi khi nhắc đến cha là họ nhớ đến một người cha hiền ḥa, đơn sơ, giản dị, rất dễ gần gũi và tiếp xúc.

Không có khoảng cách giữa cha và giáo dân. Nhà xứ của cha luôn rộng mở với mọi người, những người nghèo khổ không hề thấy mặc cảm khi đến với cha trong bộ quần áo lam lũ, chân đất của ḿnh.

2. Yêu thương và thông cảm với cuộc sống của giáo dân

Hiểu được hoàn cảnh vất vả của người dân quê “một nắng hai sương”, phải lệ thuộc vào đồng ruộng, khi mưa gió hoặc mùa nước lũ, đường đi bùn lầy trơn trợt, không mấy dễ dàng, nên cha rất thông cảm và kiên nhẫn khi người giáo dân không giữ đúng giờ hẹn gặp cha. Cha thường nói, ngoài quy định giờ lễ, không thể đ̣i hỏi người dân quê đúng giờ được.

Một trong những kiên nhẫn lớn của cha là luôn sẵn sàng ngồi ṭa giải tội khi có một số giáo dân không theo đúng giờ giấc đến xin cha ban phép giải tội. Cha thường nói, đời sống đức tin của một họ đạo được thể hiện qua việc giáo dân dự lễ có rước lễ đông và sốt sắng hay không. V́ thế cha sẵn sàng cho đi giờ giấc của ḿnh để giáo dân được xưng tội và rước lễ.

Tuy là người dễ thông cảm, nhưng cha tỏ ra rất nghiêm túc và đ̣i hỏi trong việc học giáo lư và kinh bổn. Một ông cụ từng là học tṛ giúp lễ của cha kể lại, dù được cha thương mến, nhưng do không thuộc giáo lư, phải đến năm 18 tuổi ông mới được cha cho lănh phép Thêm Sức. Nhưng cũng nhờ học thuộc ḷng nhiều giáo lư và kinh sách, mà sau này khi gặp khủng hoảng, bế tắc tưởng chừng như tuyệt vọng, th́ những lời kinh thuộc ḷng từ thuở nhỏ mà ông nhớ lại, đă giúp ông cầu nguyện được với Chúa và Đức Mẹ, nhờ đó ông t́m lại được đức tin, trở về với Chúa. Điều đó khiến ông không bao giờ quên ơn cha sở của ḿnh. Và ông lấy đó như kinh nghiệm để dạy con cháu phải học giáo lư vững vàng và phải thuộc kinh sách.

3. Chu toàn bổn phận trong âm thầm, khiêm tốn, “đến đúng lúc, đi đúng lúc

Dù là việc lớn hay nhỏ, cha luôn chu toàn trong âm thầm khiêm tốn, tận tụy và chu đáo.

Tinh thần này được thể hiện ở thái độ cha noi gương Chúa Giêsu đến là để phục vụ. Cha không không đ̣i hỏi ǵ cho riêng ḿnh, không màng đến danh vọng địa vị, không t́m ảnh hưởng cho ḿnh.

Là người giàu t́nh cảm, cha yêu thương họ đạo và giáo dân ḿnh, và cũng buồn khi phải rời nơi ḿnh gắn bó, nhưng cha cũng sẵn sàng để được Bề Trên sai đi nơi khác. Cha luôn xác tín “vâng lời” Bề Trên trong sứ vụ là đáp lại lời mời gọi đươc Chúa sai đi và đó chính là cách để cha biết “đến đúng lúc và đi đúng lúc”.

Không những “đến đúng lúc, đi đúng lúc” mà cha “đến cũng nhẹ, đi cũng nhẹ”. Khi đến họ đạo mới hay khi rời khỏi nơi ḿnh phục vụ, th́ cũng thật nhẹ nhàng. Hành trang khi đến nhận nhiệm sở cũng là hành trang lúc ra đi: một ít sách vở và đồ dùng cá nhân. Những ǵ cha tạo lập được là của riêng ḿnh, cha đều để lại cho họ đạo.

Và khi đă ra đi, “đầu không ngoảnh lại”. Dẫu biết giáo dân lưu luyến, quư mến cha, nhưng cha không để cho t́nh cảm lấn át sứ mạng. T́nh cảm thường dễ thiên vị, mù quáng và chật hẹp có thể làm cản trở sứ vụ của ḿnh và người khác; chỉ có sứ mạng mới vô vị lợi và rộng mở với hết mọi người. Cha luôn biết nghĩ đến người khác, nhất là với anh em linh mục, không bao giờ cha nói điều ǵ xấu, làm hại uy tín anh em ḿnh trước mặt người khác. Cha không muốn làm cản trở công việc của anh em ḿnh. Cha thường nói, không làm cản trở anh em tiến bước là góp phần tích cực vào kế hoạch của Chúa. Ḿnh không làm được việc th́ để anh em làm và tạo điều kiện tốt cho anh em làm.

Sau này, dù lớn tuổi, già dặn kinh nghiệm, nhưng khi làm việc mục vụ cha cũng thường hỏi ư kiến anh em linh mục trẻ và tôn trọng các anh em linh mục ḿnh, không bao giờ áp đặt ư ḿnh lên người khác.

4. Đau khổ, thử thách

Cuộc đời linh mục của cha có nhiều niềm vui nhưng cũng không ít những nỗi buồn và cam go thử thách. Trong đau khổ, cha chỉ im lặng và âm thầm đón nhận phần thua thiệt về ḿnh.

Điều này được thể hiện rất rơ khi có lần cha bị một số giáo dân nơi cha đến phục vụ điệu ra trước ṭa án thế gian. Cũng v́ “thật thà” đúng như tên cha là “Thật” mà cha đă bị hiểu lầm, bị tố cáo, bị sỉ nhục và cuối cùng bị xua đuổi ra khỏi nơi cha đă từng yêu thương, phục vụ. Trong đau đớn tột cùng, cha một mực âm thầm đón nhận, không hơn thua tranh chấp, cũng không oán hận người đă hại ḿnh.

“Nhân vô thập toàn”, đă là người th́ làm sao tránh khỏi những lầm lỗi, thiếu sót! Với ḷng khiêm tốn sâu xa, cha đón nhận mọi biến cố xảy đến cho ḿnh, để cho ánh sáng t́nh yêu của Thiên Chúa xuyên qua tất cả con người ḿnh và những yếu đuối của ḿnh. Chính v́ thế, trong thử thách, cha vẫn t́m thấy được sự b́nh an và kiên định trong sứ vụ. Khổ đau đă làm cha trở nên đẹp hơn, người giáo dân luôn nhận ra ở cha tấm ḷng nhân ái, bao dung của một vị mục tử hiền ḥa mà vững chăi, rất dễ gần gũi và rất dễ cảm thông với nỗi khổ của người khác.

Cuộc đời cha cứ thế âm thầm khiêm tốn phục vụ qua các họ đạo, cho đến ngày cha trở lại Rạch Cầu lần cuối, nơi trước đây cha đă từng phục vụ, để sống quăng đời c̣n lại của ḿnh.

Và ngày 04-07-1996, cha đă ra đi một cách thanh thản, nhẹ nhàng để về Nhà Cha trên Trời trong sự thương tiếc của giáo dân họ đạo Rạch Cầu.

Cha đă được an táng tại nghĩa trang của họ đạo, giữa đoàn con cái đă an nghỉ, như cách bày tỏ ḷng quư mến, hiếu thảo của giáo dân Rạch Cầu dành cho cha, vừa như nhắc nhớ về một người cha luôn kiên tŕ trong sứ vụ, sống trọn vẹn nghĩa t́nh với đoàn chiên của ḿnh cho đến cùng và đang chờ ngày để cùng với tất cả đoàn con cái ḿnh được tái hợp trong Nước Chúa, nơi không c̣n khổ đau và nước mắt, lúc đó t́nh nghĩa của mọi người sẽ nên trọn vẹn hơn, tṛn đầy hơn.

Có thể nói, đơn sơ giản dị, âm thầm khiêm tốn, “đến đúng lúc, đi đúng lúc” trong sứ vụ được sai đi là nét đẹp trong cuộc đời linh mục của cha Batôlômêô Nguyễn Văn Thật.