Sứ Mệnh Của Giáo
Hội Trong Thế Giới Ngày
Nay |
Hiến Chế Mục Vụ
Về Giáo Hội Trong Thế Giới
Ngày Nay
Gaudium Et Spes
Prepared for
Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Chương IV
Sứ Mệnh Của Giáo
Hội
Trong Thế Giới Ngày
Nay 44*
40.
Tương quan giữa Giáo Hội và thế giới. Tất cả những gì chúng ta đã
trình bày về phẩm giá con người, về cộng đoàn nhân loại, về ý nghĩa sâu xa của
hoạt động nhân loại tạo thành căn bản cho sự tương quan giữa Giáo Hội và thế
giới cũng như nền tảng cho cuộc đối thoại giữa đôi bên 1.
Bởi vậy, dựa trên tất cả những gì về mầu nhiệm Giáo Hội mà Công Ðồng này đã
tuyên bố, trong chương này sẽ phải đề cập đến cũng chính Giáo Hội, xét như thực
tại hiện diện ở thế giới này, cùng sống và cùng hoạt động với thế giới ấy.
Phát sinh từ tình yêu Chúa Cha muôn
đời 2, do Chúa Kitô là Ðấng Cứu Ðộ thiết lập
trong thời gian, được qui tụ trong Chúa Thánh Thần 3,
Giáo Hội có mục đích cứu rỗi và cánh chung. Mục đích này chỉ có thể thành tựu
trọn vẹn trong thời kỳ sẽ đến. Nhưng giờ đây Giáo Hội đã hiện diện trên trái đất
này rồi, được qui tụ gồm những con người là phần tử của xã hội trần gian; họ
được kêu gọi để hợp thành gia đình các con cái Thiên Chúa ngay trong lịch sử
nhân loại, ngõ hầu tăng trưởng luôn mãi cho tới khi Chúa đến. Hiệp nhất để nhằm
đạt những của cải thiêng liêng, trở nên giàu có vì những của cải ấy, gia đình
này "như một xã hội được thiết lập qui củ trên trần gian"
4, được trang bị "các phương thế thích hợp để kết
hiệp thành một xã hội hữu hình" 5. Như thế, là
"một đoàn thể hữu hình và là cộng đoàn thiêng liêng" 6,
Giáo Hội đồng tiến với toàn thể nhân loại và cùng chia sẻ một số phận trần thế
với thế giới; Giáo Hội như men và hồn của xã hội loài người
7, sẽ được đổi mới trong Chúa Kitô và biến thành
gia đình của Thiên Chúa.
Thực ra, sự tương nhập giữa hai xã
hội trần thế và thiên đàng chỉ có thể nhận thức được qua đức tin. Hơn nữa, đó
còn là một mầu nhiệm của lịch sử nhân loại, một lịch sử bị tội lỗi xáo trộn cho
đến khi vinh quang con cái Thiên Chúa được mạc khải đầy đủ. Tuy nhiên trong khi
đeo đuổi mục đích cứu rỗi cá biệt của mình, Giáo Hội không phải chỉ truyền thông
sự sống Thiên Chúa cho con người, nhưng còn chiếu giãi ánh sáng của đời sống ấy
cách nào đó trên toàn thế giới. Giáo Hội làm công việc này, trước hết bằng cách
chữa trị và nâng cao phẩm giá nhân vị, củng cố cơ cấu của xã hội nhân loại và
thấm nhuần cho hoạt động thường nhật của con người một chiều hướng và một ý nghĩ
sâu xa hơn. Như thế, nhờ từng phần tử và tất cả cộng đoàn, Giáo Hội tin tưởng có
thể đóng góp nhiều vào việc biến đổi gia đình và lịch sử loài người trở nên nhân
đạo hơn.
Ngoài ra, Giáo Hội Công Giáo sẵn
sàng tán thưởng những việc mà các Giáo Hội Kitô giáo hay các cộng đoàn giáo hội
khác đã và còn đang thực hiện để đóng góp vào việc chu toàn cùng một bổn phận
này. Ðồng thời, Giáo Hội xác tín mạnh mẽ rằng thế giới có thể có nhiều cách góp
phần lớn lao vào việc dọn đường cho Phúc Âm bằng tài năng và hoạt động cá nhân
cũng như của xã hội. Sau đây là một vài nguyên tắc tổng quát để phát triển đúng
mức mối tương quan và tương trợ trong những phạm vi mà Giáo Hội và thế giới có
phần chung nhau.
41. Sự
trợ giúp mà Giáo Hội cố gắng cống hiến mỗi người. Con người hiện
đại đang trên đường phát triển trọn vẹn nhân cách của mình và càng ngày càng xác
định quyền lợi của mình rõ rệt hơn. Ðược trao phó nhiệm vụ tỏ bày mầu nhiệm của
Thiên Chúa, Ðấng làm cùng đích của con người, Giáo Hội cũng đồng thời tỏ cho con
người biết ý nghĩa của cuộc đời con người, tức là sự thật thâm sâu về con người.
Giáo Hội biết chắc rằng chỉ có Thiên Chúa mà Giáo Hội phụng sự mới đáp ứng được
các ước vọng sâu xa nhất của lòng người. Lòng người không bao giờ hoàn toàn thỏa
mãn với những của ăn trần thế. Giáo Hội cũng biết rằng con người được Thánh Thần
Chúa không ngừng thúc đẩy, sẽ không bao giờ hoàn toàn lãnh đạm trước vấn đề tôn
giáo, như kinh nghiệm quá khứ và nhiều chứng tích của thời đại chúng ta minh
chứng. Thực vậy, con người luôn khao khát muốn biết, ít là một cách mơ hồ, cuộc
sống, hoạt động và cái chết của mình có ý nghĩa gì. Chính sự hiện diện của Giáo
Hội nhắc nhở cho con người nhớ đến những vấn đề ấy. Chỉ có Thiên Chúa là Ðấng
tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài và cứu thoát con người khỏi tội lỗi, mới
giải đáp đầy đủ các vấn đề ấy. Ngài giải đáp bằng cách mạc khải trong Con của
Ngài là Chúa Kitô, Ðấng đã hóa thân làm người. Ai theo Chúa Kitô, Con Người hoàn
hảo, kẻ ấy sẽ được trở nên người hơn.
Dựa trên đức tin ấy Giáo Hội có thể
cứu gỡ phẩm giá của bản tính con người khỏi mọi trào lưu tư tưởng di động không
ngừng giữa sự khinh dễ và tôn sùng thái quá đối với thân xác con người. Không
một luật lệ nào có thể đảm bảo phẩm vị và tự do con người cách thích đáng bằng
Phúc Âm Chúa Kitô, đã được trao phó cho Giáo Hội. Thực vậy, Phúc Âm loan báo và
công bố sự tự do của con cái Thiên Chúa, phủ nhận mọi hình thức nô lệ vì mọi ách
nô lệ rốt cuộc đều bởi tội lỗi mà ra 8. Phúc
Âm tôn trọng triệt để phẩm giá và quyết định tự do của lương tâm, lại không
ngừng nhắc nhở phát huy mọi tài năng để phụng sự Thiên Chúa và mưu ích cho mọi
người. Sau hết, Phúc Âm còn dạy mọi người phải thương yêu nhau
9. Những điều đó phù hợp với luật căn bản trong
nhiệm cuộc cứu rỗi của Kitô giáo. Vì, tuy Thiên Chúa vừa là Ðấng Cứu Ðộ, vừa là
Ðấng Tạo Dựng, vừa làm Chủ lịch sử nhân loại, vừa làm Chủ lịch sử cứu rỗi, nhưng
trong chính chương trình của Thiên Chúa, sự tự trị đúng mức của tạo vật và nhất
là của con người không hề bị hủy diệt, trái lại còn được phục hồi và củng cố
trong phẩm giá riêng.
Vậy, Giáo Hội dựa vào Phúc Âm đã
được ủy thác cho mình mà công bố những quyền lợi của con người, nhìn nhận và tôn
trọng năng động của thời hiện đại hiện đang cổ võ những quyền lợi ấy khắp nơi.
Tuy nhiên, những trào lưu đó phải được thấm nhuần tinh thần Phúc Âm và phải được
bảo vệ cho khỏi nhiễm mọi hình thức tự trị sai lầm. Thực vậy, chúng ta dễ bị cám
dỗ nghĩ rằng các quyền lợi của chúng ta chỉ được duy trì trọn vẹn khi trút bỏ
mọi Luật Lệ của Thiên Chúa. Nhưng thực ra, đó là đường lối làm cho phẩm giá con
người chẳng những không được duy trì mà còn bị tiêu tan đi.
45*
42. Sự
trợ giúp mà Giáo Hội cố gắng mang đến cho xã hội nhân loại. Sự
thống nhất gia đình nhân loại được củng cố và bổ túc
46* nhiều nhờ sự hiệp nhất của gia đình con cái Chúa đã được thiết lập
trong Chúa Kitô 10.
Sứ mệnh riêng biệt mà Chúa Kitô đã
ủy thác cho Giáo Hội Người không thuộc phạm vi chính trị, kinh tế hay xã hội:
mục đích Người đã ấn định cho Giáo Hội thuộc phạm vi tôn giáo
11. Nhưng, bởi chính sứ mệnh tôn giáo ấy, phát
sinh bổn phận, ánh sáng và những sức mạnh có thể giúp thiết lập và củng cố cộng
đoàn nhân loại theo Luật Lệ của Thiên Chúa; cũng thế, khi có nơi nào cần, chính
Giáo Hội có thể và hơn nữa, phải phát động, tùy theo hoàn cảnh thời gian và nơi
chốn, những công cuộc nhằm phục vụ mọi người, nhất là những người cùng khốn, thí
dụ như các công cuộc từ thiện hoặc những tổ chức khác tương tự.
Giáo Hội còn nhìn nhận tất cả những
gì tốt đẹp trong năng động xã hội hiện tại: nhất là sự tiến tới hiệp nhất, tiến
trình xã hội hóa lành mạnh và sự liên đới trong phạm vi công quyền và kinh tế.
Thực vậy, việc cổ võ hiệp nhất phù hợp với sứ mệnh sâu xa của Giáo Hội, vì chính
Giáo Hội ở "trong Chúa Kitô như bí tích hoặc dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp
mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại"
12. Như thế, chính Giáo Hội bày tỏ cho thế giới
biết rằng sự hiệp nhất bên ngoài trong phạm vi xã hội bắt nguồn từ sự hiệp nhất
tâm trí, nghĩa là từ đức tin và đức mến, căn bản hiệp nhất bất khả phân ly của
Giáo Hội trong Chúa Thánh Thần. Sinh lực mà Giáo Hội có thể chuyển thông cho xã
hội nhân loại ngày nay là đức tin và đức mến ấy, được thể hiện trong cuộc sống,
chứ không phải do thế lực bên ngoài nào dựa vào những phương thế hoàn toàn nhân
loại.
Hơn nữa, bởi sứ mệnh và bản chất,
Giáo Hội không cấu kết với một hình thức văn hóa nhân loại đặc thù nào, hoặc một
chế độ chính trị, kinh tế hay xã hội nào. Nhờ tính cách phổ quát ấy, Giáo Hội có
thể là một mối dây liên kết hết sức chặt chẽ giữa các cộng đoàn nhân loại và các
quốc gia khác nhau, miễn là các quốc gia và cộng đoàn nhân loại ấy tin tưởng vào
Giáo Hội và thực sự nhìn nhận Giáo Hội có quyền tự do đích thực để chu toàn sứ
mệnh mình. Vì vậy, Giáo Hội khuyến cáo các con cái mình và hết mọi người: hãy
vượt qua mọi tranh chấp giữa các quốc gia, chủng tộc trong tinh thần gia đình
con cái Thiên Chúa và củng cố các hiệp hội nhân loại chính đáng.
Công Ðồng quí trọng ngưỡng mộ tất
cả những gì chân thật, tốt lành và chính đáng trong các tổ chức rất khác biệt mà
nhân loại đã và còn đang không ngừng thành lập cho mình. Công Ðồng cũng tuyên bố
rằng: Giáo Hội muốn trợ giúp và cổ võ mọi tổ chức ấy trong những gì liên hệ và
khả dĩ phù hợp với sứ mệnh của Giáo Hội. Giáo Hội không ao ước gì hơn là được tự
do phát triển dưới mọi chế độ để phục vụ lợi ích mọi người, miễn là các chế độ
này nhìn nhận những quyền lợi căn bản của con người, của gia đình và những đòi
hỏi của công ích.
43. Sự
trợ giúp mà Giáo Hội cố gắng nhờ các Kitô hữu mang đến cho hoạt động nhân loại
47*. Công Ðồng khuyến khích các Kitô hữu,
công dân của cả hai đô thị, hãy nỗ lực chu toàn cách trung thành những bổn phận
trần thế của họ và chu toàn dưới sự hướng dẫn của tinh thần Phúc Âm. Thực sai
lầm cho những ai đang khi biết rằng chúng ta không có một quê hương trường tồn ở
trần thế và đang phải kiếm tìm một quê hương hậu lai để rồi vì đó tưởng rằng
mình có thể xao lãng các bổn phận trần gian 13,
như thế là không nhận thấy chính đức tin buộc phải chu toàn các bổn phận đó hoàn
hảo hơn, mỗi người tùy theo ơn gọi của mình 14.
Ngược lại, cũng sai lầm không kém đối với những ai nghĩ rằng có thể dấn thân
hoàn toàn vào công việc trần thế như thể các công việc ấy hoàn toàn xa lạ với
đời sống tôn giáo, vì cho rằng đời sống tôn giáo chỉ còn hệ tại những hành vi
phượng tự và một vài bổn phận luân lý phải chu toàn. Sự phân ly giữa đức tin mà
họ tuyên xưng và cuộc sống thường nhật của nhiều người phải kể vào số những sai
lầm trầm trọng nhất của thời đại chúng ta. Và gương mù này ngay trong Cựu Ước
các Tiên Tri đã mạnh mẽ tố cáo 15 và trong
Tân Ước chính Chúa Giêsu Kitô còn ngăm đe nhiều hơn nữa bằng những hình phạt
nặng nề 16. Vậy, không được đem sinh hoạt
nghề nghiệp và xã hội mà đối nghịch cách giả tạo với đời sống tôn giáo. Ðối với
người Kitô hữu, xao lãng bổn phận trần thế tức là xao lãng bổn phận đối với
người lân cận và hơn nữa đối với chính Thiên Chúa, khiến phần rỗi đời đời của
mình bị đe dọa. Theo gương Chúa Giêsu đã sống như một người thợ, các Kitô hữu
hãy vui mừng vì có thể thi hành mọi hoạt động trần thế mà đồng thời có thể liên
kết trong một tổng hợp sống động duy nhất, các cố gắng nhân loại, gia đình, nghề
nghiệp, khoa học hay kỹ thuật với các giá trị tôn giáo. Dưới sự điều hướng tối
cao của các giá trị tôn giáo này, mọi sự được qui hướng về vinh danh Thiên Chúa.
Những phận vụ và sinh hoạt trần thế
thuộc lãnh vực riêng của giáo dân, tuy không độc quyền thuộc về họ. Vì vậy, khi
hoạt động, cá nhân hay đoàn thể, với tư cách công dân trần thế, không những họ
phải tôn trọng các luật lệ riêng của mỗi ngành nhưng còn phải ra sức tự luyện
khả năng chuyên môn thực sự trong các lãnh vực ấy. Họ sẽ sẵn lòng hợp tác với
những người cùng theo đuổi những mục đích chung. Nhìn nhận các đòi hỏi và hưởng
nhờ sức mạnh của đức tin, khi cần, họ sẽ không do dự đề nghị và thực hiện những
sáng kiến mới. Một khi được đào luyện cách thích hợp, lương tâm họ phải đem luật
Chúa thấm nhập cuộc sống của xã hội trần gian. Giáo dân hãy mong đợi ánh sáng và
sức mạnh tinh thần nơi các linh mục. Tuy nhiên, họ đừng vì thế mà nghĩ rằng: các
chủ chăn có đủ thẩm quyền chuyên môn để có thể có ngay một giải pháp cụ thể cho
mọi vấn đề xảy ra, kể cả những vấn đề quan trọng. Cũng đừng lầm tưởng các chủ
chăn vốn có sứ mạng ấy. Nhưng tốt hơn là chính họ, được đức khôn ngoan Kitô giáo
soi dẫn và cẩn thận chú ý các giáo huấn của Giáo Hội 17,
hãy nhận lấy trách nhiệm của mình.
Thường thì chính vũ trụ quan Kitô
giáo sẽ hướng dẫn họ chọn một giải pháp nhất định nào đó tùy hoàn cảnh. Tuy
nhiên, cũng có những tín hữu khác, dầu khá thực tâm, sẽ thẩm định cách khác về
cùng một vấn đề, như thường thấy xảy ra; và sự thẩm định đó vẫn được coi là hợp
lý như thường. Nhiều người dễ dàng gán ghép với sứ điệp Phúc Âm những giải pháp
mà họ đề ra, mặc dầu nhiều khi ngoài ý muốn của họ. Nhưng nên nhớ trong các
trường hợp trên, không ai được độc quyền giành lấy thẩm quyền của Giáo Hội để
biện minh cho lập trường riêng 48*. Phải
luôn luôn nỗ lực soi dẫn nhau bằng đối thoại thành thực, bảo toàn tình tương ái
và trước hết mưu cầu công ích.
Người giáo dân có những phận vụ
tích cực phải chu toàn trong toàn thể đời sống Giáo Hội. Không những họ phải đem
tinh thần Kitô giáo thấm nhuần thế giới nhưng còn được kêu gọi làm chứng cho
Chúa Kitô trong mọi hoàn cảnh, ngay giữa lòng cộng đoàn nhân loại.
Còn các Giám Mục đã được ủy thác
việc điều hành Giáo Hội Chúa hãy cùng các linh mục của mình rao giảng sứ điệp
của Chúa Kitô, sao cho mọi hoạt động trần thế của các tín hữu thấm nhuần ánh
sáng Phúc Âm. Hơn nữa, tất cả các chủ chăn hãy nhớ rằng các Ngài sẽ biểu lộ cho
thế giới một khuôn mặt của Giáo Hội qua thái độ và ưu tư hằng ngày của mình
18. Qua khuôn mặt ấy, người ta phán đoán về sức
mạnh và chân lý của sứ điệp Kitô giáo. Bằng đời sống và lời giảng, hợp cùng các
tu sĩ và giáo hữu của mình, các ngài hãy minh chứng rằng Giáo Hội, nguyên bằng
sự hiện diện và kho tàng ân huệ của mình, đã là nguồn vô tận của những mãnh lực
mà thế giới ngày nay rất cần. Các Ngài hãy trau dồi khả năng bằng cách chuyên
cần học hỏi sao cho có thể đóng trọn vai trò trách nhiệm của mình trong khi đối
thoại với thế giới và những người thuộc bất cứ lập trường nào. Nhưng, trước hết
xin các ngài hãy ghi lòng những lời sau đây của Công Ðồng: "Ngày nay, vì nhân
loại ngày càng hiệp nhất về dân sự, kinh tế và xã hội, nên các Linh Mục càng
phải loại trừ mọi mầm mống chia rẽ, phải nối kết cố gắng và khả năng mình dưới
sự hướng dẫn của các Giám Mục và Giáo Hoàng, để toàn thể nhân loại hiệp nhất
trong gia đình Thiên Chúa" 19.
Mặc dù Giáo Hội, với sức mạnh của
Chúa Thánh Thần, vẫn là hiền thê trung tín của Chúa mình và không ngừng là dấu
chỉ ơn cứu rỗi trong thế giới, tuy nhiên Giáo Hội biết rõ rằng trải qua bao
nhiêu thế kỷ vẫn không thiếu những phần tử trong Giáo Hội
20, giáo dân hoặc giáo sĩ, sống bất trung cùng
Thánh Thần Chúa. Ngay trong thời đại chúng ta, Giáo Hội không quên sự cách biệt
lớn lao giữa sứ điệp do Giáo Hội công bố và sự yếu đuối nhân loại của những
người được giao phó rao giảng Phúc Âm. Dầu lịch sử có phê phán thế nào về những
khiếm khuyết ấy, chúng ta cũng phải ý thức và mạnh mẽ khử trừ những thiếu sót để
khỏi phương hại đến việc rao giảng Phúc Âm. Cũng vậy, trong việc mở rộng tương
quan với thế giới, Giáo Hội biết mình phải luôn trưởng thành nhờ kinh nghiệm qua
các thế kỷ, Ðược Chúa Thánh Thần hướng dẫn, Mẹ Giáo Hội không ngừng "khuyên giục
con cái thanh tẩy và canh tân, để ấn dấu của Chúa Kitô chiếu sáng rạng ngời hơn
trên khuôn mặt Giáo Hội" 21.
44. Sự
trợ giúp mà Giáo Hội nhận được nơi thế giới ngày nay
49*. Cũng như thế giới cần phải nhìn nhận Giáo
Hội như một thực thể xã hội lịch sử và như men của lịch sử, Giáo Hội cũng biết
mình đã nhận được rất nhiều nơi lịch sử và sự tiến hóa của nhân loại.
Kinh nghiệm của những thế kỷ đã
qua, tiến bộ của khoa học, các kho tàng hàm chứa trong những hình thức văn hóa
nhân loại khác nhau, biểu lộ đầy đủ hơn bản tính của chính con người và mở ra
những con đường mới dẫn đến chân lý: tất cả những điều ấy đều hữu ích cho Giáo
Hội. Thực vậy, chính Giáo Hội ngay từ buổi đầu của lịch sử mình đã ra sức diễn
tả sứ điệp của Chúa Kitô bằng những ý niệm và ngôn ngữ của nhiều dân tộc. Hơn
nữa, Giáo Hội còn cố gắng dùng sự khôn ngoan của các triết gia để làm sáng tỏ sứ
điệp ấy. Làm như thế, nhằm thích nghi Phúc Âm, trong mức độ có thể, với tầm hiểu
biết của mọi người cũng như với những đòi hỏi của các nhà hiền triết. Rao giảng
lời mạc khải cách thích nghi như vậy còn phải là luật lệ cho mọi công cuộc
truyền giáo, bởi vì có như vậy mới khơi dậy trong mọi quốc gia khả năng diễn tả
sứ điệp Chúa Kitô theo lối riêng của mình và đồng thời mới cổ võ được sự trao
đổi linh động giữa Giáo Hội và những nền văn hóa khác nhau của các dân tộc
22. Ðể xúc tiến những cuộc trao đổi như thế, nhất
là trong thời đại chúng ta, thời mà sự vật biến đổi rất nhanh và lối suy tư rất
nhiều khác biệt, Giáo Hội đặc biệt cần đến sự đóng góp của những người sống
trong thế giới và biết rõ các tổ chức và bộ môn khác nhau, cũng như thấu triệt
tinh thần các tổ chức và bộ môn đó, dầu họ có đức tin hay không. Bổn phận của
toàn thể Dân Chúa, đặc biệt của các chủ chăn và các nhà thần học là nhờ sự trợ
giúp của Chúa Thánh Thần, đón nghe, phân biệt và giải thích các tiếng nói của
thời đại, rồi phán đoán dưới ánh sáng lời Chúa để Chân Lý mạc khải luôn được
thấu triệt, được hiểu rõ và trình bày cách thích hợp hơn.
Giáo Hội có một cơ cấu xã hội hữu
hình, dấu hiệu của sự hiệp nhất trong Chúa Kitô, nên Giáo Hội cũng có thể được
giàu có thêm và thực sự đang được giàu có thêm nhờ sự tiến hóa của cuộc sống xã
hội nhân loại, không phải vì định chế do Chúa Kitô ban cho Giáo Hội như thiếu
một điều gì, nhưng là để định chế đó được hiểu biết sâu xa hơn, được diễn tả
trung thực hơn và được thích nghi hoàn hảo hơn với thời đại chúng ta. Với lòng
biết ơn, Giáo Hội nhận thấy rằng Giáo Hội đã được nhiều người thuộc mọi giai cấp
và hoàn cảnh giúp đỡ nhiều cách cho chính cộng đoàn cũng như cho từng con cái
mình. Quả thực, tất cả những ai phát triển cộng đoàn nhân loại trong phạm vi gia
đình, văn hóa, kinh tế, xã hội, chính trị và trên bình diện quốc gia, cũng như
quốc tế, đều trợ giúp không ít cho cộng đoàn Giáo Hội, theo như ý định của Thiên
Chúa, trong mức độ Giáo Hội lệ thuộc những yếu tố bên ngoài. Hơn nữa, Giáo Hội
còn nhìn nhận rằng chính sự chống đối của những kẻ công kích hay bách hại Giáo
Hội đã và còn đang có thể giúp ích cho Giáo Hội 23.
45.
Chúa Kitô, Alpha và Omega. Khi trao đổi với thế giới những sự
giúp đỡ hỗ tương, Giáo Hội nhằm một mục đích duy nhất là: làm cho Nước Chúa trị
đến và toàn thể nhân loại được cứu rỗi. Mọi lợi ích mà Dân Chúa trong thời gian
hành trình tại thế có thể đem lại cho gia đình nhân loại đều phát xuất từ sự
kiện này: Giáo Hội là "bí tích phổ quát cứu rỗi" 24,
tỏ bày và đồng thời thực hiện mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa đối với con người.
Quả thực, Ngôi Lời Thiên Chúa, nhờ
Người mà muôn vật được tạo thành, đã làm người, là Con Người hoàn hảo, Người cứu
rỗi mọi người và kết thâu vạn vật nơi Người. Chúa là cùng đích của lịch sử nhân
loại, là điểm qui tụ mọi ước vọng của lịch sử và văn minh, là trung tâm của nhân
loại, là niềm vui của tâm hồn và đáp ứng mọi niềm khao khát
25. Chính Người là Ðấng Chúa Cha đã phục sinh từ
kẻ chết, đã tôn vinh và cho ngự bên hữu, đặt làm thẩm phán kẻ sống và kẻ chết.
Ðược sống động và tụ họp trong Thánh Thần Ngài, chúng ta đang hành trình hướng
về chung cục lịch sử nhân loại, phù hợp với ý định yêu thương của Ngài: "kết
thâu tất cả trong Chúa Kitô: mọi sự trên trời dưới đất" (Eph 1,10).
Chính Chúa đã nói: "Vậy tiền công
của ta sẵn đây rồi, này ta đến gấp mà trả cho mỗi người tùy theo công việc họ
làm. Ta là Alpha và Omega, thứ nhất và sau chót, nguyên thủy và cứu cánh" (Kh
22,12-13) 50*.
Chú Thích:
44*
Trong chương này Công Ðồng muốn trình bày vai trò của Giáo Hội ở giữa thế giới
(40a): Trước hết, nhắc lại khởi nguyên của Giáo Hội, mục đích, phần tử (40b), sứ
mệnh siêu nhiên cũng như tự nhiên (40c), và sự cộng tác cần thiết của mọi người
(40d).
1) Vai trò đối với từng cá nhân
(tương ứng với chương I trên đây): Giáo Hội soi sáng ý nghĩa ước ao của con
người (41a), Giáo Hội cũng bảo vệ nhân phẩm đích thực (tìm thấy ở giữa một số
cực đoan) (41b) và công nhận nhân quyền rồi đem tinh thần Phúc Âm vào việc cổ võ
quyền lợi ấy (41c).
2) Ðối với xã hội (tương ứng với
chương II): Giáo Hội giúp đỡ nhân loại hiệp nhất chặt chẽ hơn (42a) và đem tinh
thần mới nhập vào cơ cấu xã hội. Hoạt động xã hội của Giáo Hội như vậy là hợp lý
(42b,c,d).
3) Ðối với sinh hoạt xã hội (tương
ứng với chương III): Ðức tin đòi phải chu toàn nhiệm vụ sinh hoạt xã hội (43a).
Ðó là phận vụ riêng biệt của giáo dân đã được đào tạo và có trách nhiệm (43b).
Họ phải cộng tác với người khác và lo cho ích chung (43c), trong khi đem tinh
thần Kitô giáo và sinh hoạt đó (43d). Phần giáo sĩ, các ngài phải soi sáng giáo
dân và phải làm gương về các đức tính xã hội (43e). Là dấu chứng về sự cứu độ,
Giáo Hội phải luôn luôn nỗ lực để tự tinh luyện (43f).
4) Thế giới cũng giúp đỡ Giáo Hội:
Khi Giáo Hội tiếp xúc với nhiều nền văn minh khác nhau và tìm cách rao giảng
Phúc Âm một cách thích nghi, thì chính Giáo Hội trở nên phong phú hơn (44a,b).
Ðàng khác mọi tiến bộ nhân loại cũng giúp ích cho Giáo Hội (44c).
5) Giáo Hội phục vụ thế giới khi
làm tròn sứ mệnh riêng là mở rộng nước Thiên Chúa (44a) và rao giảng về Chúa
Kitô, Ðấng đã sáng lập mọi sự đồng thời là trung tâm điểm, là cùng đích của mọi
sự (44b,c).
1
Xem Phaolô VI, Tđ. Ecclesiam suam, III: AAS 56 (1964), trg 637-659.
2
Xem Tit 3,4: "Philanthropia".
3
Xem Eph 1,3; 13-14; 23.
4
Xem Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, ch. I, số 8: AAS 57
(1965), trg 12.
5
N.v.t., ch. II, số 9: AAS 57 (1965), trg 14; - x. số 8: AAS, n.v.t., trg 11.
6
N.v.t., ch. I, số 8: AAS 57 (1965), trg 11.
7
Xem n.v.t., ch. IV, 38: AAS 57 (1965), trg 43 và ghi chú 120.
8
Xem Rm 8,14-17.
9
Xem Mt 22,39.
45*
Ðối với con người hiện nay, con người giàu có với mọi hình thức nhân bản, với
tất cả những tiến bộ khoa học và xã hội, Giáo Hội có thể đem đến lợi ích gì?
Giáo Hội đem lại ánh sáng chính yếu để con người tự biết mình và bảo vệ nhân
phẩm. Nếu không biết Thiên Chúa, con người làm sao hiểu biết sự thật thâm sâu về
mình được. Không biết mình, con người không thể nào trả lời cho những vấn nạn
căn bản về ý nghĩa cuộc sống, sinh hoạt và sự chết. Không biết Chúa Kitô là con
người hoàn hảo, con người không thể nào trở nên đầy đủ (41a). Khi nào tự biết
mình và phẩm giá đích thực của mình, con người mới có thể lên tiếng đòi cho mình
các quyền lợi nhân bản một cách đầy đủ và hợp lý cũng như xứng hợp với đức tin.
46*
Công Ðồng đã nhắc lại sự thống nhất của nhân loại (số 29) có nền tảng tự nhiên
là sự thống nhất sinh vật, sự thống nhất về bản tính và do đó về các quyền lợi
căn bản. Vả lại bản tính xã hội sẽ thúc đẩy con người hiệp nhất một ngày một hơn
(số 6,25). Mặt khác sự thống nhất của nhân loại cũng có nền tảng siêu nhiên, vì,
như đức tin dạy, tất cả mọi người được Thiên Chúa dựng nên và có cùng một cứu
cánh là chính Thiên Chúa. Tất cả đã được Chúa Kitô cứu chuộc, tất cả đã được mời
gọi để trở nên con cái Thiên Chúa và anh em với nhau. Luật mới của những con
người mới ấy là luật thương yêu lẫn nhau.
Vì là một thân thể, một dân tộc duy
nhất, Giáo Hội giúp đỡ nhân loại thực hiện lý tưởng thống nhất. Vì là bí tích,
tức là dấu chứng và dụng cụ để giúp đỡ nhân loại kết hiệp mật thiết với Thiên
Chúa và hiệp nhất với nhau (42c), Giáo Hội góp phần lớn lao để thống nhất loài
người. Ðó chính là sứ mệnh của Giáo Hội vậy (số 92a).
10
Xem CÐ. Vat II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, ch. II, số 9: AAS 57
(1965), trg 12-14.
11
Xem Piô XII, Allocutio ad Cultores historiae et artis, 9-3-1956: AAS 48 (1956),
trg 212: "Trong phạm vi văn hóa, vị Sáng Lập thần linh của Giáo Hội là Chúa Kitô
không ban cho Giáo Hội một sứ mệnh nào cũng không ấn định một mục đích nào. Mục
đích mà Chúa Kitô nhằm là thuần túy tôn giáo (...) Giáo Hội phải dẫn dắt mọi
người đến với Chúa để họ phó thác cho Ngài mà không đắn đo (...) Giáo Hội không
khi nào có thể để mục đích thuần túy tôn giáo, siêu nhiên này lọt ra ngoài tầm
nhãn giới của mình. Ý nghĩ a mọi hoạt động của Giáo Hội cả đến tận khoản cuối
cùng của Bộ Giáo Luật chỉ qui về mục đích đó cách trực tiếp hay gián tiếp".
12
Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, ch. I, số 1: AAS 57
(1965), trg 5.
47*
Sống trong thế gian tín hữu phải tránh hai thái độ sai lầm: 1) bỏ sót công việc
trần thế để chỉ lo cho việc đạo đức; 2) chìm đắm trong công việc trần thế và coi
công việc này như không có liên quan gì đến việc đạo đức.
Qua cả hai sự sai lầm trên, người
ta tách biệt đời sống tôn giáo và đời sống nghề nghiệp hay đời sống trần thế nếu
nói rộng hơn (cuộc giải trí, văn hóa...) và lại hành động theo luân lý cá nhân
(số 30).
Ðức tin phải ảnh hưởng trên cả đời
sống và ta phải đem tinh thần Phúc Âm vào công việc trần thế: vào nghề nghiệp,
vào giao thiệp với người khác, vào văn hóa, vào cuộc giải trí v.v... "Ðối với
người Kitô hữu, xao lãng bổn phận trần thế tức là xao lãng bổn phận đối với
những người lân cận và hơn nữa đối với chính Thiên Chúa, khiến phần rỗi đời đời
của mình bị đe dọa": vì bổn phận trần thế là phương tiện để thực hành đức mến
đối với anh em và đối với Thiên Chúa. Không thực hành đức mến tức là phạm đến
toàn thể bộ luật (x. Gal 5,14). Cho nên kẻ nào xao lãng bổn phận trần thế hay là
tách rời nó khỏi ảnh hưởng của tinh thần Phúc Âm tức là người không sống đạo, họ
không phải là người công giáo.
13
Xem Dth 13,14.
14
Xem 2Th 3,6-13; Eph 4,28.
15
Xem Is 58,1-12.
16
Xem Mt 23,3-33; Mc 7,10-13.
17
Xem Gioan XXIII, Tđ. Mater et Magistra, IV: AAS 53 (1961), trg 456-457 và I
:n.v.t., trg 407, 410-411.
48*
"3) Sau khi nhắc lại những nguyên tắc tổng quát trên đây, Hàng Giáo Phẩm Công
Giáo Việt Nam chiếu theo những sự kiện lịch sử, chính trị, xã hội, tôn giáo hiện
tại trong nước, đồng thanh xác định như sau: a) Không cho phép một đảng phái nào
lấy tên là "Công Giáo" hay là "Thiên Chúa Giáo", để rồi đảng ấy có thể xuất hiện
như là đảng phái của Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam. b) Kêu mời giáo dân Công
Giáo phải ý thức rằng: sức mạnh của họ trước hết phải ở trong tinh thần Chúa
Giêsu - tức là tinh thần Phúc Âm được mọi người sống động và chiếu dọi chung
quanh, như đã trình bày trong những đoạn nói trên. c) Tuy nhiên để áp dụng
nguyên tắc số 2 ở trên, hết mọi người Công Giáo - với tư cách là người công dân
- đều có thể tự do ghi tên để gia nhập đảng này hay đảng khác tùy ý, bất cứ là
đảng ấy đã thành lập rồi, hay sẽ được những công dân đầy đủ khả năng, can đảm
thành lập về sau.
Ghi tên vào một đảng phái như thế,
đồng bào Công Giáo không cam kết Giáo Hội, nhưng chỉ cam kết cá nhân mình...
Ðồng bào Công Giáo hoạt động trong
đảng phái mình đã lựa chọn, tuy nhiên cả trong hoạt động chính trị (cũng như đời
sống cá nhân, gia đình, nghề nghiệp) họ phải là một nhân chứng của Chúa Kitô. Họ
phải tìm cách để in sâu vào trong các tâm hồn những luật lệ, những qui chế, tinh
thần Phúc Âm và học thuyết xã hội của Hội Thánh.
1) Hiện nay không có một tờ báo
Công Giáo nào, hay là một tờ báo có xu hướng Công Giáo nào đã được Hàng Giáo
Phẩm chỉ định để làm tiếng nói chính thức cho Công Giáo...
2) Có những báo chí đã được thành
lập do một số giáo dân Công Giáo nhiệt thành, quảng đại; đó là quyền lợi riêng
của họ và chúng tôi thêm rằng: đó là nghĩa vụ của họ. Chúng tôi để lời khen ngợi
họ đã có sáng kiến tốt đẹp như thế, và chúng tôi hết sức khuyên họ hãy tiếp tục
bền vững".
(Thư luân lưu của H.Ð.G.M.V.N.,
ngày 22 tháng 1 năm 1964, x. trong báo Sacerdos, số 27, tháng 3 năm 1964, (trg
170-171; 172-173).
18
Xem CÐ Vat II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, ch. III, số 28: AAS 57
(1965), trg 34-35.
19
N.t., số 28: AAS, n.v.t., trg 35-36.
20
Xem T. Ambrosiô, De Virginitate, ch. VIII, số 48: PL 16, 278.
21
CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, ch. II, số 15: AAS 57
(1965), trg 20.
49*
Từ xưa tới nay, thế giới cũng đem lại rất nhiều lợi ích cho Giáo Hội. Quả quyết
như vậy là xác nhận một sự kiện lịch sử, nhưng có lẽ chỉ gần đây tín hữu mới ý
thức về sự kiện ấy. Giáo Hội lãnh nhận nhiều:
1) Trong lãnh vực tư tưởng nhờ các
kho tàng của nhiều nền văn minh khác nhau. Tất cả những gì giúp ta hiểu biết hơn
về con người và thế giới đều giúp đỡ Giáo Hội: giáo dục, văn hóa, khoa học...
2) Trong lãnh vực cơ cấu xã hội: từ
đầu, Giáo Hội đã chịu ảnh hưởng của nếp sống Do Thái, của pháp lý La Mã và Ðức
Quốc, và ít hay nhiều của phong tục các dân tộc khác nữa. Pháp lý các xứ truyền
giáo đã ảnh hưởng rất nhiều đến pháp lý chung của Giáo Hội chẳng hạn. Hiện nay
ta thấy ảnh hưởng của chế độ dân chủ qua những phong trào phân quyền, nhiều cơ
quan mới như Thượng Hội Ðồng Giám Mục, Hội Ðồng Giám Mục, Hội Ðồng Linh Mục,
v.v...
3) Trong lãnh vực sinh hoạt: khi
các Quốc Gia và các Tổ Chức quốc tế kính trọng sự tự do của Giáo Hội, mời Giáo
Hội cộng tác, giúp Giáo Hội hoạt động, hay là mặc dầu không muốn nhờ Giáo Hội,
nhưng khi các Tổ Chức ấy cố gắng nâng cao con người nhờ việc giáo dục, nhờ việc
bảo đảm nhân quyền, v.v... thực ra họ đã làm những công việc có chung mục đích
với Giáo Hội.
Là người Việt Nam hay làm việc ở
Việt Nam, ta phải nhấn mạnh câu "Rao giảng lời mạc khải cách thích nghi như vậy
còn phải là luật lệ cho mọi công cuộc truyền giáo". Sau hơn ba thế kỷ từ khi
Phúc Âm tới Việt Nam, phải chăng Ðạo chúng ta còn thấm nhuần màu sắc ngoại quốc
quá đáng? Người ngoại giáo có cảm tưởng đó không?
22
Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, ch. II số 13: AAS
(1965), trg 17.
23
Xem Justinô, Dialogus cum Tryphone, ch. 110: PG 6, 729, x.b. Otto, 1897, trg
391-393: ... "nhưng chúng ta càng chịu nhiều khổ nhục ấy, lại càng có nhiều
người trở thành tín hữu và đạo đức nhờ danh Chúa Giêsu". - Xem Tertullianô,
Apologeticus, ch. L, 13: PL I, 534; Corpus Christ., ser. Lat. I, trg 171: "càng
bị các người gặt (bách hại) chúng tôi càng trở nên đông đúc hơn: máu tử đạo là
hạt giống nảy sinh Kitô hữu!" - X. Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, ch.
I I số 9: A AS 57 (1965), trg 14.
24
Xem CÐ Vat. II, Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen gentium, ch. VII, số 48: AAS
57 (1965), trg 53.
25
Xem Phaolô VI, Huấn từ 3-2-1965: L'Osservatore Romano, 4-2-1965.
50*
Alpha và Omega là chữ đầu và chữ cuối của mẫu tự Hy Lạp. Câu nói có nghĩa là khi
dùng các chữ trong mẫu tự, ta có thể viết ra tất cả những gì ta muốn. Vậy thì,
nói về Chúa (cũng như về Thiên Chúa Cha: Kh 1,8) có nghĩa là Chúa có toàn quyền
để phán xét nhân loại.
còn tiếp
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Ngôi mộ trống |
Nguồn:
http://hdgmvietnam.org/ngoi-mo-trong/2844.54.11.aspx
“Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào.
Ông đã thấy và đã tin”
(Ga 20,8).
Vào thuở bình minh của nhân loại,
trước khi Thiên Chúa tạo dựng đất trời và muôn loài muôn vật,
thế giới là một mớ hỗn mang, bóng tối bao trùm vực thẳm (x. St
1,2).
Vào lúc Thiên Chúa chuẩn bị thực
hiện một cuộc sáng tạo mới, các môn đệ đứng trước một ngôi mộ
trống ảm đạm, trong tâm trạng bi quan và hoảng loạn (x. Ga,
20,19).
Trong công trình sáng tạo thuở ban
đầu, Thiên Chúa đã dùng Lời của Ngài làm cho muôn vật muôn loài
từ hư vô trở thành hiện hữu (x. St 1,1-25).
Trong công trình sáng tạo mới,
Thiên Chúa đã qua Ngôi Lời nhập thể để quy tụ muôn loài muôn vật
trong ánh sáng của sự phục sinh (x. Ep 1,10).
Khởi từ giấc ngủ của Ađam thứ
nhất, Thiên Chúa đã tạo dựng người phụ nữ có tên là Evà, là mẹ
của chúng sinh (x St 2,21).
Khởi từ sự chết của Đức Giêsu, vị
Ađam cuối cùng, Thiên Chúa làm phát sinh cộng đoàn tín hữu có
tên là Giáo Hội, xinh đẹp, không tỳ ố không vết nhăn (x. Ep
5,27).
Ngôi mộ trống của ngày thứ nhất
trong tuần là khởi nguồn của biết bao suy tư.
– Ngôi mộ trống nói với chúng ta về quyền năng của Thiên Chúa
Nếu ngôi mộ trống là lý do để một
số kỳ lão Do Thái phao tin đồn các môn đệ đã lấy cắp xác người
đã được an táng trong mộ, thì đối với các tín hữu, ngôi mộ trống
lại là bằng chứng của quyền năng Thiên Chúa. Nếu vào buổi sáng
ngày thứ nhất trong tuần, khi các phụ nữ ra viếng mộ mà họ vẫn
còn thấy ngôi mộ đóng kín, thì đó là chuyện rất đỗi bình thường,
vì cái chết của Đức Giêsu cũng chỉ giống như cái chêt của biết
bao người khác trong cõi nhân sinh này. Người đã chết vẫn nằm
trong ngôi mộ, có gì đặc biệt mà phải ầm ĩ? Nhưng không, các phụ
nữ ngạc nhiên và lo sợ vì họ
“không thấy
thi hài Đức Giêsu đâu cả”
(Lc 24,3). Cả bốn tác giả Tin Mừng đều thuật lại hiện tượng này.
Mặc dù cách thức diễn tả có khác nhau, nhưng cả bốn vị đều nhằm
khẳng định: ngôi mộ trống!
Chính từ ngôi mộ trống này mà
quyền năng Thiên Chúa thể hiện. Bởi lẽ nếu ngôi mộ trống, tức là
thân xác Đức Giêsu không còn ở đó nữa. Người đã sống lại. Các
thiên sứ loan báo Đức Giêsu sống lại qua câu hỏi dành cho những
phụ nữ: “Sao
các bà lại tìm người Sống ở giữa kẻ chết?”
(Lc 24,5). Trước đó, các bà đã từng chứng kiến cơn hấp hối đau
thương của Đức Giêsu trên thập giá (x. Lc 23,49). Giờ đây, tin
Chúa sống lại quá đột ngột đối với các bà, khiến các bà vừa sợ
hãi vừa vui mừng.
Vâng, Thiên Chúa là Đấng quyền
năng trên sự sống và sự chết. Đức Giêsu đã nhiều lần loan báo
cái chết của Người, nhưng sứ mạng của Người không dừng lại ở nấm
mồ, cuộc đời của Người không kết thúc ở cái chết. Người đã trỗi
dậy giữa những kẻ chết nhờ quyền năng của Thiên Chúa. Sinh thời,
Đức Giêsu đã làm cho ông Ladarô chết bốn ngày được sống lại. Giờ
đây, chính Người bước ra từ nấm mồ, vì Người là Thiên Chúa quyền
năng. Người là chủ sự sống. Người có quyền trên sự chết. Người
đã chiến thắng sự chết và qua đó, Người giải phóng con người
khỏi nỗi sợ hãi do sự chết ám ảnh.
– Ngôi mộ trống nói về Thiên Chúa,
Đấng vừa hiện diện vừa vắng mặt giữa chúng ta
Thiên Chúa hiện diện trong cuộc
đời này. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự hiện hữu của Ngài:
“Trời xanh
tường thuật vinh quang Thiên Chúa
Không trung
loan báo việc tay Ngài làm”
(Tv 19,2).
Thiên Chúa hiện hữu mọi nơi. Ngài
là Đấng quyền năng, không bị giới hạn bởi thời gian và không
gian:
“Con có lên
trời, Chúa đang ngự đó
Nằm dưới âm
ty, vẫn gặp thấy Ngài” (Tv
139,8)
Tuy vậy, chúng ta lại không thể
cảm nhận Thiên Chúa bằng giác quan, như chúng ta thường gặp gỡ
tiếp xúc những người xung quanh. Vì vậy, có tác giả đã gọi sự
hiện diện của Thiên Chúa là “sự-hiện-diện-vắng-mặt”. Ngài ở đây,
nhưng ta lại không nhìn thấy. Ngài vẫn có quanh ta, nhưng lại
không giáp mặt Ngài. Người ta không thể làm thế nào để chứng
minh sự hiện hữu của Thiên Chúa như chứng minh một định đề toán
học hay một sự vật trong thế giới thực nghiệm, nhưng người ta
cũng không thể phủ nhận được sự hiện hữu của Ngài trong kiếp
nhân sinh.
Ngôi mộ trống muốn nói với chúng
ta: mặc dù chúng ta không thể chạm tới Thiên Chúa bằng những
tiếp xúc thể lý, nhưng Ngài vẫn hiện diện trong cuộc đời này.
Nếu chúng ta không thể gặp gỡ Ngài “mặt giáp mặt”, thì chúng ta
lại có thể gặp gỡ Ngài qua cái nhìn của đức tin và tình mến.
Chính vào lúc chứng kiến cái chết của Đức Giêsu trên thập giá,
viên đại đội trưởng đã tuyên bố:
“Quả thật ông
này là Con Thiên Chúa” (Mt
27,54). Ông nhận ra sứ mạng thiên sai của Đức Giêsu không phải
vào một thời điểm vinh quang huy hoàng, nhưng lại vào giây phút
khổ đau đến tột cùng của con người bị treo trên cây gỗ.
Hiệu quả của công cuộc cứu độ do
Đức Giêsu thực hiện cũng là một thực tại vừa “đã rồi” vừa “chưa
xong”. Quả vậy, Nước Trời Đức Giêsu loan báo đã khởi đầu trong
cuộc sống hôm nay, nhưng đang từng bước tiến triển và chưa hoàn
thành. Giáo Hội là cộng đoàn tín hữu do chính Đức Kitô thiết
lập. Cộng đoàn này là một dân lữ hành đang trên đường tiến về
đời sau. Vì là một dân lữ hành nên còn nhiều khiếm khuyết, cần
được thanh tẩy và tinh luyện mỗi ngày, cho tới khi đạt được hạnh
phúc trọn hảo đời sau.
– Ngôi mộ trống nói với chúng ta về cuộc sống con người
Vừa mang tính hiện tại vừa hướng về tương lai
Mỗi ngày, có biết bao khách hành
hương tuôn về Giêrusalem để viếng nhà thờ Mộ thánh, nơi còn ngôi
mộ đã an táng Đức Giêsu. Họ đến đây để cùng suy tư về cuộc khổ
nạn của Đức Giêsu cách đây 2000 năm. Ngôi mộ trống ở Giêrusalem
hôm nay vừa nhắc chúng ta về cuộc khổ nạn của thời quá khứ, vừa
hướng chúng ta về với tương lai. Mỗi khi dừng lại bên nấm mộ của
người thân, mỗi chúng ta đều trải nghiệm về sự mỏng giòn chóng
qua của kiếp con người. Ngôi mộ trống vẫn mở ra từ sáng sớm ngày
thứ nhất trong tuần cách đây 2000 năm là một lời tuyên xưng vào
sự sống vĩnh cửu cho những ai tin vào Đức Giêsu. Vâng, sau một
cuộc đời được đan xen giữa những vui mừng và đau khổ, thất bại
và thành công, thật là một điều phi lý nếu con người bị chôn vùi
mãi mãi trong lòng đất. Đức tin Công giáo tuyên xưng “xác
loài người ngày sau sống lại”.
Tuy vậy, dù được sống lại, số phận của mỗi người lại không giống
nhau: “Trong
số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ trỗi dậy:
người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị
ghê tởm muôn đời” (Đn
12,2).
Giáo lý Công giáo dạy:
Nơi Đức Giêsu
phục sinh, các Kitô hữu được nếm “những sức mạnh của thế giới
tương lai và đời sống của họ được Đức Kitô lôi cuốn vào trong
lòng đời sống thần linh, “để những ai đang sống, không còn sống
cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình
(Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo số 655).
Ngôi mộ trống nói với chúng ta:
con người không chỉ có phần xác mà còn là phần linh hồn; không
chỉ có hôm nay mà còn có ngày mai. Thật lạ lùng, từ 20 thế kỷ
nay, ngôi mộ trống bình thường là thế mà lại thu hút biết bao
khách hành hương tiến về Giêrusalem. Khá nhiều người đến cầu
nguyện nơi đây đã được thay đổi cuộc đời. Họ đã nhận ra Thiên
Chúa từ một ngôi mộ trống. Họ nhìn thấy tương lai từ một tấm
huyệt mở. Họ đã gặp gỡ chính bản thân mình qua không gian đơn sơ
mà linh thiêng này.
Dù chúng ta không thể hành hương
đến Giêrusalem, ngôi mộ trống vẫn đang hiện diện giữa chúng ta.
Lễ Phục sinh chuyển tải đến chúng ta một thông điệp: người tín
hữu được sống lại cùng Đức Kitô, hãy cùng nắm tay nhau để giới
thiệu một Thiên Chúa đang hiện diện, để cùng xây dựng tương lai
từ ngày hôm nay.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Tân Chân phước Gioan Phaolô II với Giáo Hội tại Việt Nam |
Nguồn:
http://hdgmvietnam.org/tan-chan-phuoc-gioan-phaolo-ii-voi-giao-hoi-tai-viet-nam/2820.57.7.aspx
WHĐ (23.04.2011) –
Ngày 1-05-2011, tại Rôma, sẽ diễn ra lễ tôn phong Đức cố Giáo
hoàng Gioan Phaolô II lên bậc Chân phước.
Thánh lễ tôn phong
sẽ do Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo lý
Đức Tin thời Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II, chủ tế.
Như vậy sau đúng 6
năm và 1 tháng kể từ ngày qua đời, Đức Gioan Phaolô II, vị giáo
hoàng của thời đương đại, được tôn kính ở bậc Chân phước. Đây là
trường hợp rất hiếm có trong lịch sử phong thánh của Giáo hội.
Đối với Dân Chúa
tại Việt Nam, Đức Gioan Phaolô II, vị tân Chân phước, là một Vị
Mục Tử, một Người Cha, một Người Bạn Lớn, một Ân nhân, người đã
dành nhiều quan tâm và ưu ái cho cộng đồng Dân Chúa cũng như
nhân dân Việt Nam.
Trong 27 năm được
Đức Gioan Phaolô II lãnh đạo (1978 – 2005), Giáo Hội trên thế
giới và tại Việt Nam được hưởng nhờ bao ơn ích từ những giáo
huấn, quyết định, sự sắp đặt và tài lãnh đạo, nhất là gương sáng
của ngài.
Bản liệt kê dưới
đây mới chỉ gợi lên một số nét về những sự việc, sự kiện, con
người trong mối quan hệ giữa Vị Mục tử của Hội Thánh và Dân Chúa
tại Việt Nam.
Tư liệu chưa được
đầy đủ và chưa được khai thác hết, nên bản liệt kê mới chỉ có ý
nghĩa phác họa, nhưng cũng xin được gửi đến quý độc giả của WHĐ,
như góp thêm một bông hoa nhỏ đặt nơi bàn thờ tôn kính Tân Chân
phước Gioan Phaolô II – Karol Wojtyla.
1978 |
–
Ngày 16-10: Đức Hồng y Karol Wojtyla, Tổng Giám mục
Krakow (Ba Lan) đắc cử Giáo hoàng, lấy
sứ
hiệu Gioan Phaolô II, trở thành vị Giáo hoàng thứ 264
của Giáo hội Công giáo.
Giáo hội
Công giáo tại Việt Nam cầu nguyện, tạ ơn, bày tỏ sự tuân
phục và hiệp nhất với Đức tân Giáo hoàng Gioan Phaolô
II. |
1979 |
– Ngày
10-01, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Ðức cha Giuse Maria
Nguyễn Tùng Cương làm Giám mục GP Hải Phòng, và Ðức cha
Phêrô Gioan Trần Xuân Hạp, Giám mục GP Vinh.
–
Ngày 4-03, ĐGH Gioan Phaolô II ban hành Thông điệp
Redemptoris Hominis
(Đấng Cứu chuộc loài người).
– Ngày
26-5, ĐGH Gioan Phaolô II đặt Đức TGM Giuse Trịnh Văn
Căn lên hàng Hồng y.
– Ngày
4-07, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Ðức cha Giuse Maria
Vũ Duy Nhất làm GM phó GP Bùi Chu.
–
Ngày 16-10, ĐGH Gioan Phaolô II ban hành Tông huấn
Catechesi Tradendae
về việc dạy Giáo lý
– Ngày
30-10, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Ðức cha Giuse Maria
Ðinh Bỉnh làm GM phó GP Thái Bình. |
1980 |
– Từ 24-04
đến 1-05, lần đầu tiên các Giám mục Viêt Nam cùng nhau
họp Hội đồng Giám mục tại Hà Nội. Đại hội đã đặt ra quy
chế và thiết lập cơ cấu hoạt động của HĐGMVN. Bế mạc Đại
hội, trong Thư chung của HĐGMVN, ngoài việc đề ra đường
lối hoạt động mục vụ thống nhất, các giám mục bày tỏ sự
hiệp nhất với Đức Giáo hoàng, vị đại diện của Chúa Kitô,
người được Chúa trao trách nhiệm ‘chăn dắt đoàn chiên
của Người’ (Ga 21, 15-18), và ‘làm cho anh em vững mạnh’
(Lc 22, 32).
– Các giám
mục VN viếng mộ hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô - ad
limina - tại Rôma, yết kiến ĐGH.
–
Cùng với Hội Thánh khắp nơi, GH tại VN đón nhận và học
hỏi Thông điệp
Dives
in misericordia
(Thiên Chúa giàu lòng thương xót) được ĐGH ban hành ngày
30-11. |
1981 |
– Ngày
24-03, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Ðức cha Phanxicô
Xaviê Nguyễn Văn Sang làm GM phụ tá TGP Hà Nội.
– Ngày
26-03, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Ðức cha Phêrô Trần
Thành Chung làm GM phó GP Kontum.
– Ngày
19-06, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Ðức cha Giuse Trịnh
Chính Trực làm GM phó GM Ban Mê Thuột.
–
Cùng với Hội Thánh khắp nơi, GH tại VN đón nhận và học
hỏi Thông điệp
Laborem exercens
được ĐGH ban hành ngày 14-09.
–
Ngày 22-11, ĐGH ban hành Tông huấn
Familiaris Consortio
về đời sống gia đình. |
1982 |
Ngày 8-06,
ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Ðức cha Louis Hà Kim Danh
làm GM phó GP Phú Cường. |
1983 |
Ngày 25-03:
Giáo Hội tại VN cùng Giáo Hội khắp nơi khai mạc Năm
Thánh Cứu chuộc do ĐGH Gioan Phaolô II thiết lập, kỷ
niệm 1950 năm Chúa Giêsu chịu chết để cứu chuộc loài
người. |
1984 |
– Trong
chuyến viếng thăm mục vụ Á châu, ngày 10-05, khi bay từ
Quần đảo Papua Tân Ghinê đến Thái Lan, qua không phận
Việt Nam, ĐGH Gioan Phaolô II gửi điện văn chào thăm mọi
người và các tín hữu Công giáo Việt Nam.
–
Ngày 2-12, ĐGH Gioan Phaolô II ban hành Tông huấn
Reconcilio et Paenitentia
về Bí tích Hòa giải. |
1985 |
– Tháng 10,
Tại Roma, ĐHY Giuse Trịnh Văn Căn và Đức TGM Phaolô
Nguyễn Văn Bình tham dự Thượng Hội đồng Giám mục Thế
giới khóa đặc biệt kỷ niệm 20 năm Công đồng Vatican 2
(1965-1985).
– Ngày
24-11, ĐGH Gioan Phaolô II đã gửi cho HĐGMVN sứ điệp
nhân dịp kỷ niệm 25 năm thành lập Hàng Giáo phẩm VN.
– Tháng 12,
các giám mục VN viếng mộ hai Thánh Tông đồ Phêrô và
Phaolô – ad limina, và yết kiến ĐGH Gioan Phaolô II. |
1986 |
Cùng
với Hội Thánh khắp nơi, GH tại VN đón nhận và học hỏi
Thông điệp
Dominum et Vivificantem
được ĐGH ban hành ngày 18-11. |
1987 |
–
Ngày 25-03, ĐGH Gioan Phaolô II ban hành Thông điệp
Redemptoris Mater
(Mẹ Đấng Cứu chuộc).
– Ngày
22-6, ĐGH Gioan Phaolô II chuẩn y Sắc lệnh Tôn phong
Hiển thánh cho 117 chân phước tử đạo VN.
– Ngày
24-6, ĐHY Giuse Trịnh Văn Căn gửi điện văn cho ĐHY Quốc
Vụ Khanh Tòa Thánh, bày tỏ lòng biết ơn của cộng đồng
dân Chúa tại Việt Nam về việc ĐGH Gioan Phaolô II đã
chuẩn y việc phong thánh cho 117 chân phước Tử đạo VN. |
1988 |
– Sự
kiện trọng đại: Ngày 19-6, ĐGH Gioan Phaolô II tuyên
phong Hiển Thánh cho 117 chân phước tử đạo VN.
Trong bài
giảng Thánh lễ Phong Thánh tại Rôma, ĐGH nhắn nhủ Dân
Chúa tại VN:
“Một
lần nữa, giữa giáo đoàn Việt Nam, chúng tôi nói lại cho
anh em rằng: máu các Tử Đạo là nguồn ân sủng cho anh em
trước tiên, để anh em thăng tiến trong ĐỨC TIN. Giữa anh
em, Đức tin của Tổ Tiên vẫn tiếp tục và còn truyền tụng
sang nhiều thế hệ tương lai. ĐỨC TIN này tồn tại để làm
nền tảng xây dựng sự kiên trì cho tất cả những người là
Việt Nam thuần túy sẽ trung thành với quê hương đất
nước, nhưng đồng thời vẫn còn là người tín hữu của Chúa
Kitô. Ai là người tín hữu đều ý thức rằng: Lời kêu gọi
của Phúc Âm vẫn là phải tuân phục các thể chế loài
người, để tôn thờ tình yêu Thiên Chúa bằng cách làm việc
thiện, sống xứng đáng con người tự do, kiêng nể tha
nhân, yêu thương anh em, kính sợ Thiên Chúa và tôn trọng
công quyền và thể chế quốc gia (1Pr 2, 13-17). Do đó,
công ích của quốc gia vẫn là điểm người công dân có đạo
phải dấn thân, nhưng đồng thời phải được tự do tuyên
xưng chân lý của Chúa, được cảm thông với các vị Chủ
chăn và anh em đồng tín ngưỡng: và như thế là để sống an
bình với mọi người và thực tâm xây dựng hạnh phúc cho
toàn dân” (Bản
tiếng Việt do Đức Ông V. Trần Ngọc Thụ chuyển ngữ).
–
Ngày 15-08, ĐGH Gioan Phaolô II ban hành Tông thư
Mulieris Dignitatem
(Phẩm giá của phụ nữ).
– Ngày
14-11, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Giuse Nguyễn
Văn Yến làm GM phó GP Phát Diệm.
– Ngày
15-12, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Giuse Nguyễn
Quang Tuyến làm GM phó GP Bắc Ninh.
–
Ngày 30-12, ĐGH Gioan Phaolô II ban hành Tông huấn
Christifideles laici
về giáo dân. Đây là một trong những giáo huấn được học
hỏi và vận dụng sâu rộng tại VN. |
1989 |
– ĐGH
Gioan Phaolô II cử ĐHY Roger Etchegaray, Chủ tịch Hội
Đồng Công Lý và Hòa Bình thăm VN với Sứ điệp của ngài
gửi cộng đoàn Dân Chúa:“Tấm
gương minh chứng cho tình yêu đã được đông đảo các vị
giám mục, linh mục, và giáo dân nêu cao qua sự hy sinh
đổ máu vì Chúa Kitô ngày xưa đang khích lệ anh em trong
cuộc sống hằng ngày và giúp anh chị em nhìn tương lai
với niềm hy vọng. Ước gì người VN hôm nay, theo chân các
Thánh của mình, sẽ tiếp tục nêu gương anh dũng, kiên trì
và thiện chí sống hòa hợp như Chúa Kitô và trong tinh
thần liên đới mà Ngài đã rao giảng”. |
1990 |
– Ngày
23-05, ĐHY Roger Etchegaray, Chủ tịch Hội Đồng Công Lý
và Hòa Bình, được ĐGH Gioan Phaolô II củ làm đặc sứ,
sang VN dự lễ tang ĐHY Giuse Trịnh Văn Căn. Nhân dịp
này, ĐHY chuyển lời nhắn nhủ của ĐGH đối với toàn thể
dân Chúa tại VN: “Anh chị em hãy hãnh diện là người VN,
hãy yêu mến tổ quốc của anh chị em. - Hãy hãnh diện là
tín hữu Công Giáo, hãy yêu mến GH của anh chị em, để làm
vinh danh Chúa và mang lại phần rỗi cho toàn thế giới”.
–
Tháng 11, các giám mục VN về Rôma viếng mộ hai Thánh
Tông đồ Phêrô và Phaolô – ad limina. Trong huấn từ tiếp
kiến các giám mục VN ngày 24-11, ĐGH Gioan Phaolô II đã
nói:
“Tôi
xin lưu ý về sứ mạng của HĐGM. Hội đồng có nhiệm vụ giúp
anh em củng cố tình đoàn kết giữa các giáo phận trong
những miền khác nhau của đất nước. Trong tổ chức HĐGM,
anh em có thể nâng đỡ nhau một cách hữu hiệu, để có thể
thi hành một cách hữu hiệu hơn trách vụ mục tử của anh
em, đồng thời đối thoại xây dựng với những người lãnh
đạo xã hội... Những phận vụ khác nhau của HĐGM sẽ giúp
anh em xác định vị trí của Giáo Hội trong quốc gia một
cách rõ rệt hơn. Sự cộng tác tín nhiệm lẫn nhau sẽ giúp
anh em tạo những điều kiện tốt đẹp hơn để phát triển đời
sống của Giáo Hội, đồng thời thực thi những sứ vụ mà
Giáo Hội muốn dành cho dân tộc Việt Nam”.
– Ngày
3-12, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Giuse Nguyễn
Phụng Hiểu làm Giám mục GP Hưng Hóa.
–
Cùng với Hội Thánh khắp nơi, GH tại VN đón nhận và học
hỏi Thông điệp
Redemptoris Missio
(Sứ vụ đấng Cứu thế) được ĐGH ban hành ngày 7-12. |
1991 |
–
Ngày 1-05, ĐGH Gioan Phaolô II ban hành thông điệp
Centesimus Annus
(Năm thứ 100) kỷ niệm 100 năm Thông điệp
Rerum
Novarum (Tân sự).
– Ngày
11-10, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Phêrô Nguyễn
Văn Nhơn làm Giám mục phó GP Đà Lạt. |
1992 |
– Ngày
15-2, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức TGM Stêphanô
Nguyễn Như Thể làm thành viên HĐ Tòa Thánh về Đối thoại
liên tôn.
– Ngày
6-03, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Tôma Nguyễn
Văn Trâm làm Giám mục phụ tá GP Xuân Lộc.
–
Ngày 25-03, ĐGH Gioan Phaolô II ban hành Tông huấn
Pastores Dabo Vobis
về đào tạo linh mục.
– Ngày
6-07, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Phaolô Maria
Cao Đình Thuyên làm GM phó GP Vinh.
–
Ngày 25-11, trong buổi tiếp hàng tuần, ĐGH Gioan Phaolô
II ngỏ lời với phái đoàn VN do do Đức TGM Phanxicô Xaviê
Nguyễn Văn Thuận và Đức TGM Stêphanô Nguyễn Như Thể dẫn
đầu:
“Ước
gì chứng tá và lời cầu bầu của Các Thánh Tử đạo VN nâng
đỡ mọi Kitô hữu VN, những người đang cố gắng sống Tin
Mừng trong mọi hoàn cảnh. Tôi thấu hiểu những khó khăn
và hy sinh gian khổ mà anh chị em Công giáo VN đang gánh
chịu trong cuộc sống hàng ngày”. |
1993 |
– Ngày
22-03, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Gioan B.
Phạm Minh Mẫn làm GM phó GP Mỹ Tho.
– Ngày
27-4, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức TGM Nguyễn
VănThuận và Đức cha Phaolô Nguyễn Minh Nhật làm cố vấn
của Bộ Truyền Giáo.
–
Cùng với Hội Thánh khắp nơi, GH tại VN đón nhận và học
hỏi Thông điệp
Veritatis Splendor
(Chân lý rạng ngời) được ĐGH ban hành ngày 6-08. Nhiều
nhóm dịch thuật tại VN đã nhanh chóng chuyển ngữ văn
kiện quan trọng này.
–
15-08, bế mạc Đại hội Giới trẻ thế giới tại Denver (Hoa
Kỳ), ĐGH Gioan Phaolô II tiếp kiến phái đoàn VN và ban
huấn từ:
“Tôi
muốn nói lên tâm tình quí mến chân thành đối với toàn
thể dân tộc VN. Tôi ngưỡng mộ lòng can đảm và kiên trì
nhờ đó họ đang cố gắng vượt thắng những trở ngại lớn lao
do những kinh nghiệm đau thương gây ra. Có lẽ thách đố
lớn nhất hiện nay là hàn gắn mọi tâm tình khó chịu hoặc
chia rẽ nảy sinh và lớn lên giữa các công dân của cùng
một quốc gia. Quá nhiều đau khổ đã để lại những vết
thương sâu đậm. Công trình tái thiết chỉ có thể thực
hiện được với sự cộng tác của mỗi người, và đối lại,
điều này kêu gọi mọi người phải tôn trọng, tha thứ và
đồng tâm hiệp lực với nhau”. |
1994 |
– Ngày
23-03, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Phaolô Lê
Đắc Trọng làm GM phụ tá TGP Hà Nội.
–
Ngày 10-11, ĐGH Gioan Phaolô II ban hành Tông thư
Tertio
Millenio Adveniente
(Thiên niên kỷ thứ ba đang đến). Văn kiện này được đón
nhận nồng nhiệt tại VN. Nhiều nơi đã tổ chức học hỏi,
thảo luận dựa trên những bản chuyển ngữ được thực hiện
rất sớm.
– Ngày
24-11, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức TGM Phanxicô
Xaviê Nguyễn Văn Thuận làm Phó chủ tịch Hội đồng Tòa
Thánh về Công lý và Hòa bình.
– Ngày
24-11, ĐGH Gioan Phaolô II đặt Đức TGM Phaolô Giuse Phạm
Đình Tụng lên hàng Hồng y. |
1995 |
–
Ngày 25-03, ĐGH Gioan Phaolô II ban hành Thông điệp
Evangelium Vitae
và ngày 25-05 ban hành Thông điệp
Ut
Unum Sint.
– Ngày
1-07, Đức TGM Phaolô Nguyễn Văn Bình (TGP. TPHCM) từ
trần tại Sài Gòn. ĐGH Gioan Phaolô II gửi điện văn chia
buồn và cử đặc sứ tham dự lễ An táng.
– Ngày
12-12, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm ĐHY Phaolô Giuse
Phạm Đình Tụng làm thành viên Bộ Truyền Giáo và Hội Đồng
Tòa Thánh Cor Unum Đồng Tâm.
–
Xuất bản sách
Bước
qua ngưỡng cửa Hy vọng
của ĐGH Gioan Phaolô II (nguyên bản tiếng Ý). Tại VN,
sách nhanh chóng được chuyển ngữ và được độc giả đón
nhận nồng nhiệt. |
1996 |
–
Ngày 25-03, ĐGH Gioan Phaolô II ban hành Tông huấn
Vita
Consecrata về đời
sống thánh hiến.
–
Ngày 10-6, ĐHY Angelo Sodano, Quốc Vụ Khanh, đã đại diện
ĐGH Gioan Phaolô II gửi điện văn cho Đại hội La Vang:
“ĐTC
khuyến khích các tín hữu sống đức tin cách kiên cường và
can đảm, trong tinh thần hiệp thông sâu đậm với Giáo
Hội. Như thế, các tín hữu sẽ xây dựng GH là thân thể
sống động của Chúa Kitô”.
– Ngày
14-12, các giám mục VN viếng mộ hai Thánh Tông đồ Phêrô
và Phaolô và yết kiến ĐGH Gioan Phaolô II. |
1997 |
Ngày 21-04,
ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Giuse Nguyễn Tích
Đức làm GM phó GP Ban Mê Thuột và Đức cha Phêrô Nguyễn
Văn Nho làm GM phó GP Nha Trang. |
1998 |
– Ngày
1-03, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Gioan
Baotixita Phạm Minh Mẫn (GM phó GP Mỹ Tho) làm Tổng Giám
mục TGP. TPHCM.
–
Ngày 31-05, ĐGH Gioan Phaolô II ban hành Tông thư
Dies
Domini (Ngày của
Chúa) hướng dẫn mục vụ về ngày Chúa nhật.
– Ngày
24-06, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức TGM Phanxicô
Xaviê Nguyễn Văn Thuận làm Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh
về Công lý và Hòa bình.
–
Ngày 14-09, ĐGH Gioan Phaolô II ban hành Thông điệp
Fides
et Ratio.
– Ngày
5-11, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Phêrô Trần
Đình Tứ làm Giám mục GP Phú Cường.
–
Ngày 29-11, ĐGH Gioan Phaolô II ban hành Tông sắc
Incarnationis Mysterium
(Mầu nhiệm Nhập thể) công bố mở Năm Thánh 2000, kỷ niệm
2000 năm Chúa Giáng sinh. GH tại VN đón nhận Tông sắc
với niềm hân hoan. |
1999 |
– Ngày
6-01, tại Rôma, ĐGH Gioan Phaolô II tấn phong GM cho Đức
cha Phêrô Trần Đình Tứ, Giám mục GP Phú Cường.
– Ngày
26-03, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Phaolô Bùi
Văn Đọc làm Giám mục GP Mỹ Tho.
– Ngày
3-06, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Phêrô Nguyễn
Soạn làm Giám mục GP Quy Nhơn.
– Ngày
29-06, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Giuse Ngô
Quang Kiệt làm Giám mục GP Lạng Sơn và Đức cha Giuse
Trần Xuân Tiếu làm GM phó GP Long Xuyên.
–
Ngày 6-11, ĐGH Gioan Phaolô II ban hành Tông huấn
Ecclesia in Asia
(Giáo hội tại Á Châu), văn kiện hậu Thượng Hội đồng GM Á
Châu. Văn kiện này là tài liệu căn bản cho những định
hướng mục vụ tại Á Châu nói chung và tại VN nói riêng.
– Ngày
24-12: Giáo Hội khắp thế giới và tại VN khai mạc Năm
Thánh 2000 do ĐGH Gioan Phaolô II thiết lập. |
2000 |
–
Sự kiện trọng đại: Ngày 5-03, ĐGH Gioan Phaolô II tôn
phong Thày giảng Anrê Phú Yên lên bậc Chân Phước.
Trong
bài giảng Thánh lễ, ĐGH nhắn nhủ cộng đoàn Dân Chúa tại
VN: “Cuộc
sống của Anrê Phú Yên đã cho chúng ta thấy quyết tâm của
một con người không chấp nhận chối bỏ niềm tin, dù phải
đối đầu với bạo lực. Giới trẻ có thể rút ra sức mạnh và
sự can trường từ tấm gương của con người sẵn sàng hy
sinh mạng sống vì anh em mình. Chớ gì tất cả các môn đệ
của Đức Kitô tìm thấy nơi vị Chân Phước trẻ này sức mạnh
và sự nâng đỡ trong cơn thử thách!”
– Từ ngày
12 đến 18-03, Đức TGM Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận,
Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Công lý và Hòa bình,
giảng Tĩnh tâm Mùa Chay cho Giáo triều Roma, theo lời
mời của ĐGH Gioan Phaolô II.
– Ngày
10-05, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Phaolô
Nguyễn Bình Tĩnh làm Giám mục phó GP Đà Nẵng, và Đức cha
Tôma Nguyễn Văn Tân, GM phó GP Vĩnh Long. |
2001 |
–
Ngày 6-01, bế mạc Năm Thánh 2000, ĐGH Gioan Phaolô II
ban hành Tông thư
Novo
Millennio Ineunte
(Bước vào thiên niên kỷ thứ ba).
– Ngày
21-02, ĐGH Gioan Phaolô II nâng Đức TGM Phanxicô Nguyễn
Văn Thuận, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Công lý và Hòa
bình, lên hàng Hồng y.
– Ngày
4-07, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Giuse Hoàng
Văn Tiệm làm Giám mục GP Bùi Chu, Đức cha Phaolô Nguyễn
Thanh Hoan, GM phó GP Phan Thiết và Đức cha Giuse Vũ Duy
Thống, GM phụ tá TGP TP.HCM.
– Ngày
24-11, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức ông Giuse Đinh
Đức Đạo làm cố vấn Hội đồng Tòa Thánh về Đối thoại liên
tôn. |
2002 |
–
Ngày 22-01, các giám mục VN viếng mộ hai thánh Tông đồ
Phêrô và Phaolô và yết kiến ĐGH Gioan Phaolô II. Trong
huấn từ, ĐGH nhắn nhủ công đồng Dân Chúa tại VN:
“Như
Công Đồng đã nhắc nhở chúng ta ‘Giáo Hội với sứ mạng và
chức năng của mình, trong mọi trường hợp, không thể lẫn
lộn với một cộng đồng chính trị và không bị gắn liền với
bất cứ hệ thống chính trị nào’. Bởi vậy cộng đồng chính
trị và Giáo Hội độc lập với nhau và tự trị trong lãnh
vực riêng của mình. Tuy nhiên, vì cả hai cùng được mời
gọi hoàn thành sứ mạng riêng biệt phục vụ cùng một tập
thể con người, và phục vụ sẽ càng hữu hiệu ‘nếu cả hai
thực hiện nhiều hơn nữa một sự hợp tác lành mạnh với
nhau’ (Gaudium et Spes ). Để thực hiện sự hợp tác lành
mạnh này, Giáo Hội chờ đợi nơi chính quyền một sự tôn
trọng toàn diện sự độc lập và tự chủ của Giáo Hội. Cái
quý giá nhất của tự do đã được đề cập đến trong Công
Đồng Vatican II, trong những tuyên ngôn và những quy ước
quốc tế, có liên quan đến tất cả cá nhân lẫn cộng đồng
tôn giáo”.
– Ngày
23-2, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Giuse Vũ Duy
Thống làm thành viên Hội đồng Tòa Thánh về Văn hóa.
–
Ngày 2-05, ĐGH Gioan Phaolô II ban hành Tông thư
Misericordia Dei
(Lòng thương xót của Thiên Chúa), hướng dẫn mục vụ về cử
hành Bí tích Hòa giải.
– Ngày
16-09, ĐHY Phanxicô Nguyễn Văn Thuận, Chủ tịch Hội đồng
Tòa Thánh về Công lý và Hòa bình, qua đời tại Rôma.
Trong
điện văn chia buồn gửi Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa,
Chủ tịch HĐGMVN, ĐGH Gioan Phaolô II viết:
“Gương
mặt linh mục và giám mục cao cả này của xứ sở hiền huynh
với lòng trung tín và can đảm gương mẫu, Ngài làm chứng
cho đức tin của Ngài trong Chúa Kitô, bằng cách kết hợp
chặt chẽ với sứ vụ Ngài qua thừa tác vụ và cho tới đường
thương khó qua sự đau khổ mà Ngài phải chịu”.
Trong
Thánh lễ an táng hôm 20-09, ĐGH Gioan Phaolô II đã nhắc
lại lời nói của Đức cố HY: “Trong
vực thẳm những đau khổ của tôi, tôi không bao giờ ngừng
yêu mến tất cả mọi người, tôi không hề loại trừ một ai
khỏi tâm hồn tôi”.
ĐGH đã nêu cao chúc thư tinh thần của Đức cố HY:
“Tôi
thanh thản ra đi, và tôi không giữ lòng oán hận nào đối
với ai. Tôi dâng tất cả những đau khổ tôi đã trải qua
cho Đức Mẹ Vô Nhiễm và Thánh Giuse”.
–
Ngày 16-10, ĐGH Gioan Phaolô II ban hành Tông thư
Rosario Virginis Mariae
(Tràng hạt Mân Côi) khai mạc Năm Mân Côi. Trong dịp này
ĐGH công bố việc đặt thêm Năm Mầu nhiệm Sự Sáng vào Phép
Lần hạt Mân Côi. HĐGMVN đã công bố bản tiếng Việt Kinh
Năm Sự Sáng này.
– Ngày
25-11, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Phêrô Nguyễn
Văn Tốt làm Tổng Giám mục, hiệu tòa Rusticiana, Sứ thần
Tòa Thánh tại Bénin và Togo. Đức tân TGM Phêrô là người
VN đầu tiên đảm nhận sứ vụ này.
– Ngày
26-11, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Giuse Vũ Văn
Thiên làm Giám mục GP Hải Phòng, Đức cha Stêphanô Tri
Bửu Thiên, GM phó GP Cần Thơ. |
2003 |
– Ngày
6-01, tại Rôma, ĐGH Gioan Phaolô II tấn phong giám mục
cho Đức TGM Phêrô Nguyễn Văn Tốt, Sứ thần Tòa Thánh tại
Bénin và Togo. Ngày 7-01, ĐGH tiếp Đức tân TGM, Đức cha
Phêrô Trần đình Tứ (GM Phú Cường) và gia đình của Đức
tân TGM.
–
17-04, ĐGH Gioan Phaolô II ban hành Thông điệp
Ecclesia de Eucharistia,
thông điệp cuối cùng trong sứ vụ giáo hoàng của ngài.
– Ngày
16-07, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Micae Hoàng
Đức Oanh làm Giám mục GP Kontum.
– Ngày
5-08, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Antôn Vũ Huy
Chương làm Giám mục GP Hưng Hóa.
– Ngày
21-10, ĐGH Gioan Phaolô II đặt Đức TGM GB. Phạm Minh
Mẫn, TGP TP.HCM, lên hàng Hồng y. |
2004 |
– Ngày
21-05, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Giuse Nguyễn
Chí Linh làm Giám mục GP Thanh Hóa.
– Ngày
30-09, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Đaminh
Nguyễn Chu Trinh làm Giám mục GP Xuân Lộc |
2005 |
–
Ngày 24-01, ĐGH ban hành Tông thư
Sự
phát triển nhanh chóng,
đưa ra những hướng dẫn mục vụ về hoạt động truyền thông.
– Ngày
19-02, ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Phanxicô
Xaviê Lê Văn Hồng làm Giám mục phụ tá TGP Huế.
– 19-03,
ĐGH Gioan Phaolô II bổ nhiệm Đức cha Giuse Ngô Quang
Kiệt (GM Lạng Sơn) làm TGM Hà Nội. Đây là lần bổ nhiệm
GM cuối cùng của ngài cho GH tại VN.
– Ngày
2-04, ĐGH Gioan Phaolô II qua đời tại Rôma, hưởng thọ 85
tuổi, với 27 năm thi hành sứ vụ giáo hoàng, lãnh đạo
Giáo Hội.
Toàn thể GH
tại VN thương tiếc vị hiền phụ của toàn thể Hội Thánh.
Tất cả các
nhà thờ trên toàn quốc đều đã tổ chức dâng Thánh lễ cầu
nguyện cho Đức cố Giáo hoàng. Nhiều giáo phận, giáo xứ
và cộng đoàn tu sĩ đã tổ chức ngày tưởng niệm, ôn lại
những công trình lớn lao, các giáo huấn và những gương
sáng Đức cố Giáo hoàng để lại cho Hội Thánh.
Riêng tại
Sài Gòn, buổi tưởng niệm Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô
II được tổ chức vào tối 4-04-2005 tại Trung tâm Mục vụ
của TGP, đã thu hút sự tham dự của hàng vạn người, để
lại ấn tượng sâu đậm về lòng tôn kính, ngưỡng mộ và tri
ân của Dân Chúa tại VN đối với vị Cha chung của toàn thể
Giáo Hội. |
PV
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Phục vụ con người
(Hồng Y
Suenens) |
Lời
người dịch:
Hồng
y L. J. Suenens và giám mục Helder Câmara
là hai khuôn mặt lớn của Giáo hội công giáo trong thế kỷ 20. Một
vị từng là nhà tư tưởng trụ cột của Công Đồng Vaticanô II, là
sức bật canh tân nếp sinh hoạt giáo hội, là khâm sai của Giáo
Hoàng trước Hội Đồng Liên Hiệp Quốc để trình bày với thế giới về
thông điệp Hoà bình trên trái đất…Còn vị thứ hai là tiếng
nói của những kẻ không có quyền có được tiếng nói, là kẻ hiên
ngang làm chứng Tin Mừng giữa những kẻ nghèo khốn, bất chấp dư
luận chụp cho ngài chiếc nón “giám mục đỏ”.
Họ đã phục vụ Giáo hội với hai phong cách khác nhau, nhưng họ có
điểm chung là những người em, những tông đồ của Chúa Giêsu Kitô.
Những trang dưới đây là chứng từ về đức tin của họ vào Đấng
mà họ đã gặp và đã đi theo….
(Nguyễn đăng Trúc
chuyễn ra Việt
ngữ từ cuốn
III, Thánh Thần hơi thở
sống động của Giáo hội
của Hồng y L. J. Suenens)
Hồng Y
Suenens
1. Kitô
hữu và các mối liên đới nhân loại
Kitô hữu
không thể là người đóng kín, đơn độc. Mọi người đã chịu phép rửa
đều phải tiếp nhận những hiệu quả đương nhiên về mặt xã hội của
lý lịch kitô hữu nơi mình. Người ấy sẽ ở trong một mạng lưới
tương quan và gánh lấy những bổn phận với những môi trường sống
càng đi ra càng rộng hơn, như những vòng tròn đồng tâm khác nhau
có chung một tâm điểm. Những tương quan và bổn phận như thế buộc
người kitô hữu phải có những quan điểm và những cự tuyệt trên
bình diện gia đình, nghề nghiệp, kinh tế, công dân, chính trị.
Ngay cả nơi
những hình thức biểu lộ căn đế nhất của nếp sống kitô hữu, cuộc
sống chiêm niệm cũng không thể là một lối trốn thoát khỏi thế
giới, nhưng ngược lại nó là lối truy tìm những mạch nguồn sâu
kín của sức sống nhân loại và kitô giáo.
Kitô hữu
không thể tách mình ra khỏi thế giới cũng không thể trốn chạy
vào sa mạc. Mỗi người theo ơn gọi riêng của mình phải gánh một
phần tích cực vào công cuộc nhân loại hóa thế giới như một bổn
phận đương nhiên.
Kitô hữu
không có vấn đề phải lựa chọn giữa đức tin hoặc sinh hoạt bên
ngoài, cũng không có vấn đề xếp đức tin bên cạnh công việc hằng
ngày, nhưng phải linh hoạt đức tin vào công việc của mình.
Nhấn mạnh
tầm quan trọng của bổn phận xã hội, lưu ý đến những gì hỗ trợ
cho việc cải thiện các mối tương quan giữa con người với nhau,
những gì cổ súy thực thi tình huynh đệ : những nỗ lực như thế đã
là một hoạt động xã hội, dầu hoạt động nầy không thể hiện cụ thể
trong những dự án nhất định.
Để ý thức rõ
hơn về bối cảnh sinh hoạt xã hội của những người kitô hữu nơi
các nhóm hoặc trên bình diện cá nhân, thì nhất thiết phải nhìn
chung toàn bộ lãnh vực mang thành ngữ ‘xã hội’, chứ không nên
đóng khung chữ này vào một lối biểu thị hoặc một phương cách
diễn tả riêng. Georges Gurvitch đưa ra một lối xếp loại đơn giản
giúp ta dễ nhìn sự kiện một cách trật tự hơn. Tác giả phân biệt:
-
bình diện
các ‘xã hội tổng thể’, tức là bình diện của những tập hợp xã hội
có đủ sức đáp ứng mọi nhu cầu cho các thành phần của mình, chẳng
hạn một nước hoặc một nhóm các quốc gia.
-
bình diện
các ‘nhóm giới hạn’, như gia đình, họ hàng gia tộc, các hiệp
hội, các tầng lớp xã hội;
-
cuối cùng là
những hình thức đa biệt của các ‘mối liên hệ xã hội’, nghĩa là
những mối tương quan khác nhau được thiết lập giữa các thành
phần của một cộng đồng con người.
Ta biết rằng
có nhiều giá trị về xã hội tính phải được xem là hữu ích, và còn
là cần thiết nữa, để các nhóm nhỏ cũng như những cộng đồng lớn
hơn có thể hiện hữu và linh hoạt. ‘Vấn đề không thể nào thông
đạt được với nhau’ là một trong những vấn đề gia trọng của thời
đại chúng ta. Người ta nghiên cứu về vấn đề này trong mọi môi
trường và đang cố gắng để cải thiện trong tất cả các nhóm sinh
hoạt nhân loại: vợ chồng, gia đình, thương mại, hãng xưởng, ban
quản trị điều hành… Và người ta thấy thay đổi cơ cấu tổng thể
bên ngoài không phải là yếu tố duy nhất có thể đem lại một giải
pháp cụ thể cho những khó khăn mà mỗi cá nhân gặp phải.
Nhãn hiệu
‘xã hội’ lại thường chỉ dành để áp dụng cho các dự án nhất định,
các lối cải cách nhằm thay đổi các cơ cấu xã hội. Kỳ thực thành
ngữ ‘xã hội’ có một nội dung rộng nghĩa hơn và vượt ra ngoài ý
nghĩa giới hạn đó.
Khi nói đến
mục tiêu xã hội của sự sống thần sủng, đức ông A. Dondeyne viết
rằng: “Về mặt này, lối nói của thánh Phaolô diễn tả một cách
hết sức linh hoạt và sắc bén. Để mô tả điều đức tin vào Chúa tác
động trên thế giới, thánh Phaolô nói đến ‘một tạo vật mới’; sự
xuất hiện ‘một con người mới được tạo dựng theo ý Chúa, trong
công lý và thánh thiện của sự thật’; và còn nói đến một sự thông
dự vào hiện thân của Chúa Kitô phục sinh nhờ tác động của Chúa
Thánh Thần. Ngài cũng viết rằng những hoa trái của Thánh Thần là
‘yêu thương, hoan hỷ, hòa bình; khoan hậu, phục vụ, tốt lành;
tín thác, chừng mực, tự chủ’ (Gal.5, 22-23).
Những lời
đó giúp chúng ta thấy đức tin sống động đổi thay cuộc sống không
phải là một cuộc đào thoát ra khỏi trần gian. Nó cũng không làm
cho kitô hữu thành một siêu nhân, một con người ngoại hạng,
thoát khỏi thân phận người phàm. Điều mà đức tin làm nảy sinh là
phẩm cách cuộc sống được cải biến mỗi ngày, -chúng tôi nhấn
mạnh-, là một sự thăng hoa theo nghĩa là rộng mở tâm hồn, tiến
tới trong chân lý và thành thực, nhân ái và công bằng, tự do và
trách nhiệm. ’
Những giá
trị về xã hội tính ấy thể hiện ngay trong một cuộc cử hành bí
tích thực sự hoặc nơi một cuộc họp mặt cầu nguyện của một nhóm
sinh hoạt thanh thản, tự do, tin tưởng nhau. Những mối tương
giao liên nhân vị đạt đến mức độ giao cảm sâu xa vì cùng nhau
tiếp nhận Chúa Thánh Thần, Đấng hằng sống. Sự kiện mỗi người
trong nhóm được kêu mời để tham gia chung lời cầu nguyện và ‘xây
dựng’ cho toàn nhóm – theo nghĩa của lối nói nơi thánh Phaolô-
tạo nên một cộng đoàn thông dự với nhau mật thiết. Đó là một
kinh nghiệm xã hội mang một ý nghĩa rộng lớn lan rộng ảnh hưởng
đến những mối tương quan khác trong cuộc sống, chẳng hạn trong
sinh hoạt kinh tế. Cộng đồng kitô hữu thời nguyên thủy cống hiến
cho ta một hình ảnh đáng lưu ý. Kinh Thánh kể lại: “Tất cả
những kẻ tin cùng ở chung với nhau và để của cải làm chung; họ
bán cửa nhà và của cải, và chia cho nhau tùy nhu cầu của từng
người ”. (CV 2,44-45).
Ta cũng có
thể nêu lên những thí dụ khác trong cuộc sống Giáo hội liên quan
đến những kinh nghiệm đoàn sủng đã thể hiện trong lãnh vực xã
hội – chính trị: Chúng ta liên tưởng đến những tên tuổi trong
thế kỷ chúng ta như Têrêxa Calcutta, Martin Luther King, César
Chavez, Jean Vanier – và, trong thế giới không kitô giáo như
Gandhi - để chứng thực rằng cầu nguyện riêng hay tập thể có thể
là một năng lực gây cảm hứng, một sức bật cho hoạt động, đồng
thời trừ tà tẩy uế hoạt động, giúp nó thanh lọc những vết dơ của
hận thù, kiêu căng và bạo lực.
Canh Tân
đoàn sủng luôn kêu gọi đạt đến nguồn căn Phúc Âm, bổ sung các
đoàn sủng, tương trợ, và như thế thì đã là một tác năng biến cải
cuộc sống và xã hội. Nhưng đức tin cụ thể sống động hẳn nhiên sẽ
dẫn đưa kitô hữu dấn thân trong vô số những sáng kiến xã hội
khác nhau, đi vào nỗi ê chề khổ đau không biết bao nhiêu mà kể
của cuộc sống.
Một cuốn
sách
vừa mới xuất bản cho ta một cái nhìn nhanh về các hoạt động
trong khuôn khổ của các người khuyết tật, tù nhân, nghiện ngập,
già yếu, tâm thần, bụi đời và vô gia cư, cho đến những hoạt động
tập thể qui mô nhằm cổ súy một xã hội công bằng hơn, tự do hơn,
môi sinh trong lành hơn.
Cũng trong
lối nhìn đó, cần nhấn mạnh vai trò xã hội mà những cộng đồng
cùng sống chung (trong Canh Tân cũng như ở các nơi khác) đã thực
hiện; việc họ chia sẻ toàn bộ hoặc một phần của cải giúp ta
chứng kiến lại tận mắt hình ảnh những cộng đoàn kitô hữu thời
nguyên thủy. Ta thấy nét xã hội bám chặt vào trong đặc tính tôn
giáo như trước đây các đan viện của chúng ta là những nơi mà lao
tác và cầu nguyện liên kết chặt chẽ với nhau, tiết nhịp của
phụng vụ ăn nhịp với tiết nhịp sinh hoạt lao tác ruộng vườn.
Cần phải nói
rõ là dấn thân xã hội không phải chỉ là một bổn phận đạo đức
thêm vào: nhưng nó gắn liền với việc rao truyền Phúc Âm. Giáo
hội nhân danh chính ý thức truyền giáo (rao truyền Phúc Âm) của
mình để dấn thân vào những địa hạt làm cho con người xứng đáng
phẩm giá làm người hơn, giải phóng con người để con người được
phát triển chân thật hơn. Thượng Hội Đồng các giám mục năm 1971
mạnh mẽ nhắc lại nội dung đó trong một câu mấu chốt:
“Chúng
tôi xem việc đấu tranh cho công lý và tham gia vào nỗ lực biến
đổi thế giới đúng là một chiều kích cấu tạo nên sinh hoạt rao
truyền Phúc Âm, vốn là sứ mạng của Giáo hội nhằm cứu chuộc nhân
loại và giải phóng nhân loại khỏi mọi hoàn cảnh áp bức.”
2. Rao
truyền Phúc Âm và nhân bản hóa
Nếu cần phải
liên kết rao truyền Phúc Âm và nhân bản hóa, thì cũng cần phải
tránh lối xếp nhân bản hóa như một yêu sách tiên quyết đi trước
việc rao truyền Phúc Âm, qua khẩu hiệu sai trái: “Cần nhân bản
hóa trước, sau đó mới rao truyền Phúc Âm”. Khẩu hiệu đó muốn nói
rằng trước tiên phải cứu người ta khỏi các thứ vong thân, sau đó
mới loan truyền Phúc Âm cho họ. Khẩu hiệu đó nguy hiểm vì nó hàm
ngụ việc tạm đình chỉ bổn phận loan báo Đức Kitô cho thế giới!
Nó đặt ngay
ý nghĩa cuộc sống tông đồ và truyền giáo của Giáo hội, bên trong
cũng như bên ngoài, thành vấn đề. Điều đáng phi bác trong khẩu
hiệu: “Nhân bản hóa trước, rao truyền Phúc Âm sau ” nằm nơi chữ
“trước” ấy, nghĩa là trật tự trước sau theo thời gian và theo
cách xếp ưu tiên.
Không, cần
phải dấn thân ngay và trực diện với cả hai bổn phận. Hai chữ
“trước hết ” và “sau đó” như hàm ngụ một sự phân ly giữa rao
truyền Phúc Âm và nhân bản hóa. Nhưng kỳ thực thì hai phận vụ ấy
cần gắn liền với nhau.
Phải đem lại
cho con người vừa phương tiện để sinh sống vừa những lý do để
sống. Không bổn phận nào chuẩn chước bổn phận nào. Như linh mục
Chenu dòng Đa minh đã trình bày rất chính xác: “Rao truyền
Phúc Âm thuộc trật tự khác với văn minh. Nuôi sống con người, tự
căn không phải là cứu độ họ, ngay cả khi sự cứu rỗi của tôi buộc
tôi phải nuôi sống họ. Cổ súy văn hóa không phải là việc dẫn đưa
người ta quay về đức tin.”
Nhưng, mặt
khác, Đức Kitô không phải chỉ là ‘sự sống linh hồn’ mà thôi.
Ngài muốn làm cho toàn thể con người được sống. Không có gì đi
ra ngoài vòng tay Ngài, dù đó là cuộc sống gia đình hay nghề
nghiệp, công dân hay kinh tế, quốc gia hay quốc tế, giải trí,
báo chí, điện ảnh, truyền thanh, truyền hình hoặc việc sử dụng
năng lực nguyên tử.
Giới hạn
kitô giáo vào một vài sinh hoạt sùng mộ, dù quan trọng mấy đi
nữa, là làm nên một kitô giáo què quặt. Khi thấy một vài cuộc
sống kitô hữu có vẻ còm cõi và khô cứng, người không tin lên án
chúng ta là không hề biết đến hay đánh giá thấp nỗ lực của con
người, thiếu ưu tư cho tiến bộ, lãng quên công bằng xã hội.
Nhưng không nên qui trách cho kitô giáo, mà nên qui trách kitô
hữu phản lại đức tin của mình và lạm dụng danh xưng kitô hữu nơi
mình.
Người ta
không chỉ làm người kitô hữu vào ngày chủ nhật, ở nhà thờ; nhưng
phải làm kitô hữu suốt tuần và suốt ngày, thực hành tất cả các
điều răn, chứ không giới hạn vào điều răn thứ nhất và điều răn
thứ sáu mà thôi. Cần đưa tất cả các điều răn và đưa ‘toàn bộ’
Phúc Âm vào ‘cả’ cuộc sống mình.
3. Tội quên
sót
Ta cũng hiểu
sai kitô giáo chân thật khi giản lược nó vào khía cạnh tiêu cực
của lề luật: « người đừng nói dối, đừng nói xấu, đừng trộm
cắp… ». Vì ngoài sự ác phải tránh còn lãnh vực bao la của bao
nhiêu điều tích cực phải chu toàn. Không phải chỉ có lương tâm
tránh sự ác mà đủ. Có những tội lỗi vì thiếu sót không làm điều
phải làm, những tội ác vì không yêu thương.
Nếu vào lúc
kinh tế tự do đang thời toàn trị, mà có được những kitô hữu ý
thức về những bổn phận xã hội để thực hiện một cách tích cực
điều này điều nọ đối diện với ‘nỗi thống khổ mà bao người vô cớ
phải gánh chịu’ (theo lối nói của giáo hoàng Lêô XIII), thì vấn
đề xã hội hẳn đã không nêu lên một cách tang thương như thế!
Và vào thời
cộng sản mới chớm phát, nếu có được những kitô hữu tràn đầy sức
mạnh yêu thương của kitô giáo trong lãnh vực xã hội, thì hẳn
lịch sử nhân loại ngày hôm nay đã khác lắm rồi! Nhà văn chính
thống giáo N. Berdiaeff trước đây từng viết: “Cộng sản
Bônsơvít đã đi vào Nga, và đã thắng, bởi vì tôi bình chân như
vại, tôi dậm chân tại chỗ, bởi vì trong tôi không có được một
năng lực tinh thần nào - một năng lực đức tin đủ sức dời non lấp
biển. Cộng sản Bonsơvít là tội lỗi của tôi, là thiếu sót của
tôi. Là thử thách tôi phải gánh chịu. Những khổ đau mà cộng sản
Bonsơvít đưa đến cho tôi là gánh đền tội cho lỗi lầm của tôi,
lỗi lầm chung của chúng ta. Tất cả chúng ta mang trách nhiệm về
mọi người. ”
Kitô giáo
không thể đào ngũ, trái lại kitô giáo buộc mỗi người chịu phép
rửa ý thức bổn phận của mình là phải tùy sức tham gia vào những
sáng kiến đem lại tiến bộ nhân loại. Kitô hữu cần ý thức phép
rửa của mình để vận dụng tài ba sức lực dấn thân tranh đấu chống
lại nạn nghèo đói khốn cùng, thất nghiệp và bịnh tật, những bất
công xã hội hoặc kỳ thị chủng tộc, và cổ súy xây dựng một xã hội
biết thăng tiến phẩm giá con người.
4. Thế
giới khác và thế giới cần đổi thay
Nhưng nỗ lực
dấn thân của kitô hữu vào trần thế, vào lịch sử không phải chỉ
là một bổn phận phát xuất từ những đòi hỏi ngặt nghèo và cấp
thiết của trần thế. Nỗ lực ấy là một phần của cuộc sống toàn
diện liên kết với Thiên Chúa, được linh hoạt bởi cuộc sống cầu
nguyện, được soi dẫn và định hướng nhờ ân sủng của đức tin.
Linh mục
Tillard, dòng Đaminh, đã viết rằng: “Trong Phúc Âm, Chúa
Giêsu liên kết việc loan báo Nước Trời với nỗ lực thực thi những
dấu chỉ, đó là những hành vi chống lại những gì áp ức con người
và làm cho cuộc sống trên trần thế này thành u ám. Đẩy lui bể
khổ, triệt hạ những bức tường hận thù, đem lại hy vọng công lý
và hòa bình cho cuộc sống, nói tóm lại là nỗ lực ‘phát triển
chân thực phục vụ con người’ nhằm thăng hoa phẩm giá của nó, đó
chính là phục vụ Thiên Chúa một cách cụ thể, là xây dựng Nước
Trời mà hiện tại đây Chúa Kitô đang hiển trị, cho đến ngày ‘Ngài
sẽ trao lại cho Thiên Chúa là Cha Ngài’. Dẫu rằng, trong nỗ lực
dấn thân này, Danh Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô chưa được minh
nhiên nêu lên.
Vì nỗ lực
đó được thực hiện trước nhan Chúa, hiệp thông với ý muốn của
Ngài là muốn cho thế gian biến đổi. Chỉ có Ngài là Đấng phán
đoán sự thể. Ta không nhằm tìm kiếm trước hết xem thiên hạ phản
ứng như thế nào, chỉ vì một lý do nào đó hàm ngụ nơi phản ứng
này, mặc dầu người mà ta phục vụ liên quan đến công việc của ta.
Thật vậy, ý hướng của ta trước hết không phải là chinh phục kẻ
khác, khi làm cho họ suy nghĩ xem Thiên Chúa hoặc Nước Trời sẽ
thế này hay thế khác nơi thế giới bên kia đang chờ đón họ. Nhưng
ý hướng dấn thân chúng ta trước hết là nhằm vâng phục ý Chúa
trên trần gian này. Hẳn nhiên, ý muốn của Thiên Chúa về việc làm
cho thế gian này đổi thay luôn gắn liền với ý muốn của Ngài về
thế giới bên kia; trong mối tương quan tương tự như thế, việc
dấn thân của kitô hữu cho thế gian này cũng muốn qui về một lối
làm nhân chứng về Chúa Kitô và Cha của Ngài.
Nhưng,
ngay trước mắt, ý hướng đầu tiên của hoạt động của kitô hữu phải
được hiểu là một sự cộng tác nhằm thay đổi bộ mặt trái đất này,
làm sao để thế giới hòa hợp với Nước Trời mà hạt giống vốn đã
gieo trên ấy. Chúng tôi nhắc lại rằng hành động như thế là dấn
thân trước nhan Thiên Chúa. ”
|
VỀ MỤC LỤC |
|
VẠN TUẾ ! VẠN TUẾ ! CHÚA GIÊSU LÀ
VUA
|
(SUY NIỆM
PHÚC ÂM NGÀY LỄ LÁ)
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Có một điều khó hiểu mà từ lâu
tôi vẫn thắc mắc không biết tại sao mới mấy ngày trước dân
chúng tưng bừng tung hô vạn tuế chào đón Chúa Giêsu khi ngài
vào thành Giêrusalem thì ít ngày sau, người ta lại đem Chúa
ra toà, cứ nhất định đòi án tử hình, đóng đanh và giết Chúa
trên thập giá? Con người, Thương và Ghét?
Nhân mùa Chay Thánh và để
chuẩn bị cho Ngày Chúa Phục Sinh, chúng ta thử tìm hiểu ý
nghĩa và suy niệm về những bài phúc âm nói về cuộc khổ nạn
của Chúa trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá. Để chuẩn bị được chu
đáo, tôi đã tìm đọc tác phẩm mới nhất của Đức Benedicto XVI,
đặc biệt phần 2 nói về tuần thánh: “Jesus of Nazareth”
Part 2: Holy week- From the Entrance into Jerusalem to
the Resurrection” (Ignatius Press, 2011). Từ đường
vào Jerusalem đến Khải Hoàn Phục Sinh.
Đây là một tác phẩm có lẽ tất
cả các giám mục, linh mục, tu sĩ, thừa tác viện mục vụ và
những người công giáo chân chính và đứng đắn cần phải đọc để
đào sâu kiến thức về con người Giêsu với những huyền bí
trọng yếu về đức tin mà chúng ta đang suy niệm trong mùa
Chay Thánh này, nhất là trong Tuần Thánh, Chúa chuẩn bị chịu
chết vì tội lỗi nhân loại. Dĩ nhiên tốt hơn cả là nên đọc
nguyên tác phẩm để sửa soạn đón mừng Lễ Chúa Khải Hoàn Phục
Sinh. Những bài Phúc Âm, những bài đọc trong tuần thánh cũng
giúp chúng ta rất nhiều trong những lời kinh nguyện cá nhân
cũng như rao truyền lời Chúa cho những người anh em huynh đệ
chưa được diễm phúc nhận biết Chúa.
Nhờ vào những tư tưởng trong
sách này, chúng tôi mới có được những giòng suy niệm đưới
đây, đồng thời giúp cho những hiểu biết của chúng tôi về
Chúa Giêsu được súc tích và thâm sâu hơn.
CHÚA GIÊSU
VÀO THÀNH JERUSALEM
Hàng năm vào tuần thánh, chúng
ta thường theo chân Chúa Giêsu đi lên Jerusalem giũa đám
đông dân chúng ồn ào tung hô vang dậy ‘Vạn Tuế Đức Giêsu’. “Hosanna!
Vạn tuế! Vạn tuế! Con vua David, Hoan hô đấng nhân
danh Thiên Chúa đến cùng chúng tôi”. Một ngày tràn đầy
vui mừng hớn hở và tung hô ca tụng, nhưng âm u và ảm đạm ở
cuối trời là cả một sóng nước thủy triều đang dâng cao nỗi
hận thù, ganh ghét, huỷ hoại và chết chóc bi thương.
Chúng ta cũng nhập bọn với đám
đông tung hô Chúa Giêsu là vua, là đấng thiên sai khi ngài
đi về hướng đồi Cây Dầu, không phải với đoàn xe hộ tống như
các vua chúa quan quyền trần gian mà như một con vật nặng
trĩu trên vai biết bao nỗi sầu thương buồn khổ. Tất cả những
hình ảnh về quan quyền vua chúa, thần thánh và lòng khiêm
cung đều gói ghém trọn vẹn trong cái quang cảnh đầy nghịch
lý này khi Chúa Giêsu đi vào thị trấn Jerusalem. Hôm nay
quang cảnh thật tưng bừng náo nhiệt, mọi người hân hoan tay
cầm cành lá vạn tuế giơ cao tung hô Chúa là Vua Hòa Bình,
Vua Hy Vọng (trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá) thì 5 ngày
sau, ôi thôi hận thù ganh ghét trào dâng, cao như núi xâu
rộng như biển cả trùng dương, cũng những đám đông lại đòi
giết Chúa, đóng đanh Chúa trên thập giá cho bằng được.
“Hôm nay vua chúa huy hoàng
“Ngày mai tử tội kinh hoàng thảm thương!
Phúc âm nói về cuộc khổ nạn
của Chúa thì kể lại là vì một số người và những kẻ cầm đầu
lúc đó đã âm mưu bắt Chúa Giêsu đưa ra tòa xét sử và hành hạ
Chúa đã đưa đến cái chết của Chúa. Nhưng suy cho cùng -nghe
có vẻ vơ đũa cả nắm- thì tất cả chúng ta đều là những kẻ
đáng trách. Chính tội lỗi của họ và của chúng ta đã đưa Chúa
đến cái chết thê thảm trên thập gíá, và Chúa cũng đã tự
nguyện gánh vác tất cả các tội lỗi của họ cũng như của mỗi
người chúng ta. Chúng ta phải biết điều đó và nhận ra rằng
không chỉ do cái tư cách và thái độ của những kẻ đã âm mưu,
la ó, cố sức để kết án tử hình, giết Chúa lúc bấy giờ mà còn
do ở cái tâm địa xấu xa ác độc của tất cả chúng ta như hận
thù, ganh ghét, bạo động, gian dối lừa đảo, vô ơn bạc nghĩa,
bất công, bất chính và tham lam ích kỷ, ham danh lợi, cơ hội
chủ nghĩa, chủ nghĩa thực dụng….đã làm Chúa phải chết, đã và
đang đóng đanh Chúa bây giờ và chính ngày hôm nay qua cung
cách chúng ta đối sử với các bạn bè, những người anh em
huynh đệ, bà con xóm làng, đồng hương trong cộng đồng xã hội
là những người anh em, con cùng một cha chung của chúng ta ở
trên trời.
CÂU CHUYỆN KHỔ NẠN CỦA CHÚA GIÊSU THEO THÁNH MATTHEW.
Câu chuyện về cuộc khổ nạn của
Chúa Giêsu theo thánh sử Matthew trong niên lịch phụng vụ
năm nay (Mat.26:14, 27:66), nếu so sánh với câu chuyện của
thánh sử Marco, thì thánh Matthew đã bỏ qua phần thánh Marco
nhắc tới (như trong Marc 14:51-52), nhưng lại thêm ít chi
tiết khác (như trong Mat.27: 3-10,19). Một vài điều thêm vào
này chứng tỏ thánh Matthew đã dùng truyền thống mà ngài đã
học hỏi được từ đâu đó; còn những điều khác thì hẳn do sự
hiểu biết và cảm nghiệm thần học của chính ngài ( như trong
Mat.26:28 hoặc “…nói về sự tha thứ tội lỗi” (Mat.27:52).
Trong ấn bản của ngài, thánh
Matthew cũng thay đổi chút ít chi tiết của thánh Marco.
Nhưng điếu đó không có nghĩa là thánh Matthew biết về cuộc
khổ nạn của Chúa Giêsu hơn thánh Marco.
Khi nghe câu chuyện thánh
Matthew kể, chúng ta cũng nắm bắt và nhận ra được là Chúa
Giêsu đã cương quyết tự mình chấp nhận sứ mạng do Thiên Chúa
gửi đến, đồng thời Chúa cũng kháng cự chống lại tử thần quá
bạo tàn hung dữ. Cái số mệnh nghiệt ngã không thể tránh được
của Đức Giêsu. Trong chương I sách “Giêsu thành
Nazareth”, tiêu đề “Trên đường đi vào Jerusalem / The
Entrance into Jerusalem”, Đức Benedicto XVI đã yêu cầu
chúng ta đọc lại đoạn tiên tri Zechariah 9:9 -bản văn mà hai
thánh Matthew và Gioan tông đồ đã trích dẫn một cách rõ
ràng- để thấu hiểu tường tận ý nghĩa ngày Chúa Nhật Lễ Lá:
“..Hãy nói với nữ tử Zion, Hãy vui mừng hò reo
lên, vì Vua của ngươi đang đến với ngươi, Ngài
khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, trên một con lừa con, con của
lừa mẹ” (Mat.21:5- Ga12:15 – Zechariah 9:9).
Đức Benedicto XVI viết :
“Chúa Giêsu là một vị vua đã phá huỷ vũ khí chiến tranh, một
vị vua của Hòa Bình, của bình dị, của những kẻ nghèo khó. Và
sau cùng, chúng ta đã thấy rằng Ngài trị vì một vương quốc
trải dài từ đại dương này qua đại dương kia, bao gồm toàn
thể thế giới. Chúng ta cũng được nhắc tới về một Tân Thế
Giới bao gồm vương quốc của Chúa Giêsu trải dài từ đại dương
này qua đại dương kia trong các cộng đồng bẻ bánh hiệp thông
với Đức Giêsu Kitô, như là một vương quốc hòa bình của Chúa.
Nhưng lúc đó có ai hiểu biết được những điều đó đâu” (tr.4).
Ý NGHĨA CỦA
CHỮ “HOSANNA”
Tiếng Hosanna - Vạn Tuế,
nguyên khởi là lời chúc lành cho những kẻ hành hương mà các
thầy cả tư tế chúc ở trong Đền Thờ. Nhưng khi nó được nối
tiếp bởi lời tung hô “…đấng nhân danh thiên Chúa mà đến”
thì nó có nghĩa là “Đấng Thiên Sai/Messiah”, một
người được Thiên Chúa chỉ định do giao ước. Bây giờ nó đã
trở thành lời ca tụng Đức Giêsu, chào mừng đấng nhân danh
Thiên Chúa mà đến, nhân vật mà mọi người đang chờ mong và
loan truyền do giao ước.
Chúng ta có thể thắc mắc hỏi
tại sao lại dùng từ“Hosanna” là tiếng Do Thái /Hebrew, mà
không chuyển dịch nó sang tiếng Hy Lạp? Nếu dịch đầy đủ thì
tiếng “Hosanna” có thể là: “Lạy con Vua David, xin hãy
cứu giúp chúng tôi. Phúc thay đấng nhân danh Thiên Chúa mà
đến. Lạy Đấng Tối Cao, xin hãy cứu giúp chúng tôi”.
Đám đông chào mừng Chúa Giêsu
với lời tung hô vang dậy “Hosanna / Vạn tuế” để xin
cứu giúp; tay họ cầm cành lá dừa vẫy chào, giống như nghi
thức phụng vụ ngày lễ lều (sukkot) của người Do Thái, sau
này bị chính trị hóa thành ngày lễ độc lập, ngày đầu tiên
của Lễ Đèn (Hanukkah).
Dùng khuôn mẫu với hình thức
phụng vụ để đón chào Chúa Giêsu hẳn là có một mục đích. Đức
Giêsu toàn thắng khải hoàn đi vào Jerusalem sau khi Ngài đã
thanh tẩy sạch sẽ Đền Thờ (Mat.21:14-16). Đây rõ ràng là một
màn trình diễn quang cảnh tranh đấu giải phóng quê hương của
những người anh em Maccabees đã được tính toán từ trước hầu
hun đúc niềm hy vọng về một đấng thiên sai. Khi đám đông dơ
cao cành lá dừa và la lớn “hosanna”/ “vạn tuế” thì họ biết
rõ ràng và trọn vẹn điều họ đang làm. Họ chờ mong đấng thiên
sai đến để cứu giúp họ.
Nhìn cung cách họ tung hô “vạn
tuế”/hosanna…, chúng ta cũng nhận ra được nỗi vui mừng xúc
động khôn tả của họ là những người đi lễ hội hành hương đang
bước theo Chúa và các môn đệ của Ngài. Một sự hân hoan ca
tụng Thiên Chúa trong lúc đoàn rước bước vào Đền Thờ, như
chờ mong giờ đấng thiên sai đến, cũng như vương quyền David
và do đó hy vọng một vương quyền Thiên Chúa trên Israel sẽ
được thiết lập (Jesus of Nazareth, pp.6-10).
“Hosanna” / “vạn tuế” còn có
nghĩa là lời cầu xin cứu giúp cấp kỳ, một lời cầu khẩn có
giá trị phổ quát, luôn luôn thích hợp với mọi hoàn cảnh của
con người. Nó là lời kinh độc ngữ có ảnh hưởng chính trị
rất mạnh khả dĩ làm rung chuyển mọi áp bức bất công ở bất cứ
nơi nào, hiện tại cũng như ở thời thượng cổ, vì vậy nó phải
được diễn nghĩa cho mọi người đều thấu hiểu.
TIÊN TRI THÀNH NAZARETH
Lúc đầu khi nghe đồn về một
tiên tri thành Nazareth thì Đức Giêsu cũng chẳng có dấu hiệu
gì tỏ ra là quan trọng đối với Jerusalem, và dân địa phương
ở đó cũng chẳng biết Ngài là ai. Đám đông dân chúng đón mừng
Chúa Giêsu ở cổng thành lúc bấy giờ cũng không phải là những
kẻ sau này đòi đóng đanh Chúa trên thập giá.
Đức Benedicto XVI cắt nghĩa sự
thất bại không nhận ra Chúa ở trong vở kịch hai màn -dửng
dưng và sợ hãi- này, là chúng ta có nhìn thấy một cái gì
“ghê sợ” trong cái thảm cảnh của thị trấn mà Chúa Giêsu đã
nhiều lần nói tới một cách rất cay đắng trong những cuộc
tranh luận của Ngài về thời cánh chung, nhưng chúng ta vẫn
“dửng dưng”.
ĐIỂM NỔI BẬT DUY NHẤT
Theo Thánh Matthew, điểm đảo
ngược sau cùng nổi bật nhất của cuộc đời Chúa Giêsu là
cái chết và sự sống lại của Ngài.
Vào chính lúc Chúa Giêsu chịu chết, một cái chết đau thương
để trung thành với sứ mạng thì cũng chính là lúc phát sinh
ra một đời sống mới. Đất trời rung động, núi đồi tách đôi,
mồ mả mở tung và các người lành đã chết từ ngàn xưa bước ra
khỏi mồ, khải hoàn đi vào “thị trấn” của Chúa.
Viết những lời này, thánh
Matthew đã mở cho chúng ta thấy một khung cảnh vĩ đại với
những bộ xương khô mà tiên tri Ezekiel đã nói tới. Thiên
Chúa thổi thần khí vào những bộ xương làm cho chúng sống lại
từ cõi chết và trở thành người mới (Ezekiel 37).
Thánh nhân tin tưởng rằng nhờ
cái chết của Chúa Giêsu, toàn thể thế giới có được một đời
sống mới; nhờ vào cáí chết của những nhà truyền giáo Kito
hữu Do Thái ở Israel mà một cộng đồng non trẻ được thành lập
và phát triển ở vùng Địa trung Hải để một dân tộc mới được
khai sinh từ cả dân Do Thái lẫn dân ngoại.
Chết và Sống Lại ở đây không
phải chỉ là hình thức số mệnh như của Chúa Giêsu mà còn là
một biểu tượng về số mệnh của chính cộng đồng nhân loại
trong lịch sử loài người.
Vậy cuộc khổ nạn của Chúa
Giêsu -theo thánh Matthew- đã nói lên cho chúng ta cái gì?
Nhìn kinh thánh qua một lăng kính đặc biệt, chúng ta thấy đó
là tình trạng hiện nay của Giáo Hội và của cả thế giới trong
suốt chiều dài lịch sử của nó.
Vì sứ mệnh truyền giáo, chúng
ta nhận lệnh và chương trình mục vụ / mục tử để tiến bước ra
đi thi hành, không phải chỉ từ Giáo Hội mà còn từ chính cộng
đồng thế giới chúng ta đang sống. Cái thảm cảnh kinh hoàng
chúng ta thấy trong Phúc Âm về cuộc khổ nạn của Chúa dạy cho
chúng ta biết rằng những cái mà chúng ta coi là “tầm thường
chẳng là gì cả”, ngay cả những cái có tính cách phá hoại,
gây tổn thương như tình trạng bất công, bất chính, hận thù,
ghen ghét, xác thịt, gieo kinh hoàng đang làm đui mù chúng
ta cũng đẩy chúng ta về một tương lai mà Chúa đã dành cho
chúng ta; nó chuẩn bị sân khấu để chính Chúa sẽ xuất hiện tỏ
lộ với chúng ta.
ĐÔI LỜI KẾT: Chào đón
Chúa
Để kết thúc bài suy niệm Phúc
Âm Chúa Nhật Lễ Lá này, chúng tôi mượn lời Đức Thánh Cha
Biển Đức XVI trong sách “Giêsu thành Nazareth”:
“ Giáo Hội chào đón Chúa
trong phép Thánh Thể như chào đón một người hiện đang
đến với chúng ta bây giờ, một người đã và đang đi vào giữa
lòng Giáo Hội. Đồng thời Giáo Hội cũng chào đón Chúa như
chào đón một người đang tiếp tục đến, một người dẫn dắt
chúng ta đi về hướng Chúa đến.
Vì cuộc tử nạn trên thập giá
và sống lại hiển vinh của Chúa, xin Chúa thứ tha các lỗi lầm
chúng con đã xúc phạm đến Chúa; những lúc hứng chí chúng con
hứa hẹn đủ điều với Chúa để rồi không làm mà còn vấp phạm
nhiều điều đáng trách khác nữa như những kẻ hôm nay tung hô
đón chào Chúa rồi ngày mai kêu gào đòi giết Chúa.
Xin Chúa ban sự sống vĩnh cửu
cho chúng con ngày cánh chung khi Chúa xuất hiện trên sân
khấu tỏ lộ uy quyền công bằng công chính cho hết mọi người.
Xin Chúa giúp con thấu hiểu
cuộc tử nạn của Chúa: “Chết” tức là “Sống”.
NB- Những Bài
đọc Chúa Nhật Lễ Lá: Mat.21: 1-11; Isaiah 50:4-7;
Philippians 2:6-11; Mat.26:14-27:66/27:11-54
Fleming Island, Florida
April 17, 2011
NTC
Như những người đi lễ hội hành hương, chúng ta đi lên với
Chúa; và như một người đi lễ hội hành hương, Chúa đến với
chúng ta, đem chúng ta lên với Ngài để cùng “hướng tới”
Thập Giá và sự Sống Phục Sinh, đến một Jerusalem chung cuộc
đang nở rộ giữa lòng thế giới hiệp thông, kết hợp chúng ta
với thân thể Ngài” (tr.11)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CĂN
TÍNH NGƯỜI TÍN HỮU GIÁO DÂN TRONG CÔNG ĐỒNG VATICAN II ( 2 )
|
3 - Vai trò nhân vật
chính của người tín hữu giáo dân trong đời sống Giáo Hội.
Như những gì chúng ta
vừa đề cập đến, người tin hữu giáo dân chỉ có vai trò trong sứ
mạng của Giáo Hội giữa trần thế ( ad extra) thôi sao?
Câu hỏi, ai trong chúng
ta cũng tự nhiên cảm thấy phải đặt lên, sau những gì đã được đề
cập ở phần trước.
Trở lại quan niệm thời
tiền Công Đông Vatican II, theo đó thì hàng giáo phẩm và tu sĩ "
có nhiệm vụ đối với những gì liên quan đến Giáo Hội ",
trong khi đó, lãnh vực của người tín hữu giáo dân là " những
gì thuộc về thế tục ".
a ) Theo quan niệm
của Công Đồng Vatican II, tư tưởng tách biệt lãnh vực và chủ thể
như vừa kể là tư tưởng cần phải được loại bỏ.
Cần mạnh dạn xác định
rằng, trong cộng đồng Giáo Hội, tất cả không trừ ai, đều có liên
hệ đến cả hai lãnh vực. Nhưng là liên hệ theo phương thức khác
nhau, tùy theo ơn gọi của mỗi người, của mỗi hạng người.
Tuy nhiên, nếu cách sống
của người tín hữu giáo dân được đặt trọng tâm trên các lãnh
vực trần thế, điều đó không có nghĩa là họ không có phận vụ
vai chính cả trong các lãnh vực đời sống nội tại ( ad intra
) của Giáo Hội.
Trước tiên, cần phải nói
cách khác đối với những gì một đôi khi được nghĩ đến và nói lên,
đó là Giáo Hội không phải được phân chia thành hai thành phần,
một " Giáo Hội huấn dạy và một Giáo Hội học hỏi, lắng nghe
", phần " Giáo Hội huấn dạy " gồm hàng giáo phẩm với
quyền huấn dạy và cai quản, còn phần thứ hai gồm có các tín hữu
giáo dân phải biết lắng nghe, học hỏi và được hướng dẫn.
Trái lại, tất cả Giáo
Hội đều gồm cả hai phần, phần nầy lẫn phần kia, tuy tùy theo
phương thức và độ lượng khác nhau.
Lý do cuối cùng của
những gì vừa kể là Lời Chúa được Chúa giao cho cả cộng đồng
Giáo Hội ( Dei Verbum, 10a), chớ không phải đặc quyền
đặc nhiệm cho một vài người.
Từ đó đưa đến điều cần
thiết là cả cộng đồng Giáo Hội đều phải học hỏi, hiểu biết sâu
đậm và loan báo cho thế gian, mặc dầu dĩ nhiên trong đó một vài
người được kêu gọi trở thành lãnh đạo, hướng dẫn, và những người
khác được mời gọi hãy cộng tác một cách có trách nhiệm, mặc dầu
không ở vị trí lãnh đạo.
Và bởi vì Lời Chúa được
thể hiện sống động trong lịch sử, trong các biến cố và trong
các hoàn cảnh sống của con người ( Dei Verbum 2; Gaudium et spes
11a), chúng ta hiểu được tầm quan trọng không thể thay thế
và cá biệt sự góp phần cộng tác của các tín hữu giáo dân, nam
cũng như nữ, trong việc chuẩn định, bởi lý do chính vì họ là
những người sống sát gần với các thực tại trần thế, họ có thể
thu nhận dễ dàng hơn và sát với thực tế hơn.
Trong nhãn quang đó,
Hiến Chế Lumen gentium xác nhận rằng các vị chủ chăn
- " được trợ lực
bằng kinh nghiệm của các tín hữu giáo dân, có thể hướng dẫn một
cách trong sáng rõ ràng hơn và thích hợp hơn trong các vấn đề
thiêng liêng cũng như những vấn đề trần thế, và như vậy cả Giáo
Hội, được nâng đỡ bởi mọi thành phần của mình, có khả năng thể
hiện hữu hiệu hơn sứ mạng của mình cho cuộc sống thế giới " (
LG, n. 37d).
Đàng khác, từ động tác
ngôn sứ được thực hiện trong lòng cộng đồng Giáo Hội, các tín
hữu giáo dân có thể rút ra được lợi ích cho cuộc sống và động
tác của mình giữa trần thế.
Người tín hữu giáo dân
có thể khám phá ra, cùng với anh chị em khác trong đức tin, ý
nghĩa cuối cùng của các thực tại mà giữa đó họ đang sống, và từ
đó cũng có thể thấy được đâu là phương thức thực tại hơn để loan
báo Phúc Âm cho những người cùng chung sống với họ trên thế
giới.
b) Kế đến, như chúng
ta đã có dịp đề cập trong bài viết trước, Hiến Chế Lumen
Gentium trong khi để cập đến đề tài phưọng tự, đã xác nhận
rằng tất cả những gì người tín hữu giáo dân tác động trong
Chúa Thánh Thần, đều trở nên của lễ hiến tế thiêng liêng, mà
trong lúc cử hành Thánh Thể, cùng với động tác dâng Mình Chúa Ki
Tô, họ cũng dâng những của lể đó lên Chúa Cha ( LG, n. 34b).
Điều gì họ đang sống
trong cuộc sống thông thường và thường nhật của mình, chính
những điều đó tự chúng đã là " động tác phụng tự thiêng
liêng ", người tín hữu giáo dân cử hành trong cộng đồng
Giáo Hội dâng lên Chúa trong những giây phút phụng tự.
Đây là những lúc đặc thù
người tín hữu giáo dân hành xử phận vụ tư tế của mình. Đây thật
là một động tác đồng tế đích thực, trong đó mọi thành phần của
cộng đồng Giáo Hội đều tích cực tham dự, và cũng trong đó cho
thấy nhiều phương diện phục vụ khác nhau trong Giáo Hội.
Trên nền tảng đó,
Hiến Chế Công Đồng Sacrosanctum Concilium đã nhấn mạnh đến
sự tham dự tích cực của mọi tín hữu vào các buổi cử hành phụng
vụ, phụng vụ không bao giờ là những buổi cử hành riêng tư, mà
luân luôn là cử hành với danh nghĩa công đồng ( n. 26a).
Các vị thừa tác viên,
dưới quyền năng của Phép Truyền Chức, được mời gọi chủ toạ trong
các buổi cử hành phụng vụ, nhưng không vì đó mà những tham dự
viên khác chỉ được coi là những người được hưởng đơn thuần và
thụ động, những gì mà các vị thừa tác viên thực hiện cho.
Trái lại, mọi người đều
được mời gọi cảm nhận mình - vì thực ra chính họ là như vậy -
đồng trách nhiệm trong việc cử hành phụng vụ, và cũng vì lý do
đó mà phải cảm thấy mình có trách nhiệm cộng tác với tất cả khả
năng của mình để thực hiện tốt đẹp đầy đủ ý nghĩa buổi cử hành
phụng vụ dâng lên Chúa.
Tưởng cần nhắc lại một
lần nữa tầm quan trọng sự cộng tác của các tín hữu giáo dân nam
nữ vào phụng vụ. Nếu sứ mạng của Giáo Hội là nhằm để phục vụ
trần thế, phụng vụ của Giáo Hội cần phải được thấm nhuần bởi
những đòi hỏi mà đức tin chuyển đến, về những gì đã và đang xảy
ra trong môi trường trần thế.
Nếu không, phụng vụ của
Giáo Hội chỉ là phụng vụ rỗng không, không có ý nghĩa gì dâng
thế giới lên cho Chúa.
Trong tư tưởng đó, chúng
ta có thể tiên đoán được đâu là phần cộng tác cá biệt và quan
trọng mà các tín hữu giáo dân nam nữ có thể góp phần vào phụng
vụ, vì họ là những chủ thể hằng ngày sống mặt giáp mặt, vai kề
vai với thế giới, với những hoàn cảnh " vui mừng và hy
vọng, đau khổ và lo âu " của họ và của thế giới, mà họ có
thể đem đến để hiến dâng lên Chúa và nói với Chúa.
c) Sau cùng, mỗi tín
hữu nam nữ giáo dân đều được gọi là " ông " hay là "
người đầy tớ " theo tinh thần Phúc Âm, trong lòng Giáo Hội (
GS, 32 ).
Ngoài những buổi cử hành
phụng vụ, cuộc sống cộng đồng Giáo Hội cũng cần có những việc
phục vụ xác định: tổ chức, lãnh đạo, giảng dạy, cứu trợ...
Đời sống trong cộng đồng
càng được tổ chức liên đới huynh đệ bao nhiêu, cần phải có lòng
sẵn sàng cộng tác trợ giúp của các thành viên mình bấy nhiêu.
Điều đó không có gì lạ, chúng ta đã có được nhiều chứng cứ trong
các công đồng Ki tô hữu đầu tiên trong Tân Ước, nhứt là trong
sách Tông Đồ Công Vụ.
Trong bối cảnh đó, chúng
ta nên nhắc lại những gì Công Đồng Vatican II nói về mối tương
quan giữa các tín hữu giáo dân và mục tử.
Một tiêu chuẩn định
hướng, chúng ta được Công Đồng cung cấp cho trong chính chương
dành riêng đề cập đến các tín hữu giáo dân của Hiến Chế Lumen
Gentium:
- " Như vậy, trong
Giáo Hội, không phải tất cả đều cùng đi trên một con đường,
nhưng tất cả đều được mời gọi tiến đến sự thánh thiện và tất cả
đều đã có, tùy theo phần của mình, cùng một đức tin do quyền
năng đức công chính của Chúa. Một vài người do ý muốn của Chúa
là những vị tiến sĩ và những vị phân phát các mầu nhiệm, các vị
chủ chăn cho những người khác, nhưng giữa tất cả đều hiện hữu
hiệu lực một quyền bình đẳng đích thực về địa vị " ( LG 32b).
Như vậy Công Đồng nhấn
mạnh đến một một phương điện rất quan trọng về đời sống và tổ
chức Giáo Hội: trong Giáo Hội không hề có bậc thang về phẩm trật
địa vị, bởi vì tất cả các thành phần của Giáo Hội đều ngang nhau
về phưong diện đó, và không ai là người trổi thượng hơn người
khác.
Sau khi tuyên bố nguyên
tắc nền tảng vừa kể, bản văn vừa được trích dẫn tiếp tục:
- " như vậy, người
tín hữu giáo dân, theo đồ án của Thiên Chúa, có Chúa Ki Tô là
người anh mình ( ...) như vậy, họ cũng có những người anh em là
những người đưọc đặt để vào các chức vụ thiên thánh, để bằng
cách giảng dạy, thánh hoá và chăn dắt nhân danh Chúa Ki Tô, các
anh em đó chăn dắt gia đình Chúa Ki Tô, để cho mỗi người thực
hiện hoàn hảo giới răn mới về bác ái " ( LG, n. 32d).
Mối tương quan thứ nhứt
và nền tảng, đó là mối tương quan bình đẳng huynh đệ. Nhưng mối
tương quan đó không loại bỏ đi mối tương quan thứ hai phụ túc
nầy: đó là sự khác biệt nhau trong trách nhiệm, nhưng là sự khác
biệt luôn luôn phải được chính tình huynh đệ thấm nhuần.
Trong lý chứng đó, Hiến
Chế Lumen Gentium nhấn mạnh đến việc đồng trách nhiệm của các
tín hữu giáo dân trong cuộc sống và trên cuộc hành trình của
cộng đồng Giáo Hội:
- " Trong tầm mức
hiểu biết, thẩm quyền và uy thế mà họ có được ( người tín
hữu giáo dân) họ có quyền, nói đúng hơn, một đội khi, có bổn
phận phải nói lên cho biết ý kiến của họ đối với những gì có
liên quan đến những gì tốt lành cho Giáo Hội " ( LG, n. 37 a).
Hiểu như vậy, chúng ta
thấy được Công Đồng mời gọi các chủ chăn hãy nhận biết và phát
huy phẩm giá và trách nhiệm của người tín hữu giáo dân trong
Giáo Hội.
Tiến sĩ Nguyễn Học Tập |
VỀ MỤC LỤC |
|
QUAN NIỆM VỀ PHÁI TÍNH
|
Chúng ta thường
nghe những câu phê bình châm biếm: “Anh chàng nầy giống đàn bà.
Cô kia y như đàn ông.” Những câu nói đó phản ảnh cho thấy quan
niệm của chúng ta về phái tính rất là rõ ràng. Hầu hết mọi người
đều cho rằng người đàn ông bao giờ cũng phải hùng mạnh, tự tin,
can đảm trong khi người đàn bà tiêu biểu sự yếu ớt, sợ sệt, nhút
nhát. Những quan niệm nầy chúng ta có được, đến từ chính nền văn
minh xã hội chúng ta đang sống.
NỀN
TẢNG XÃ HỘI
Vai trò mà mỗi phái
phải đóng, như chúng ta đã thấy, được xác định bỡi cấu trúc xã
hội của cộng đồng chung quanh. Tuy nhiên, những qui ước xã hội
ngày nay không xác định một mẫu tư cách nào cho mỗi giới. Mỗi cá
nhân phải xác định tư cách riêng cho mình như là nam hoặc nữ. Có
nhiều cách để diễn tả nam tính hoặc nữ tính. Điều nầy dành cho
mỗi cá nhân để xác định loại đàn ông hoặc đàn bà nào mình muốn
trở thành.
Bao lâu chúng ta
coi nam giới là có quyền và cũng cho rằng hầu hết mọi người đều
nghĩ như vậy thì quan niệm mà chúng ta có về vai trò phái tính
phù hợp với niềm tin và lối sống chúng ta. Ngay cả những đương
kim vô địch vận động hăng say nhất cho quyền bình đẳng của phụ
nữ cũng phải tuyên bố rằng đàn ông thật thì phải hùng mạnh, tự
tin, can đảm, trách nhiệm, và đáng tin tưởng, và rằng tất cả
những đàn ông không đáp ứng những đòi hỏi nầy cho thấy nét phụ
nữ trong con người họ. Từ ngữ đàn bà chỉ nét yếu ớt, sợ sệt như
một phẩm cách chung chung của người phu nữ. Thật ra, trách
nhiệm, ước muốn làm việc, muốn đóng góp, và ngay cả muốn nâng đỡ
được nhận biết như là những bổn phận của con người không kể phái
tính. Quan niệm về đàn ông là phái mạnh khiến những quan niệm về
vai trò phái tính, về bổn phận, và về giới hạn của họ sinh ra
lẫn lộn.
Con trẻ ở giai đoạn
đầu phát triển rõ rệt nhưng không hẳn luôn chính xác những quan
niệm về vai trò xã hội được gắn liền với phái tính riêng của
chúng. Chúng bị gây ấn tượng và bị kích thích bỡi những ý tưởng
xã hội về phái tính trước khi chúng nhận thức được ý nghĩa về
xúc cảm và về thể lý của chúng. Như một qui luật, con trai có tự
do hơn trong mọi sinh hoạt. Con gái hành động như con trai thì
được gọi là “con đực rựa”một danh từ ám chỉ có nhiều nét nam
tính, trái ngược với các cậu trai có hành vi điệu bộ giống như
con gái thì gọi là “thằng lại cái”. Giúp việc nhà, nấu ăn, lau
nhà, khâu vá vẫn được xem là công việc của con gái. Ngày nay,
đàn ông cũng rửa chén bát. Tuy nhiên, việc thực hiện chỉ chiều
hướng chung cho việc cộng tác, khó cho các ông Âu châu và nhất
là Á châu chịu làm.
Nhiều cô gái tin
rằng vai trò nữ giới trong xã hội vẫn còn lệ thuộc. Họ hoặc phục
tùng số phận, tìm sự đền bù trong cách thế các bà, hoặc tìm cách
phản loạn, không chấp nhận bất cứ cái gì thuộc về nữ giới. Cố
gắng đầu, phục tùng số phận để chiếm một chỗ đáng kính trong thế
giới đàn ông bằng cách trau chuốt sự quyến rũ, tỏ ra mình vô
dụng, và tránh trách nhiệm, nói tắt, bằng cách phấn đấu để loại
bỏ cung cách tiêu biểu của một người phụ nữ. Cung cách thứ hai,
phản loạn, dành cho những cô gái có những đặc tính kháng cự mãnh
liệt, từ chối hoàn thành sự phát triển hoàn toàn của nữ giới.
Những người nầy ghét nhìn giống như đàn bà, ghét chức năng của
đàn bà như có kinh nguyệt. Nhiều cô gái không đi đến thái cực
nầy nhưng đau khổ với diện mạo của họ. Không kể họ có nét giống
đàn bà thế nào, sự phản dối của họ thì rõ ràng trong những
trường hợp khác nhau. Họ cố gắng chứng tỏ rằng họ có thể tốt như
bất cứ người đàn ông nào và ngay cả còn tốt hơn. Rất thường, họ
không muốn nhận thức sự chống đối của họ đối với đàn ông và cũng
không muốn ý thức về cái đã gây nên những khó khăn trong hôn
nhân cũng như phái tính.
Câu chuyện sau đây
sẽ cho chúng ta thấy việc khước từ bản tính phụ nữ của một số
các cô có thể đi đến những thái cực mà chúng ta không thể tưởng
tượng được. Ông bạn bác sĩ của tôi đã kể cho tôi nghe câu
chuyện như sau:
“Một ngày kia, một
người đàn ông trẻ đến gặp tôi. Khi được hỏi anh đang gặp phải
những khó khăn gì, anh mặc khải cho biết rằng anh ta là một cô
gái. Bệnh nhân ở vào tuổi giữa 20. Vẻ đàn ông lộ nét không chỉ
bỡi cách ăn mặc nhưng bỡi cách nói và phong cách đàn ông. Ngay
cả giọng nói cũng có đặc tính của một người đàn ông hơn là đàn
bà. Cô ta đến vì cô cần sự giúp đỡ trong tình cảnh khó khăn bất
thường. Để tìm được một công việc, cần phải trình chứng minh
thư. Giấy tờ của cô cho thấy tên cô là con gái, điều đó làm rắc
rối. Cô bây giờ tìm cách để có thể đổi thành tên con trai. Tôi
bị lúng túng. Làm thế nào cô mang đồ đàn ông trong khi điều nầy
bị cấm đối với các bà. Cô cho tôi thấy giấy phép được viết tay
bỡi cảnh sát và cắt nghĩa làm cách nào cô có giấy đó. Khi cô
mang đồ đàn bà, cô lôi kéo sự chú ý của những người đi đường vì
mọi người tin cô là một người đàn ông hóa trang thành đàn bà. Cô
đi như một đứa con trai. Bộ tịch của cô như con trai. Vì thế,
cảnh sát bị bó buộc cấp cho cô giấy phép bất thường nầy.
Một sự khám nghiệm
thể lý cho thấy mọi sự bình thường: bộ ngực phát triển đầy đủ,
tóc đằn bà, kinh nguyệt đều đặn. Không có một chút gì gọi là bất
bình thường. Sự phát triển bất thường chứng tỏ bị gây nên bỡi
những yếu tố khác.
Cô ta được sinh ở
một vùng quê, đứa con đầu của một nông gia. Trong thế giới đó,
những đứa con gái không được quí mến lắm. Nông dân cần ít là một
đứa con trai để thừa hưởng đất đai và thay thế người cha khi ông
muốn về hưu. Vì thế, bố mẹ cô mong đợi đứa con trai. Không may
cho cô gái đó, hai năm sau thì đứa em trai được sinh ra. Thật
không khó để tưởng tượng phản ứng của cô đối với tình thế. Nhận
thấy vị thế của mình nguy hiểm, cô từ chối chấp nhận đóng vai
trò phụ. Cô bé xử dụng một ít năm trong cố gắng tử tế để giữ ưu
thế hơn đứa em nó cả về tinh thần lẫn thể chất. Tuy nhiên vẫn
không đủ sức để thằng bé khuất phục sự thống trị của nàng. Nó
vẫn là đứa con trai và nàng cũng chỉ là đứa con gái. Để chiến
thắng trận chiến nầy, cô phải chế ngự cho được tình thế. Vì thế,
cô hành động như một đứa con trai. Cô bé chơi với con trai và
còn dã man hơn bất cứ một đứa con trai nào khác. Cô lấy làm
khoái chí mặc đồ con gái cho đứa em trai trong khi chính cô lại
mang đồ con trai.
Bố mẹ cô lấy làm
thích thú và khuyến khích điều đó. Mọi người cho đó là kháu
khỉnh. Cô bé nghe nhiều lời phê bình thuận lợi về việc cô xem ra
giống con trai. Mọi người đều nhận thấy cô xem ra là con trai
hơn cậu trai em, một đứa trở thành hoàn toàn bị khuất phục, dễ
sai, và thích lệ thuộc vào người chị mạnh mẽ hơn. Sự thành công
nầy dĩ nhiên khích lệ cô bé tiếp tục và tăng cường cố gắng. Khi
cô lớn lên, cô bé ngày càng thích ứng với vai trò nam giới.
Trong mỗi cử động, mỗi bước đi, mỗi phong cách cô là một đứa con
trai đúng tiêu chuẩn. Cô bắt đầu thích các cô gái nhưng chỉ
trong cách bảo vệ và tán tỉnh. Khi cô bé bắt đầu phát triển về
phương diện thể lý, cô chống lại bất cứ dấu hiệu nào của nữ
giới. Cô ghét bộ ngực cô. Cô dùng vải buộc chặt để đè nó dẹp
xuống và không ai chú ý. Cô coi thường sự kinh nguyệt và không
để nó xen vào những hoạt động thể thao. Cô không để phát triển
những nét nữ giới và đầu tóc hớt ngắn kiểu con trai. Giờ phút
huy hoàng của cô đến khi cô có được giấy phép của cảnh sát để
cho mặc đồ con trai. Nhưng luận lý mà cô cố gắng để chống cự lại
mang cô vào xung khắc mới. Bây giờ cô cần một tên con trai. Điều
nầy không dễ đối với lề luật.Nhưng dường như chính quyền đã bị
cưỡng ép để nhượng bộ lần đầu, thật là cần thiết và hợp lý lấy
bước kế tiếp để cho phép cô dùng một tên có thể áp dụng cho bất
cứ phái nào. Nhưng cần có sự giới thiệu của bác sĩ tâm lý, điều
đó được đòi hỏi bỡi cảnh sát. Cô ta thì rất là nhiệt tình. Tôi
cố gắng cách luống công để thuyết phục cô ta rằng dẫu cho cô có
thành công, cô vẫn phải chiến đấu với nhiều vấn đề khác. Cô vẫn
là một người đàn bà, không kể khả năng của cô có như thế nào đi
nữa.Ngoại trừ cô chấp nhận vai trò của phái cô, cô càng ngày
càng đi vào những khó khăn lớn hơn. Nhưng như nhiều người với
bản năng phái tính thay đổi bất bình thường, cô không muốn nghe
một lời khuyên nhủ nào hoặc sự giúp đỡ nào, và thẳng thắn từ
chối thảo luận những vấn đề khủng hoảng tâm lý của cô.
Rất ngạc nhiên, cô
lại xuất hiện khoảng một năm sau. Thoạt đầu tôi nghĩ cô có lẽ
yêu cầu chữa trị tâm lý. Tuy nhiên, cô chỉ đến đòi hỏi một dịch
vụ khác trong việc cô chống lại xã hội, là cái đã đánh dấu cô
như một hữu thể thấp kém. Cô trót yêu một cô gái và cô mong tôi
giúp để làm cho việc đó trở thành có thể và rồi hai người có thể
lấy được nhau. Dĩ nhiên, điều đó vượt quá quyền hành con người,
và cũng từ đó không bao giờ thấy cô ấy trở lại thăm tôi nữa”.
Lm
Lê Văn Quảng Psy.D.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
SỰ
THẬT LÀ GÌ? |
Xưa lắm rồi trong
một vương quốc nọ, sau khi vị vua độc ác đã chết đi, người em kế
thừa lên ngôi. Tuy nhiên, vị tân vua muốn lấy lòng người dân và
muốn phần nào bù đắp những thiếu sót mà anh mình đã gây ra. Vì
thế, ngay sau khi lên ngôi, vị vua yêu cầu các quan tìm một
người dân nghèo nhất, quê mùa nhất để ông đích thân đến thăm
người này. Các quan đã cho vua biết người nghèo nhất trong đất
nước này là một bà lão sống một mình nơi xa xôi hẻo lánh.
Sau khi nghe tin nhà vua sẽ đến
thăm mình, bà lão cấp báo là hãy cho bà một thời gian để chuẩn
bị. Nhà vua đồng ý và đợi chờ. Đôi ba tháng qua đi, nhà vua sốt
ruột hỏi về tin tức bà lão vì muốn đến thăm bà. Trái với mong
đợi của nhà vua, sau khi nghe tin nhà vua sẽ đến thăm mình, bà
lão đã cùng với nhiều vị quan đã góp tiền của nhằm phá đi căn
chòi nghèo nát của bà để xây thành một tòa lâu đài tráng lệ.
Biết được sự việc này, nhà vua hết sức buồn rầu vì người dân đã
không hiểu được tấm lòng của ông. Càng đau lòng hơn khi ông nhận
ra rằng, những người thân cận của ông như các quan đã che đậy sự
thật về đời sống của dân bằng những ngôn từ hoa mỹ mà hằng ngày
họ dùng để tấu bẩm.
* * *
Bạn thân mến, chúng
ta đã cùng nhau học hỏi về chính bài học về chủ đề Đơn sơ – Chân
thật. Hôm nay, chúng ta cùng nhau hướng về sự Chân Thật tuyệt
đối nơi Thiên Chúa là Đấng không ngần ngại lột bỏ hết tất cả địa
vị của một Thiên Chúa để mặc lấy sự nghèo hèn của một kiếp
người. Trái với sự lộng lẫy bên ngoài mà con người thường hay
trang điểm để đến với nhau, Thiên Chúa lại mặc lấy sự nghèo hèn
nơi hang đá. Trái với những lời khen chúc tụng mà con người
thường tìm cho mình, Thiên Chúa đã sẵn sàng đón nhận những sỉ
nhục vu cáo. Trái với ngai vàng, quyền lực mà con người tham
vọng dành giật, Thiên Chúa lại chọn thập giá. Vâng, tất cả sự
lựa chọn của Thiên Chúa là chọn lựa sự thật và biểu lộ cho con
người thấy Sự Thật. Sự Thật mà Thiên Chúa mặc khải cho con người
vượt xa tầm hiểu biết của con người. Hay nói cách khác, Sự Thật
mà Thiên Chúa biểu tỏ cho con người nó quá thực, quá gần gũi,
đến nỗi con người cứ ngỡ ngàng trước Sự Thật ấy để rồi lại thắc
mắc như chính Philatô, “Sự thật là gì?” (Jn 18:38).
Sự Thật mà Thiên
Chúa biểu lộ cho con người qua Đức Giêsu Kitô là sự thật về tình
yêu bất biến của Thiên Chúa dành cho con người. Thiên Chúa yêu
con người bằng một tình yêu thật. Yêu đến nỗi lấy chính mạng
sống mình làm giá cứu chuộc mọi người. Cái chết của Đức Kitô đã
lột tả lên tất cả về bản chất của Thiên Chúa – yêu cho đến cùng.
Một Thiên Chúa quyền năng lại chọn phương cách cứu độ con người
như thế để nói lên điều gì? Tất cả để minh chứng giá trị thật về
tình yêu. Tình yêu, sự thật phải được minh chứng bằng giá máu.
Các thánh tử đạo đã không theo vết chân của Thầy Chí Thánh đó
sao?
Thưa bạn, sự đơn sơ
chân thật mà chúng ta đối xử với nhau hằng ngày cũng được bắt
nguồn từ Thiên Chúa. Chỉ trong Thiên Chúa ta mới tìm thấy sự
thật hoàn hảo về chính ta, về kiếp con người, và về thế giới
chóng qua này. Thiên Chúa đã không ngần ngại biểu tỏ sự thật qua
hang đá và thập giá, thì Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy biểu tỏ
cho nhau sự chân thật về chính mình. Như trong câu chuyện, vị
tân vương muốn thăm bà lão với hoàn cảnh thật của bà, chúng ta
cũng hãy để Thiên Chúa đến với ta như bản chất thật của ta – một
loài thụ tạo hoàn toàn lệ thuộc và cậy nhờ vào Ngài, chứ không
cần vay mượn những sản phẩm của con người như thành công, địa
vị, tiền của. Và chúng ta cũng hãy đến với nhau như những con
người có niềm vui xen lẫn khuyết điểm và bất toàn. Vì chính dựa
trên sự chân thật chúng ta mời tìm thấy được tự do và bình an.
“Sự thật sẽ giải thoát các con” (Jn 8:32).
Chúng ta cùng cầu
chúc nhau sống đơn sơ chận thật với Thiên Chúa, với lòng mình,
và với người thân.
Br. Huynhquảng
Mời bạn ghé thăm trang
http://brhuynhquang.org
Email liên lạc:
brhq@brhuynhquang.org
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CÁC MỐI TƯƠNG
QUAN CỦA LINH MỤC GIÁO PHẬN |
Mời thăm Blog của
Lm. Trần Minh Huy
http://www.chivilongchuathuongtoi.tk/
Tác phẩm: ĐÀO TẠO ỨNG SINH LINH
MỤC GIÁO PHẬN
ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN
TỰ ĐÀO TẠO VÀ
TIẾN BƯỚC TRÊN CON ĐƯỜNG SỐNG THÁNH
(tiếp theo)
D. CÁC MỐI TƯƠNG QUAN CỦA LINH MỤC GIÁO PHẬN
D.I
Tương quan nền tảng
D.I.a Ý niệm tổng quát
1.
Tương quan với Chúa Cha
2.
Tương quan với Chúa Giêsu, đặc
biệt Chúa Giêsu chịu đóng đinh và Chúa Giêsu Thánh Thể
3.
Tương quan với Chúa Thánh Thần
5.
Tương quan với các thiên thần,
nhất là thiên thần giữ mình
6.
Tương quan với thánh cả Giuse,
thánh Quan Thầy và các thánh
Tương quan với Thiên
Chúa Ba Ngôi là khía cạnh quan trọng nhất của đời sống độc
thân linh mục. Tương quan với Thiên Chúa là tuyệt đối then
chốt để sống độc thân linh mục hiệu quả. Do đó quyền ưu tiên
phải được dành cho mối tương quan này. Tương quan với Thiên
Chúa được bày tỏ qua đời sống thiêng liêng và cầu nguyện.
Cầu nguyện không là gì khác hơn là mối tương quan của chúng
ta với Thiên Chúa. Cầu nguyện là liên hệ với Thiên Chúa, đối
thoại với Thiên Chúa, thông hiệp với Thiên Chúa, ở với Thiên
Chúa, ở trước nhan Thiên Chúa và luôn ý thức về sự hiện diện
của Thiên Chúa.
Đây là tương quan
siêu ngôi vị. Tương quan siêu ngôi vị này bao gồm hai ngôi
vị: một ngôi vị thần linh và một ngôi vị nhân loại. Trong
tương quan này, ngôi vị Thần linh đến với con người chúng ta
và chúng ta, những con người, đi tới với Thiên Chúa, trong
tiến trình cầu nguyện mang chiều kích vừa thần linh vừa nhân
loại, được diễn tả bằng Con Đường Thiên Chúa đến với con
người và con người đến với Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu Kitô
như Ngài tuyên bố “Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống.”
Thiên Chúa là Chúa
của liên hệ và liên kết. Khi Thiên Chúa liên hệ với chúng
ta, chúng ta có thể hoặc nói “vâng” hoặc nói “không” với
Ngài. Khi chúng ta nói “vâng” thì lúc ấy có liên hệ. Chính
liên hệ siêu ngôi vị này giúp con người đạt tới sự thánh
thiện, vì nó thực là công trình của chính ơn thánh Chúa. Đời
sống độc thân linh mục thánh hiến phải giúp chúng ta phát
triển liên hệ này với Thiên Chúa, bằng việc nối kết chặt chẽ
giữa độc thân thánh hiến và đời sống cầu nguyện.
Độc thân linh mục là
một hồng ân liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa. Chính nhờ liên
hệ của chúng ta với Thiên Chúa mà chúng ta di chuyển đến tất
cả những liên hệ khác một cách tốt đẹp thánh thiện. Việc
kính mến Thiên Chúa nâng cao liên hệ tình yêu của chúng ta
với người khác. Nếu chúng ta loại trừ Thiên Chúa ra khỏi
liên hệ của chúng ta, thì chúng ta có thể trở thành phá
hoại, không những đối với liên hệ của chúng ta với tha nhân,
mà còn đối với chính bản thân chúng ta và bản thân người
khác nữa.
Thiết lập mối liên
hệ cá nhân với Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện là chiều
kích hàng dọc trong liên hệ của chúng ta (đối thần); còn
thiết lập liên hệ cá nhân với anh chị em đồng loại chúng ta
là chiều kích hàng ngang trong liên hệ của chúng ta (đối
nhân). Chiều kích hàng dọc này là động cơ thúc đẩy và là ý
nghĩa đích thực cho chiều kích hàng ngang trong đời sống
chúng ta.
Tương quan của chúng
ta đối với Đức Mẹ, Thánh Cả Giuse, thiên thần giữ mình,
thánh quan thầy và các thánh càng giúp chúng ta qui hướng về
Chúa và củng cố tương quan của chúng ta với Chúa.
D.I.b Vài khía cạnh nổi
bật của linh đạo linh mục giáo phận
D.I.b.1) Linh mục giáo phận và Bí tích Thánh Thể
Thánh Lễ là hình
thức cầu nguyện cao nhất của đời sống phượng tự Kitô giáo,
và là cái đặc trưng của chức linh mục. Thánh Thể là “suối
nguồn và tột đỉnh của đời sống và sứ vụ của Hội Thánh,”
nên cũng phải là trung tâm đời sống và sứ vụ của linh mục,
đặc biệt là linh mục giáo phận giữa đàn chiên Chúa, bởi vì
có một mối tương quan rất chặt chẽ giữa cử hành Thánh Lễ và
rao giảng Chúa Kitô.
Theo những gì Chúa Giêsu đã
nói và đã làm trong bữa Tiệc Ly,
khi Ngài thiết lập Bí tích Thánh Thể và chức linh mục, để
chúng ta tái hiện và cử hành nhân danh chính Ngài (in
persona Christi), đời sống thiêng liêng của chúng ta có thể
lớn lên dần dần và dẫn đưa chúng ta tới độ “trở nên và
sống như một Chúa Kitô Khác trong mọi hoàn cảnh sống”
và “các sinh hoạt của đời sống hàng ngày của chúng
ta sẽ thực sự mang ý nghĩa và chiều kích Thánh Thể.”
Thiên Chúa tỏ lộ mầu nhiệm ý
định của Ngài trong phụng vụ Lời Chúa, mà chúng ta phải biết
liên kết với các thực tại của cuộc sống, ngõ hầu được sống
và biến đổi bởi chính Lời ấy.
Chúng ta phải công bố Lời Chúa và Thánh Ý Chúa mà chúng ta
đã tin và đang sống. Nhờ đó, tín hữu cũng được thúc đẩy suy
gẫm và hành động cách thích đáng, đồng thời được hoán cải và
biến đổi.
Linh mục tự nguyện
nhận lấy quà tặng quí giá chức linh mục, trong niềm hăng
say, hạnh phúc và biết ơn. Nên cho dù không tránh khỏi khó
khăn và thập giá trong đời sống và sứ vụ, nếu cho chọn lại,
linh mục chắc chắn vẫn sẵn sàng thưa “xin vâng”, đôi khi
chậm rãi, nhưng với ý thức và bình an.
Khi làm phép lạ hóa bánh ra
nhiều để nuôi dân chúng, Chúa Giêsu cần đến năm chiếc bánh
và hai con cá của các môn đệ. Ngày nay Ngài cũng cần đến
phần cộng tác ít ỏi và nhỏ bé của bản thân chúng ta, như
giọt nước pha trong rượu nho.
Chúng ta sẽ cố gắng luôn sẵn sàng cho Ngài sử dụng chúng ta
vì phần rỗi các linh hồn. Như đã làm trong bữa tiệc ly với
bánh, Chúa Giêsu cũng cầm lấy chúng ta và chúc phúc cho
chúng ta, khi Chúa kêu gọi và tuyển chọn chúng ta giữa nhiều
người khác có thể tốt hơn chúng ta. Chúng ta tạ ơn Chúa và
có lẽ phải hét lên vui mừng và hạnh phúc, vì tình yêu vô
điều kiện Chúa dành cho chúng ta, và vì may mắn của chúng ta
nữa: may mắn vì chúng ta được chọn làm linh mục, dù chưa
chắc chúng ta đã tốt hơn những người khác.
Ước gì chúng ta sẽ
không bao giờ sợ bị cầm lấy và chúc phúc như thế, bởi Chúa
và bởi đoàn chiên được trao phó cho chúng ta chăm sóc mục
vụ, kể cả qua những gánh nặng, những khó khăn trong đời sống
và sứ vụ linh mục của chúng ta. Như tấm bánh bị bẻ ra, chúng
ta phải được trao ban và bị ăn bởi Dân Chúa, đoàn chiên của
chúng ta, như cha Chevrier nói “linh mục là người bị ăn.”
Để luôn trung thành giữ lời cam kết với Chúa và với Hội
Thánh, đôi khi chúng ta cảm thấy đời sống và con tim bị bẻ
ra vì hiểu lầm và đau khổ, vì sự cô đơn và những chiến đấu
nội tâm chống lại những ước muốn và yếu đuối nhân loại bên
trong, cùng các cơn cám dỗ tấn công từ bên ngoài. Chúng ta
biết rằng thân xác nhân loại yếu hèn của chúng ta được quyền
năng Chúa làm cho trở nên một thân xác thánh thể như thân
xác Chúa Giêsu (bị bẻ ra và trao cho người ta ăn để họ được
sống). Chớ gì chúng ta luôn thấu hiểu và sống ý nghĩa của
đời sống bị bẻ ra vì Chúa và vì tha nhân.
Ý thức rằng chúng ta không dám
tự nộp mình cho đến chết như Chúa Giêsu, nhưng chúng ta sẵn
sàng hiến tặng thời giờ, của cải, sức khỏe, ước muốn, hạnh
phúc, niềm vui, cả những đau khổ và buồn phiền. Tất cả những
thứ đó cũng là cuộc sống và chính con người của chúng ta
vậy, như Chỉ Nam 1994 nói: “Linh mục phải học biết kết
hợp mật thiết với lễ vật, đặt trên bàn thờ hy lễ cả cuộc đời
mình như dấu chỉ của tình yêu nhưng không và ân cần của
Thiên Chúa.”
Máu các thánh tử đạo đổ ra vì
Chúa và vì Nước Trời chỉ có một lần thôi. Máu của chúng ta
đổ ra cách này hay cách khác, mỗi ngày, từng giọt một, qua
trách nhiệm và bổn phận mục vụ của chúng ta, cam go hơn, khó
khăn hơn, nhưng cũng công nghiệp hơn: “Một lúc đổ cả máu
đào, hay từng giọt một đằng nào công hơn?” Và như Thánh
Phaolô, mỗi ngày, chúng ta bổ khuyết nơi thân xác chúng ta
phần còn thiếu sót trong cuộc khổ nạn cứu thế của Chúa
Giêsu, mà “hy lễ Thánh Thể tái diễn mãi hy lễ thánh giá,”
kể cả “bước theo Ngài giữa những cuộc bách hại không hề
thiếu vắng trong Giáo Hội,” như
thánh Phaolô đã xác quyết: “Ai
có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải
chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ,
gươm giáo? Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng
con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh. Nhưng trong mọi
thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng
ta.”
Bánh và rượu dâng
lên sẽ được quyền năng Chúa biến đổi thành Mình và Máu Chúa
Kitô. Nếu chúng ta dâng chính mình, những cảm nghĩ và tình
yêu, những vấn đề, những băn khoăn lo lắng, đau khổ và hạnh
phúc của chúng ta thì quyền năng ấy cũng sẽ biến đổi chúng
thành những gì tốt đẹp hơn, hữu ích hơn cho chúng ta và đoàn
chiên của chúng ta. Đặc biệt, nếu chúng ta dâng những yếu
đuối và tội lỗi của chúng ta, Chúa sẽ tha thứ, biến đổi và
thánh hoá chúng ta, như Chúa Giêsu đã hiện ra nói với thánh
Hiêrônimô “con hãy cho Cha cả tội lỗi của con nữa để Cha tha
thứ cho con”, bởi vì với Chúa chẳng có tội gì quá nặng đến
đỗi Chúa không thể tha thứ được!
Trong việc cử hành Thánh Thể,
sự hiệp nhất của Dân Chúa được biểu lộ và thể hiện, cũng như
việc xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô được hoàn tất.
Chén chúc tụng mà chúng ta chia sẻ là Máu Chúa Kitô, lưu
chuyển trong Giáo Hội, mang lại sự sống thần linh. Bánh mà
chúng ta bẻ ra là Mình Chúa Kitô, được hiến dâng vì phần rỗi
của mỗi chi thể. Huấn thị Mầu Nhiệm Cứu Độ nhấn mạnh: “Trong
việc cử hành Bí tích Thánh Thể, các linh mục có trách nhiệm
lớn, vì các ngài chủ toạ in persona Christi, đưa ra chứng từ
và phục vụ sự hiệp thông không những đối với cộng đoàn tham
dự trực tiếp vào buổi cử hành, mà còn đối với Hội Thánh toàn
cầu, luôn luôn có liên hệ với Bí tích Thánh Thể.”
ĐTC Biển Đức XVI cũng nhắc: “Bí Tích Thánh Thể là bí tích
của sự hiệp nhất của Hội Thánh, bởi vì tất cả chúng ta hiệp
thành một thân thể duy nhất của Hội Thánh mà Chúa Kitô là
đầu.”
Linh mục thật hạnh phúc được
dâng Thánh Lễ, nhờ đó linh mục không ngừng nhận được sự sống
và hiệp nhất. Cử hành và lãnh nhận Thánh Thể là hiệp nhất
với Giáo Hội trên khắp thế giới. Nhờ Thánh Thể mà mọi người
được qui tụ lại trong một ngôi nhà đức tin. Sự hiệp nhất này
là nguồn mạch và bằng chứng hữu hiệu cho sứ vụ loan báo Tin
Mừng của Hội Thánh.
Nhờ việc cử hành thánh lễ mỗi ngày,
chúng ta sẽ hiểu hơn sức mạnh biến đổi của Bí tích Thánh Thể
và tìm thấy nơi mầu nhiệm này sự can đảm và nguồn sức mạnh
đi theo Chúa Giêsu và phục vụ Ngài nơi tha nhân:
“Các tư tế nên luôn tâm
niệm rằng công cuộc cứu chuộc hằng được tiếp tục thi hành
trong mầu nhiệm Hy Tế Thánh Thể; do đó, họ nên siêng năng
dâng lễ, hơn nữa, rất đáng mong ước các tư tế dâng lễ mỗi
ngày, cả khi các tín hữu không thể hiện diện, bởi lẽ Thánh
Lễ là tác động của Chúa Kitô và của Giáo Hội, chính khi cử
hành Thánh Lễ mà các tư tế chu toàn nhiệm vụ chính chính yếu
của mình”
Linh mục sẽ kín múc dồi dào
nguồn sức mạnh này từ Bí tích Thánh Thể, được cử hành trong
thánh lễ mỗi ngày và được tôn thờ nơi Nhà Chầu mỗi khi đến
viếng Mình Thánh Chúa,
như chính Chúa Giêsu mời gọi “hãy đến với Ta, hỡi những
ai đang vất vả và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các
ngươi.” “Chính
ở bên cạnh Chúa mà Linh Mục tìm được sức mạnh và phương thế
đem ta đến gần Thiên Chúa, khơi dậy đức tin và thúc đẩy hành
động và chia sẻ.”*
Chúa Giêsu Thánh Thể sẽ nạp
lại năng lượng và tăng thêm nhiệt huyết tông đồ cho chúng
ta, bằng việc tiếp tục kích hoạt ngày sống và đổ đầy chúng
ta với niềm hy vọng vững chắc.*
“Cha xứ phải chăm lo sao cho Bí tích Thánh Thể trở thành
trung tâm của cộng đoàn giáo xứ; ngài phải cố gắng làm cho
tín hữu được dẫn dắt và nuôi dưỡng bởi việc cử hành sốt sắng
các bí tích và đặc biệt làm cho tín hữu thường xuyên đến với
Bí tích Thánh Thể và Bí tích Thống Hối”
Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ
thường hằng của tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu đỡ nâng
hành trình của chúng ta tiến về hiệp thông trọn vẹn với Chúa
Cha, qua Chúa Con, trong Chúa Thánh Thần. Đây là thứ tình
yêu vượt thắng mọi thứ tình yêu nhân loại của trái tim con
người, dù nó tự nhiên và hấp dẫn đến đâu. Chính việc tôn thờ
Thánh Thể nơi Nhà Tạm mà ta phục hồi và nạp thêm năng lượng
cho đời sống thiêng liêng và sứ vụ linh mục, như Chúa Giêsu
mời gọi và Giáo Hội hằng nhắc nhở.
Trong buổi triều yết chung ngày 24.11.2010, ĐTC Biển Đức XVI
nói :
“Thánh Thể là một hồng ân tình
yêu phi thường, mà Thiên Chúa liên tục canh tân trong chúng
ta, để dưỡng nuôi cuộc hành trình đức tin của chúng ta, tiếp
thêm sức mạnh cho niềm hy vọng của chúng ta là khơi dậy tình
bác ái của chúng ta để ngày càng trở nên giống Người hơn.”Ai
trong chúng ta đã không có hơn một lần trải nghiệm những
gánh nặng mục vụ và những thách đố trăn trở và yếu đuối cá
nhân? Thánh Phêrô khuyên: “Trong khi cầu nguyện, anh em
hãy trao trút nỗi lòng anh em cho Chúa, vì Ngài hằng thương
yêu chăm sóc đến anh em”
Đó cũng là lý do tại
sao Đức Gioan Phaolô II đã mở ra “Năm Thánh Thể” với ước
mong rằng Hội Thánh được “khởi đầu lại từ Chúa Kitô.” Ngài
chia sẻ với cảm xúc sâu xa chứng tá đức tin của chính ngài
nơi Bí Tích Thánh Thể như là phương tiện đồng hành và tăng
sức mạnh: “Từ hơn nữa thế kỷ nay, từ ngày 2.11.1946, lúc
tôi dâng thánh lễ đầu tiên dưới tầng hầm thánh Leonard của
nhà thờ chính tòa Cracovie, hằng ngày đôi mắt tôi chăm nhìn
vào Mình Thánh và Chén Thánh, thời gian và không gian như cô
đọng lại và thảm kịch đồi Golgota được tái hiện với sức
mạnh, như đương xảy ra cách nhiệm mầu. Mỗi ngày, đức tin cho
phép tôi nhận ra trong bánh và rượu đã được truyền phép Vị
Lữ Hành Thần Linh ngày nọ đã đi đường với hai môn đệ Emau để
mở mắt họ ra với ánh sáng và mở lòng họ ra với niềm hy vọng.”
D.I.b.2) Thánh Lễ tái hiện Hy tế Thập Giá
Mẹ của thánh Gioan Bosco đã
nói với ngài khi ngài mới chịu chức linh mục: “Khi con
bắt đầu bước lên bàn thánh tế lễ là con bắt đầu con đường
thập giá.” Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta vác thập giá
mà theo Ngài: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính mình,
vác lấy thập giá của mình mà theo Thầy…”
Linh mục, Thánh Thể và Thánh giá luôn liên kết chặt chẻ với
nhau. Linh mục đứng giữa bàn thờ và thánh giá: Thánh lễ tái
hiện hy tế thập giá.
Cùng với Chúa Giêsu,
linh-mục-in-persona-Christi vừa là tư tế vừa là của lễ.
Cuộc sống và sứ vụ mục vụ của linh mục tìm được sức mạnh
tình yêu từ Thánh Thể và thập giá Chúa Giêsu, vì chính từ
thập giá mà tình yêu lớn nhất đã được bộc lộ: “Không ai
có tình yêu lớn hơn tình yêu của người đã chết cho người
mình thương.”
Là linh mục giáo phận, chúng ta được mời gọi cách đặc biệt
rảo qua con đường thập giá này. Mỗi ngày chúng ta dấn sâu
vào mầu nhiệm thập giá, mầu nhiệm của hy tế, dù lắm khi thập
giá trong đời sống mục vụ giáo xứ dường như quá nặng và
chúng ta muốn qụy ngã. Nhưng mầu nhiệm thập giá không được
hoàn tất bởi cái chết, song bởi đời sống mới của sự sống
lại.
Suốt dòng lịch sử,
Giáo Hội hầu như luôn luôn bước đi trên con đường hy tế thập
giá này. Nhiều nhà truyền giáo đã tiến bước suốt nhiều năm
hướng về Golgotha, vác lấy thập giá hy sinh và bách hại.
Nhiều người trong chúng ta cũng đã trèo lên con đường dốc
đứng đó, dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau, và hiện
nay vẫn tiếp tục vác thập giá mà đi. Con đường thập giá của
chúng ta vẫn kéo dài mãi. Những người bách hại còn đó hay đã
qua đi, hoặc đã thay đổi, nhưng thập giá vẫn không thay đổi
và vẫn đè nặng trên vai chúng ta. Lắm lần chúng ta dường như
bị oằn xuống dưới sức nặng của thập giá. Ngày xưa ông Simon
đã giúp Chúa Giêsu vác thập giá, thì ngày nay chính Chúa
chịu đóng đinh và sống lại đang đồng hành giúp chúng ta vác
thập giá của chúng ta. Đau khổ của chúng ta là đau khổ của
Ngài, hy tế của chúng ta là hy tế của Ngài. Chúa Giêsu thấu
hiểu những yếu đuối của chúng ta, những thất bại của chúng
ta, những cảm giác ngã lòng, những mệt mỏi, lo sợ và cô đơn
của chúng ta, vì chính Ngài cũng đã trải nghiệm những khó
khăn này.
Đường thập giá của
Chúa Giêsu đã là con đường đầu tiên, nhưng không phải là con
đường cuối cùng, vì còn chúng ta và bao nhiêu tâm hồn tận
hiến đang theo Ngài đến tận cùng trong con đường thập giá
của Ngài. Giáo Hội đã không quên con đường thập giá. Giáo
Hội không bao giờ che giấu thập giá. Thập giá vẫn luôn có
mặt trong Phụng vụ: Giáo Hội tán dương và suy tôn thập giá.
Thập giá không chỉ là gánh nặng, nhưng phải được xem là cây
gậy nâng đỡ trọng trách mục vụ, bệnh tật hay tuổi già sức
yếu. Cuộc sống linh mục càng cắm rễ sâu vào thập giá càng
sinh nhiều hoa quả. Vào mọi thời và ở mọi nơi, bao nhiêu
người vẫn không ngừng hăm hở đến với thập giá, chiêm ngắm
thập giá, yêu mến thập giá.
Đường thập giá là
trường dạy chúng ta sống ơn gọi và sứ vụ mục vụ của chúng
ta. Chúa Giêsu ngã xuống rồi lại chỗi dậy và tiếp tục đi.
Ngài chịu đựng nỗi cô đơn. Ngài chịu hành hạ và lăng nhục,
nhưng Ngài luôn tha thứ. Đường thập giá là trường dạy sống
thánh. Trên con đường thập giá, Mẹ Maria đã đi theo Con Mẹ
cho đến tận đỉnh đồi Can vê. Mẹ bước đi trong thinh lặng.
Cái nhìn của hai Mẹ Con bắt gặp nhau; hai Mẹ Con nhìn nhau
tận trong sâu thẳm tâm hồn. Mẹ và Con kết hiệp với nhau bởi
tình yêu bao la, sâu thẳm và trong trắng. Tình yêu này sẽ
làm thế giới thay đổi. Xin cho chúng ta được thấm nhuần tình
yêu của Chúa và tình yêu của Mẹ Chúa, cũng là mẹ của chúng
ta.
Mẹ đã đứng kề thập giá Chúa
Giêsu. Mẹ cũng luôn đứng kề thập giá cuộc đời và sứ vụ linh
mục của chúng ta. Chúng ta hình dung dường như đang đứng ở
trên đỉnh đồi Golgotha, dưới chân thập giá, nơi đã và đang
mãi mãi tập trung sức mạnh lớn nhất của thế giới: tình yêu
của Thiên Chúa cho thế giới trong con người của Con Ngài,
Chúa Giêsu Kitô.
Tình yêu này của Thiên Chúa không bao giờ cạn kiệt, không
bao giờ thôi là sức mạnh cứu độ của thế giới.
Bằng những lời “Lạy
Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha”, Chúa Giêsu
dâng lên Chúa Cha đời sống mình làm hy tế. Và hy tế của Ngài
đã được chấp nhận. Là linh mục, chúng ta cũng trao phó cuộc
đời chúng ta trong tay Chúa Cha cùng với Chúa Giêsu. Hy tế
của Ngài trên thập giá là một sức mạnh bao la cho thế giới.
Sức mạnh đó được gìn giữ trong Giáo Hội bởi Bí tích Thánh
Thể, trung tâm tình yêu ở dưới thế gian này. Chúng ta cử
hành Thánh Lễ như một sức mạnh không thể cạn kiệt của tình
yêu.
Chúng ta trèo lên
con đường thập giá đến tận đỉnh đồi Golgotha, đến tận Chúa
Kitô, một Chúa Kitô toàn thể vừa với thập giá và mão gai
trên đồi Golgotha, vừa với vinh quang trên núi Tabôrê và
chiến thắng phục sinh vinh hiển. Sứ mạng linh mục của chúng
ta là hướng dẫn những con người phải đau khổ vì đối nghịch
và hận thù để họ không quay lưng lại với nhau, nhưng nhìn
vào mắt nhau trong sự cảm thông tha thứ tương hổ.
Với rất nhiều người
trong chúng ta, bao nhiêu thời gian đã qua đi từ ngày chúng
ta theo ơn gọi linh mục và bao nhiêu sự đã thay đổi: tuổi
tác, tình trạng sức khỏe, và kinh nghiệm thập giá, thử
thách, đau khổ... Nhưng trong thâm sâu, chẳng có gì thay
đổi: Chúng ta vẫn là linh mục của Chúa và của Giáo Hội. Là
linh mục, chúng ta phải luôn được hướng dẫn bởi đức tin và
tình yêu, và phải luôn sống sứ vụ ấy với cùng một niềm tín
thác.
Mẹ Maria đã theo
Chúa Giêsu trên đường núi Sọ, xin Mẹ luôn đồng hành với
chúng ta. Một người mẹ đã nói với con mình rằng: “Dù con
lớn bao nhiêu tuổi, con vẫn là con của Mẹ; dù con có đi tới
cùng trời cuối đất, thì lòng Mẹ vẫn hằng theo con.” Chớ
gì chúng ta luôn cảm nhận sâu sắc Mẹ Maria luôn đồng hành
với chúng ta, luôn đứng bên thập giá của chúng ta, che chở
bảo vệ và dắt dìu chúng ta:
Hỏi rằng sao trả
quá đắt,
Đồi cao thánh giá
ai dắt ai dìu?
Dẫu rằng phải trả
quá đắt,
Đồi cao thánh giá
Mẹ dắt Mẹ dìu.
D.I.b.3) Thánh lễ cuộc đời linh mục vẫn kéo dài
Việc cử hành Thánh
lễ kết thúc, nhưng việc sống Thánh Thể vẫn tiếp tục trong
cuộc đời mục vụ: “Lễ xong, chúc anh chị em ra đi bình an.”
Ra đi để sống mầu nhiệm vừa cử hành, để đem yêu thương cho
mọi người đang trên hành trình đức tin. ĐTC Biển Đức XVI
dạy: “Thánh Thể không tách xa chúng ta khỏi những người
đương thời với chúng ta; ngược lại, bởi vì Thánh Thể là cách
diễn tả hay nhất của tình yêu Thiên Chúa, nó mời gọi chúng
ta cộng tác với tất cả anh chị em mình để đương đầu với
những thách đố hiện tại và làm cho hành tinh này thành một
nơi tốt đẹp để sống.”
Và ĐHY Francis
Arinze, Bộ Trưởng Bộ Phụng Tự và Bí Tích, đã nói trong lễ bế
mạc Năm Thánh Thể 49 (năm 2008) tại Canada rằng “Bí Tích
Thánh Thể sai chúng ta đi để bày tỏ tình yêu và tình đoàn
kết với anh chị em đang thiếu thốn của chúng ta. […] Chúng
ta cũng được sai đi để an ủi những người đang sầu khổ, để
giúp giải phóng những người đang làm nô lệ, kể cả các nạn
nhân của những hình thức đàn áp về phái tính, chủng tộc hoặc
những hình thức đàn áp khác, để đem hy vọng đến cho những
trẻ bụi đường, và giúp nâng cao các dân chưa được phát triển
lên một mức độ xứng hợp với sự hiện hữu của con người, nhất
là những người đang đói khát và thiếu thốn về tinh thần: Họ
đang đói khát Lời Thiên Chúa, đói khát Tin Mừng giải phóng
của Chúa Giêsu Kitô, cho nên việc truyền giáo, dạy Giáo Lý
dưới nhiều hình thức cùng việc dẫn đưa người ta đến với Hội
Thánh và các bí tích là những cách bày tỏ cần thiết của tình
yêu thương tha nhân.”
Để được vậy, xin
Chúa ban cho chúng ta, nhờ lời cầu bàu của Mẹ Maria và thánh
quan thầy Gioan Maria Vianey, được ơn dâng lễ mỗi ngày thật
sốt sắng như thánh lễ đầu tiên và cũng là thánh lễ cuối cùng
của cuộc đời chúng ta.
D.I.b.4) Linh Mục với Mẹ Maria
Mẹ hướng dẫn chúng
ta tới Chúa Giêsu, Đấng đưa chúng ta đến với Chúa Cha. Mẹ
chỉ cho chúng ta con đường hiệp thông trọn vẹn với Thiên
Chúa, bởi vì Mẹ là người phụ nữ được Thiên Chúa tuyển chọn
để thực hiện chương trình cứu độ của Ngài với tư cách là
người đồng tham dự vào những biến cố tột đỉnh của lịch sử
cứu độ.
Mẹ được kêu cầu là
Mẹ của Hội Thánh và Mẹ của linh mục theo một đường lối đặc
biệt, khi trên thập giá, vào lúc tột đỉnh của sứ mạng cứu độ
nhân loại, Chúa Giêsu đã trao phó Mẹ mình cho Gioan và ký
thác Gioan cho Mẹ:
“Chúng ta cũng hãy đón nhận Mẹ Maria vào trong nhà nội
tâm của chức linh mục chúng ta.”
Được sự che chở và hướng dẫn từ mẫu của Mẹ nâng đỡ và tăng
sức mạnh, chúng ta có thể nhìn thấy mọi mối tương quan và
các giai đoạn đời sống và sứ vụ linh mục của mình, bằng đôi
mắt mới, bằng trái tim và trí não mới, và luôn bước đi trên
con đường thánh thiện cần thiết.
Là Linh mục,
chúng ta cần tăng cường lòng sùng kính Đức Mẹ. Lòng sùng
kính đích thực đối với Mẹ Maria là dấu chỉ và bảo chứng cho
lòng trung tín với Chúa Giêsu Kitô. Sự hiện diện từ
mẫu của Mẹ luôn là sự nâng đỡ cho chúng ta. Mẹ đã luôn theo
sát Chúa Giêsu Con Mẹ trên con đường trần thế của Ngài, bây
giờ Mẹ vẫn tiếp tục đồng hành cùng chúng ta, những Kitô
khác. Chúng ta phải học lắng nghe và thực hành những lời Mẹ
đã nói với các môn đệ và ngày nay vẫn còn nói với chúng ta:
“Hãy làm những gì Người nói với anh em.”
Ngay từ lúc khởi đầu
sứ vụ Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã trao phó mỗi linh
mục cho Mẹ và mong muốn rằng mọi linh mục đều trao phó chính
mình cho Mẹ, và hướng về Mẹ với một tình yêu và niềm hy vọng
đặc biệt. Bằng kinh nghiệm của mình, Ngài đã viết lên điều
ấy trong bức thư gửi các Linh mục. Ngài cầu mong: “Nguyện
xin Đức Maria, Đấng mà tôi mời gọi anh em hãy luôn nuôi
dưỡng lòng sùng kính con thảo, đồng hành với anh em và liên
lỉ che chở anh em.” Đức Benedictô XVI mới đây cũng thôi
thúc chúng ta: “Tôi khuyên anh em hãy vào trường Đức
Maria để học biết yêu thương và bước theo Chúa Kitô trên hết
mọi sự.”
Thật vậy, trong
trường của Mẹ Maria, chúng ta học để đặt Chúa Kitô vào chỗ
nhất trong cuộc đời và sứ vụ của chúng ta, và học để hướng
tư tưởng cùng hành động của chúng ta theo Ngài. Đúng vậy,
nơi trường của Mẹ Maria, chúng ta học biết thinh lặng, biết
lắng nghe và phục vụ khiêm tốn, đó là những điểm mấu chốt
của đời sống người môn đệ. Mẹ Maria sẽ giúp chúng ta tiến
sâu vào mối tương quan nhân vị và đích thực hơn với Chúa
Giêsu, để chúng ta yêu mến Ngài và làm cho Ngài được yêu
mến. Lòng sùng kính Đức Mẹ đích thực là một dấu chỉ và bảo
đảm cho lòng trung thành với Chúa Kitô. Vâng, qua việc chiêm
ngắm và lắng nghe Mẹ Maria, chúng ta sẽ hiểu hơn sức mạnh
nâng đỡ và biến đổi của Bí tích Thánh Thể, và tìm lại được
niềm an ủi và nguồn sức mạnh để bước theo Chúa Kitô và phục
vụ Ngài trong anh chị em.
Liên quan đến đời
sống độc thân linh mục đang “bị thế giới của thời đại chúng
ta nghi ngờ giá trị và cho là không thể giữ được”, Đức
Phaolô VI cậy dựa vào lòng sùng kính nồng nhiệt và tỏa sáng
đối với Mẹ Maria. Lòng đạo đức này của chúng ta sẽ
mang chúng ta “đến nguồn suối của đời sống thiêng liêng đích
thực, mà chỉ nó mới là nền tảng vững chắc cho việc giữ luật
độc thân.”
Vâng, chọn lựa độc
thân linh mục của chúng ta cần được đặt nơi trái tim Mẹ
Maria. Chúng ta hãy chạy đến cùng Mẹ, khi gặp khó khăn trên
con đường đã chọn. Là trinh nữ và là mẹ, Mẹ Maria hiểu rất
rõ trái tim linh mục chúng ta cần gì, và Mẹ biết làm thế nào
để giữ cho chúng ta được trung thành với lời cam kết của
mình, nhất là đối với các linh mục giáo phận sống giữa lòng
đời hôm nay sao cho “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.”
Chúng ta sẽ tìm được ẩn náu an toàn nơi Mẹ Maria, người Mẹ
trên trời của chúng ta. Mẹ sẽ giúp chúng ta thăng hoa trái
tim và con mắt, để nhìn thấy Mẹ ở trong và qua những người
con gái của Thiên Chúa quanh chúng ta. Chúng ta kêu xin Mẹ
bảo vệ và biến đổi chúng ta và những ai thân thiết với chúng
ta, như Thánh Phaolô đã khuyên nhủ Timôtê “coi các phụ nữ
lớn tuổi như mẹ và những người trẻ như chị em.”
“Linh mục sẽ
không thiếu sự chở che, nâng đỡ của Mẹ Chúa Giêsu.”
Nhờ lời chuyển cầu của Mẹ, Chúa Thánh Thần sẽ gìn giữ sự độc
thân trong trắng của linh mục như Ngài đã làm cho Mẹ Maria
và Thánh Giuse. Vì thế, Đức Phaolô VI đã khuyên nhủ: “Anh
em hãy hướng
con mắt và trái tim, với niềm tín thác được đổi mới và lòng
cậy trông con thảo, về Mẹ rất yêu dấu của Chúa Giêsu và Mẹ
của Hội Thánh, và hãy kêu xin sự cầu bầu vạn năng và hiền
mẫu của Mẹ cho chức linh mục Công giáo.”
Có một việc thật đơn giản nhưng rất quan
trọng của lòng sùng kính Mẹ Maria là lần chuỗi Mân côi, một
bản Phúc Âm tóm tắt.
Các anh em linh mục trẻ nên giữ sống động thói quen lần
chuỗi Mân côi của các cha già và hãy khuyến khích giáo dân
của mình lần chuỗi, một mình khi đi đường tới trường học,
tới công sở, ra đồng ruộng, chợ búa… hoặc lần chuỗi chung
với người khác, theo nhóm hay hội đoàn trong giáo xứ, đặc
biệt là lần chuỗi tại nhà, trong gia đình, vì chuỗi Mân côi
sẽ đốt nóng và làm mạnh thêm mối giây ràng buộc giữa các
thành viên trong gia đình. Lời cầu nguyện này sẽ giúp chúng
ta được mạnh mẽ hơn trong đức tin, bền vững hơn trong đức
ái, kiên trì hơn trong niềm vui và hy vọng. Xin Mẹ
Maria giúp chúng ta
biết bắt chước ba nhân đức lớn của
Mẹ: Fiat, Xin Vâng
bằng cách chấp nhận luôn luôn và không dè dặt ý muốn của
Thiên Chúa; Magnificat,
Ca Ngợi bằng cách ca ngợi và cảm tạ
Chúa về các ơn lành lớn nhỏ mà Người ban cho,
và Stabat,
Đứng dưới chân thập giá bằng cách
sống nhẫn nại và bền đỗ trong
những thách đố và khó khăn của cuộc sống
hằng ngày cho hơi thở cuối cùng.
Theo gương mẫu
và kinh nghiệm của Đức Gioan Phaolô II, mỗi linh mục nên tận
hiến cho Mẹ Maria với lòng tin tưởng yêu mến, tìm trú ẩn nơi
sự che chở của Mẹ, biết rằng trong lúc khó khăn mình cũng
không cô đơn, vì Mẹ sẽ nâng đỡ ủi an bằng sự dịu dàng từ mẫu
của Mẹ. Chính Đức Gioan Phaolô II đã tận hiến cho Mẹ Maria
“Totus Tuus - Tất cả bản thân con là của Mẹ.” Ngài chia sẻ:
“Suốt cuộc đời tôi, tôi đã cảm nghiệm rõ sự hiện diện đầy
yêu thương của Mẹ của Chúa
chúng ta. Mẹ Maria đồng hành với tôi mọi ngày để giúp tôi
chu toàn sứ vụ là người kế vị Thánh Phêrô.”
Tôi đã mất mẹ sớm nên cũng cảm nhận và kinh nghiệm được sự
an ủi, che chở và đồng hành đầy yêu thương của Mẹ Lavang cho
đời linh mục của tôi: “Má mất nay được
Mẹ thay, chuỗi đời côi cút bớt cay bớt buồn, nhất là đêm
lạnh mưa tuôn, mưa tuôn ngoài phố mưa buồn trong tim.”
Ước mong tất cả các bạn linh mục đều có được kinh nghiệm
diễm phúc ấy.
D. II. Linh mục tương
quan với tha nhân
-
Tương quan với Đấng Bản Quyền
-
Tương quan với các linh mục đàn anh
-
Tương quan với các linh mục đàn em
-
Tương quan với các chủng sinh và các mầm non
ơn gọi
-
Tương quan với nữ giới nói chung
-
Tương quan với các nữ tu lớn tuổi và có
trách nhiệm
-
Tương quan với các nữ tu bằng tuổi và có
trách nhiệm
-
Tương quan với các nữ tu trẻ
-
Tương quan với các đệ tử và mầm non ơn gọi
tu sĩ
-
Tương quan với giáo dân nói chung
-
Tương quan với Ban Hành Giáo
-
Tương quan với các đoàn thể
-
Tương quan với những người già cả, bệnh tật
và hấp hối
-
Tương quan với các góa phụ, nhất là các góa
phụ trẻ
-
Tương quan với giới trẻ
-
Tương quan với giới thiếu nhi
-
Tương quan với những người phục vụ trong nhà
xứ, nhất cô bếp
-
Tương quan với Chính Quyền
-
Tương quan với các tôn giáo bạn, nhất là các
vị lãnh đạo
-
Tương quan với lương dân.
-
Tương quan với giới giàu có
-
Tương quan với giới nghèo
Tương quan của chúng
ta với các người khác được gọi là tương quan liên nhân vị.
Có một thời người ta cho việc liên hệ của mình với Thiên
Chúa mới quan trọng, còn liên hệ với con người thì không mấy
quan trọng. Kết quả là linh mục tránh liên hệ gần gũi với
tha nhân, kể cả những người mình thi hành thừa tác vụ cho,
khiến luôn có một khoảng cách xa lạ thế nào ấy!
Những liên hệ với
con người chỉ được coi là vấn đề riêng tư. Kết quả là một số
linh mục có liên hệ trí thức và thiêng liêng với con người,
chứ không có liên hệ tình cảm và nhân bản, luôn giữ thái độ
xa cách và loại trừ. Và tình trạng có thể đưa tới bất cập
hay thái quá.
Tương quan liên nhân
vị là một chiều kích quan trọng của tình yêu của người độc
thân thánh hiến. Thánh Gioan chối bỏ khả năng kính mến Chúa
ở đâu thiếu vắng tình yêu con người. Ngài mặc nhiên nối kết
lòng kính mến Chúa với tình yêu con người. Ngài nhấn mạnh
rằng không thể kính mến Chúa được, nếu không có tình yêu con
người. Tình yêu Thiên Chúa là cốt lõi bên trong, còn tình
yêu con người là diễn tả bộc lộ ra bên ngoài.
Tình yêu Thiên Chúa là suối
nguồn, là nền tảng và động lực của tình yêu con người. Tình
yêu con người là sao chép, biểu lộ và diễn tả tình yêu Thiên
Chúa. Người không yêu thương cận nhân của mình thì không thể
biết Thiên Chúa, không thể kính mến Thiên Chúa được: “Nếu
một người nói rằng mình kính mến Thiên Chúa, nhưng lại ghét
anh em mình thì người ấy là kẻ nói dối. Vì người ấy không
thể kính mến Thiên Chúa, Đấng mà người ấy không thấy, nếu
người ấy không yêu thương người anh em của mình, người mà
người ấy thấy. Ai kính mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu
thương anh em”
Trong khi đi tìm
kiếm Thiên Chúa, thì chúng ta cũng phải đi qua tình yêu và
tình bạn nhân loại. Chính nhờ chúng ta cảm nghiệm tình yêu
nhân loại, chúng ta mới cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa.
Một số người trong chúng ta
chưa tiếp xúc được với tình yêu Thiên Chúa và chưa được tình
yêu Thiên Chúa tác động, vì chúng ta chưa thực sự tiếp xúc
với con người và chúng ta chưa để cho con người tiếp xúc với
chúng ta. Nếu chúng ta không yêu thương một con người khác,
mà chỉ kính mến Thiên Chúa, thì chúng ta chẳng yêu mến ai
cả. Nếu chúng ta chưa phải lòng con người, thì chúng ta chưa
thực sự phải lòng hữu thể thần linh: “Không thể có cảm
nghiệm về Thiên Chúa, nếu không được một cảm nghiệm về thế
giới làm trung gian. Cái làm trung gian cho cảm nghiệm về
Thiên Chúa chủ yếu là liên hệ của con người với những con
người khác.”
Tình Chúa và tình người luôn gắn kết với nhau. Những mối
liên hệ liên nhân vị là thánh thiêng tự bản chất và mạc khải
diện mạo của Thiên Chúa. Thái độ cá nhân “Tôi và Thiên Chúa”
hay “Tôi và Chúa Giêsu” mà không có liên hệ với con người là
xa lạ đối với ý thức Kitô giáo, và có nguy cơ phải đối diện
với câu hỏi của Thiên Chúa: “Em ngươi đâu?”
Linh mục được mời
gọi từ giữa cộng đoàn Dân Chúa nên phải trở thành một phần
của cộng đoàn Dân Chúa bao gồm những con người phục vụ lẫn
nhau. Nhờ những việc phục vụ này, linh mục thiết lập được
mối liên hệ tình yêu với Thiên Chúa và con người. Do đó,
cùng đích và cốt yếu của đời sống và sứ vụ linh mục hệ tại
việc cổ vũ những mối liên hệ quân bình, hài hòa và trưởng
thành với mọi thành phần của Dân Chúa, để cùng nhau đến với
Thiên Chúa.
Nhưng vì những việc
phục vụ có đặc điểm là liên hệ tình yêu, một số trong các
liên hệ với con người có thể dẫn đến chỗ vi phạm độc thân
thánh hiến, nhất là trong bối cảnh tục hóa, buông thả và
hưởng thụ ngày nay. Do đó, linh mục triều phải rất thận
trọng trong các liên hệ của mình, vì luôn luôn có nguy cơ
liên quan đến liên hệ.
Do có những nguy cơ liên quan
đến những liên hệ của linh mục, nên một số người trong chúng
ta tránh xa con người và những mối liên hệ, và để hết tâm
trí vào công việc, thậm chí trở thành những người tham công
tiếc việc, coi công việc hơn con người đang cần đến tấm lòng
và sự chăm sóc mục tử của mình.
Tâm lý tham
công tiếc việc giữ chúng ta xa khỏi sự thách đố của những
liên hệ độc thân thánh hiến đích thực (không
có cám dỗ không có công nghiệp; chưa có cám dỗ chưa chắc đã
được bảo đảm),
và cũng làm cho sứ vụ chúng ta trở nên xa lạ và mất hiệu
quả. Khi tránh xa những liên hệ nhân bản thì chúng ta sẽ xơ
cứng và trở thành những người thực hiện, những công chức,
những cỗ máy…
Chúng ta có thể thậm
chí tìm những bù trừ và thay thế dễ dãi để lấp vào chỗ những
liên hệ đích thực, như thích ăn nhậu, âm nhạc, báo chí, chim
cá kiểng, truyền hình v.v… Những thứ đó dễ hơn nhiều so với
nỗ lực thiết lập những mối liên hệ tốt với con người.
Một số linh mục tránh liên hệ
và do đó trở thành những nhà trí thức lạnh lùng, thay vì
những con người có tình có nghĩa trong liên hệ. Chúng ta trở
thành những công chức thay vì những người phục vụ thân tình,
thấu cảm. Chúng ta trú ẩn vào việc làm chuyện này chuyện nọ,
vào xây cất, vào thành công, vào những lễ hội nọ cử hành
kia, vào địa vị và quyền lực. Tại buổi triều yết chung ngày
03.02. 2010, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI mời gọi “tất cả
những ai có vai trò làm cho sinh động và cai quản Giáo Hội”
đừng nhượng bộ ‘cám dỗ sự nghiệp và quyền bính’: “Chúng
ta đừng tìm kiếm quyền lực, uy tín, sự kính trọng cho chính
chúng ta. Trong cuộc đời các thánh nhân, tình yêu Chúa và
đồng loại, việc kiếm tìm vinh danh Chúa và sự cứu rỗi các
linh hồn luôn đi cùng với nhau”
Độc thân ‘vì Nước Thiên Chúa’
phải là cái gì xây dựng được những tương quan con người mạnh
mẽ. Cha Connolly nhận xét: “Giáo huấn truyền thống của
chúng ta về độc thân thánh hiến đã không xử lý vấn đề này
một cách tích cực hay sáng tạo. Nó mạnh mẽ can ngăn việc
phát triển bất cứ liên hệ con người nồng ấm nào, bên trong
hay bên ngoài cộng đoàn, và nhất là với bất cứ phần tử khác
phái nào. Nó dạy chúng ta yêu người, nhưng yêu trên tầm mức
phục vụ chung chung (quảng đại và dễ thương), chứ không để
hết tâm trí hay không có liên hệ cá nhân”
Việc phát triển liên
hệ con người là thiết yếu, vì không có những liên hệ ấy thì
người độc thân thánh hiến sẽ không cảm nghiệm được hạnh
phúc. Sự thiếu hạnh phúc này sẽ hạn chế chứng tá của mình
cho niềm vui được tìm thấy trong sự thông hiệp với Thiên
Chúa: Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn! Dân ngoại
đánh giá cộng đoàn kitô đầu tiên: “Xem kìa, họ thương
yêu nhau dường nào!”
và họ đã muốn sống như thế mà Đạo được phát triển lớn mạnh.
Không có việc phát
triển những liên hệ con người thì linh mục sẽ không là một
thừa tác viên hữu hiệu của sứ điệp Thiên Chúa và tình yêu
của Ngài được. Một người được kêu gọi đến đời sống độc thân
thánh hiến phải tìm kiếm sự thân mật với Thiên Chúa, và đồng
thời, người ấy phải gầy dựng sự thân mật với những con người
khác. Khi hai chiều kích của sự thánh thiện này vắng bóng
trong cuộc đời và thừa tác vụ của chúng ta thì khả năng nên
thánh của chúng ta cũng vắng bóng trong cuộc đời chúng ta.
Chính trong và nhờ các mối
liên hệ (với Chúa và với con người) mà chúng ta lớn lên
trong sự thánh thiện. Nhưng cũng chính trong và vì các mối
liên hệ với con người này mà chúng ta phải chiến đấu và có
khi vấp ngã, hoặc làm cho anh chị em mình phải chiến đấu và
vấp ngã. Trong chuyện này, chúng ta sẽ noi gương xử sự của
thánh Phaolô là cất cớ để cho anh em khỏi phải sa ngã.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Linh Đạo Đời Hôn Nhân - MỘT NỀN TU
ĐỨC CHO BẬC HÔN NHÂN
|
Tác phẩm: Cẩm Nang Hạnh Phúc Gia Đình
Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Tác
giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)
B1. Linh Đạo Đời Hôn Nhân - MỘT
NỀN TU ĐỨC CHO BẬC HÔN NHÂN
Kể từ sau Công Đồng Vaticanô
II, việc nên thánh không còn được xem là độc quyền của một
số thành phần ưu tuyển trong Giáo Hội, nhưng đó là ơn gọi
chung của tất cả những ai đã chịu phép rửa. Để nói lên tính
cách phổ quát của ơn gọi và bổn phận nên thánh, trong những
thập niên gần đây, Giáo Hội đã tôn phong chân phước hoặc
hiển thánh cho rất nhiều người sống bậc vợ chồng. Vì thế,
khi nói đến một nền tu đức cho bậc vợ chồng, chúng tôi muốn
hiểu đó là một con đường mà các đôi vợ chồng phải đi qua để
đạt đến sự trọn lành trong bậc sống của họ. Đó là con đường
giúp họ thực hiện ơn gọi đặc thù trong bậc vợ chồng.
1.
Với kiểu nói một nền tu đức cho bậc vợ chồng, phải chăng
có một nền tu đức dành riêng cho họ? Công Đồng Vaticanô II chẳng
nói đến một ơn gọi nên thánh chung dành cho mọi người chịu phép
rửa sao?
Quả thực, tất cả mọi người đều
được mời gọi và có bổn phận phải nên thánh, nhưng do sự khác
biệt của cá tính cũng như địa vị, bậc sống và cảnh huống, nên có
muôn nghìn con đường để sống ơn gọi nên thánh. Ngày nay, người
tín hữu Kitô không thể mô phỏng cuộc sống của các tín hữu thời
tiên khởi và ngay cả chính nếp sống của Chúa Giêsu, tức là nếp
sống của một thời đại cách chúng ta hơn 2000 năm.
Mỗi người có những điều kiện sống
riêng, nên không thể không có những phương thế thực hiện ơn gọi
nên thánh không giống những người khác. Một vị ẩn tu trong sa
mạc có lối sống hay có nền tu đức khác với nhà truyền giáo. Một
nữ tu trong dòng kín có lối sống và nền tu đức khác với một
người mẹ trong gia đình. Có một cốt lõi chung cho mọi người là
phép rửa. Nhưng những phương thế thực hiện cốt lõi ấy lại khác
nhau đối với từng người.
một niềm tin duy nhất hướng dẫn cuộc lữ hành, nhưng có
nhiều cách thế khác nhau để sống cùng một niềm tin ấy. Do những
điều kiện sống hoặc do những đặc sủng khác nhau, mỗi người có
thể có một cách thế nên thánh riêng cho mình.
Chúng ta có thể nhìn vào vô số các
dòng tu trong Giáo Hội để hiểu được sự khác biệt ấy. Người ta
nói đến nền tu đức của Dòng Tên, Dòng Phanxicô, Dòng Đaminh,
Dòng Biển Đức, v.v.. có bao nhiêu dòng tu thì có bấy nhiêu nền
tu đức. Chúng ta có thể nói, có bao nhiêu hoàn cảnh sống thì có
bấy nhiêu nền tu đức. Sống và thực thi ơn gọi nên thánh trong
những điều kiện và hoàn cảnh đặc biệt; thiết tưởng, các đôi vợ
chồng cũng có một cách thế nên thánh hoặc một nền tu đức riêng
của họ.
2.
Trong số 56 của Tông Huấn về Đời sống hôn nhân và gia
đình, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khẳng định: “Ơn gọi
nên thánh phổ quát cũng được ngỏ đối với các đôi vợ chồng và các
bậc cha mẹ Kitô hữu, ơn gọi này được nêu bật trong bí tích Hôn
Phối và được thực hiện một cách cụ thể trong thực tế của cuộc
sống hôn nhân”. Từ đó phát sinh ơn thánh và sự đòi hỏi phải
có một nền tu đức đích thực và sâu xa cho hôn nhân và gia đình.
Để hiểu thế nào là một nền tu đức
dành riêng cho các đôi vợ chồng, thiết tưởng chúng ta không có
một nền tảng nào vững chắc hơn giáo huấn của Công Đồng Vaticanô
II. trong số 40
của Hiến Chế về Mầu nhiệm Giáo Hội, Công Đồng đã dạy: “Tất cả
mọi tín hữu dù thuộc địa vị hay bậc sống nào, đều được kêu gọi
tiến đến sự viên mãn của đời sống Kitô và sự trọn lành của Đức
Ái”.
Khẳng định trên đây của Công Đồng
là sự lặp lại chính mệnh lệnh của Chúa Giêsu: “Các con hãy
nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành”.
Trở nên trọn lành tức là nên thánh. Điều đó cũng có nghĩa là thể
hiện ơn gọi làm người. Tất cả mọi người đều được kêu gọi. Không
ai có thể nói mình được chọn hoặc bị Thiên Chúa đặt vào trong
một điều kiện xấu hơn hay ưu đãi hơn. Không ai sinh ra dưới một
ngôi sao xấu hay tốt hơn người khác. Và cũng không có địa vị,
bậc sống này cao trọng hơn địa vị hay bậc sống khác.
3.
Nhân một buổi tiếp kiến chung năm 1982, Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II đã khẳng định trong một bài huấn đức: “Những
lời dạy của Chúa Giêsu không hề có một chút hàm ý nào về sự thấp
hèn của hôn nhân. Những lời của Người không đưa ra bất cứ một
luận cứ nào về sự thấp hèn của bậc hôn nhân hay về sự trổi vượt
của bậc đồng trinh hay độc thân”.
Cũng trong Hiến Chế về Mầu Nhiệm
Hội Thánh, Công Đồng Vaticanô II không ngần ngại gọi tất cả tín
hữu là những người được thánh hiến. Trong số 41 của cùng một văn
kiện, Công Đồng dạy rằng: “Trong và nhờ cảnh huống, bổn phận
và hoàn cảnh sống của mình, mọi Kitô hữu ngày càng được thánh
thiện hơn nếu biết tin tưởng lãnh nhận mọi sự từ tay Cha trên
trời, và biết cộng tác với ý Thiên Chúa bằng cách tỏ lộ cho mọi
người biết tình yêu của Ngài đối với thế giới trong chính việc
họ phục vụ trần thế”.
Những dòng trên đây của Công Đồng
giúp chúng ta hiểu được sự cần thiết phải có một nền tu đức
riêng cho đời sống vợ chồng. Các đôi vợ chồng đạt đến sự thánh
thiện nhờ và trong chính bậc sống của họ. Tự nó, bậc hôn nhân là
một mô thức sống đức ái. Nó có những tiện lợi và bất tiện của
nó. Nó có những ơn riêng và những nguy hiểm của nó. Nó có thể
tạo thành thiên đàng mà cũng có thể là hoả ngục.
còn tiếp
|
VỀ MỤC LỤC |
|
SINH TỐ
|
Sinh tố là những
chất hữu cơ cần thiết cho sự tăng trưởng và duy trì sức khỏe cơ
thể. Sinh tố góp phần điều hành chức năng của các cơ quan, bộ
phận trong người.
Tên tiếng Anh của
Sinh Tố là Vitamin, có nguồn gốc tiếng La Tinh “vita” có nghĩa
là đời sống và amino là chất dinh dưỡng cần thiết. Hầu
hết các sinh tố cần phải được cung cấp từ thức ăn, vì cơ thể con
người không thể tổng hợp được, trừ hai sinh tố D và sinh tố K.
Điều may mắn là trong thực phẩm có đủ các loại sinh tố.
Mặc dù ta chỉ cần
một lượng sinh tố rất nhỏ nhưng lượng nhỏ đó giữ vai trò rất
quan trọng cho sự sinh tồn của cơ thể. Không có sinh tố thì
những sinh vật cao cấp như loài người, không thể tồn tại.
Công dụng
Sau đây là một số
công dụng của sinh tố:
- Góp phần vào việc
cấu tạo tế bào máu, xương và răng.
- Điều hành có hiệu
quả những chức năng của tim và hệ thần kinh, tăng cường thị lực
của mắt.
- Giúp cơ thể biến
thực phẩm thành năng lượng.
- Giữ vai trò xúc
tác trong các hệ thống sinh hóa và có nhiệm vụ biến năng lượng
để giúp các tế bào và các mô hoàn hành các chức năng rất cần
thiết cho sức khỏe của con người;
- Ngoài ra, sinh tố
còn có tác dụng hỗ trợ cơ thể sử dụng các khoáng chất, chất đạm,
chất bột đường và nước.
Phân
loại
Có 13 loại sinh tố
chính. Đó là sinh tố A, C, D, E, K và 8 sinh tố thuộc nhóm B như
B1 (thiamin), B2 (riboflavin), B3 (niacin) , B5 (pantothenic
acid) , B6 (pyridoxine), B12 cobalamin), folacin (acid foli) và
biotin.
Đặc biệt, sinh tố
A vừa có trong các thực phẩm từ động vật như thịt, trứng lại
cũng có ở dạng gọi là caroten trong thực vật. Khi được đưa vào
cơ thể, caroten biến thành sinh tố A. Caroten có nhiều trong cà
rốt, rau xanh, cà chua .. Caroten còn là một chất chống oxy hóa
rất hữu hiệu.
Ngoài ra còn một số
chất không là sinh tố nhưng có các chức năng gần giống như sinh
tố ( vitaminlike substances). Chẳng hạn như bioflavonoid,
carnitine, coenzyme, inositol.
Có hai nhóm sinh
tố. Nhóm hòa tan trong chất béo như các sinh tố A, D, E, và K
và nhóm hòa tan trong nước gồm có sinh tố C và các sinh tố B.
Sự phân biệt này
rất quan trọng vì cơ thể tồn trữ sinh tố hòa tan trong chất béo
ở gan và mô béo tương đối lâu hơn, cho nên tình trạng thiếu hụt
các sinh tố nhóm này chậm xẩy ra. Còn những sinh tố hòa tan
trong nước chỉ tồn tại một thời gian ngắn trong cơ thể và cần
được bổ sung thường xuyên để tránh các bệnh gây ra do thiếu
những sinh tố nhóm này
Đa số sinh tố dễ bị
sức nóng và ánh sáng hủy hoại. Do đo, trong quá trình tồn trữ và
nấu nướng thực phẩm, một số sinh tố bị mất đi. Sự mất mát càng
lớn khi thực phẩm được tồn trữ dưới ánh sáng, sức nóng hoặc
không được ướp lạnh, cất giữ đúng cách.
Sinh tố hòa tan
trong chất béo có đều ổn định hơn sinh tố hòa tan trong nước khi
thực phẩm được nấu nướng. Ví dụ, khi đun sôi thì lượng sinh tố
hòa tan trong nước bị phân hủy trong nước nóng, cho nên muốn duy
trì lượng sinh tố này thì không nên nấu quá lâu và chỉ nên nấu
với ít nước.
Mỗi sinh tố có
nhiệm vụ riêng của nó. Trong một số trường hợp, vài loại sinh tố
có tác dụng tương hỗ nhưng không thể thay thế cho nhau.
Ví dụ:
-
Sinh tố D có hiệu
quả tốt hơn nếu dùng chung với sinh tố A.
-
Cặp sinh tố D và A
hoạt động tốt hơn nếu có sự hiện diện của sinh tố B;
-
Sinh tố E được tăng
hiệu năng khi đi chung với cặp sinh tố D và A;
-
Sinh tố C có ảnh
hưởng đến tác dụng của sinh tố A;
-
Khi thiếu sinh tố
B1 thì sự hấp thụ những sinh tố khác trong cơ thể gặp trở ngại.
Mặc dầu cơ thể cần
sinh tố, nhưng sinh tố không thể thay thế thực phẩm. Nếu thay
thế được thì người ta đã không cần những bữa ăn rườm rà, thịnh
soạn mà chỉ cần uống vài viên sinh tố.
Không có thực phẩm
thì sinh tố không được cơ thể hấp thụ vào các hệ thống sinh hóa
để làm nhiệm vụ biến năng . Do đó, nếu cần dùng thêm sinh tố thì
nên uống vào bữa ăn.
Sinh tố không cung
cấp năng lượng (calori) và không có khả năng tự nó làm tăng
trưởng cơ thể như các chất đạm, chất
béo, carbohydrate, khoáng chất và nước.
Sau đây là số lựong
đựơc khuyến cáo nên tiêu dùng hàng ngày qua thực phẩm để có sức
khỏe tốt
Sinh tố A: Nam giới 1000mcg/ ngày; nữ giới 800 mcg/ngày
Sinh tố D: 10mcg;
Sinh tố E: nam
10mg; nữ 8 mg;
Sinh tố K: nam
70-80mcg, nữ: 60-65mcg;
Sinh tố C : nam
90mg; nữ 75mg.
Sinh tố Thiamin B1:
nam 1,2-1,5 mg; nữ 1-1,1mg;
Sinh tố Riboflavin
B2 : nam 1,3mg; nữ 1,1mg;
Sinh tố Niacin B3:
nam 16mg; nữ 14mg;
Panthothenic acid:
5mg;
Sinh tố B6: 1,3-1,7
mg;
Folate: 400 mcg;.
Sinh tố B12:
2,4mcg/ngày
Mcg là 1/1000 mg.
Áp dụng
thực
tế
- Tại Hoa Kỳ, sinh
tố bán trên thị trường dược xếp vào nhóm “thực phẩm bổ sung”
(dietary supplement), tương tự các thành phần thực phẩm khác
như khoáng chất, thảo mộc, enzym…và đựoc coi như thực phẩm chứ
không phải là dược phẩm. Vì không là dựoc phẩm, sinh tố không
chịu sự kiểm soát của Cơ quan Thực Dựoc Phẩm về phẩm chất cũng
như công hiệu. Do đó nên dè dặt lựa chọn, đừng quá tin tưởng vào
lời quảng cáo không có căn bản khoa học của nhà sản xuất.
- Nên tránh tiêu
thụ liều lượng quá cao (mega dose) nếu chưa có ý kiến của bác sĩ
hoặc chuyên viên dinh dưỡng, vừa tốn tiền vừa lãnh hậu quả có
hại. Chẳng hạn, dùng đúng hướng dẫn, sinh tố A giúp thị giác
tốt, nhưng nếu dùng quá nhiều thì thị giác lại kém đi.Ngoài ra
dùng quá nhiều một sinh tố có thể gây ra mất cân bằng hoặc tương
tác giữa các chất này.
- Phân biệt sinh tố
tự nhiên từ thực phẩm với sinh tố tổng hợp trong phòng thí
nghiệm. Sinh tố tổng hợp thường rẻ hơn; chỉ có một loại sinh tố
cho nên có thể thiếu vài yếu tố do tạo hóa cung cấp; có một vài
chất mà nhà sản xuất cho thêm vào để ổn định sản phẩm và có thể
gây ra vài rối loại nhỏ cho cơ thể.
- Những người sau
đây cần tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi dùng thêm sinh tố: phụ
nữ đang mang thai hoặc cho con bú; trẻ em và người cao tuổi;
người đang có bệnh kinh niên hoặc đang dùng các dược phẩm trị
bệnh.
- Không nên nghĩ là
sinh tố có khả năng trị dứt bệnh, ngoại trừ trong bệnh phù
beriberi do thiếu thiamin hoặc bệnh sưng chẩy máu nớu răng do
thiếu sinh tố C. Trong 2 bệnh này, bổ sung sinh tố B1 và C giải
quyết đựoc vấn đề.
- Khi mua, nên đọc
kỹ nhãn sản phẩm trong đó có ghi rõ thành phần các sinh tố với
liều lựong, cách dùng.
- Và luôn luôn hỏi
ý kiến bác sĩ trước khi định dùng thêm sinh tố, dược thảo..
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức M.D.
Texas-Hoa Kỳ
|
VỀ MỤC LỤC |
Lời Nguyện Cầu - Chuyện phiếm của Gã
Siêu |
Sáng hôm nay, gã nhận được mấy cái “meo”
của những người bạn phương xa, gửi về cho gã những bài thơ, được
lượm lặt từ chỗ này hay chỗ kia trên mạng. Tiếc rằng những người
bạn ấy đã không ghi xuất xứ của những bài thơ, nên gã không thể
liên hệ được với các tác giả. Vì vậy nơi đây, gã xin được sử
dụng những bài thơ ấy cho mục chuyện phiếm này. Chân thành cám
ơn các tác giả lắm lắm.
Bài viết được bắt đầu bằng tâm sự của một
ông già cô đơn, mà có lần gã đã kể cho bàn dân thiên hạ cùng
nghe.
Vào một buổi sáng Chúa nhật đẹp trời, đám
trai làng không biết phải làm gì, nên đã xúm lại “cà kê dê
ngỗng” với một ông già:
- Tại sao bác không lập gia đình?
Như được gãi đúng chỗ ngứa, ông ta bèn kể
lể về cuộc đời ba chìm bảy nổi chín cái lênh đênh của mình:
- Tôi đã dành trọn thời gian của tuổi thanh
xuân để tìm kiếm một người đờn bà hoàn hảo. Tại Cairô, thủ đô
nước Ai Cập, tôi đã gặp một người đờn bà vừa trẻ đẹp lại vừa
thông minh, nhưng rất tiếc người đờn bà này chẳng có được một
chút dịu hiền, nàng hung dữ như con cọp cái.
Tôi đành bỏ Cairô mà tìm đến Bagdah, thủ đô
nước Irak, với hy vọng tìm ra người đờn bà lý tưởng của lòng
mình. Tại đây, tôi đã gặp một người đờn bà đúng như lòng mong
ước. Nàng vừa trẻ đẹp lại vừa thông minh, vừa quảng đại lại vừa
dịu hiền. Chỉ kẹt một nỗi, đó là hai đứa chúng tôi chẳng bao giờ
nhất trí được với nhau về bất cứ chuyện gì. Hễ ngồi tâm sự với
nhau là bắt đầu cãi vã, ông nói gà bà nói vịt, trống đánh xuôi
kèn thổi ngược. Vì thế, tôi đành phải chào thua.
Và như vậy, hết người đờn bà nọ tới người
đờn bà kia. Kẻ được điều này, người mất điều khác. Tôi như kẻ
đốt đuốc đi tìm người yêu lý tuởng, mà dường như chẳng bao giờ
thấy.
Thế rồi một hôm tôi gặp được nàng, người
đờn bà của mơ uớc. Nàng đã kết hợp được tất cả những đức tính mà
tôi thầm vẽ ra trong đau óc. Vừa trẻ đẹp lại vừa thông minh, vừa
quảng đại lại vừa dịu hiền, vừa tế nhị lại vừa ăn ý với tôi ngay
cả trong những điều nhỏ mọn nhất. Nhưng cuối cùng, tôi vẫn cứ
phải gân cổ lên mà ca solo, cam chịu cảnh chăn đơn gối chiếc
suốt đời. Các bạn có biết tại sao không?
Trong lúc mọi người suy nghĩ, ông già cô
đơn đáng thương khẽ kéo một hơi thuốc lào, rồi kể tiếp:
- Sở dĩ như vậy là vì người đờn bà ấy cũng
đang đi tìm một người đờn ông lý tưởng. Và thật chẳng may cho
tôi, bởi vì dưới mắt nàng, tôi chỉ là một thằng đờn ông tồi với
biết bao nhiêu thói hư tật xấu.
Rồi ông già cô đơn đã khuyên nhủ cánh trẻ
với một cung giọng hơi bị cay cú :
- Đi tìm một người yêu lý tưởng, một người
tình hoàn hảo chỉ là một việc làm hão huyền và vô ích mà thôi,
bởi vì người yêu lý tưởng và người tình hoàn hảo ấy làm gì tồn
tại được trên trái đất này. Nhân vô thập toàn. Đã mang lấy thân
phận con người, ai mà chẳng có những sai lỗi và khuyết điểm.
Tâm sự của ông già cô đơn trên đây đã được
một anh bạn trẻ dệt thành bài thơ, như một lời nguyện cầu tha
thiết:
- Con quì lạy Chúa trên trời,
Cho con kiếm vợ như người trong mơ.
Thế rồi anh ta liệt kê một ruỗi những tiêu
chuẩn được đặt ra trong đầu óc, để rồi vẽ nên một mẫu người yêu
lý tưởng của mình:
- Phải đẹp gái,
Không kiêu sa.
Thích ở nhà,
Lo nội trợ.
Không cắc cớ,
Chửi chồng con.
Không phấn son,
Không nhiều chuyện.
Không hà tiện,
Không cằn nhằn.
Phải siêng năng,
Không lười biếng,
Nói nhỏ tiếng,
Biết chiều chồng.
Giỏi nữ công,
Biết gia chánh.
Biết làm bánh,
Nấu ăn ngon.
Biết dạy con,
Cư xử tốt.
Không quá dốt,
Không quá khôn.
Không ôm đồm,
Không uỷ mị.
Không thiên vị,
Không cầu kỳ.
Không quá phì,
Không quá ốm.
Không dị hợm,
Không chanh chua.
Không se sua,
Không bẻm mép.
Không bép xép,
Không phàn nàn.
Nghe xong cả lô những tiêu chuẩn trên, vừa
quá cao lại vừa quá nhiều, Thiên Chúa, mặc dấu toát cả mồ hôi
hột, cũng vẫn phải mỉm cười vì cái tính tham lam của anh chàng,
nên Ngài liền phán:
- Chẳng có đâu,
Đừng tìm kiếm.
Sở dĩ như vậy là vì nhân vô thập toàn, ai
cũng có những sai lỗi khuyết điểm của mình. Vì thế, cần phải
chấp nhận một sự tương đối nào đó, thì tình yêu mới có cơ may
nảy mầm, lớn lên, đâm bông và kết trái.
Thế nhưng, chính sự tương đối này nhiều lúc
đã tạo nên những nhức nhối và đớn đau, chỉ vì người ta không ý
thức và không chịu khó uốn nắn sửa đổi lai những sai lỗi, khuyết
điểm của mình:
- Con quì lạy Chúa trên trời,
Sao cho con trốn được người con yêu.
Rằng con thiếu nợ đã nhiều,
Nàng còn mua sắm đủ điều Chúa ơi!
Con cày hai “dóp” hụ hơi,
Người con yêu lại đua đòi chơi xe.
Bảo gì con cũng phải nghe,
Nếu con cãi lại là te tua đời.
Trước đây con tưởng gặp thời,
Chúa ban con được một người con yêu.
Giờ đây thân xác tiêu điều,
Đời con phải chịu rất nhiều đắng cay.
Thân con chẳng khác trâu cày,
Nợ nàng con trả dài dài chưa xong.
Con giờ như cá lòng tong,
Sụt ba chục ký, ốm nhom, rã rời.
Thế mà đâu hết nợ đời,
Nấu cơn, rửa chén, còn ra nỗi gì.
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Để cho khổ thế còn gì là xuân.
Chúa ơi, con khổ vô ngần,
Chúa mà không giúp là thân con tàn.
Con đang thiếu nợ trăm ngàn,
Nhìn đồ nàng sắm hai hàng lệ rơi.
Con quì lạy Chúa trên trời,
Giúp cho con trốn được người con yêu!
Than thở hay thở than là vậy, nhưng làm sao
mà trốn được người mình yêu, làm sao mà rời bỏ chiếc xương sườn
cụt của mình cho được, bởi vì truyền thuyết đã kể lại rằng:
Thuở ban đầu, người đàn ông chỉ trơ trui
một mình. Vừa đơn độc lại vừa buồn phiền. Thượng đế lấy làm tội
nghiệp, Ngài bèn dùng một chút dịu dàng của hoa lan, một chút
xinh đẹp của hoa hồng và một chút tinh khiết của hoa huệ. Tất cả
được trộn lẫn vào nhau. Nhưng chưa đủ. Ngài còn hoà vào hợp chất
này một chút tinh ranh của con khỉ già, một chút độc ác của con
rắn hổ mang và một chút hung dữ của con sư tử. Tất cả được quyện
lẫn vào nhau mà tạo nên người đờn bà. Thượng đế trao cái khối
hợp chất kỳ diệu vá quái quỷ ấy cho người đờn ông. Kể từ đó,
người đờn ông không còn trơ trụi một mình nữa.
Nhưng rồi một buổi sáng u ám, người đờn ông
bỗng cảm thấy không còn chịu đựng nổi sự tinh ranh, độc ác và
hung dữ của cái hợp chất quái quỉ ấy, nên đã mang trả người đờn
bà lại cho Thượng đế. Thế là cuộc ly hôn đầu tiên đã xảy ra.
Giống như anh bạn trẻ đã cầu nguyện:
- Con quì lạy Chúa trên trời,
Xin xương xườn cụt hãy rời khỏi con.
Bao năm con đã chịu đòn,
Nhìn đi, Chúa thấy thân con teo dần.
Còn nàng lên cấp số nhân,
Chiều ngang tăng rõ chẳng cần phải cân.
Sáng nào nàng cũng phải cần,
Phở, mì hay bún mỗi lần ba tô.
Cơm trưa nàng nuốt không vô.
Chê con nấu dở toàn đồ không ngon.
Quán hàng lê đến gót mòn,
Từ trưa đến tối vừa tròn một tua.
Chúa ơi! Con chẳng dám đùa,
Cái xương sườn cụt to vừa cái chum.
Chúa quay nhìn xuống thử dùm,
Bên nàng như số kết chùm một không.
Cứ trông thấy tội kiếp chồng,
Hom hem bên cạnh bóng hồng khủng long.
Con quì xin Chúa rộng lòng,
Tha cho con thoát khỏi vòng tay ôm.
Trở lại với câu chuyện trên: Xa nhau chưa
đầy một con trăng, người đờn ông bỗng cảm thấy nhớ day nhớ dứt
cái vẻ dịu dàng, xinh đẹp và tinh khiết của cái hợp chất kỳ diệu
ấy, nên đã đến van nài Thượng đế để lấy lại người đờn bà của
mình.
Thượng đế cũng phải mỉm cười và trao trả.
Rồi từ đó, người đờn ông và người đờn bà sống đầm ấm và hoà
thuận với nhau. Nếu có bất đồng thì cũng chịu khó đóng cửa
mà…dạy nhau!!!
Kinh nghiệm của những người đang yêu cho
thấy: gần nhau thì những cấu với véo, còn xa nhau thì những
thương cùng nhớ. Vợ chồng nhiều lúc giống như những con nhím.
Thực vậy, nhím có nhiều loại. Loại sống ở
vùng nhiệt đới xứ nóng như chúng ta. Loại sống ở miền hàn đới xứ
lạnh. Nhưng dù loại nhím nào, thì cũng có một bộ lông thật cứng
và thật nhọn, mà khả dĩ người xưa có nơi đã dùng làm tên bắn.
Ở xứ lạnh, mùa đông tuyết phủ, những con
nhím phải nằm sát gần nhau cho ấm. Tuy nhiên, có cái phiền là
khi nằm sát gần bên nhau như vậy, thì bộ lông cứng và nhọn đó
lại đâm vào nhau, làm cho chúng đau đớn và khó chịu. Vì thế,
chúng lại rời ra xa.
Nhưng cũng chỉ được một lúc, vì lạnh quá
lạnh, chúng lại bò sát đến bên nhau. Dù có phai đâm vào nhau hay
dù có phải xa nhau, nhưng cuối cùng chúng vẫn cứ chịu khó tới
gần nhau. Và càng xa nhau, chúng lại càng cần nhau hơn.
Kinh nghiệm cũng cho thấy: Giữa người chồng
và người vợ nói riêng, cũng như giữa người đờn ông và người đờn
bà nói chung, vốn có vô số những khác biệt. Khác biệt từ hình
dong bên ngoài, đến tâm tính bên trong.
Tuy nhiên, những khác biệt này không phải
là để đối kháng và tiêu diệt lẫn nhau, như lửa với nước, hay như
ánh sáng và bóng tội. Trái lại là để bổ túc lẫn cho nhau. Người
nữ yếu, thì đã có người nam mạnh. Người nam nóng nảy và cộc cằn,
thì đã có người nữ dịu hiền và tế nhị. Vì vậy, họ phải nương tựa
vào nhau, cho dù đôi lúc trái tính trái nết và đâm chọc vào
nhau.
Trước ngưỡng cửa tình yêu, ai mà chẳng
nguyện cầu:
- Con quì lạy Chúa trên trời,
Xin cho con lấy được người con yêu.
Đó là một mơ ước thật chính đáng và cũng
thật hợp lý, bởi vì tình yêu là một cái gì rất cần thiết cho
cuộc sống hôn nhân và gia đình.
Tuy nhiên, tình yêu thuở ban đầu dù có thắm
thiết và mặn nồng đến đâu chăng nữa, thì cũng chỉ là một mầm
non mới nhú, cần phải được vun trồng và chăm sóc, bằng không nó
sẽ thui chột và tàn úa. Giống như ấm nước nóng mà đặt trên bếp
lạnh, chẳng bao lâu nó sẽ nguội dần.
Chính vì thế, gã thầm nghĩ, lời nguyện cầu
tha thiết mà những người đã bước vào cuộc sống lứa đôi phải dâng
lên Thiên Chúa trong suốt cả cuộc đời, đó là:
- Con quì lạy Chúa trên trời,
Cho con yêu được cái người con…lấy.
Đúng thế, yêu được người mình lấy mới thực
sự là điều quan trọng, mới thực sự là chiếc chìa khóa mở ra cánh
cửa hạnh phúc. Thực vậy, chúng ta thường nói:
- Bông hồng nào mà chẳng có gai, cuộc đời
nào mà chẳng có những đắng cay của nó. Và thập giá là như một
cái gì gắn liền với thân phận con người.
Hơn thế nữa, đời không như là mơ, bởi vì
đời thường có nhiều gian nan và cay đắng. Kể từ ngày bước vào
hôn nhân, chúng ta mới thấy ở phía trước có trước có biết bao
nhiêu bổn phận và trách nhiệm, biết bao nhiêu lo âu và vất vả.
Rồi như tục ngữ cũng đã nói :
- Thức lâu mới biết đêm dài.
- Có ở trong chăn mới biết chăn có rận.
Có sống gần nhau chúng ta mới khám phá ra
những sai lỗi khuyết điểm của nhau. Chính những sai lỗi khuyết
điểm ấy đã làm cho chúng ta bực bội và buồn phiền không ít.
Trong một cái bối cảnh đầy mầu xám ảm đạm
ấy, nếu chúng ta không yêu được người mình đã lấy thì quả thực
là bi đát, không chừng sẽ kết thúc bằng cách :
- Anh đi đường anh, tôi đi đường tôi và
tình nghĩa đôi ta chỉ có thế thôi. Đành bó tay, mất cả chì lẫn
chài, mất cả vốn lẫn lãi.
Đành cúi đầu thở dài nhìn đời mình bị phá
sản tiêu tan.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|