Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 148, Chúa Nhật 03.07.2011


MỤC LỤC 

Những Nguyên Tắc Hướng Dẫn Toàn Bộ Ðời Sống Kinh Tế Xã Hội                        Vatican 2

PHÁT TRIỂN ƠN GỌI TRUYỀN GIÁO TRONG MỘT GIÁO XỨ          J.B. Nguyễn Quốc Tuấn

LINH ĐẠO THỜI NAY (1)                                                           THIÊN PHONG chuyển ngữ

Chiếc bánh thứ nhất: Sống phút hiện tại                                 ĐHY. PX. Nguyễn Văn Thuận

NGỤ NGÔN THỜI BẤN LOẠN (KỲ 25)                                       Gioan Lê Quang Vinh, VRNs

Căntính và phậnvụ người TínHữu GiáoDân trong Giáohội và giữa Trầnthế (1) Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

QUAN NIỆM VỀ PHÁI TÍNH (3)                                                      Lm Lê Văn Quảng Psy.D.

ÂM MƯU MỚI                                                                                                Br. Huynhquảng

Linh mục Giáo phận sống sứ vụ trong các mối tương quan        Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy, pss.

ĐỨC VÂNG PHỤC GIỮA VỢ CHỒNG                                                  Lm. Minh Anh biên tập

HIẾN THÂN XÁC CHO Y KHOA HỌC                                                     Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

VỢ CHỒNG NHÍ -                                                                        Chuyện phiếm của Gã Siêu


Những Nguyên Tắc Hướng Dẫn Toàn Bộ Ðời Sống Kinh Tế Xã Hội

 

Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay

Gaudium Et Spes

 

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

Phần Thứ Hai

Chương III

Ðời Sống Kinh Tế Xã Hội

 

Ðoạn 2: Những Nguyên Tắc Hướng Dẫn Toàn Bộ Ðời Sống Kinh Tế Xã Hội

67. Việc làm, những điều kiện làm việc và giải trí. Việc làm của con người trong công cuộc sản xuất và trao đổi sản phẩm hay cung ứng dịch vụ kinh tế có giá trị hơn các yếu tố khác của đời sống kinh tế, vì các yếu tố đó chỉ có giá trị như dụng cụ.

Thực thế, việc làm này hoặc làm cho chính mình hoặc làm mướn đều trực tiếp phát xuất từ con người. Con người gần như in vào thiên nhiên dấu vết của mình và bắt thiên nhiên phải tùng phục ý muốn của mình. Nhờ việc làm, con người theo lệ thường nuôi sống mình và gia đình, liên kết với anh em và phục vụ họ, có thể thực thi bác ái đích thực và góp công vào việc kiện toàn công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa. Hơn nữa chúng tôi cho rằng nhờ việc làm của mình, con người cộng tác vào chính công cuộc cứu rỗi của Chúa Giêsu Kitô, Ðấng đã nâng cao giá trị của việc làm khi Người làm việc với chính hai bàn tay của mình tại Nazareth 78*. Do đó, mỗi người có bổn phận phải trung thành làm việc và cũng có quyền làm việc nữa 79*. Trong những hoàn cảnh cụ thể, chính xã hội cũng có bổn phận góp phần giúp người công dân có thể tìm được công ăn việc làm. Sau cùng, tùy theo phận vụ và năng suất của mỗi người cũng như tình trạng của xí nghiệp và công ích 6, việc làm cần phải được trả lương sao cho con người có đủ khả năng xây dựng cho mình và gia đình một đời sống xứng hợp cả về phương diện vật chất, xã hội, văn hóa cũng như tinh thần 80*.

Hoạt động kinh tế thường là kết quả của việc hợp tác giữa nhiều người. Do đó, nếu tổ chức và điều hành hoạt động này làm thiệt hại cho bất cứ lớp công nhân nào thì đều là bất công và vô nhân đạo. Ngay cả ngày nay, điều thường xảy ra là công nhân trở thành nô lệ cho chính việc làm của mình. Ðiều ấy không thể được biện minh bằng bất cứ luật kinh tế nào. Bởi vậy, mọi phương thức sản xuất cần phải thích nghi với nhu cầu và lối sống của con người: trước hết thích nghi với đời sống gia đình, nhất là đối với người mẹ gia đình, và luôn luôn còn phải lưu tâm đến phái tính và tuổi tác. Hơn nữa, giới lao động cũng phải có cơ hội để phát huy tài năng và nhân cách ngay chính lúc làm việc. Họ phải dành thời giờ và sức lực cho công việc với tinh thần trách nhiệm phải có. Tuy nhiên, mỗi người cần được hưởng đầy đủ sự nghỉ ngơi và thời giờ nhàn rỗi để sống đời sống gia đình, văn hóa, xã hội và tôn giáo. Ngoài ra họ cũng cần phải có cơ hội để tự do thi thố tài nghệ và khả năng mà có lẽ trong công việc của nghề nghiệp họ ít có dịp để trau dồi.

68. Tham gia vào xí nghiệp, tổ chức kinh tế tổng quát, tranh chấp lao động. Hoạt động trong các xí nghiệp kinh tế là việc hợp tác giữa các nhân vị, đó là những con người tự do và tự lập, được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Bởi thế, khi đã tìm ra những phương thức thích hợp, cần phải cổ võ sự tham gia tích cực của mọi người vào việc quản trị xí nghiệp, tùy theo nhiệm vụ của mỗi người, hoặc họ là chủ nhân, chủ sự, hoặc là đốc công hay công nhân mà vẫn giữ được sự thống nhất cần thiết trong việc điều hành công việc 7. Nhiều khi không phải trong chính phạm vi xí nghiệp, nhưng trong những chương trình đại qui mô hơn, người ta đưa ra những quyết định về các tình trạng kinh tế và xã hội liên quan đến số phận tương lai của công nhân cũng như của con cái họ, nên họ cũng phải được tham dự vào những quyết định này hoặc chính họ hoặc qua những đại diện tự họ chọn lấy.

Giữa những quyền lợi căn bản của con người, đối với công nhân, cần phải kể đến quyền được tự do lập những hiệp hội để có thể thực sự đại diện cho họ và góp phần vào việc tổ chức đời sống kinh tế một cách tốt đẹp. Ngoài ra, cũng cần phải kể đến quyền tự do tham gia 81* vào hoạt động của những hiệp hội này mà không sợ bị trả thù. Nhờ lối tham gia có tổ chức như trên liên kết với việc huấn luyện dần dần về kinh tế và xã hội, mọi người càng ngày càng ý thức hơn về bổn phận và trách nhiệm của mình. Nhờ đó, tùy theo phương tiện và khả năng riêng, chính công nhân tiến tới mức cảm thấy mình được góp phần vào việc phát triển toàn bộ kinh tế và xã hội cũng như vào việc mưu cầu ích chung.

Trường hợp xảy ra những tranh chấp về kinh tế xã hội, cần phải cố gắng đi đến một giải quyết ôn hòa. Nhưng điều phải làm trước tiên là luôn luôn tìm cách tạo một cuộc đối thoại chân thành giữa các phe nhóm liên hệ. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh hiện tại, đình công, dầu là một phương tiện cuối cùng, song vẫn là phương tiện cần thiết để bênh vực những quyền lợi riêng và thỏa mãn những đòi hỏi chính đáng của công nhân 82*. Dù sao cũng cần phải tìm cách đưa tới thương thuyết và đối thoại hòa giải càng sớm càng hay.

69. Của cải trần gian là để cho mọi người hưởng dụng 83*. Thiên Chúa đã đặt định trái đất và mọi vật trên trái đất thuộc quyền xử dụng của mọi người và mọi dân tộc. Chính vì thế, của cải được tạo dựng phải được phân phối cho tất cả mọi người một cách hợp lý theo luật công bằng là luật đi liền với bác ái 8. Dù chấp nhận bất cứ hình thức tư hữu nào đã được nhìn nhận bằng các định chế hợp pháp của các dân tộc, tuy nhiên tùy theo hoàn cảnh khác biệt và thay đổi, phải luôn luôn lưu ý đến mục đích chung hưởng của cải. Vì thế, khi xử dụng của cải, con người phải coi của cải vất chất mà mình làm chủ một cách chính đáng không chỉ như của riêng mình, nhưng còn là của chung nữa: nghĩa là, của cải đó có thể sinh ích không những cho riêng mình mà còn cho cả người khác 9. Vả lại, mọi người đều có quyền có một phần của cải đầy đủ cho mình và cho gia đình mình. Các Giáo Phụ và các Tiến Sĩ Giáo Hội đã nghĩ như thế. Các ngài dạy rằng mọi người có bổn phận phải nâng đỡ người nghèo và không phải chỉ giúp đỡ bằng của dư thừa 10. Còn những người sống trong cảnh cùng quẫn cực độ, họ có quyền lấy ở của cải người khác những gì cần thiết cho mình 11. Trước con số quá lớn những người đói khổ trong thế giới, Thánh Công Ðồng thiết tha kêu gọi mọi người hoặc mọi chính quyền hãy nhớ laị lời sau đây của các Giáo Phụ: "hãy cho kẻ sắp chết đói của ăn, vì nếu không cho họ ăn tức là đã giết họ" 12. Tùy theo khả năng, họ nên thực sự san sẻ và dùng của cải của mình đặc biệt để giúp phương tiện cho mỗi người hoặc cả một dân tộc để chính họ có thể tự túc và phát triển.

Trong những xã hội kinh tế kém mở mang, đôi khi sự chung hưởng của cải được thể hiện đầy đủ phần nào là do những tập tục và truyền thống riêng của cộng đoàn xã hội, nhờ đó, mỗi phần tử được hưởng những của cải tối cần. Tuy nhiên điều nên tránh là đừng coi một số tập tục như thể hoàn toàn bất biến, nếu thực sự nó không còn đáp ứng những đòi hỏi mới của thời đại này. Ðàng khác, cũng đừng vì thiếu khôn ngoan mà hành động ngược lại những tập tục tốt đẹp, vì một khi được thích nghi với hoàn cảnh hiện đại, những tập tục này vẫn còn đem lại nhiều lợi ích. Cũng thế, ở những quốc gia kinh tế rất phát triển, một hệ thống gồm những tổ chức xã hội nhằm vào việc bảo hiểm và an ninh có thể góp phần giúp vào việc thực hiện sự chung hưởng của cải. Vả lại, cần phải cổ võ những dịch vụ gia đình và xã hội, nhất là những dịch vụ đóng góp vào văn hóa và giáo dục. Tuy nhiên khi thành lập mọi tổ chức trên cần phải lưu tâm đừng để người công dân có thái độ phần nào thụ động, hoặc trốn tránh trách nhiệm hoặc từ chối phục vụ xã hội.

70. Vấn đề đầu tư và tiền tệ. Công việc đầu tư cũng phải làm sao tạo được công ăn việc làm và đem lợi tức đầy đủ cho dân chúng trong hiện tại cũng như trong tương lai. Bất cứ ai nắm giữ vai trò chủ chốt trong những việc đầu tư này và trong việc tổ chức đời sống kinh tế - hoặc cá nhân, hoặc tập thể, hoặc công quyền - cũng phải chú tâm đến những mục tiêu trên, và phải ý thức bổn phận nặng nề của mình: một mặt phải sẵn sàng tiên liệu những nhu cầu cần thiết cho mỗi cá nhân hoặc cho cả cộng đoàn có một đời sống đàng hoàng; mặt khác họ cũng phải dự liệu cho tương lai và thiết lập quân bình đúng mức giữa những nhu cầu tiêu thụ hiện tại của cá nhân hoặc của đoàn thể và những đòi hỏi phải đầu tư cho thế hệ mai sau. Họ cũng phải luôn quan tâm đến những nhu cầu cấp bách của các quốc gia hay những miền kinh tế kém mở mang. Trong vấn đề tiền tệ cũng phải tránh sao cho khỏi nguy hại tới lợi ích của xứ sở mình cũng như của các quốc gia khác. Vả lại, cũng phải liệu sao cho những ai eo hẹp về kinh tế khỏi bị thiệt thòi một cách bất công vì những vụ thay đổi giá trị tiền tệ.

71. Tiến tới sở hữu và quyền tư hữu. Vấn đề ruộng đất. Quyền sở hữu 84* và những hình thức khác của quyền tư hữu trên của cải vật chất giúp cho con người biểu lộ nhân vị, tạo cho họ cơ hội làm tròn phận sự của mình trong xã hội cũng như trong lãnh vực kinh tế. Do đó, cần cổ võ mọi cá nhân cũng như mỗi đoàn thể tiến tới một chủ quyền nào đó trên của cải vật chất.

Quyền tư hữu cũng như quyền làm chủ của cải bảo đảm cho mỗi người một lãnh vực cần thiết để cá nhân và gia đình được tự trị. Các quyền này cũng phải được coi như nằm trong phạm vi quyền tự do của con người. Sau cùng, những quyền này còn là một điều kiện tạo nên tự do của người công dân, vì khuyến khích họ đảm trách và thi hành phận vụ của mình 13.

Ngày nay chủ quyền hoặc quyền tư hữu mặc nhiều hình thức khác nhau và sự khác biệt này ngày một gia tăng. Tuy nhiên không kể đến những tài sản của xã hội, những quyền lợi và phục dịch mà xã hội dành cho, tất cả những hình thức sở hữu đó làm cho con người được vững tâm hơn. Ðiều vừa nói về quyền tư hữu về của cải vật chất, cũng có giá trị về những của cải tinh thần, chẳng hạn như những khả năng chuyên nghiệp.

Tuy nhiên quyền tư hữu không cản trở những hình thức khác nhau của quyền sở hữu công cộng. Dĩ nhiên chỉ có thẩm quyền hợp pháp mới có thể buộc chuyển nhượng của cải tư nhân vào sở hữu công cộng tùy theo những đòi hỏi và trong giới hạn công ích, nhưng phải bồi thường tương xứng. Ngoài ra, công quyền cũng có bổn phận ngăn ngừa đừng để ai lạm dụng quyền tư hữu mà phạm đến công ích 14.

Chính quyền tư hữu tự nó có một tính cách xã hội. Tính cách xã hội này đặt nền tảng trên luật chung hưởng của cải 15. Nếu tính cách xã hội này không được tôn trọng thì quyền sở hữu thường đem đến cơ hội sinh ra những tham lam và gây xáo trộn trầm trọng. Ðó là một cớ cho những người chống báng đòi hủy bỏ quyền tư hữu.

Trong nhiều miền kinh tế kém mở mang, vẫn còn những đồng ruộng rộng lớn hoặc rất bao la nhưng chỉ được canh tác sơ sài hay bị bỏ hoang vì tự lợi; trong khi đó phần lớn dân chúng hoặc thiếu đất đai hoặc chỉ được hưởng một phần đất quá ít ỏi và đàng khác việc tăng gia sản xuất nông nghiệp lại hiển nhiên là vấn đề cấp bách. Ðôi khi nông dân làm thuê hoặc những tá canh chỉ lãnh được một số lương hoặc một lợi tức không xứng với con người. Họ không có được một chỗ ở xứng đáng mà còn bị bọn trung gian bóc lột. Thiếu mọi bảo đảm an ninh, họ sống trong một tình trạng lệ thuộc hoàn toàn đến nỗi họ hầu như không còn có thể hành động theo sáng kiến và với tinh thần trách nhiệm. Và đối với họ, mọi cuộc phát triển văn hóa và tham gia vào đời sống xã hội, chính trị đều bị cấm chế. Do đó tùy trường hợp, cần phải có những cuộc cải cách nhằm gia tăng lợi tức, cải thiện trạng huống làm việc, đảm bảo cho việc thuê mướn và sau hết khuyến khích sáng kiến khi làm việc. Lại nữa, cần phải phân chia ruộng đất chưa được canh tác đầy đủ cho những ai có khả năng làm cho đất đai đó sinh lợi. Trong trường hợp này, cần phải cung cấp vật dụng và những phương tiện cần thiết cho họ, nhất là hỗ trợ về phương diện giáo dục và giúp tổ chức các hợp tác xã một cách chính đáng. Một khi công ích đòi hỏi phải truất hữu, thì cũng phải bồi thường cân xứng tùy theo hoàn cảnh.

72. Hành động kinh tế xã hội và Nước Chúa Kitô. Là những người hoạt động tích cực cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội ngày nay và tranh đấu cho công bình bác ái, người Kitô hữu cần phải xác tín rằng họ có thể đóng góp nhiều cho nền thịnh vượng của nhân loại và cho hòa bình thế giới. Trong những hoạt động này, họ phải nêu gương sáng với tư cách cá nhân hay đoàn thể. Một khi đã đạt được khả năng chuyên môn và kinh nghiệm cần thiết, trung thành với Chúa Kitô và Phúc Âm của Người, họ phải giữ đúng bậc thang giá trị trong các hoạt động trần thế. Nhờ vậy cả cuộc sống của họ, riêng tư cũng như giữa xã hội đều được thấm nhuần tinh thần của các Mối Phúc Thật, đặc biệt là tinh thần nghèo khó.

Bất cứ ai vâng theo Chúa Kitô, tiên vàn phải tìm Nước Thiên Chúa và từ đó tìm được một tình yêu mãnh liệt và tinh khiết hơn để giúp đỡ các anh em mình và thể hiện công bằng dưới sự thúc đẩy của đức ái 16.

 


Chú Thích:

78* Việc làm có giá trị cao hơn tất cả các yếu tố khác của sinh hoạt kinh tế, vì: 1) có tính cách nhân bản (không chỉ là khí cụ của con người), 2) là cần thiết cho cuộc sống, 3) cổ võ tinh thần anh em và tinh thần phục vụ lẫn nhau, 4) do đó giúp ta thực hiện đức thương yêu nhau, 5) để kiện toàn công cuộc tạo dựng, 6) ngoài ra nhờ đó ta có thể cộng tác với Chúa Cứu Thế, 7) không kể việc chúng ta bắt chước chính Người thuở xưa đã làm việc tại Nazareth.

Trước đây (số 35a), Công Ðồng đã nói rằng nhờ việc làm mà con người được hoàn hảo hơn và xây dựng xã hội. Bởi đó việc làm cũng là phương tiện để xây dựng hòa bình! Cho nên việc làm không những chỉ có giá trị tự nhiên về phương diện cá nhân cũng như cho xã hội và cả vũ trụ, mà còn có giá trị siêu nhiên giúp ta đền tội, cầu xin nhiều ơn Chúa cho mình và cho tha nhân, thánh hóa bản thân khi phải thực hành nhiều nhân đức như kiên nhẫn, cần mẫn, mạnh bạo, khiêm tốn... và đặc biệt là đức ái đối với Chúa cũng như đối với anh em.

79* A) Có bổn phận làm việc: Nếu việc làm thực sự có ích lợi cá nhân và xã hội như vừa nói trên, ai không chịu làm việc kẻ ấy phạm đến Chúa bởi vi phạm đến xã hội và anh em, chưa kể đến việc gây thiệt hại cho mình! Trước đây Công Ðồng nhắc lại rằng đức tin khiến tín hữu nhập thế và hoạt động cho thực tại trần thế (số 43a). Ngoài ra còn có những hoàn cảnh cụ thể buộc ta làm việc: ví dụ nghĩa vụ cha mẹ phải nuôi nấng con cái, đức công bằng nếu lập khế ước, đức vâng lời cũng như hiếu thảo của con cái trong gia đình v.v...

B) Có quyền làm việc: vì có bổn phận như vừa nói trên đây. Nhân phẩm cũng đòi hỏi con người có thể hưởng thụ tất cả những giá trị của việc làm. Dĩ nhiên nhân quyền này không có nghĩa là mỗi cá nhân có quyền đòi hỏi nơi cá nhân khác hay xã hội một công việc nào đó, vì hiểu như vậy sẽ không tôn trọng quyền tự do của người khác. Ở đây nhân quyền chỉ có nghĩa là không ai có thể bị ngăn trở hay bị từ chối khi xin làm việc với đầy đủ những điều kiện cần thiết. Hơn nữa chính quyền phải làm sao tổ chức đời sống kinh tế xã hội để có thể giúp đỡ công dân tìm cơ hội làm việc như Công Ðồng nhắc lại trong số này.

6 Xem Leô XIII, Tđ. Rerum Novarum: AAS 23 (1890-91), trg 649-662. - Piô XI, Tđ. Quadragesimo anno: AAS 23 (1931), trg 200-201; - n.t., Tđ. Divini Redemptoris: AAS 29 (1937), trg 92. - Piô XII, Sứ điệp truyền thanh vọng lễ Giáng Sinh 1942: AAS 35 (1943), trg 20; - n.t., Huấn từ 13-6-1943: AAS 35 (1943), trg 172; - n.t., Sứ điệp truyền thanh gửi thợ thuyền Tây Ban Nha, 11-3-1951: AAS 43 (1951), trg 215. - Gioan XXIII, Tđ. Mater et Magistra: AAS 53 (1961), trg 419.

80* Phải được trả lương tương xứng, không phải chỉ trả theo sức mạnh của người làm việc (là việc làm của con người chứ không phải của cái máy) mà còn theo nhu cầu của con người trước đời sống vật chất, xã hội, văn hóa và đạo đức. Hơn nữa, tương xứng với nhu cầu không chỉ của một mình người làm mà cả của gia đình họ nữa. Giáo lý của Giáo Hội từ Ðức Leô XIII đến giờ vẫn nhấn mạnh rằng lương bổng đầy đủ cho gia đình là thuộc nhân quyền của người làm việc. Dĩ nhiên phải làm trọn nhiệm vụ này là trả công đầy đủ cho gia đình tùy từng việc và khả năng sản xuất, tùy hoàn cảnh xí nghiệp, tùy đòi hỏi của công ích, đặc biệt phải làm sao để có thể cho càng nhiều người làm việc càng tốt.

7 Xem Gioan XXIII, Tđ. Mater et Magistra: AAS 53 (1961), trg 408, 424, 427; còn tiếng điều hành (curatione) trích trong bản văn Latinh của Tđ. Quadragesimo anno: AAS 23 (1931), trg 199. Về diễn tiến vấn đề, xem thêm: Piô XII, Huấn từ 3-6-1950: AAS 42 (1950), trg 485-488. - Phaolô VI, Huấn từ 8-6-1964: AAS 56 (1964), trg 574-579.

81* Công Ðồng nhắc lại rằng công nhân có nhân quyền tập đoàn và mục đích của nghiệp đoàn hay những hình thức khác là để đại diện cho công nhân (ví dụ để lập khế ước lao động) cũng như để góp phần vào tổ chức kinh tế. Nếu chỉ chấp nhận nhân quyền này trên nguyên tắc rồi tạo nên hằng ngàn sự đe dọa và áp lực để ngăn cản công nhân hoạt động tự do trong nghiệp đoàn, như thế là xâm phạm quyền lợi công nhân và trái lẽ công bằng.

82* Nhiều khi người ta nói về quyền đình công để giải quyết những tranh chấp lao động như là một trong các nhân quyền căn bản mà chủ nghĩa dân chủ đã đem lại cho công dân. Công Ðồng có lập trường khiêm tốn hơn. Theo Công Ðồng sự đình công 1) có thể là phương thế để bảo vệ quyền lợi cũng như để đòi hỏi những nguyện vọng hợp lý, 2) phương thế cần thiết và tối hậu, nghĩa là phương thế duy nhất sau khi cuộc đối thoại và những biện pháp hòa giải đã thất bại.

Sở dĩ như vậy là vì sự đình công gây nên thiệt thòi cho chính người lao động, cho xí nghiệp và cho công ích nữa. Thực ra cuộc đình công có hiệu lực chính là vì gây nên thiệt thòi đó. Cho nên đức ái cũng như đức công bằng cấm việc làm hại cho tha nhân, ngoại trừ trường hợp đó là vũ khí cần thiết để bảo vệ quyền lợi và đồng thời sự thiệt thòi không quá đáng.

Bởi vậy chính quyền có thể phế trừ sự đình công. Nhưng luật ấy sẽ bất công (cho nên vô giá trị) nếu chính quyền không cung cấp phương pháp hữu hiệu và tôn trọng quyền tự do của giới lao động để giải quyết các cuộc tranh chấp về việc làm.

Cuối cùng Công Ðồng không nói gì về cuộc đình công chính trị. Trường hợp này phức tạp hơn vì lúc ấy cuộc đình công giống như phương tiện bạo động bất hợp pháp. Do đó phải xét theo nguyên tắc khác (x.số 75).

83* Công Ðồng nhắc lại giáo lý truyền thống (các tài liệu trong ghi chú làm chứng). Ta có thể tóm tắt giáo lý của Giáo Hội như sau: 1) Theo ý Ðấng Tạo Hóa của cải phải phục dịch cho mọi người (x. Populorum Progressio, số 23), và phải bất chấp các kỳ thị (ở trên, số 64). 2) Cho nên cùng đích của chính của cải là phục dịch con người (Populorum Progressio, số 22). 3) Tùy theo nhu cầu vật chất, trí tuệ, luân lý, tinh thần và tôn giáo của họ (ở trên, số 64). 4) Của cải phải được đưa tới đầy đủ cho tất cả mọi người nhờ sự phân chia của cải một cách thích hợp hơn (x. Hiến chế tín lý về Giáo Hội, 36). 5) Tức là theo sự đòi hỏi của đức công bằng và với tinh thần yêu thương (Populorum Progressio, 22). 6) Kết luận: mọi người đều có thực quyền về những cái cần thiết (PP.22). 7) Các quyền lợi khác, kể cả quyền tư hữu, đều phụ thuộc quyền căn bản này (PP.26). 8) Do đó quyền tư hữu theo bản tính có mục đích xã hội (sau này, số 71). 9) Cho nên chúng ta phải lên án hình thức tư bản chủ nghĩa chủ trương quyền tư hữu vô hạn và tuyệt đối (PP.26). 10) Tất cả mọi người đều phải góp phần trong việc phân chia của cải cho công bằng hơn (do việc làm, lòng quảng đại) (Hiến chế tín lý về Giáo Hội 36; ở trên, 64; PP 23). 11) Ðặc biệt chính quyền phải can thiệp khi nào cần thiết (PP. 23). 12) Các dân tộc kém mở mang phải được dân tộc khác trợ giúp (sau này, 85-87) (PP. đặc biệt từ số 43 trở đi). 13) Phải giúp phương tiện cho mọi người cũng như các dân tộc để tự mình phát triển (PP.15,65).

8 Xem Piô XII, Tđ. Sertum Laetitia: AAS 31 (1939), trg 642. - Gioan XXIII, Allocutio consistorialis: AAS 52 (1960), trg 5-11; - n.t., Tđ. Mater et Magistra: AAS 53 (1961). trg 411.

9 Xem T. Tôma, Summa theol. II-II, q.32, a.5 ad 2; - n.v.t., q.66, a.2: xem dẫn giải trong Leô XIII, Tđ. Rerum Novarum: AAS 23 (1890-91), trg 651. - xem thêm Piô XII, Huấn từ 1-6-1941: AAS 33 (1941), trg 199; - n.t., Sứ điệp truyền thanh lễ Giáng Sinh 1954: AAS 47 (1955), trg 27.

10 Xem T. Basiliô, Hom. in illud Lucae "Destruam horrea mea", số 2: PG 31, 263. - Lactantiô, Divinarum Institutionum, c. V, về sự công bình: PL 6,565 B. - T. Augustinô, In Joann. Ev. tr. 50, số 6: PL 35, 1760; - n.t., Enarratio in Ps. CXLVII, 12: PL 37, 1922. - T. Gregoriô Cả, Hom. in Ev., bài 20, 12: PL 76, 1165; - n.t., Regulae Pastoralis liber, phần III, ch. 21: PL 77, 87. - T. Bonaventura, In III Sent., d. 33 dub. 1: x.b. Quaracchi III, 728; - n.t., In IV Sent., d. 15, p. II, a. 2, q. 1: n.v.t., IV, 371 b; - Quaest. de superfluo: ms. Assisi, Bibl. comun. 186, ff. 112 a - 113a. - T. Albertô Cả, In III Sent., d. 33, a.3, sol. 1: x. b. Borgnet XXVIII, 611; - n.t., In IV Sent., d. 15,a. 16: n.v.t., XXIX, 494-497. Về việc xác định của dư thừa của thời đại chúng ta: xem Gioan XXIII, Sứ điệp truyền thanh truyền hình 11-9-1962: AAS 54 (1962), trg 682: "Bổn phận của mọi người và là bổn phận cấp bách của Kitô hữu, chính là thẩm định của dư thừa theo mức độ nhu yếu của người khác và ân cần chăm sóc sao cho việc quản trị và phân phối của cải được tạo dựng có lợi cho mọi người."

11 Trong trường hợp này có thể áp dụng được nguyên tắc: "Trong lúc cùng quẫn cực độ, mọi sự là của chung, nghĩa là phải được chia sớt". Ðàng khác, đối với lý do, phạm vi và phương cách áp dụng nguyên tắc phải theo bản văn đề ra; ngoài các tác giả tân thời được công nhận, xem thêm T. Tôma, Summa Theol., II-II, q.66, a. 7. Hiển nhiên, để áp dụng đúng nguyên tắc, phải tôn trọng mọi điều kiện theo "luân lý" đòi hỏi.

12 Xem Gratiani Decretum C. 21, dist. LXXXVI: x.b. Friedberg I, 302. Lời này đã tìm thấy trong PL 56, 491 A và PL 56, 1132 B. - Xem Antonianum 27 (1952) trg 349-366.

84* Công Ðồng nhắc lại những lý do làm cho quyền tư hữu trở thành chính nghĩa: 1) nó phát biểu nhân cách, 2) giúp con người làm tròn nhiệm vụ trong xã hội, 3) là phương tiện cần thiết để bảo đảm quyền tự trị cá nhân và gia đình, 4) và giống như sự nối dài của quyền tự do, 5) nó khuyến khích con người làm việc, 6) và do đó trở thành điều kiện cho quyền tự do dân sự.

Nói cách khác và theo các tài liệu được trích lại trong ghi chú 13, 1) bản tính con người đoán được nhu cầu về tương lai nên đã đòi hỏi quyền tư hữu. Khác với thú vật, con người phải lo cho tương lai ! 2) Quyền tự do để tìm kiếm cùng đích cũng đòi hỏi quyền tư hữu một phần nào đó. 3) Ðặc biệt quyền tư hữu rất cần thiết để bảo đảm quyền tự trị trước mặt chính quyền, 4) Quyền cũng như bổn phận làm việc là những lý do bênh vực cho quyền tư hữu. 5) Cuối cùng chính công ích đòi hỏi quyền tư hữu: vì nó giúp con người làm việc hăng hái.

Như vậy ta phải quả quyết rằng quyền tư hữu ít ra là quyền của đại gia đình theo khía cạnh tinh thần, và phát sinh bởi luật tự nhiên. (x. Haring, La Loi du Christ, 1963, III, 605-606).

13 Xem Leô XIII, Tđ. Rerum Novarum: AAS 23 (1890-91), trg 643-646. - Piô XI, Tđ. Quadragesimo anno: AAS 23 (1931), trg 191. - Piô XII, Sứ điệp truyền thanh 1-6-1941: AAS 33 (1941), trg 199; - n.t., Sứ điệp truyền thanh Lễ Giáng Sinh 1942: AAS 35 (1943), trg 17; - n.t., Sứ điệp truyền thanh 1-9-1944: AAS 36 (1944), trg 253. - Gioan XXIII, Tđ. Mater et Magistra: AAS 53 (1961), trg 428-429.

14 Xem Piô XI, Tđ. Quadragesimo anno: AAS 23 (1931), trg 214. - Gioan XXIII, Tđ. Mater et Magistra: AAS 53 (1961), trg 429.

15 Xem Piô XII, Sứ điệp truyền thanh Lễ Hiện Xuống 1941: AAS 44 (1941), trg 199. - Gioan XXIII, Tđ. Mater et Magistra: AAS 53 (1961) trg 430.

16 Về việc xử dụng đứng đắn những của cải theo giáo lý của Tân Ước, xem Lc 3,11; 10,30tt; 11, 41; 1P 5,3; Mc 8,36; 12,29-31; Giac 5,1-6; 1Tm 6,8; Eph 4,28; 2Cor 8,13tt; 1Gio 3,17-20.

 
VỀ MỤC LỤC
PHÁT TRIỂN ƠN GỌI TRUYỀN GIÁO TRONG MỘT GIÁO XỨ
 

Làm thế nào để phát triển ơn gọi truyền giáo trong một giáo xứ là mối bận tâm đang được đặt ra cho công cuộc loan báo Tin Mừng hôm nay. Việc phát triển này nói lên vai trò đặc biệt quan trọng của mỗi giáo xứ có ảnh hưởng sâu rộng đối với sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội. Do đó, giáo xứ trở thành hạt nhân cơ bản giúp phát triển ơn gọi truyền giáo cách hiệu quả và bền vững. Là thành viên của từng xứ họ nhất định, người Kitô hữu ngày càng ý thức thâm sâu hơn ơn gọi của mình nhờ việc khám phá và làm triển nở các giá trị Tin Mừng trong hoàn cảnh và môi trường sống đặc thù tại nơi mình đang sinh sống. Đây là yêu cầu cấp thiết đòi hỏi sự tâm huyết và khôn ngoan của các mục tử và cộng đồng tín hữu nói chung. Nhờ đó, tương quan Đức ái không chỉ biểu tỏ trong nội bộ từng giáo xứ nhất định mà còn hướng tới việc cố kết ngày càng khăng khít hơn với các cộng đồng lương dân trên cơ sở tôn trọng, đối thoại và hiệp nhất.

1. Giáo xứ, hạt nhân phát triển ơn gọi truyền giáo

Như đã đề cập, giáo xứ là hạt nhân cơ bản để phát triển ơn gọi truyền giáo. Mọi định hướng, chương trình cụ thể mang tính vĩ mô liên quan đến việc xúc tiến công cuộc truyền giáo nếu không được triển khai bước đầu từ mỗi giáo xứ thì e rằng khó có thể đạt được những kết quả khả quan. Do đó, giáo xứ trở thành địa bàn lý tưởng nhất để khơi dậy và phát triển ơn gọi  truyền giáo vốn tiềm tàng và phong phú từ chính tâm hồn của mỗi Kitô hữu. Dù có những đặc thù, mỗi giáo xứ đều hội tụ những khả năng cần thiết nhằm thúc đẩy việc truyền giáo. Vấn đề là là làm sao để phát hiện và vận dụng những khả năng ấy. Trên thực tế, tại các giáo xứ ở Việt Nam nói chung, hướng phát triển này còn rất hạn chế do bị chi phối bởi những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau. Chúng ta có thể nhận ra một thực trạng, đó là, hoạt động truyền giáo tại các giáo xứ chưa thoát ra khỏi những đường hướng truyền thống kém hiệu quả, còn mang tính hình thức và khép kín, nặng về số lượng… Yếu tố con người chưa được đề cao, nhất là ơn gọi truyền giáo chưa được khơi dậy cách đúng mức.

Để phát triển ơn gọi truyền giáo trong một giáo xứ, linh mục quản xứ và cộng đoàn tín hữu cần hoạch định một kế hoạch toàn diện, trong đó việc phát triển nhân bản và làm sáng tỏ gương mặt đích thực của Đức Kitô là sứ vụ căn yếu nhất. Phải làm sao tạo cho môi trường giáo xứ thành một cộng đồng sinh động, mang đậm bản sắc liên đới vị tha là giá trị nền tảng của Tin Mừng. 

2. Định hướng phát triển

2.1. Gây ý thức ơn gọi truyền giáo

Đây là điều cần làm trước hết của người mục tử khi đến nhận lãnh nhiệm sở. Bởi mọi định hướng liên quan đến hoạt động truyền giáo sẽ không đạt hiệu quả mong muốn nếu không gây được ý thức về ơn gọi truyền giáo. Do đó, cha sở phải biết cách tạo lập nơi người giáo dân tinh thần xả kỷ, sẵn sàng tận hiến cho hoạt động tông đồ.

Gây ý thức ơn gọi truyền giáo được được thực hiện qua việc tác động cách toàn diện sâu rộng trên mọi sinh hoạt tâm linh và đời sống xã hội thường nhật của của người giáo dân, phải làm sao đưa họ “trở lại với Đức Kitô, cởi bỏ hết mọi ý thức hệ, mọi quan niệm thần học hoài nghi, cả chính mình, mà theo Đức Kitô trong sứ mệnh của Ngài: “Không thể mời gọi người khác trở lại nếu chính chúng ta không trở lại mỗi ngày” (Sứ mệnh…, 47) (Felipe Gómez, SJ,  Truyền giáo học 1, Antôn & Đuốc sáng, tr. 173). Những tác động này luôn được đặt dưới ánh sáng Lời Chúa với Đức ái Kitô giáo làm kim chỉ nam cho mọi ý tưởng hướng tới sứ vụ loan báo Tin Mừng.

Việc gây ý thức về ơn gọi truyền giáo là một tiến trình đầy khó khăn nhưng đó là bước chuẩn bị có tính quyết định đối với một giáo xứ trong sứ vụ truyền giáo nói chung.  

2.2. Phát triển đội ngũ truyền giáo

Một khi đã gây được ý thức truyền giáo, hay nói cách khác đã tạo lập được “tinh thần truyền giáo” mạnh mẽ, giáo xứ sẽ gặp được lợi thế cho bước tiếp theo là phát triển đội ngũ truyền giáo. Có thể nói, ơn gọi truyền giáo tại mỗi giáo xứ có biểu hiện sinh động và bừng phát mạnh mẽ hay không cần phải kể đến đội ngũ truyền giáo tại giáo xứ ấy phát triển tới mức độ nào. Do đó, việc xây dựng đội ngũ truyền giáo là yêu cầu cấp thiết giúp cho hoạt động truyền giáo trong giáo xứ được phát triển có hệ thống trên nền tảng liên đới.

Đội ngũ truyền giáo được quy tụ trên cơ sở lòng tự nguyện của người giáo dân, làm sao cho họ ý thức được trách vụ cao cả khi quên mình dấn thân xây dựng giáo xứ thành cộng đoàn truyền giáo năng động.

Cha xứ là người tiên phong trong đội ngũ truyền giáo của giáo xứ. Ngài là người chủ động hoạch định mọi chương trình liên quan đến việc phát triển ơn gọi truyền giáo trong giáo xứ, đồng thời nỗ lực tạo điều kiện cho hoạt động truyền giáo tại nhiệm sở của mình đạt hiệu quả nhất.

Hội đồng mục vụ, các ban - ngành, đoàn thể là những nòng cốt của đội ngũ truyền giáo trong một giáo xứ. Do đó, các đối tượng này được xây dựng, phát triển song song cả về lượng và chất. Về lượng: phải làm sao cho số thành viên tự nguyện tham gia các ban, ngành, hội đoàn ngày càng đông đảo, đủ mọi lửa tuổi, trình độ học vấn... Về chất: thành viên tham gia đội ngũ truyền giáo chính thức của giáo xứ phải là các đối tượng giàu nhiệt huyết tông đồ, biết dấn thân cho lợi ích chung của cộng đoàn giáo xứ và mọi người. Do đó, việc đào luyện “tinh thần truyền giáo” cho đội ngũ truyền giáo là mục tiêu quan trọng xuyên suốt hoạt động truyền giáo.

Cha xứ thường xuyên tổ chức các lớp huấn luyện về kỹ năng chuyên môn cho đội ngũ truyền giáo của giáo xứ đã được thiết lập. Các lớp học này do chính cha xứ trực tiếp hướng dẫn hoặc do các chuyên gia có chuyên môn, kinh nghiệm về hoạt động đoàn thể Công giáo được mời đến chia sẻ.

Giáo xứ cần đầu tư và tạo những điều kiện cần thiết cho các hội đoàn có linh đạo truyền giáo dễ thích nghi với môi trường truyền giáo của giáo xứ như: Hội Têrêxa, Gia đình Khôi Bình, Gia đình Thánh Tâm, Hội Lêgiô...

Cha xứ thường xuyên tổ chức tĩnh tâm định kỳ cho các ban, ngành, đoàn thể vào các dịp quan trọng có liên quan đến những sự kiện truyền giáo của Giáo Hội: Ngày Quốc tế Truyền giáo, Ngày Quốc tế Bệnh nhân…Chủ đề tĩnh tâm cần tập trung nhắm tới ơn gọi truyền giáo, khích lệ và kêu mời các thành viên trong đội ngũ truyền giáo nòng cốt của giáo xứ hãy dấn thân bằng cả tâm huyết cho việc loan báo Tin Mừng. Cha xứ cần tận dụng các kỳ tĩnh tâm cho các hội đoàn để hâm nóng tinh thần truyền giáo, bầu khí liên đới trong hoạt động truyền giáo giữa các thành viên này, thúc đẩy và nâng đỡ họ vượt qua mọi khó khăn khi phải đối diện với lợi ích riêng tư của gia đình và của cộng đoàn.

Trong tương quan ơn gọi truyền giáo nói chung, cha xứ không ngừng nỗ lực kêu gọi, khích lệ về tinh thần, vật chất để nâng đỡ ơn gọi truyền giáo, đặc biệt là ơn gọi linh mục, tu sỹ nơi những người trẻ trong giáo xứ - Đây là những hạt mầm Đức tin sẽ triển nở và giúp cho mảnh đất truyền giáo tại mỗi giáo xứ ngày càng màu mỡ, phong phú và dồi dào hơn. Không chỉ trên tòa giảng, cha xứ nên thường xuyên gặp gỡ, chia sẻ thân tình với các bạn trẻ trong giáo xứ về ơn gọi và thao thức loan báo Tin Mừng trong thời đại hôm nay. Qua những buổi gặp gỡ này, cha xứ sẽ là người đồng hành cùng các em trong việc tháo gỡ những khúc mắc, khó khăn và tạo điều kiện cho các em được phát triển lý tưởng cao đẹp nơi mình, là trở thành tông đồ mẫu mực của Chúa Kitô, hết lòng phục vụ những người nghèo khổ nhất. 

2.3. Phát triển ơn gọi truyền giáo trong giáo xứ qua đời sống thực tiễn

Để phát triển ơn gọi truyền giáo trong giáo xứ, ngoài các yếu tố đã nêu trên thì việc sống “tinh thần truyền giáo” qua đời sống thực tiễn là yêu cầu quan trọng nhất nhằm đem lại hiệu quả tích cực cho hoạt động truyền giáo của mỗi giáo xứ.

1o Chứng nhân sống niềm tin

Phát triển ơn gọi truyền giáo ở khía cạnh này được bắt đầu từ mỗi cá nhân và gia đình trong giáo xứ. Cha xứ, Hội đồng mục vụ giáo xứ, đội ngũ giáo lý viên tích cực chăm lo nuôi dưỡng đời sống Đức tin của của người giáo dân và định hướng cho họ sống tốt vai trò tông đồ qua những hoạt động thực tiễn thường ngày.

Kêu mời và tạo điều kiện cho mọi gia đình trong giáo xứ trở thành điểm sáng như những “Gia đình Nazareth nhỏ” biết tận tâm phục vụ lợi ích những người xung quanh. Quy tụ các bậc làm cha mẹ vào các hội đoàn của giáo xứ như Hội Giuse, Hội Các Bà Mẹ Công Giáo…Thông qua các Hội này, cha xứ thường xuyên tiếp xúc, chia sẻ và thúc đẩy các hội viên hãy trở nên những mẫu mực tuyệt hảo cho con cái trong việc sống ơn gọi truyền giáo. Chính các bậc cha mẹ là những tông đồ giáo dân đắc lực khi tham gia các hoạt động truyền giáo của giáo xứ. Cha xứ cũng thường xuyên chia sẻ và gợi mở cho những người làm cha mẹ những đường hướng tâm linh giúp họ trở nên điển chứng Tin Mừng giữa “chợ đời”.

Các ban - ngành, đoàn thể của giáo xứ là những trung gian giữa cha xứ và các gia đình. Trong trường hợp gia đình nào xẩy ra bất hòa bất thuận nội bộ hay với những người lương dân thì cha xứ và các đại diện của các đoàn thể sẽ trực tiếp giải hòa và nối lại dây liên đới giữa các bên liên quan.

Thông qua các lớp giáo lý thuộc Khối Vào Đời và Tiền Hôn Nhân, cha xứ và các giáo lý viên cần gợi mở và tạo cho các học viên ý thức được vai trò chứng nhân của “phía” Công giáo khi được mời gọi “nên duyên” cùng người bạn đời không chung niềm tin với mình.     

2o Chủ động đối thoại

Cha xứ và cộng đoàn giáo xứ chủ động trong việc đối thoại với bà con lương dân và những người theo các tôn giáo khác cùng sinh sống ngay trên địa bàn giáo xứ cũng như các cộng đồng phụ cận. Tinh thần truyền giáo chỉ có thể lan tỏa khi mỗi thành viên trong giáo xứ biết cởi mở, tôn trọng những khác biệt đối với anh chị em không cùng niềm tin với mình. Do đó, để có thể phát triển ơn gọi truyền giáo, cha xứ và Hội đồng mục vụ giáo xứ cần định ra những hình thức đối thoại nhằm củng cố và siết chặt tình liên đới giữa cộng đoàn của mình với các cộng đồng xung quanh.

Tôn trọng những khác biệt: cha xứ thường xuyên nhắc nhở bà con giáo dân không nên có thái độ thành kiến trước những dị biệt trong văn hóa ứng xử của bà con lương dân xung quanh, nhưng thấy được giá trị nhân văn ẩn tàng trong lối sống, cách sống của họ. Tuyệt đối tránh những cuộc cãi cọ, tranh luận vô bổ về quan điểm tín ngưỡng, tôn giáo hay hệ tư tưởng giữa những người có đạo với những người lương dân.

3o Nhịp cầu tâm giao

Những định hướng trên chỉ có thể trở thành hiện thực khi cộng đoàn giáo xứ biết chủ động bắc những “nhịp cầu tâm giao”. Nhịp cầu này được khởi phát từ con tim đã thấm nhuần Đức ái Kitô giáo, biết chia sẻ yêu thương với hết mọi người.

Để nhịp cầu tâm giao được thông suốt, mọi thành viên trong xứ cần xóa bỏ mọi dị nghị, ác cảm với anh chị em lương dân xung quanh. Cha xứ và những người hữu trách của giáo xứ là những người đi bước trước để khai thông những bế tắc làm cản trở tình thân hữu giáo lương.

Về giao thông: phối hợp làm những trục lộ chung giữa hai làng giáo – lương nhằm  tạo thuận lợi cho việc giao lưu gặp gỡ được dễ dàng, thuận tiện.

Về giải trí: giáo xứ nên tổ chức các sân chơi chung: sân bóng chuyền, bóng đá…, và tạo điều kiện đón tiếp bà con, nhất là các bạn trẻ từ các làng lương lân cận đến cùng giao hữu thường xuyên tại các sân chơi này. Tùy điều kiện cho phép, các sân chơi có thể đặt tại một địa điểm nhất định trên địa bàn giáo xứ, tốt nhất là gần nhà thờ xứ .

Về giáo dục: giáo xứ mở các lớp học phụ đạo về văn hóa tại trường giáo lý của giáo xứ và cho các em học sinh lương dân đến tham dự các lớp học này. Các em không chỉ được nâng cao về trình độ văn hóa mà còn có cơ hội tiếp xúc để hiểu biết nhau hơn.

Vào các dịp đại lễ như Noel, Tết Nguyên đán…, các gia đình, nhất là các bạn trẻ trong giáo xứ tổ chức mời các gia đình nhất là các bạn trẻ lương dân đến tham dự các chương trình canh thức, họp mặt đầu xuân và dự tiệc vui thân mật. Nếu được, giáo xứ nên cho phép bạn bè lương dân được tham gia các tiết mục hoạt cảnh, ca hát giàu tính nhân văn và chia sẻ những cảm nghiệm riêng tư liên quan đến đời sống tâm linh và triết lý nhân sinh.

Để nhịp cầu tâm giao ngày càng bền vững hơn, giáo xứ cần tổ chức các nhóm tình nguyện viên, các đội cứu trợ của giáo xứ thường xuyên tham gia các hoạt động thăm hỏi, cứu trợ các gia đình, cá nhân tại các làng lương bị đau nặng,  gặp tai ương, hoạn nạn.   

4o Hoạt động từ thiện – bác ái

Để phát triển ơn gọi truyền giáo trong giáo xứ, việc xúc tiến và đẩy mạnh hoạt động từ thiện – bác ái được coi là đòi hỏi đặc biệt cần thiết cho hành vi “sống đức tin” trong sứ vụ truyền giáo. Do vậy, giáo xứ cần phải đặt hoạt động từ thiện – bác ái làm tiêu chí hàng đầu cho thành công của hoạt động truyền giáo.

Muốn hoạt động từ thiện bác ái thành công, giáo xứ cần có chương trình đào luyện “tinh thần truyền giáo” cho đội ngũ truyền giáo như đã nêu trên. Đội ngũ này không chỉ năng động trong công tác mà luôn chứng tỏ được phẩm tính của người môn đệ Chúa Kitô, biết quên mình vì hạnh phúc của người khác.

Thành lập Quỹ bác ái: kêu gọi mọi người trong giáo xứ hãy bỏ những “đồng xu bà góa nghèo” vào quỹ bác ái của giáo xứ với tinh thần “lá rách ít đùm lá rách nhiều”. Quỹ này do Ban Bác Ái – Caritas nắm giữ.

Kêu gọi các gia đình khá giả, các nhà hảo tâm trong giáo xứ  nâng đỡ cách đặc biệt cho những gia đình, cá nhân đang lâm vào hoàn cảnh quá bi đát do nghèo túng, bệnh tật.

Hoạt động từ thiện – bác ái được mở rộng đến các đối tượng không phân biệt lương giáo:  các gia đình nghèo, người đau ốm, neo đơn, học sinh nghèo vượt khó…

Các ban – ngành, đoàn thể của giáo xứ, đặc biệt là Ban Bác Ái lập danh sách cụ thể các đối tượng giáo dân cũng như lương dân cần được quan tâm thăm hỏi, chăm sóc, cưu mang trong điều kiện có thể. Đối với những người già yếu neo đơn, giáo xứ nên cắt cử hoặc mời gọi những người thiện nguyện trong cộng đoàn đến chăm sóc, lo lắng thuốc men và các nhu cầu cần thiết khác cho họ. Giáo xứ có thể xây sẵn vài ba căn hộ nhỏ trên vùng đất thuộc giáo xứ và ưu tiên mời những người neo đơn không có nhà cửa đến ở tại căn hộ này. Đối với những trường hợp gặp rủi ro, hoạn nạn, mất mát về tinh thần, các ban ngành, đoàn thể của giáo xứ đến động viên, khích lệ và nâng đỡ họ bằng tinh thần hay vật chất, giúp họ sớm vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống.

Khi có người trong giáo xứ hay bà con lương dân sống trên địa bàn giáo xứ và những vùng phụ cận qua đời, cha xứ và các ban ngành đoàn thể kịp thời đến phân ưu, cầu nguyện, giúp đỡ tang quyến. 

Công tác từ thiện – bác ái của giáo xứ không đơn thuần chú trọng việc trao ban vật chất, mà còn hơn thế nữa, các thành viên trong giáo xứ khi tham gia hoạt động này được hướng tới việc biểu tỏ gương mặt đích thực của Đức Kitô biết “chạnh lòng thương” những ai bé mọn, yếu đuối, bần cùng.    

5o Cùng tham gia hoạt động công ích và phát triển nhân bản

Cha xứ và các ban ngành đoàn thể phát động, cổ vũ bà con giáo dân cùng với anh chị em lương dân tham gia các hoạt động công ích: bảo vệ môi trường, bài trừ tệ nạn xã hội, xây dựng các công trình phúc lợi chung nhằm phục vụ đồng thời cho cả bà con giáo dân và lương dân đang sinh sống trên địa bàn giáo xứ. Chúa nhật hàng tuần, cha xứ kêu gọi các em trong Hội Têrêxa, Hội Thiếu Nhi Thánh Thể cùng với các bạn trẻ lương dân tham gia thu gom rác thải và làm vệ sinh các trục đường công cộng…

Trên tinh thần cùng nhau xây dựng, phát triển, mọi thành viên trong giáo xứ có trách nhiệm liên đới với cộng đồng lương dân và những những người theo tôn giáo khác trong những vấn đề có liên quan đến phẩm giá và quyền lợi chính đáng của con người.

Giáo xứ kêu mời và phát động các bạn trẻ trong giáo xứ tham gia các nhóm bảo vệ sự sống của giáo xứ, giáo phận hay liên giáo phận. Cha xứ thường xuyên tổ chức các cuộc nói chuyện với các bạn trẻ về tác hại của phá thai theo nhãn quan luân lý; khích lệ và tạo điều kiện cho họ trở nên chứng nhân đắc lực bảo vệ sự sống, bảo vệ các quyền căn bản của con người.

Kết luận

Phát triển ơn gọi truyền giáo trong giáo xứ là yêu cầu cấp thiết cho sứ vụ loan báo Tin Mừng. Vấn đề này đòi hỏi sự nỗ lực và dấn thân cao độ của mọi thành phần dân Chúa tại mỗi giáo xứ nhất định. “Tinh thần truyền giáo” không chỉ biểu tỏ và giới hạn trong các nhóm, các hoạt động mang tính hình thức nhỏ lẻ. Trên hết, ơn gọi truyền giáo là một hồng ân và được khởi đi từ chính con tim tràn đầy yêu thương của Đức Kitô. Do vậy, để giáo xứ thực sự trở thành điểm sáng của đời sống chứng nhân Tin Mừng, các tín hữu được mời gọi bước theo Đức Kitô trên hành trình thứ tha, chia sẻ, nhất là biết chấp nhận những thiệt thòi, để qua đó, mọi người nhận ra cộng đoàn Đức tin sinh động đang hiện tỏ giữa lòng thế giới hôm nay. 

Tháng 06/2011

J.B. Nguyễn Quốc Tuấn

VỀ MỤC LỤC
LINH ĐẠO THỜI NAY (1)

Có một mối nguy rõ ràng khi nói về linh đạo thời nay. Người ta có thể nghi ngờ rằng đời sống thiêng liêng mỗi thời mỗi khác, rằng có lẽ ngay cả yếu tính của sự thánh thiện cũng thay đổi theo thời gian. Nhiều người có thể lập luận rằng sự hoàn thiện Kitô giáo, cách nào đó, phụ thuộc vào tính cập nhật, điều mà nói theo ngôn ngữ Thánh Kinh có nghĩa là xuôi theo thế gian và những giá trị thời thượng của thế gian. Thậm chí cũng có nghĩa là nếu một người trước hết không học nghệ thuật trở nên “phù hợp” (ngày nay từ này xem ra đang rất “ăn khách”), thì người ấy không thể nên thánh.  

Tất cả những hàm ý trên cho thấy rằng đối với nhiều người trong chúng ta sự thánh thiện dường như có nghĩa tương đương với sự phù hợp! Chúng ta chợt tự hỏi thật chăng đời sống thiêng liêng của hôm nay vẫn không khác với đời sống thiêng liêng của cách đây 10 năm. Nếu không khác, thì sao lại nói về linh đạo thời nay? Còn nếu khác, thì đời sống thiêng liêng hôm nay có còn là đời sống thiêng liêng mà các bậc thầy trong quá khứ đã mô tả rất rành mạch hay không?

Không ít linh mục, tu sĩ (kể cả tu sĩ chiêm niệm), và giáo dân đang cảm thấy lúng túng. Họ nghe nói về nào là thần học mới, luân lý mới, nào là Giáo Hội sau Công Đồng, nào là những người Công Giáo mãi gần đây vẫn còn thuộc về văn hóa thiểu số nhưng nay đã thoát ra khỏi cái gọi là “vành đai cơ chế” để cuối cùng hội nhập vào dòng chảy của xã hội hiện đại. Người ta bảo với chúng ta rằng Giáo Hội đang lớn lên.

Phải chăng dù với bao nhiêu thay đổi ngoạn mục trong Công Giáo như thế, việc theo đuổi sự thánh thiện vẫn không có gì phải thay đổi? Nghĩa là, chúng ta trở lại với câu hỏi phải chăng hôm nay ta vẫn có thể nói về đời sống thiêng liêng theo ngôn ngữ cách đây một thế hệ hay một thập niên. Câu trả lời dứt khoát là CÓ THỂ, vì bất chấp mọi ồn ào tranh cãi, Đức Kitô vẫn là một hôm qua, hôm nay và ngày mai. Các nguyên tắc mà Ngài đã tuyên bố ở Palestine vào thế kỷ thứ nhất vẫn có hiệu lực và vẫn cần thiết cho nước Mỹ ở thế kỷ hai mươi. 

Thực ra chính những người đương thời của Đức Giêsu nói chung cũng không chấp nhận lời Ngài; và chuyện xảy ra ở Canvê đã làm chứng quá hùng hồn rằng Ngài đã gây thù chuốc oán do những lời Ngài nói, và (tôi vẫn băn khoăn hoài rằng) họ đã thanh toán Ngài chính vì Ngài đã nói những điều ấy. Nhiều người đương thời của chúng ta hôm nay, nói cho cùng, cũng không mặn mà mấy với giáo huấn của Đức Giêsu. Vì thế, việc người ta chấp nhận hay bài bác Kitô giáo, cách riêng sự thánh thiện Kitô giáo, chẳng phải là điều gì mới mẻ. Đức Giêsu thời ấy có các môn đệ và cũng có những người phỉ báng Ngài; thì thời nay cũng y vậy.

Nếu có gì đặc trưng cho thời đại chúng ta, thì đó là dữ kiện này của lịch sử tôn giáo: ngày nay một số người yêu mến Đức Giêsu đến mức hy sinh bản thân mình một cách anh hùng, đồng thời có những người khác gạt bỏ Đức Giêsu, đến mức điên cuồng chống báng chính nghĩa của Ngài. Vậy rốt cục, linh đạo thời nay là gì? Hoặc giả chúng ta phân tách rành mạch hai đàng: đâu là linh đạo Kitô giáo mọi thời, và đâu là – nếu có – nét riêng của linh đạo này trong thời của chúng ta?   

ĐÂU LÀ LINH ĐẠO KITÔ GIÁO? 

Chúng ta bắt đầu bằng câu hỏi: “Linh đạo Kitô giáo là gì?” Đối với một số người, mấy tiếng “linh đạo” hay “đời sống thiêng liêng” xem chừng kỳ quặc. Nghe có vẻ như chia tách thể xác và tâm linh theo kiểu đi ngược lại với điều mà chúng ta biết về con người: con người không chỉ là hồn, mà còn là xác nữa.

Có vẻ như chúng ta thiên lệch ngay từ điểm xuất phát khi tách rời một phần của bản tính mình – tâm linh – và quá tập trung vào đó như thể Thiên Chúa không được phụng sự nơi thịt và máu và mồ hôi và nước mắt của người ta, những thứ hầu chắc là thuộc thân xác chứ không thuộc tinh thần. Tuy nhiên, sẽ không có vấn đề, khi chúng ta coi những từ như “linh đạo”, “tâm linh” là những từ hữu dụng để diễn tả nhiều hơn cái hàm ý chứa trong vỏ từ ngữ đơn thuần của nó.

Quả là con người chúng ta gồm thể xác và tâm linh, nhưng giữa hai đàng, thì tâm linh quan trọng hơn. Nhờ phần này của hữu thể mình mà chúng ta, loài thụ tạo, được thông hiệp với Thiên Chúa. Và Thiên Chúa, trong tư cách là Thiên Chúa, đâu có thể xác. Ngài dựng nên chúng ta theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài bằng cách ban cho chúng ta tâm linh, giống như tinh thần của Ngài, với một trí năng cho phép chúng ta suy nghĩ và một ý chí cho phép chúng ta yêu thương. Những gì chúng ta suy nghĩ và yêu mến trong tâm linh của mình sẽ ấn định mọi điều khác, gồm cả những gì chúng ta hành động qua thân xác của mình. Chúng ta quì gối cầu nguyện hay nằm dài trên giường, chúng ta mở miệng để khen ngợi, ủi an, hay để gây tổn thương bằng những lời chỉ trích và miệt thị, tất cả đều tùy thuộc những gì ở bên trong chúng ta.

Tuy nhiên, đời sống thiêng liêng có một ý nghĩa đặc biệt, chứ không chỉ là việc sử dụng đúng đắn trí năng và ý chí thuộc tâm linh mình. Đời sống thiêng liêng mở thêm chiều kích ưu việt cho thực hành luân lý. Đời sống luân lý, nói cho cùng, liên quan tới việc sử dụng tự do riêng của chúng ta. Chúng ta tin rằng con người được dựng nên để ca ngợi, kính tôn, và phụng sự Thiên Chúa, và nhờ đó cứu độ linh hồn mình. Chúng ta cũng tin rằng mọi điều khác dưới gầm trời này đã được tạo ra cho con người, nhằm giúp con người đạt được mục đích theo đó mình đã được tạo dựng. Vậy thì, chúng ta sẽ sống một đời sống luân lý tốt (phân biệt với đời sống thiêng liêng) nếu ta sử dụng mọi sự trong cuộc sống mình bao lâu chúng giúp đạt mục đích của cuộc hiện sinh, và loại bỏ chúng một khi chúng cản trở việc đạt mục đích ấy. Đó là luân lý. Đó chưa phải là linh đạo.

Cách nào đó, có thể nói rằng đời sống linh đạo bắt đầu ở chỗ đời sống luân lý kết thúc. Hoặc nhìn từ một góc khác, linh đạo Kitô giáo giả thiết luân lý Kitô giáo, nhưng nó vượt quá nền tảng của luân lý để xây dựng điều mà chúng ta vẫn gọi là công trình của sự thánh thiện - kiểu nói này nghe như phóng đại, nhưng thật chính xác. Sự “vượt quá” này có thể bao hàm nhiều nghĩa, nhưng không có nghĩa nào giải thích thấu triệt ý nghĩa của linh đạo, hay của sự thánh thiện. Chúng ta có thể vượt quá những gì mình bị ràng buộc nghiêm ngặt phải làm để cứu linh hồn mình. Chúng ta có thể vượt quá sự tuân phục các điều răn của Thiên Chúa để thực hành các lời khuyên của Phúc Âm. Chúng ta có thể vượt quá tiếng gọi của bổn phận để phụng sự Thiên Chúa với lòng quảng đại. Chúng ta có thể vượt quá sự nhẫn nại chấp nhận đau khổ để thực sự ưu tiên chọn lựa thập giá. Chúng ta có thể vượt quá những đòi hỏi của luật để đảm nhận cả những thực hành bác ái mà luật không đòi buộc. Chúng ta có thể vượt quá những nghĩa cử bác ái anh hùng ‘năm thì mười họa’, để trao hiến trọn cả cuộc sống mình, suốt đời, dành riêng cho việc phụng sự Đức Kitô và Giáo Hội. Trong tất cả các trường hợp ấy, sự vượt quá những gì tuyệt đối cần thiết để tránh tội (bình diện luân lý) và để trao hiến chính mình cho Thiên Chúa (sự thánh thiện) là một diễn tả đồng thời hai điều. Thứ nhất, nó diễn tả không chỉ ơn thường sủng của Thiên Chúa, ơn mà nếu không có thì không thể nào đạt được sự thánh thiện; thứ hai, nó diễn tả không chỉ sự sẵn sàng thông thường của ý chí để đáp lại ân sủng ấy – nếu không có sự sẵn sàng này thì sự thánh thiện cũng chẳng thể nào sản sinh được.

Lịch sử Kitô giáo từ thời các Tông Đồ là một bằng chứng cho thấy hai yếu tố ấy thường xuyên sống hoạt trong Giáo Hội. Tất cả các thánh và các vị tuẫn đạo, các trinh nữ và các chứng nhân đức tin... chứng minh cho dữ kiện hai mặt này: đó là, với việc Đức Kitô đến và với ân sủng chan hòa của Ngài, con người không chỉ có thể tránh tội mà còn có khả năng nên thánh nữa. Hơn nữa, tất cả những ai cộng tác với ân sủng được ban cho này sẽ vươn lên các đỉnh cao hoàn thiện và đạt được các mục tiêu mà những người khác dù bẩm sinh có giỏi giang đến mấy cũng không đạt được. Tự nhiên (nature) không thể sản sinh ra sự thánh thiện.

Điều mà Thánh Phaolô nói với các tín hữu Rôma có thể áp dụng cho tất cả những ai đã học được bí quyết nên thánh: “Những ai chỉ quan tâm đến những sự xác thịt thì không bao giờ có thể làm hài lòng Thiên Chúa. Tuy nhiên, mối quan tâm của anh em không nằm ở những điều xác thịt, nhưng là ở Thần Khí, vì Thần Khí Thiên Chúa cư ngụ trong anh em.” Một cách căn bản, theo các tiêu chuẩn Kitô giáo thì chính việc Thần Khí Thiên Chúa cư ngụ trong tín hữu làm cho người ấy thuộc Thần Khí. Và cuối cùng, điều làm cho con người ấy thuộc Thần Khí chính là sự cộng tác tự do và quảng đại của người ấy với Thánh Thần Đấng cư ngụ trong người ấy. Ở đâu mà Thánh Thần Thiên Chúa gặp gỡ một tinh thần nhiệt thành đáp trả nơi con người, thì ở đấy ta có đời sống thiêng liêng. Vì thế, theo ngôn ngữ của Thánh Phaolô, đối lập với Thần Khí là xác thịt, và ai sống theo xác thịt thì không trung thành với lòng tốt cao vời của Thiên Chúa.    [còn tiếp phần 2]

THIÊN PHONG

dịch từ “Contemporary Spirituality”

của Cha John A. Hardon, S.J. (+2000), Tôi Tớ Chúa.

VỀ MỤC LỤC
Chiếc bánh thứ nhất: Sống phút hiện tại

 

Tác Phẩm: NĂM CHIẾC BÁNH VÀ HAI CON CÁ

Đức Hồng Y: Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận 

Chiếc bánh thứ nhất: Sống phút hiện tại

  

Các bạn có thể gặp Chúa Giêsu, dọc theo những nẻo đường của cuộc sống mỗi ngày!...Đây là chiều kích nền tảng của sự gặp gỡ đó:  Không phải các bạn gặp một biến cố hay một sự vật gì đó, nhưng các bạn gặp một con người, đó là Thiên Chúa hằng sống. 

(Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 1)

Tên tôi là Phanxicô Nguyễn Văn Thuận, người Việt Nam.  Đối với người ngoại quốc tên tôi khó đọc, nên ở Tanjania, Nigeria, Đại Hàn, Đài Loan, các bạn trẻ gọi tôi là “Bác Francis” (Uncle Francis) hay đơn giản hơn nữa là “Francis!”

Đến 23-4-1975 tôi làm Giám mục đã được tám năm, tại Nha Trang, Trung phần Việt Nam, Giáo phận đầu tiên Tòa Thánh trao phó cho tôi.  Tôi đã sống những ngày tháng hạnh phúc ở đó và Nha Trang vẫn chiếm một chỗ đặc biệt trong quả tim tôi.  Ngày 23-4-1975, Đức Phaolô VI đã đặt tôi làm Tổng Giám mục phó Sàigòn.  Khi cộng sản đến Sàigòn, họ đã bảo rằng: “Việc bổ nhiệm một Giám mục một tuần trước khi chúng tôi đến Sàigòn là một âm mưu giữa Vatican và đế quốc, nhằm tổ chức chống cộng sau này”.

Ba tháng sau, ngày 15-8-1975, tôi được mời vào Dinh Độc lập lúc 2 giờ chiều và bị bắt ở đó.

Đêm đó, trên đường dài 450 km, xe công an chở tôi về nơi quản thúc.  Bao nhiêu tâm tình lẫn lộn trong đầu óc tôi:  lo lắng có, cô đơn có, mệt mỏi có, sau mấy tháng căng thẳng...nhưng trong trí tôi, một quyết định sáng tỏ đã đánh tan mây mù.  Tôi nhớ lời Đức Cha John Walsh, một Giám mục truyền giáo gốc Mỹ, đã nói lúc ngài được tự do sau 12 năm tù ở Trung cộng:  “Tôi đã mất nữa đời người để chờ đợi”.  Rất đúng! tất cả mọi tù nhân, trong đó có tôi, phút giây nào cũng mong đợi tự do.  Suy nghĩ kỹ, trên chiếc xe Toyota trắng, tôi đã đặt cho mình một quyết định:  “Tôi sẽ không chờ đợi.  Tôi sống phút hiện tại và làm cho nó đầy tình thương”.

Đây không phải là một cảm hứng đột xuất, nhưng là một xác tín đã ấp ủ suốt quãng đời mãi từ tiểu chủng viện:  “Nếu tôi mất giờ đợi chờ, không làm gì hết, biết đâu những điều tôi đợi sẽ không bao giờ đến.  Chỉ có một điều, dù không đợi cũng vẫn đến, đó là sự chết!”

Trong làng Cây Vông, nơi tôi bị quản thúc, ngày đêm có nhân viên an ninh chìm nổi theo dõi.  Trong óc một tư  tưởng không ngừng làm tôi xót xa, thao thức:  “Giáo dân của tôi! một đoàn chiên hoang mang, giữa bao hiểm nguy, thách đố của một giai đoạn lịch sử mới.  Làm sao tôi có thể gần gủi, liên lạc với họ, trong giai đoạn họ cần đến người mục tử nhất!  Các nhà sách Công giáo bị đóng cửa, trường học Công giáo do Nhà nước quản lý, tôn giáo sẽ không còn được dạy dỗ trong các trường nữa; các linh mục, sư  huynh, nữ tu có khả năng phải đi ra thôn quê, đi nông trường lao động, không được dạy học nữa!  Sự xa lìa giáo dân là một cú “sốc” giày vò tan nát quả tim tôi.

Tôi không đợi chờ.  Tôi sống phút hiện tại và làm cho nó đầy tình thương.  Nhưng làm thế nào?

Một đêm, một tia sáng đến với tôi:  “Con hãy bắt chước thánh Phaolô.  Khi ngài ở tù, không hoạt động tông đồ được, ngài đã viết thư cho các giáo đoàn.  Đơn giản vậy mà con đi tìm đâu cho xa?”

Sáng hôm sau, vừa mới tinh sương, giữa tháng 10 năm 1975, tôi làm hiệu cho một cậu bé 7 tuổi, tên Quang, vừa đi lễ 5 giờ ra, trời còn mù và lạnh:  “Quang! con về nói má con mua cho ông mấy “bloc” lịch cũ, ông cần dùng”.  Chiều tối, chú bé mang lại mấy “bloc” lịch cũ.  Thế là mỗi đêm trong tháng 10 và tháng 11, 1975, tôi đã đóng hết cửa, lấy giấy xi-măng dán bên trong và viết “Sứ điệp từ ngục tù” cho giáo dân của tôi, dưới ánh đèn dầu leo lét, mặc cho muỗi tha hồ đốt.  Mỗi sáng thực sớm tôi trao cho bé Quang, mấy tờ lịch tôi đã viết sau lưng, mang về cho anh, chị của Quang chép lại kẻo mất.  Nếu để trên bàn tôi, “ông An” (một giáo dân) thấy sẽ sinh tai họa.  Đấy là đầu đuôi sách “Đường Hy Vọng”, sứ điệp lao tù thành hình là như  thế.  Hiện nay sách đã được xuất bản bằng tám thứ tiếng.

Chúa đã ban ơn cho tôi có nghị lực để tiếp tục làm việc, kể cả những lúc chán nản nhất.  Tôi đã viết đêm ngày trong một tháng rưỡi, vì tôi sẽ bị “chuyển trại” và không có điều kiện hoàn tất được.  Lúc viết đến số 1001 tôi quyết dừng lại, xem đây như  công trình “nghìn lẻ một đêm”.  Ngày 8-12-1975, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Tội, tôi đã tạ ơn Đức Mẹ cho tôi viết xong “Đường Hy Vọng” và trao trong tay Đức Mẹ gìn giữ, đó là của Đức Mẹ, nhờ ơn của Đức Mẹ, xin Đức Mẹ tiếp tục lo liệu.  Đoán vậy mà không sai, đến ngày 18-3-1976, tôi bị đưa vào trại Phú Khánh, biệt giam vất vả nhất.

Năm 1980, lúc bị đưa ra quản thúc ở Giang Xá, Bắc Việt, tôi đã tiếp tục viết mỗi đêm trong bí mật cuốn thứ hai, “Đường Hy Vọng Dưới Aùnh Sáng Lời Chúa và Công Đồng Vatican II”, cuốn thứ ba, “Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng”.

Tôi không chờ đợi.  Tôi sống phút hiện tại và làm cho nó đầy yêu thương.

Trong Phúc âm, các Tông đồ muốn chọn con đường dễ nhất, khỏe nhất:  “Xin Thầy cho dân chúng về, để họ mua thức ăn”...Nhưng Chúa Giêsu muốn hành động trong phút hiện tại:  “Chính các con hãy cho họ ăn đi” (Lc 9, 1).  Trên thánh giá, khi người ăn trộm thưa với Chúa Giêsu:  “Thưa Ngài, khi về thiên đàng xin Ngài nhớ đến tôi”.  Chúa Giêsu đáp:  “Hôm nay con sẽ ở cùng Ta trên nước thiên đàng” (Lc 23, 42-43).  Trong tiếng “hôm nay” của Chúa Giêsu, tôi cảm thấy tất cả sự tha thứ, tất cả tình thương của Ngài.

Cha Maximiliano Kolbe sống tinh thần ấy khi ngài khuyên các tập sinh trong dòng:  “Tất cả, tuyệt đối, không điều kiện”.  Tôi đã nghe Đức Cha Helder Camara nói:  “Cả cuộc đời là học yêu thương”.  Một lần Mẹ Têrêxa Calcutta gửi thư  cho tôi, Mẹ viết:  “Điều quan trọng không phải là số công tác đã thực hiện nhưng là mức độ tình yêu ta đã để vào mỗi công việc”.

Làm sao yêu thương đến cao độ như  thế trong mỗi phút hiện tại?  Tôi nghĩ rằng tôi phải sống mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút như  là giờ phút cuối cùng của đời tôi.  Dẹp bỏ những gì là phụ thuộc, tập trung cả tâm hồn cho những gì là chính yếu.  Mỗi lời nói, mỗi tư  tưởng, mỗi cử chỉ, mỗi cú điện thoại, mỗi quyết định phải là “đẹp nhất” của đời tôi.  Tôi phải dành cho mỗi người tình yêu của tôi, nụ cười của tôi:  tôi phải lo sợ đánh mất một giây phút nào trong đời mình vì đã sống không ý nghĩa...

Tôi đã viết trong sách Đường Hy Vọng:  “Con chỉ có một giây phút đẹp nhất:  giây phút hiện tại (x Mt 6, 34; Gc 4, 13-15).  Sống trong tình yêu Chúa cách trọn vẹn, đời con sẽ tuyệt đẹp nếu kết tinh bằng từng triệu giây phút đẹp nhất.  Con thấy đơn sơ, không phải khó (ĐHV 997).

Các bạn trẻ thân mến, trong thời đại này, Chúa Giêsu cần đến các bạn.  Đức Gioan Phaolô II tha thiết kêu gọi các bạn hãy đương đầu với những thách đố của thế giới hôm nay : 

Chúng ta đang sống trong một giai đoạn đầy biến chuyển kinh khủng.  Những lý thuyết được xem là đủ sức thi gan cùng tuế nguyệt nay đã đến lúc xế chiều.  Trên hoàn cầu, cần phải phác họa lại ranh giới của nhiều quốc gia.  Nhân loại tự cảm thấy mình rất lúng túng, hốt hoảng, lo lắng (Mt 9, 36).  Nhưng lời Chúa không bao giờ qua đi; đọc lại lịch sử, chúng ta thấy bao nhiêu biến cố thăng trầm, đang lúc ấy lời Chúa đứng vững và chiếu sáng (Mt 24, 35).  Đức tin của Hội thánh được xây dựng trên Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu thế độc nhất:  hôm qua hôm nay và mãi mãi (Eb 13, 18). 

(Gioan Phaolô II, Sứ điệp NQTGT XII, số 2)

 

Cầu Nguyện 

Lạy Chúa Giêsu,

Chiều hôm qua, Lễ Đức Mẹ Hồn Xác lên trời, con đã bị bắt.

Đưa đi trong đêm, từ Sàigòn đến Nha Trang.

Trên đường dài bốn trăm rưởi cây số,

ngồi trên xe giữa hai công an.

Con bắt đầu kinh nghiệm cuộc đời một tù nhân.

Bao nhiêu tâm tình lẫn lộn trong đầu óc con:

Buồn có, sợ có, căng thẳng có.

Tim con tan nát vì phải xa cách giáo dân của con.

Giữa cơn khổ nhục, con đã nhớ lời Thánh kinh:

“Họ đã liệt con vào giữa người gian ác” (Lc 22, 37).

Xe chở con xuyên ba giáo phận đã gắn liền với đời con:

Sàigòn, Phan Thiết, Nha Trang.

Con yêu mến đoàn chiên của con

và sẳn sàng chịu tù đày, chịu chết vì họ.

Họ không biết vị mục tử của họ

đang bước đi giai đoạn đầu của Đàng Thánh Giá;

Giữa đại dương cay đắng cực độ ấy,

con cảm thấy mình tự do hơn bao giờ hết.

Con không có gì hết, dù một xu cũng không,

trừ tràng chuỗi Mân côi, và ý thức Chúa Giêsu,

Mẹ Maria không bao giờ rời con.

Trên đường tù đày con đã cầu nguyện:

 

Lạy Chúa là Chúa của con, là tất cả mọi sự của con.

Lạy Mẹ Maria, con xin dâng mình cho Mẹ,

toàn thân con thuộc về Mẹ,

mọi người thân yêu và mọi sự của con là của Mẹ.

Lạy Chúa, con không đợi chờ,

con quyết sống phút hiện tại,

và làm cho nó đầy tình thương,

vì chấm này nối tiếp chấm kia,

ngàn vạn chấm thành một đường dài.

Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống.

Chấm mỗi chấm cho đúng, đời sẽ đẹp.

Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh.

Đường hy vọng do mỗi chấm hy vọng.

Đời hy vọng do mỗi phút hy vọng.

Như  Chúa Giêsu, trọn đời đã làm những gì đẹp lòng Đức Chúa Cha.

Mỗi phút giây con muốn làm lại với Chúa,

“một giao ước mới,

một giao ước vĩnh cửu”.

Con muốn cùng với Hội thánh hát vang:

Vinh danh Chúa Cha và Chúa Con và

 Chúa Thánh Thần.

 

Alleluia! Alleluia! Alleluia!

  

Cây Vông, Nha Trang

nơi tôi bị quản thúc

16-8-1975, hôm sau lễ Đức Mẹ Lên Trời.

 
VỀ MỤC LỤC
NGỤ NGÔN THỜI BẤN LOẠN (KỲ 25)
  

Ngụ ngôn 77

 

Rừng mở hội nghị truyền thông quốc tế. Mỗi khu rừng trên thế giới cử đại biểu là chim bồ câu đưa thư, chim én báo mùa xuân và tắc kè đổi màu báo tín hiệu. Rừng Nam không cử bồ câu, chim én và tắc kè, mà lại cử cáo và rắn đi dự.

 

Khi đại biểu cáo và rắn của rừng Nam đứng lên chào và tự giới thiệu thì cả hội  nghị không thể giữ lịch sự được nữa mà bật cười ồ, cười nghiêng ngửa, cười vang dội. Lý do là vì cáo và rắn là loài gian ngoa mà lại được cử đi họp chung với các loài chim hiền hoà, hơn nữa cáo và rắn vừa nói vừa cà lăm không ai hiểu gì cả.

 

Giờ giải lao, mấy chú chim non hỏi chuyện cáo và rắn: “Sao hai bạn lại đi dự hội nghị quốc tế?”. Cáo và rắn lủi đi mất không dám trả lời.

 

Vị chủ trì hội nghị đi ngang qua, nghe vậy bèn đứng lại giải thích: “Cáo và rắn không biết ngoại ngữ, cho nên rừng Nam cử đi để khỏi ý kiến ý cò gì cho rách việc. Cáo và rắn cũng chẳng nghe được gì nên khỏi so sánh lôi thôi. Quan trọng nhất là hai anh này ranh mãnh lắm, có gì sơ sẩy là biết đường lủi nhanh cho khoẻ!”

 

Ngụ ngôn 78

           

Lại chuyện rừng mở hội nghị truyền thông quốc tế. Lần này rừng qui định là đại biểu chỉ là bồ câu, vì đề tài là “bồ câu đưa thư điện tử”. Điều kiện tham dự là biết quốc tế ngữ và có kinh nghiệm 10 năm đưa thư. Bồ câu rừng Nam lâu nay không được đưa thư vì lãnh vực đưa thư chưa được tư nhân hoá.

           

Do đó hội nghị truyền thông rừng Nam được mở ra để tìm cách đối phó. Cáo gầm lên: “Thôi tẩy chay cho rồi. Khỏi tham dự!” Sư tử bảo: “Không được. Cứ tham dự. Tôi đã có cách”.

           

Đến ngày hội nghị, bồ câu các khu rừng hân hoan vỗ cánh bay về và thảo luận sôi nổi. Bồ câu rừng Nam cũng đến, theo thói quen thì trễ mất mấy tiếng nhưng vẫn vào chỗ ngồi và nói líu lo tiếng gì khó hiểu...

           

Khi bế mạc, mỗi con bồ câu ngậm một cành lá lên đặt vào đài kỷ niệm. Người ta nhận thấy tất cả bồ câu các khu rừng đều đặt xuống cành ôliu, riêng bồ câu rừng Nam thì lại ngậm đến đặt vào đó một con thằn lằn. Tất cả rú lên kinh hãi. Bồ câu rừng Nam lúng túng đánh rơi bộ lông giả, hiện nguyên hình là con cú vọ láo liên.

 

Ngụ ngôn 79

           

Năm sau rừng lại mở hội nghị truyền thông quốc tế. Lần này ban tổ chức đã dày dạn kinh nghiệm nên không thể có chỗ cho các mưu mô như mấy lần trước. Sẽ không có chuyện người không biết gì cả có thể đi dự được. Rừng Nam cử một đại biểu có uy tín, nói năng lưu loát, phát biểu rõ ràng tuy hay nguỵ biện. Vị đại biểu này luôn ngồi trong xe có phủ bạt kín, không bao giờ cho đại hội thấy mặt, không biết vì khiêm tốn hay vì để bảo mật.

           

Khi đại hội gần kết thúc, ban tổ chức yêu cầu tất cả đại biểu lên chụp hình lưu niệm. Đại biểu rừng Nam từ chối mãi, nhất định không ló mặt ra khỏi xe. Một anh nhân viên ban trật tự thấy vậy khó chịu quá, bèn bứt tung tấm bạt phủ xe đại biểu rừng Nam ấy.

           

Khi vị đại biểu nói năng lưu loát của rừng Nam ló mặt ra, tất cả khu rừng ồ lên rúng động. Vị đại biểu ấy là một cái loa phóng thanh rất to, được thiết kế điều khiển từ xa!

 

Gioan Lê Quang Vinh, VRNs

VỀ MỤC LỤC
Căn tính và phận vụ người Tín Hữu Giáo Dân trong Giáo hội và giữa Trần thế (1)
 

NGUYỄN HỌC TẬP 

I - THỰC THỂ.

Công Đồng Vatican II đã dành một sự chú ý đặc biệt đến thực thể người tín hữu giáo dân.

Chương IV của Hiến Chế Lumen Gentium là văn bản đầu tiên của Công Đồng trong cả lịch sử Giáo Hội được dành riêng để nói về căn tính và phận vụ của người tín hữu giáo dân.

Chúng ta đặc tâm chú ý đến hai yếu tố nói lên đặc tính của người tín hữu giáo dân trong sứ mạng của mình, đó là

 Giáo Hội tính ( ecclesiologità) và trần thế tính ( secolarità ) ( U. Sartorio, Linee di dibattito sui laici nel postconcilio italiano, il " Sinodo 1987 e la Christifideles laici ",, in Credereoggi, n.3, 1994, p.48).

   a ) Giáo Hội Tính: người tín hữu giáo dân

  - không những thuộc về Giáo Hội,

  - mà còn là Giáo Hội,

và động tác làm cho mình hiện diện giữa trần thế không có gì khác hơn là làm cho Giáo Hội hiện diện giữa thế gian.

Hiểu như vậy, tư tưởng của Công Đồng đã vượt lên trên quan niệm cho rằng người tín hữu giáo dân chỉ là chiếc cầu gạch nối, là người đại diện của Giáo Hội trong các mối tương giao với thế giới.

   - " Người tín hữu giáo dân không còn chỉ là người đứng trung gian, mà chính là Giáo Hội " giữa trần thế, giữa thế giới dân ngoại " ( M.D. Chenu, I laici e la consacratio mundi), 

   b) Đặc tính trần thế: người tín hữu giáo dân được Chúa kêu gọi sống Giáo Hội tính của mình, theo phương thức trần thế, trong lãnh vực trần thế, nơi mà mình đang ra công dấn thân xây dựng Nước Chúa:

   - " Theo ơn gọi của mình, chính người tín hữu giáo dân tìm kiếm Nước Chúa bằng cách hành xử xây dựng các sự việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý Chúa muốn " ( Lumen gentium, n. 31).   

Dưới hai đặc tính đó, chúng ta tuần tự đề cập đến

   - Phép Rửa và đời sống mới Ki tô giáo,

   - Tham dự vào phận vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Ki Tô,

   - Đặc tính trần thế,

   - Đặc tính giáo dân từ viễn ảnh vũ trụ quan đến Ki Tô luận,

   - Đưọc mời gọi nên thánh thiện. 

   1 - Phép Rửa và đời sống mới Ki Tô Giáo. 

Từ Công Đồng Vatican II trở đi, Giáo Hội luôn luôn nhận thức cần phải khai triển nền thần học về căn tính người tín hữu giáo dân và, tiếp theo Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1987, Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II đã nêu lên những đường nét chính trong Huấn Dụ Christifideles laici của ngài.

Căn tính hay bản tính người tín hữu giáo dân, còn hơn cả những gì chỉ gồm trong quan niệm đối ngược tiêu cực,    " không phải là giáo sĩ ".

Căn tính người tín hữu giáo dân được định giá theo những gì tích cực, đó là 

   - " Người tín hữu giáo dân, cũng như tất cả các thành phần của Giáo Hội, là những nhánh có gốc rễ trong Chúa Ki Tô, là Cây Nho thật, được Người làm cho sống và trở nên những người đem lại sự sống cho người khác " ( Christifideles laici, n. 9).  

Như vậy người tín hữu giáo dân có căn tính thiết yếu của mình bởi sự kiện là vì họ ở trong Chúa Ki Tô, như là cành nho sống.

Điều đó mặc nhiên hàm chứa đặc tính tín hữu giáo dân của tín hũu Chúa Ki Tô có nền tảng trước tiên trên quyết định của con người

   - chấp nhận đồ án cứu rổi của Thiên Chúa, như là ơn ban nhưng không,

   - chọn lựa Chúa Ki Tô như là khuôn mẫu của cuộc sống

   - và để cho mình được biến đổi hình dạng trong trường phái của lời Người.

Như vậy, nói cho cùng, căn tính hay bản tính của người tín hữu giáo dân chính yếu là

   - được đặt nền tảng trên bản tính Chúa Ki Tô,

   - trên sự kiện thuộc về Người ,

chớ không phải trên sự kiện " không phải là giáo sĩ ". 

Căn tính vừa kể được đặt nền tảng kế đến trên việc

   - đã được lãnh nhận Phép Rửa

   - và nhờ Phép Rửa trở thành tạo vật mới trong Chúa Ki Tô.

Kế đến, trên căn tính nầy, mà trong lòng cộng đồng các môn đệ Chúa Ki Tô có được nhiều phận vụ khác nhau và các phẩm trật phân biệt nhau. 

Nhu vậy Công Đồng Vatican II đặc tâm chú ý đến sự kiện là người tín hữu giáo dân cần phải được xem là  người,

   - không phai vì không có được một chức vụ thừa tác viên được truyền chức hay vì không phải là một tu sĩ,

   - mà là người đã được rửa tội, hội nhập vào Chúa Giêsu và được kiến tạo thành dân Chúa nhờ Phép Rửa " ( Lumen gentium, n. 31).

Và với tư cách đó, sự hiện diện của người tín hữu giáo dân giữa trần thế là sự hiện diện để hội nhập văn hoá Phúc Âm vào dòng lịch sử.

Chúng ta có thể xác nhận căn tính người tín hữu giáo dân theo 4 chiều hướng

1) Người tín hữu giáo dân là người đã được nhận Phép Rửa.

Xác nhận điều đó, có nghĩa là chúng ta đặc tâm chú ý đến tiến trình, trong đó Thiên Chúa muốn cứu rổi nhân loại, ban cho con người có phương tiện để đến với đức tin và hội nhập hiệp thông với Người.

Trong phương thức đó, con người cảm nhận mình được liên hệ vào tiến trình làm cho mình dần dần ý thức được rằng Phép Rửa đã tác động thế nào trong cuộc sống mình và làm cho mình có được tất cả các đặc tính của người môn đệ Chúa Ki Tô, mà đặc tính trước tiên giữa các đặc tính đó, đó là Điều Răn Yêu Thương

   2) Người tín hữu giáo dân được hội nhập vào Chúa Ki Tô.

Xác nhận vừa kể nhấn mạnh rằng bản tính của người nhận được Phép Rửa, chúng ta cần phải tìm ra điều mới mẻ được tác dụng của Phép Rửa mang lại cho. Đó là Phép Rửa làm cho người nhận được trở thành con Thiên Chúa trong Chúa Giêsu. 

   3) Người tín hữu giáo dân là thành phần Dân Chúa.

Là phần của Dân Chúa mới, làm cho người nhận được Phép Rửa thành " người được tuyển chọn ", được Chúa tuyển chọn với mục đích chính xác để nhớ rằng, bằng căn tính của mình, ngay cả trước khi bằng sứ mạng, nhân chứng cho tất cả mọi người Thiên Chúa hiện diện trong dòng lịch sử của họ để cứu độ họ, nhờ vào sự chấp nhận của họ trở nên thành phần dân Người

   4) Người tín hữu giáo dân khác với các thừa tác viên được truyền chức.

Người tín hữu giáo dân là người sống ơn gọi Phép Rửa của mình, thiết lập Vương Quốc của Chúa, bằng

   - một cuộc sống theo tinh thần trọn hảo của Phúc Âm

   - và thể hiện công cuộc chuyên cần dấn thân của mình loan báo Phúc Âm trước thế gian,

   - gánh nhận lấy các vấn đề phức tạp trần thế, bởi vì người tín hữu giáo dân đang hiện diện giữa những thực thể đó như là dấu chứng đặc tâm nhân từ và cứu độ của Chúa.

Vị thừa tác viên được truyền chức trái lại, là thực thể được Vị Thầy Chí Thánh muốn, để cho cộng đồng Dân Chúa mới có được giữa các Tông Đồ

   - những con người được Chúa Thánh Thần soi sáng,

   - có khả năng xác nhận các ân sủng được Chúa ban cho trong Dân Chúa

   - và phát huy các ân sủng đó vì lợi ích cho cộng đồng.

Căn tính của người tín hữu giao dân cũng khác với căn tính của các tu sĩ và các thành phần được truyền chức .  Khác, nhưng không phải vì đó mà căn tính của người tín hữu giáo dân thấp kém hơn, đúng hơn chỉ khác nhau mà thôi,

   - khác nhau về phương diện thuộc về chức linh mục của Chúa Ki Tô đối với sứ mạng nội bộ của Cộng Đồng Dân Chúa và cấu trúc,

   - cũng như khác nhau về phương diện dấn thân chuyên cần giữa thế giới.  

Qua những gì vừa duyệt xét để tìm hiểu, chúng ta được hướng dẫn một cách ngắn gọn vào phẩm giá của người tín hữu giáo dân ( Christifideles laici, n. 14)

Nhân phẩm của người tín hữu giáo dân, trước tiên chúng ta nên nên tìm hiểu dựa trên sự kiện họ là con người và với tư cách là con người, phẩm giá của họ được dựa trên nền tảng cá biệt của mình, đó là hình ảnh và giống như . Thiên Chúa.

Điều đó cho biết con người là tạo vật duy nhứt giữa các tao vật trần thế có ý thức và tự do, trung tâm điểm và thượng đỉnh của tất cả những gì hiện hữu trên mặt đất.

Như vậy, nguồn mạch xa của phẩm giá người tín hữu giáo dân là tính chất " bà con, máu mủ " giữa người tín hữu giáo dân tạo vật và Thên Chúa, Đấng Tạo Hoá, tức là " được dựng nên giống hình ảnh và giống như Thiên Chúa " ( Gen 1, 26 - 27).

Điều vừa kể, một khi được biết đến nhờ Mạc Khải cho, sẽ hướng dẫn người tín hữu giáo dân chấp nhận con đường Ki Tô giáo, và qua Phép Rửa, trở thành thành phần sống động của Thân Thể Mầu Nhiệm Chúa Ki Tô, đó là Giáo Hội, mà người tín hữu giáo dân là thành phần cấu trúc, để đem ơn cứu rổi được Chúa Giêsu tác động vào lịch sử hằng ngày của thế gian.

Tất cả những điều đó trở thành khả thi, bởi lẽ nhờ ân sủng Phép Rửa, người tín hữu giáo dân đã trở thành " con trong Chúa Con ", và là đàn em của Chúa Giêsu.

Trở thành em của Chúa Giêsu có nghĩa là mình đã được thông hiệp với Chúa Cha, mà Chúa Ki Tô là Con, thông hiệp nhờ động tác của Chúa Thánh Thần. 

   2 - Tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Ki Tô.

Vẫn nhờ Phép Rửa, người tín hữu giáo dân thể hiện sâu đậm hơn căn tính nầy của mình, bằng cách chia xẻ chức vụ phục vụ của Chúa Giêsu, Người Tôi Tớ Chúa, bằng cách thực hiện và tham dự, giữa thực tại trần thế, ba "munera Christi, " phận vụ của Chúa Giêsu ", tư tế, ngôn sứ và vương giả. 

   a) Tham dự vào chức vụ tư tế của Chúa Ki Tô.

Công Đồng xác nhận rằng, người tín hữu Chúa Ki Tô, với Phép Rửa, đã trở nên mật thiết kết hợp với đời sống và sứ mạng của Chúa Ki Tô, từ đó cũng tham dự vào chức vụ tế tự của Người.

Như Chúa Giêsu đã biết dâng hiến chính mình, trở thành của lễ đẹp lòng Chúa Cha để hoà giải lại giữa Thiên Chúa và con người, cũng vậy người tín hữu giáo dân phải nhìn và đặt mục đích cho thực tại trần thế, thiết định trong đời sống của mình một sự thông hiệp sâu đậm với Chúa Thánh Thần. Bởi vì chính Người cho họ có khả năng " làm cho trở nên thánh thiện " - nghĩa là đưọc Chúa chấp nhận - việc làm, niềm vui, sự đau khổ, lời cầu nguyện của mình.

Như vậy, phận vụ tư tế của người tín hữu giáo dân là hoán chuyển trong thực tại nơi mình đang sống và hành động thành chiều kích thiêng liêng, bằng cách làm trở thành tư tưởng và ý nghĩa điều mà tâm hồn nhân loại cảm nhân và tìm cách thực hiện trong nhũng hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống.

Người tín hữu giáo dân tham dự vào chức vụ tư tế của Chúa Ki Tô, khi thực hiện các động tác của mình trong nhãn quang Phúc Âm và dâng lên Chúa Cha, như là dấu chứng ngợi khen và yêu thương Người. 

   b) Tham dự vào chức vụ ngôn sứ của Chúa Ki Tô. 

Suy nghĩ về những gì Công Đồng Vatican II đã nói, Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II cho biết thế nào căn tính kể trên  của người tín hữu giáo dân trở nên nguồn mạch để họ có khả năng tác động:

   - " Việc tham dự vào chức vụ ngôn sứ của Chúa Ki Tô...khiến cho người tín hữu giáo dân có khả năng và bổn phận phải đón nhận Phúc Âm trong đức tin và loan báo bằng ngôn từ và bằng hành động, bằng cách không nghi ngại can đảm tố giác sự ác. Hiệp nhứt với Chúa Ki Tô, " Vị Đại Ngôn Sứ " ( Lc 7, 16), và được thiết lập nên trong Chúa Thánh Thần thành  " các chứng nhân Chúa Phục Sinh "; các tín hữu giáo dân được làm cho tham dự theo ý nghĩa đức tin thiêng liêng của Giáo Hội không thể sai lầm vào đức tin, cũng như vào ân sủng của lời Chúa ( Act  2, 17-18; Ap. 19, 10). Người tín hữu giáo dân cũng được kêu gọi làm chiếu sáng lên điều mới mẻ và sức mạnh của Phúc Âm trong đời sống hằng ngày của mình, trong gia đình, ngoài xã hội; cũng như phát biểu lên, với lòng nhẫn nại và can đảm trong các trạng thái đối nghịch của thời đại hiện tại sự hy vọng của mình vào niềm vinh quang, ngay cả trong các cấu trúc của đời sống trần thế " ( Christifideles laici, n. 14).

Tham dự vào địa vị ngôn sứ của Chúa Ki Tô bắt buộc người tín hữu giáo dân chính yếu phải sống điều mà mình là nhân chứng của Phúc Âm.    

   c) Tham dự vào chức vụ vương giả của Chúa Ki Tô.

Công Đồng Vatican II phát hoạ đường hướng chức vụ vương giả của Chúa Ki Tô và sự tham dự của người tín hữu giáo dân vào chức vụ đó như sau:

   - " Chúa Ki Tô đã làm cho mình vâng lời cho đến chết và bởi đó Người được Chúa Cha nhắc lên vào vinh quang của Vương Quốc; dưới chân Người mọi vật đều được đặt phục tùng bên dưới, để cho Người đặt chính mình và mọi tạo vật vâng phục Chúa Cha, để Thiên Chúa là tất cả trong mọi loài. Quyền năng nầy, Chúa Giêsu đã thông ban cho các môn đệ, để các các vị cũng được thiết lập nên trong tự do vương giả " ( Lumen Gemtium, n. 36). 

Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II lấy lại tư tưởng đó và xác nhận:

   - " Nhờ vào việc họ thuộc về Chúa Ki Tô là Chúa và là vua vũ trụ, người tín hữu giáo dân tham dự vào chức vụ vương giả của Người và họ được mời gọi phục vụ Vương Quốc của Thiên Chúa và loan truyền Vương Quốc đó trong lịch sử. Họ sống đời sống vương giả Ki tô giáo, trước tiên là qua việc chiến đấu thiêng liêng để chiến thắng nơi chính mình vương quyền của tội lỗi ( Rom 6,12) và kế đến bằng việc dâng hiến chính mình để phục vụ, trong bác ái và công lý. Chính Chúa Giêsu hiện diện nơi tất cả đàn em của Người, nhứt là nơi những ai bé mọn " ( Mt 25, 40) ( Christifideles laici, n. 14).    

Như vậy, người tín hữu giáo dân có thể nhập thể và thực hiện phận vụ vương giả của Chúa Ki Tô, bằng ba phương thức:

   - bằng cách chiến thắng nơi chính mình vương quyền của tội lỗi,

   - đưa anh em vào Vương Quốc của Chúa Ki Tô

   - và thiết lập mọi sự trong Chúa Ki Tô. 

Tiến sĩ Nguyễn Học Tập

VỀ MỤC LỤC
QUAN NIỆM VỀ PHÁI TÍNH (3)
 

DẠY VỀ PHÁI TÍNH

Ấn tượng về tình ái được củng cố bỡi cách thức trong đó con trẻ được cắt nghĩa để hiểu về những sự việc của cuộc đời. Sự cắt nghĩa về tình ái thường đi kèm với sự lúng túng về tâm lý vì ở đây sự phát triển tự nhiên của đứa trẻ bị ngăn trở bỡi sự do dự chu toàn những bổn phận tự nhiên của cha mẹ. Không may, cha mẹ được nuôi dưỡng lớn lên trong sự chế ngự liên quan đến những vấn đề tình ái nên bị lúng túng bỡi những câu hỏi của đứa trẻ, và vì thế hoặc không trả lời gì cả hoặc nếu không làm giận dữ đứa trẻ họ tránh vấn đề. Đứa trẻ cảm thấy có một cái gì sai với đối tượng của sự tò mò của nó nếu không nói với chính nó. Nhiều đứa trẻ vì thế, đặc biệt là con gái không bao giờ tỏ ra ra thích thú trong vấn đề nầy, và sự nhút nhát cũng như khuynh hướng muốn tránh sự đụng chạm với vấn đề nguy hiểm nầy có thể ngăn cản sự chấp nhận của bất cứ sự giải thích nào hoặc sản xuất một khủng hoảng trầm trọng nếu chúng phải đối diện với những sự việc như thế. Dưới những điều kiện ưu đãi hơn, những đứa trẻ mà ngay từ đầu sự tò mò tìm hiểu của chúng bị làm thất vọng, phải trải qua một giai đoạn mơ hồ, trong đó chúng tỏ ra không còn chút gì thích thú về bất cứ vấn đề phái tính nào cho tới khi nhu cầu cho một kiến thức rộng rãi hơn về vấn đề đó đòi hỏi. Nếu may mắn, chúng tìm được những thầy giáo hoặc những người lớn được chúng yêu quí cung cấp cho những thông tin cần thiết trong một cách thế thích hợp và lành mạnh. Nhưng  thường nguồn thông tin hoặc được cống hiến bỡi những người lớn không được chính xác lắm, hoặc bằng văn chương không tốt, hoặc bằng những tranh cãi gợi đầy gợi cảm của những đứa bạn ở học đường chỉ cho biết được một nửa.

Thật ra, toàn thể vấn đề có thể được giải quyết một cách dễ dàng và thích hợp nếu bố mẹ được huấn luyện một cách đầy đủ. Hai điều kiện tiên quyết cần phải có cho bất cứ một người lớn nào bị hỏi bỡi một đứa trẻ: - thoát khỏi sự lúng túng – và nên trả lời cho câu hỏi của con trẻ ngay cả ở vào tuổi còn quá sớm nhưng trong cách thế thích hợp. Bố mẹ sẽ không giận dữ câu hỏi của đứa trẻ như: cái chớp của sấm sét đến từ đâu? Nhưng câu hỏi nầy thì xa vời với những vấn đề của cuộc sống. Vậy tại sao bố mẹ lại giận dữ với câu hỏi xem ra thực tế hơn, có liên quan đến cuộc sống hơn: con trẻ đến từ đâu? Hãy trả lời mọi câu hỏi mà con trẻ có thể hỏi một cách chính xác nhưng không đi quá đòi hỏi được làm bỡi câu hỏi. Câu hỏi của con trẻ diễn tả sự thích thú của nó và khả năng hiểu biết của nó. Vì thế, bố mẹ nên lắng nghe cách cẩn thận ý nghĩa của câu hỏi. Sự bỏ quên qui luật nầy là một trong những nguồn thông thường nhất của sự bối rối của bố mẹ. Thay vì lắng nghe câu hỏi của con trẻ, họ tưởng tượng nó sẽ hỏi câu hỏi gì kế tiếp. Nhưng điều đó không xảy ra hoặc ít là nó không thể cho tới khi nó đủ khôn lớn qua nhiều năm tháng.

Khi đứa trẻ hỏi: Con trẻ đế từ đâu? Câu trả lời chính xác la: Từ mẹ. Không có gì lúng túng trong cự việc nầy ngoại trừ những ý nghĩ không được trong sáng mà chỉ người lớn tức khắc liên kết với. Tuy nhiên, đứa trẻ thì thõa mãn. Sau đó một thời gian nó sẽ hỏi: Làm sao đứa trẻ vào trong mẹ? Một lần nữa câu trả lời cũng chỉ đơn giản: Từ người cha. Đối với đứa trẻ như vậy là đủ, nó không hề nghĩ gì khác vì con trẻ không thích những phản ứng tự động thuộc về thể lý. Ngay cả câu hỏi sẽ được hỏi vào những năm sau đó: Làm sao đứa trẻ đi từ cha vào trong mẹ? Bấy giờ câu hỏi có thể được trả lời với sự cắt nghĩa của tình yêu trong hôn nhân, là cái sẽ làm thỏa mãn sự tò mò muốn tìm hiểu của đứa trẻ đã đến tuổi khôn lớn đủ để hiểu. Trong cách thế đó, những cha mẹ có trình độ hiểu biết sâu rộng có thể dẫn đứa trẻ đi vào sự trưởng thành, đồng thời cũng có thể yêu cầu cô giáo hoặc bác sĩ cắt nghĩa thêm cho nó một cách chính xác nếu sách vở không co những thông tin thích hợp với lứa tuổi của nó.

Cần sự lưu ý và cố gắng lắng nghe khi đứa trẻ hỏi những câu hỏi như thế. Bố mẹ phải bảo đảm rằng những câu hỏi nầy là những diển tả chân thành muốn tìm hiểu chứ không phải là những dụng cụ để chiếm sự chú ý. Bất cứ ai quen với kỷ thuật giáo dục có thể nhận thấy cách dễ dàng những câu hỏi thật hay giả và hình thức thích lập đi lập lại những câu hỏi giống như vậy.

SỰ SỚM TÌM HIỂU VỀ PHÁI TÍNH CỦA ĐỨA TRẺ

Một yếu tố khác cũng làm ngăn trở sự phát triển của thái độ tự nhiên đối với phái tính trong con trẻ, đặc biệt là nơi con trai. Trẻ con nhìn thân thể chúng như một phần của vũ trụ lạ lùng và xem xét rất kỹ. Những cha mẹ lo lắng thái quá, khi khám phá ra chúng có những hành động như thế, trở thành quá lo lắng và thường vụng về cố gắng ngăn cản những hành động sờ chim. Phớt lờ những tìm tòi về thân thể của đứa trẻ thì ít nguy hiểm hơn là làm nó sợ hãi, vì chúng ta biết rằng chuyện thủ dâm từ khuynh hướng tự nhiên của đứa trẻ thì ít hơn là như một kết quả của sự can thiệp bạo lực vào những hành động vô nghĩa và vô hại. Hầu hết những thói quen xấu của con trẻ thì được vun trồng một cách khéo léo dầu không có ý hướng bỡi cha mẹ và vú nuôi là những người không biết rằng đứa trẻ bình thường có khuynh hướng lập đi lập lại bất cứ cử động nào mà nó bị cấm. Vì thế, sự can thiệp của người lớn vào việc tò mò tìm hiểu của đứa trẻ, không ngăn cản được hành động của nó mà còn khuyến khích nó thêm thực hành và tạo nên những xung khắc tâm thần, là cái trở nên nguy hiểm trong suốt thời kỳ niên thiếu hơn là những kết quả về thể lý. Đặt nơi đứa trẻ niềm tin rằng cơ quan sinh dục là dơ bẩn và là điều cấm kỵ, và như vậy liên kết chúng với tội là một sự đầu độc đầu óc đứa trẻ.

Những kinh nghiệm phái tính đầu tiên của một đứa trẻ ảnh hưởng thái độ của nó đối với phái tính. Những kinh nghiệm như thế xảy ra rất sớm. Lớn lên nó quên đi, nhưng tất cả con trẻ đều kinh nghiệm sự hồi hộp về phái tính, đứa thì rõ ràng, đứa thì mơ hồ. Những người lớn hôn đứa trẻ trên miệng nó mà không chút nghi ngờ phản ứng của nó. Những kích thích nhè nhẹ về cảm xúc phái tính không giới hạn cho một tuổi nào. Một số trò chơi, những thực tập thể dục, hoặc những cử động được lập đi lập lại gợi lên những kích thích tương tự. Cảm giác sợ thường gợi lên sự kích thích phái tính. Trẻ con không thể cắt nghĩa những cảm giác nầy dầu chúng có được sự thõa mãn lớn lao từ đó. Cha mẹ có thể giúp làm giảm bớt sự tai hại từ những kinh nghiệm huyền bí nầy nếu họ có sự tin tưởng tràn đầy của con cái họ. Tuy nhiên, hầu hết bố mẹ qua sự can thiệp đầy khiển trách trước đây, đã làm mất đi niềm tin của con cái bao lâu vấn đề phái tính được quan tâm. Sự thảo luận tình cờ không hồi hộp, không lúng túng có thể cất đi sự lẫn lộn của đứa trẻ.

Lm Lê Văn Quảng Psy.D.

VỀ MỤC LỤC
ÂM MƯU MỚI  
 

Chuyện kể rằng, tận dụng sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là internet, Lucifer triệu tập các tướng lãnh ma quỉ để tìm âm mưu mới bày kế ám hại con người. Sau khi nghe phân tích tình hình thế giới, ôn lại những phương cách mà chúng thường dùng để đánh gục con người, Lucifer treo giải thưởng cho âm mưu mới trong việc ám hại con người.

* * *

Tôi có ý kiến, chú quỉ cầm đầu bộ “đam mê” lên tiếng. Chúng ta nên tận dụng internet để tiếp tục cám dỗ đam mê xác thịt của con người. Đánh vào giới nào cũng chết cả vì ai ai cũng có internet. Tiếp đến, chú quỉ cầm đầu bộ “lòng tham” lên tiếng. Thời buổi thông tin toàn cầu ai cũng muốn kinh doanh và kiếm tiền để tìm sự an toàn cho tương lai; trân thủ, chúng ta nên cám dỗ con người về tiền bạc, chiến tranh. Cứ gieo rắc sự an nguy, cứ gieo rắc sự hưởng thụ thì làm cho người dân ham kiếm tiền, còn giới chính trị ham đánh nhau. Như thế thế giới này sẽ loạn lên trong hận thù và ghen ghét.

Hội đồng tướng lãnh quỉ đang đăm chiêu suy nghĩ nhìn Lucifer quyết định, bỗng từ dưới cuối phòng xuất hiện một chú quỉ già, hắn đứng lên góp ý. “Thưa quí vị, cám dỗ về nhục dục thì chúng ta đã dùng từ lâu, nó hiệu quả, nhưng nó cũng giới hạn. Cám dỗ về tiền bạc, quyền lực cũng là phương sách cũ, có gì mới đâu; mà thực ra ý kiến của hai chú cũng chẳng ăn nhập gì với chủ ý của thủ lãnh Lucifer. Chúng ta nhớ là con người đang sống trong thời đại internet, cái gì cũng nhanh, tốc độ, nhắy mắt. Vậy chúng ta hãy tận dụng sự phát triển tối ưu này để cám dỗ con người. “Nhưng bằng phương cách nào?” hội đồng nhìn quỉ già sốt sắng hỏi. Chú chậm rãi thưa, “Thiên Chúa là Đấng rất kiên nhẫn. Quí vị coi, Ngài đã rất kiên nhẫn trong việc thực thi chương trình cứu độ. Từ cái vụ tụi mình đánh gục được Adam và Eva, Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn để từ từ cứu độ con người qua Đức Kitô; và đến bầy giờ Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn để chờ đợi con người, và kiên nhẫn yêu thương con người. Cái hay là Ngài không ép con người, mà chỉ kiên nhẫn, tôn trọng và chờ đợi họ thực tâm trở về. Vì thế, tôi nghĩ, chúng ta cám dỗ con người đi ngược lại với sự kiên nhẫn của Thiên Chúa là hiệu quả nhất. Vậy hãy dùng internet, dùng đời sống hiện đại, dùng xe cộ cao tốc, dùng mọi phương tiện mà do con người sáng chế trong thời đại kỹ thuật số để đánh gục chúng, tức là làm cho con người mất khả năng kiên nhẫn.”

Nói tới đây, hội dồng xem chừng vẫn chưa thông suốt nên đồng thanh lên tiếng. “Nhưng mà kiên nhẫn thì có liên hệ gì tới phần rỗi của chúng?” “Ha, ha, ha.” Khỉ già cười vang, “Mấy chú nghĩ coi, chỉ cần một cái click chuột thì con người có bất cứ mọi hàng hóa chúng muốn; chỉ cần ngồi lên xe cao tốc, chúng sẽ đi đến ngay nơi mà chúng muốn; chỉ cần ăn vội cái hamburger là chúng đã ăn xong một bữa ăn…như thế cám dỗ cho con người sống trong vội vàng, cho người phải chạy đua với thời gian, cho con người luôn lao mình phía trước cho kịp với “cái click chuột” chẳng phải hiệu quả hay sao?” Khỉ già tiếp, “Càng chạy đua với thời gian, con người quên đi quy luật tự nhiên của Thiên Chúa tiền định, càng quên đi khả năng lắng nghe chính mình, và càng không bận tâm đến những người xunh quanh. Khi không chấp nhận sống theo tiến trình của quy luật tự nhiên, con người bước ra khỏi sự tiền định bao bộc của Thiên Chúa; khi không lắng nghe chính mình, con người không biết mình đang đi về đâu; khi không đồng hành với người thân và đồng loại, con người hành trình một mình trong cô đơn. Như thế, họ trở nên miếng mồi ngon cho chúng ta.” Nghe tới đây, hội đồng quỉ tỏ vẻ thán phục. “Quỉ già nói đúng, kế hoạch này xem rất đúng với đời sống hiện đại.” Quỉ già tiếp, “Cám dỗ cho con người cảm thấy cái gì họ cũng cần phải có ngay, đi tới ngay, ăn ngay, lập gia đình ngay, ly dị ngay, lành bệnh ngay,… tức là để họ luôn luôn cảm thấy là mình phải làm cái gì đó cho xong; xong hết cái này rồi phải xong cái khác; và như thế họ không bao giờ biết là mình sống để làm gì, làm việc để làm gì, và thậm chí ăn để làm gì. Bị sập bẩy này, con người mất phương hướng, và mất kiên nhẫn khi cứ van xin Thiên Chúa phải cứu mình thật nhanh như một cái ‘click chuột.’ Khi sập bẩy này, chúng không đủ kiên nhẫn với Thiên Chúa, không kiên nhẫn với quy luật tư nhiên, và không kiên nhẫn với chính mình và người khác. Như thế, chúng vội vàng tìm sự đáp ứng bằng những cái “click chuột” mà chúng ta dụ dỗ chúng. Chúng chết chắc! Nhờ sáng kiến này, quỉ già được trao giải nhất.

* * *

Bạn thân mến, qua chín đề tài về Kiên nhẫn – Kiên cường của mục Sống Sao Cho Đẹp mà chúng ta đã chia sẻ, trong bài cuối này, câu chuyện tưởng tượng trên nói lên điều gì trong đời sống của con người hiện đại?

Con người hôm nay thích “doing” (làm), mà không ý thức “being” (là). Cứ vội vàng, và vội vàng như cái máy mà không biết mình đi đâu. Chạy xe thật nhanh, bấm còi inh ỏi, thế nhưng khi đến đèn đỏ cũng dừng lại như bao xe khác có phải không? Chen lấn xếp hàng, vội vàng tìm chỗ nhất, nhưng cũng chia sẻ một cuốn phim, cùng ăn một cái bánh, phải không bạn? Vội vàng chạy đua với thời gian, làm hết việc này đến việc khác, tham gia “sinh hoạt” này đến sinh hoạt khác, mà không biết mình làm để làm gì, cho ai, với mục đích tối hậu là gì, thì liệu có ổn không? Dù bạn chạy nhanh hay chậm, làm nhiều hay ít nhưng kết điểm đến của tất cả chúng ta cũng chỉ là nấm mồ bình lặng, âm thầm ngàn thu. Như thế, vấn đề là bạn sống cho ai, mục đích gì, và về đâu, chứ không phải bao nhiêu việc đã giúp danh bạn nỗi lên trong cuộc đời này!

Chúng ta hãy cầu chúc nhau học biết kiên nhẫn để nên trọn vẹn “Là” chính mình trước khi “Làm” cho người khác.

Br. Huynhquảng

www.brhuynhquang.org

VỀ MỤC LỤC
LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG SỨ VỤ TRONG CÁC MỐI TƯƠNG QUAN 

 

Mời thăm Blog của Lm. Trần Minh Huy http://www.chivilongchuathuongtoi.tk/

Tác phẩm: ĐÀO TẠO ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN

Lm. Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss

CHƯƠNG NĂM 

ỨNG SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN HỌC SỐNG CĂN TÍNH VÀ SỨ VỤ LINH MỤC

C. LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG SỨ VỤ TRONG CÁC MỐI TƯƠNG QUAN 

Các nhà tu đức nói rằng linh mục không lên thiên đàng hay xuống hỏa ngục một mình, mà còn kéo theo nhiều người khác nữa, nhất là những người được trao phó cho sự chăm sóc mục vụ của linh mục. Linh mục không sống trong ốc đảo, mà sống với, sống vì và sống cho các linh hồn. Vì thế đời sống thánh thiện hay không của linh mục được thể hiện trong các mối tương quan, nhờ các mối tương quan hay do các mối tương quan, nhất là đối với linh mục triều: nên thánh bằng các thừa tác vụ của mình.   

Ngày nay người ta nhấn mạnh nhiều về Giáo Hội tham gia, Nguyên lý bổ trợ và Thần học mục vụ dấn thân, cũng như sự cộng tác và vai trò của giáo dân trong hoạt động dưỡng giáo và truyền giáo của Giáo Hội, nhằm giúp linh mục thực thi sứ vụ cách tốt đẹp trong lòng Giáo Hội và Xã Hội Việt Nam đang biến đổi từng ngày, mà mỗi người phải biết thay đổi chính mình cho thích hợp và hiệu quả, không đợi đến lúc bị bó buộc phải thay đổi, sợ e đã quá muộn chăng: vì một khi người ta muốn một người phải thay đổi đường lối mà không được thì họ sẽ tìm cách thay thế (loại bỏ) con người đó, ít nhất là vô hiệu hóa hoạt động, uy tín và ảnh hưởng của người đó! 

Chính trong định hướng mục vụ này, chúng ta sẽ xét đến đề tài “Linh mục giáo phận sống sứ vụ của mình trong các mối tương quan.” Thật ra đây là đúc kết các bài làm nhóm có hướng dẫn, được cập nhật và hiệu đính sau mấy khóa học của các lớp Thần học Đại chủng viện thánh Giuse Hà Nội và lớp Thần học Bổ túc Bùi Chu. Sự hợp tác giữa giáo viên và học viên này vừa áp dụng phương pháp sư phạm Kích Biện Pháp vừa sử dụng Phương Pháp Luận Sáng Tạo. Nỗ lực để tăng cường, củng cố và cải thiện các mối tương quan tốt lẽ ra phải có sự tương tác đối xứng về cả hai phía, nhưng ở đây nhấn mạnh hơn về phía các linh mục giáo phận tương lai vì mục đích đào tạo và tự đào tạo của họ. 

C.1. Tương quan với Giám Mục Bản Quyền

C.1.a Những gì nên cư xử, nói và làm

·        Thái độ của linh mục đối với Giám mục Bản quyền là hợp tác, vâng lời, tình bạn; nhìn thấy nơi Ngài một người cha thực sự và vâng phục Ngài với tất cả lòng kính trọng, thương yêu, thảo hiếu. Sự vâng lời càng đến từ con tim thì mối tương quan giữa Giám Mục và linh mục càng trở nên gần gũi và tốt đẹp.

·        Thánh Giêrônimô dạy “hãy vâng phục và đón nhận Giám mục như Đấng sinh thành linh hồn ta”. Thánh Ignaxiô thì nói “hãy theo Giám Mục như Chúa Giêsu theo Chúa Cha”. Còn thánh Augustinô căn dặn “Người dưới cần vâng phục người trên như chính mình muốn những người dưới mình vâng phục mình. Hãy giữ tôn ti trật tự, hãy tìm sự an bình.”

·        Quảng đại cam kết trung thành tuân giữ tất cả và từng quy luật, tránh mọi hình thức tuân giữ từng phần theo tiêu chuẩn chủ quan, gây chia rẽ ảnh hưởng đến giáo dân và dư luận công cộng, thiệt hại nặng nề về mục vụ.

·        Cởi mở trong đối thoại và hiệp thông trong tình yêu thương chân thành, cùng linh mục đoàn hiệp nhất chung quanh ngài.

·        Báo cáo hiện tình giáo xứ. Trình bày những khó khăn của mình (những vấn đề cá nhân cũng như khi thi hành sứ vụ); trình bày chương trình, kế hoạch của giáo xứ.

·        Sẵn sàng hợp tác và thi hành nhiệm vụ được Đấng Bản Quyền trao; sẵn sàng rời bỏ nhiệm vụ và nhiệm sở khi ngài cần. Vâng lời trong trạng thái nội tâm và sẵn sàng làm theo ý ngài.

·        Thánh Phaolô đã nói về Chúa Giêsu “đã vâng lời đến chết và chết trên thập giá”, vì thế cần vâng lời triệt để. Thánh nhân còn dạy: “Chúa Giêsu đã học biết thế nào là vâng lời nhờ các đau khổ của Người[1]

·        Vâng lời, kính trọng, hợp tác với Giám mục trong tất cả công việc của giáo phận. Sống tình bạn, gần gũi, yêu mến, nâng đỡ Ngài bằng lời cầu nguyện hằng ngày để giúp ngài chu toàn trách nhiệm nặng nề mà ngài phải gánh vác. Thông cảm với Giám mục, vì ngài cũng có thể có yếu đuối, thiếu sót và bất toàn của con người như chúng ta.

·        Tóm lại, sự vâng phục chẳng làm mất giá trị của linh mục, nhưng đề cao giá trị trách nhiệm Chúa trao cho; vâng lời với tất cả lòng kính trọng và vâng phục đến từ con tim chứ không phải bởi quyền lực và lý lẽ. 

C.1.b Những gì không nên cư xử, nói và làm

·        Không vận động xin được bổ nhiệm chức vụ; không tự ý xin nhiệm sở, hay đến một nơi nào; không từ chối đến nơi nào khi được Bản quyền yêu cầu.

·        Không lạm dụng lòng khoan dung, nhân từ, rộng lượng, cởi mở của ngài mà cầu vinh, “a dua, xu nịnh”

·        Làm mọi việc theo ý Đấng đã sai mình, chứ không phải là làm theo ý kiến cá nhân của mình.

·        Không bao giờ làm gì ngoại lệ tại giáo xứ mình được trao phó mà không được phép của Đấng Bản Quyền.

·        Để giữ sự hòa hợp trong giáo xứ, không tùy tiện làm theo ý riêng hay ý của một người hay nhóm nào đó trong giáo xứ, mà phải làm theo qui định chung của Giáo Phận.

·        Không vào bè phái, phe nhóm, gây áp lực, khó dễ, hay nói với giáo dân và những người khác những điều không cần thiết về Giám mục của mình.

·        Tránh lối tùng phục “bằng mặt mà không bằng lòng” hay “quyền phục, lý phục mà tâm không phục”.

·        Không nên vội vàng và nông nổi phê bình, chỉ trích, chống đối, xa lánh Giám mục khi ngài có những quan điểm và cách làm không giống ta; không nói hành, nói xấu, than phiền về ngài với anh em như “đổ dầu vào lửa” dẫn đến tình trạng bất hợp tác, kính nhi viễn chi.

·        Trong những chuyện gay cấn và xung đột, không được giấu diếm hay dối trá với Giám Mục. Phải thành thực trình bày rõ ràng đúng thực tế, không che đậy hay phóng đại. Nêu rõ các phải trái, lỗi lầm của mình và của đối phương, để giúp Giám mục sáng suốt phân định cách xử trí đúng đắn. Không tìm gây ảnh hưởng trên Giám mục và lừa dối Ngài để kéo Ngài về phe mình và công nhận việc mình làm, trái với sự thật và công bằng.

C.2. Tương quan với các linh mục đàn anh, nhất là đối với cha sở của mình

C.2.a Những gì nên cư xử, nói và làm

·        Kính trọng các linh mục đàn anh vì họ là người đi trước, nhiều kinh nghiệm, nhiều hy sinh và nhiều cống hiến cho Giáo Hội. Yêu mến trong tình huynh đệ bí tích; hợp tác trong công việc; hiệp nhất trong linh mục đoàn.

·        Tỏ lòng biết ơn và luôn giữ mối tương quan trong tình tương thân tương ái với các linh mục đàn anh, hiểu hoàn cảnh cụ thể của các ngài.

·        Cầu nguyện cho các ngài để các ngài bền vững trong ơn gọi linh mục của mình, vì dẫu là linh mục của Chúa đã nhiều năm nhưng vẫn còn đó sự yếu đuối của con người và sự mỏi mệt của trách nhiệm, tuổi tác và bệnh tật.

·        Cảm thông với người lầm lỗi; trung dung trong các tranh cãi; khiêm tốn học hỏi kinh nghiệm. Tìm dịp thuận tiện để thăm viếng, an ủi các đấng ốm đau, bệnh tật.

·        Cần học hỏi kinh nghiệm, đời sống thiêng liêng, và đời sống tông đồ của các ngài. Nhiệt thành làm những gì cha xứ phân chia, để làm việc tôn vinh Thiên Chúa và cứu rỗi các linh hồn, theo đúng lý tưởng, ơn gọi và thiên chức linh mục.

·        Luôn đặt cha xứ ở vị trí ưu tiên, nghĩa là nhìn nhận ngài là người có trách nhiệm trong mọi hoạt động và đời sống của giáo xứ. Bàn hỏi, xin ý kiến và sự hướng dẫn của các ngài, cũng như chia sẻ kinh nghiệm mục vụ và thiêng liêng để đời sống và công việc đạt được kết quả tốt.

·        Năng lui tới và sống hiệp thông với các vị trong hạt. Luôn giữ mối liên lạc với các linh mục trong cùng một địa bàn hay cùng hạt mà mình phục vụ.

·        Đích thân và cổ vũ anh em năng đến thăm các vị đã nghỉ hưu. Có thể nhờ các ngài giải tội và linh hướng.

·        Kính trọng tuổi tác và kinh nghiệm của các linh mục đàn anh, kể cả các linh mục “đàn anh ít tuổi hơn” vì chịu chức trước. Bàn hỏi, học tập kinh nghiệm mục vụ, cộng tác với các ngài trong việc chăm sóc các linh hồn. Giúp đỡ và cảm thông khi các ngài gặp khó khăn, chia sẻ của cải, nhất là đối với các vị đau yếu, phiền muộn, cô đơn, bị hiểu lầm, bách hại. 

C.2.b Những gì không nên cư xử, nói và làm

·        Không xem thường những vị già nua, tuổi tác; không tự cao, tự đại vì kiến thức mới mẻ, vì sức khoẻ hơn người.

·        Không tách mình ra xa, cục bộ; không bè phái, chia rẽ.   Không chê trách, chỉ trích, nói xấu, công kích khi có bất đồng hoặc a dua cùng những người chống đối để hạ giá uy tín của các ngài, ham dành phần thắng và so đo tính toán thiệt hơn. 

·        Không làm việc vượt quá giới hạn cho phép của mình, hay qua mặt các ngài, phớt lờ các ngài, khi  liên quan đến việc chung của giáo xứ. Không làm việc gì liên quan đến giáo xứ mà không bàn hỏi, xin ý kiến, và sự giúp đỡ của các ngài.

·        Không nên tỏ thái độ bất hợp tác với cha xứ trong một số công việc mà mình cảm thấy không hợp lý hay không vừa ý.

·        Không chê bỏ vị tiền nhiệm đã làm việc nơi giáo xứ mà nay mình đang phục vụ. Không bài xích vị tiền nhiệm dựa vào câu nói “tân quan tân chế”, không phá đổ hay vội chỉnh sửa những công trình, vật chất cũng như tinh thần, của vị tiền nhiệm, kẻo chuốc lấy sự chống đối của những người ủng hộ ngài.

·        Không phê bình hay đòi họ phải làm giống như thế hệ của mình. Không tìm “khẳng định mình” mà vùi người lầm lỗi xuống hố.

·        Không bỏ rơi các ngài, khi các ngài gặp khó khăn thử thách về tuổi cao sức yếu, tình cảm, tính nết, nỗi cô đơn, hay sự chê trách chống đối của giáo dân.

·        Không phê bình, chỉ trích những thiếu sót, những lỗi lầm của các linh mục đàn anh, đặc biệt đối với cha xứ, vì đó có thể là những lỗi lầm của mình trong tương lai, nếu Chúa không giữ gìn.

·        Không coi thường hay thiếu kính trọng, chê bai các ngài lạc hậu không cập nhật với thời đại, khó tính, không hiểu và thông cảm với linh mục trẻ. Hãy tự hỏi mình đã làm được gì cho các ngài? 

C.3. Tương quan với các linh mục đàn em, nhất là đối với cha phó của mình

C.3.a Những gì nên cư xử, nói và làm

·        Yêu thương huynh đệ, gần gũi, cởi mở chia sẻ; sẵn sàng trao đổi kinh nghiệm và kiến thức. Ân cần, khiêm tốn, tận tình khi được yêu cầu góp ý, xây dựng.

·        Hợp tác trong công việc; hợp nhất, nâng đỡ, động viên người gặp khó khăn. Cảm thông với người lầm lỗi. Trung dung trong các tranh cãi; mau giải hoà những bất đồng.

·        Cần lo liệu cho các linh mục trẻ, nhất là cha phó của mình, trong những năm đầu mới chịu chức có những điều kiện dễ dàng về đời sống và công việc mục vụ.

·        Cầu nguyện cho các linh mục đàn em còn trẻ trong sứ mạng mới, đón nhận họ như những người em thực sự và giúp đỡ họ trong những công tác và gánh nặng đầu tiên của sứ vụ linh mục.

·        Luôn tìm cách giúp đỡ, đề bạt và cộng tác làm việc với các linh mục trẻ trong địa hạt của mình. Thông cảm và tạo điều kiện cho linh mục đàn em làm việc mục vụ tốt hơn mình càng tốt.

·        Tôn trọng những ý kiến và sáng kiến của các ngài trong đời sống thiêng liêng và mục vụ. Đồng thời phải biết lắng nghe các ngài sửa lỗi, góp ý và xây dựng cho đời sống linh mục của mình.

·        Cố gắng hiểu tâm trạng của họ, dù khác với tâm trạng mình, và quan tâm đến các dự tính của họ với lòng nhân hậu. Chia sẻ những kinh nghiệm mục vụ cho họ, vì chắc chắn họ còn rất bỡ ngỡ, nhất là những kinh nghiệm mình đã trải qua, những bài học mình đã học được. Nêu gương sáng về đời sống thiêng liêng và nhân bản, và sống xứng đáng như những người anh thực sự.

·        Đón nhận họ như những người em, giúp đỡ họ trong những công tác đầu tiên của sứ vụ linh mục, hiểu tâm trạng, các dự tính của họ cách thiện chí. Tạo điều kiện để họ làm việc mục vụ cũng như phát triển nhân cách và nhân đức.

·        Quan tâm đời sống tinh thần, vật chất, chia sẻ kinh nghiệm mục vụ, cách ứng xử trong giao tiếp với các hội đoàn cũng như mọi thành phần trong xã hội.

·        Chia sẻ công việc và quyền điều hành, tiền bạc rõ ràng, công bằng, đối thoại cởi mở, sống vui tươi hiệp nhất, sửa lỗi cho nhau trong tình huynh đệ. Giúp nhau trong đời sống thiêng liêng, tri thức, vật chất. 

C.3.b Những gì không nên cư xử, nói và làm

·        Không nói hành, nói xấu. Không hống hách, trưởng giả, tự cao, tự đại. Không cục bộ; chỉ trích, công kích khi có bất đồng. Không bè phái, chia rẽ, đố kỵ. Không sống bất hoà cho dù có những bất đồng.

·        Không ham dành phần thắng, so đo tính toán thiệt hơn. Không tìm “khẳng định mình” bằng cách vùi đàn em lầm lỗi xuống hố.

·        Không phê bình, nhưng tìm mọi cách nâng đỡ đàn em, vì những khó khăn và thử thách ban đầu của đời sống thực tế rất khác với những gì đã học trong Chủng Viện.

·        Không để linh mục trẻ nghĩ mình đã học đầy đủ hết mà không tự đào tạo bản thân để trưởng thành hơn và thích nghi với môi trường phục vụ.

·        Không nên thử sức nhau về kiến thức, trắc nghiệm nhau về những vấn đề ngoài phạm vi sứ vụ để đánh giá nhau. Không phân ranh giới và để mặc đàn em phải tự xoay sở một mình hoặc “khoán trắng” và nhắm mắt làm ngơ trước những công việc họ được giao phó. 

·        Không bảo thủ, độc đoán, thành kiến, coi thường những sáng kiến mới và cách làm việc mới cũng như suy nghĩ mới của họ. Không chê bai những bỡ ngỡ, thiếu sót của họ mà cố gắng động viên để họ làm tốt hơn.

·        Không sợ linh mục trẻ giỏi hơn mình rồi tìm cách chê bai trẻ tuổi, thiếu kinh nghiệm, đối xử như người giúp việc, có khi còn nói tiếng nặng, tiếng nhẹ... cậy mình là đàn anh để coi thường và dùng quyền lấn át.

·        Không tranh chấp, dành giật với các linh mục đàn em, nói xấu, kể chuyện của họ với giáo dân và người khác, nhưng phải có sự quan tâm nâng đỡ, góp ý chân thành trong tinh thần tương trợ lẫn nhau. Anh em Linh mục nâng đỡ nhau là một thành trì vững chắc cho cả hai.

C.4. Tương quan với các chủng sinh, dự tu và các mầm non ơn gọi giáo sĩ

C.4.a Những gì nên cư xử, nói và làm

·        Yêu thương, khích lệ, nâng đỡ tinh thần và vật chất cho các chủng sinh, dự tu và mầm non ơn gọi giáo sĩ, nhất là các em trong giáo xứ của mình, vì Giáo hội không thể tồn tại nếu không có các thừa tác viên nối tiếp sứ vụ Chúa Giêsu.

·        Các linh mục tương lai và mầm non ơn gọi giáo sĩ là những người tiếp nối ta trong việc loan báo Tin Mừng. Luôn mang trong mình thao thức tìm những ơn gọi tương lai cho Chúa và Giáo Hội, vì tìm ơn gọi và nuôi dưỡng ơn gọi linh mục tương lai là bổn phận và trách nhiệm đặc biệt của các cha xứ.

·        Hãy nuôi dưỡng, động viên, khích lệ, giúp đỡ vật lực cho các mầm non ơn gọi đó. Tạo môi trường thuận lợi cho các mầm non ơn gọi sinh hoạt định kỳ, tạo sự gần gũi với các em. Hướng dẫn việc học tập cho các em, giáo huấn, rèn luyện các em về những kiến thức nhân bản và tu đức.

·        Kêu gọi các em tham gia các hoạt động trong các hội đoàn của giáo xứ như: giúp lễ, giáo lý viên, giới trẻ, ca đoàn... Nhờ việc tham gia vào các hội đoàn này, các em gần gũi với Chúa, hăng say việc tông đồ, hun đúc tinh thần tu trì và tinh thần sống cộng đoàn, gần gũi với nhiều người, dễ cảm thông với con người, chia sẻ những khó khăn mà họ gặp.

·        Giúp cho các em yêu mến Chúa, yêu mến đời sống cầu nguyện, giúp các em năng lãnh nhận bí tích Hoà Giải, bí tích Thánh Thể, viếng Thánh Thể, lần chuỗi Mân côi...

·        Cung cấp sách thiêng liêng, hạnh các thánh, sách đào tạo linh mục và những sách liên quan đến ơn gọi tu trì hầu giúp cho các em có được ý thức tích cực về đời sống thánh hiến.

·        Giúp các em hiểu biết dần về ơn gọi linh mục-tu sĩ, mở ra cho các em cái nhìn về ơn gọi linh mục và tu trì, giúp các em tập sống đời tu ngay trong môi trường các em sinh sống như gia đình, trường học cũng như các nơi sinh hoạt khác.

·        Tạo điều kiện thuận lợi cho các em gặp gỡ nhau, sinh hoạt với nhau định kỳ. Qua đó, giúp các em yêu thương nhau, giúp đỡ lẫn nhau, hy sinh cho nhau, chia sẻ đời sống cho nhau.

·        Giúp cho các em nhiệt tâm trong ơn gọi đang vươn tới, giúp các em có trách nhiệm về ơn gọi của mình và của người khác. Giúp các em có đời sống vui tươi, cởi mở, sẵng sàng tiếp đón và nâng đỡ những người cần đến các em.

·        Nhất là giúp các em tiếp xúc và làm quen với Lời Chúa qua việc đọc, suy ngẫm, tâm niệm Lời Chúa hằng ngày và lấy Lời Chúa làm châm ngôn để sống trong ngày. Tập các em yêu mến Mẹ Maria và các thánh, đọc sách hạnh các thánh, noi gương các thánh, tập sống các nhân đức của các ngài, đặc biệt gương Mẹ Maria.

·        Để tâm giải thích cho các em sự cao quý và cần thiết của chức linh mục, qua lời giảng dạy và chính đời sống phục vụ vô vị lợi của mình. Cổ vũ ơn kêu gọi cho giáo phận trong các giáo xứ mà mình có trách nhiệm, qua các bài giảng, các giờ giáo lý và nhu cầu của Giáo Hội địa phương.

·        Khuyến khích lập Hội Cổ Võ và Bảo Trợ Ơn Gọi, và tích cực tham gia. Lập Gia Đình Ơn Gọi trong giáo xứ (gồm tất cả những người đang tu, đang tìm hiểu ơn gọi, và có ý hướng đi tu), sinh hoạt mỗi năm một lần vào dịp Tết (liên hoan, tặng quà).

·        Giúp các Ơn Gọi trong giáo xứ sinh hoạt học hỏi hàng tuần. Quan tâm tìm biết hoàn cảnh của từng em để có thể giúp đỡ cách thích hợp và hiệu quả.

·        Đón nhận tất cả các em muốn đi tu. Tạo điều kiện để các em có thể phục vụ Bàn Thánh (giúp lễ). Lấy tình cha con chăm sóc các ơn gọi và chủng sinh nối tiếp mình; hướng dẫn cho họ sống ơn gọi của mình. Trao cho họ vài công việc vừa sức họ, để huấn luyện họ.

·        Kêu gọi, cầu nguyện, khích lệ, động viên, nâng đỡ các ơn gọi. Lo cho giáo lý ơn gọi, huấn luyện các em giúp lễ, tiếp xúc với từng em để phát hiện những tài năng và ý Chúa nơi các em, giúp các em can đảm lựa chọn.

·        Sống trong sáng, vui tươi và nhiệt thành hợp tác với chủng viện trong việc đào tạo linh mục tương lai. Cha xứ cố gắng tạo cơ hội để biết, làm việc với các chủng sinh và trở nên một phần trong việc đào tạo họ, mà một ngày kia họ sẽ hội nhập với mình trong sứ vụ linh mục.

·        Vai trò và sự đóng góp của cha xứ rất quan trọng trong việc đào tạo ứng sinh: Cung ứng cho chủng sinh nhiều cơ hội thuận lợi để anh được kinh nghiệm và tham dự vào sứ vụ giáo xứ; phát triển đời sống cầu nguyện của anh ngay trong bối cảnh đời sống giáo xứ, vì đó sẽ là cuộc sống thực sự của anh sau này; học hỏi với cha xứ mà anh đang sống với ngài như người tập sự; được làm quen với nhiều giáo xứ khác nhau trong Giáo phận; đem những gì đã học trong chủng viện vào hành động, trong những hoàn cảnh thực tế; kinh nghiệm được cuộc sống nhà xứ; qua việc phục vụ và cộng tác với giáo dân, chủng sinh có thể học được nơi họ rất nhiều điều, đó là một chuẩn bị tuyệt vời cho sứ vụ của anh sau này. Sự hiện diện hữu hình của các chủng sinh ở trong giáo xứ sẽ thăng tiến việc thúc đẩy và phát triển các ơn gọi linh mục và tu sĩ.  

C.4.b Những gì không nên cư xử, nói và làm

·        Không dửng dưng, vô trách nhiệm, hoặc xa lánh việc kêu gọi những người có thiện chí dấn thân phục vụ Chúa, phục vụ Giáo Hội và các linh hồn trong đời sống tu trì. Không từ chối những ơn gọi đến với mình, vì sợ mất thời gian hoặc tốn kém tiền của.

·        Không làm vơi đi lòng nhiệt tâm của các em đang có thiện chí dấn thân phục vụ Chúa, Giáo Hội và các linh hồn. Không kể khổ, hay đưa ra những khó khăn như muốn thử thách mức chịu đựng của các mầm non ơn gọi.

·        Không nên có thái độ nhăn nhó khó chịu hay gây khó khăn cho một ơn gọi nào đó muốn tìm đến với đời sống này. Trái lại phải hết sức nâng đỡ về của cải vật chất, chỉ dạy về đời sống tâm linh và động viên về đời sống tinh thần để mầm non này có thể triển nở.

·        Không nên coi việc đào tạo chủng sinh là trách nhiệm riêng của Chủng viện và Giám mục giáo phận, vì nó là trách nhiệm của toàn thể Hội thánh, nhất là hàng giáo sĩ.

·        Không được nói cũng như làm những gì gây ấn tượng xấu trước các chủng sinh đàn em trong tình cảm, cách sống, cách cư xử hay trong cung cách làm mục vụ của mình.

·        Không nên nói nhiều đến mặt trái cuộc đời của con người linh mục. Không gây gương mù để có thể làm cho những mầm non ơn gọi này “vỡ mộng”.

·        Không lợi dụng, khai thác họ như người giúp việc cho mình. Không trao cho họ công việc quá sức mà họ không thể làm được.

·        Không tránh né, thờ ơ lãnh đạm với việc cầu nguyện, kêu gọi, khích lệ động viên, giáo dục, hướng dẫn, để cung cấp những ơn gọi cho Giáo hội.

·        Không sống ngược với điều mình dậy bảo và làm gương xấu cho mầm non ơn gọi. 

C.5. Tương quan với các tu sĩ nam nữ

C.5.a Những gì nên cư xử, nói và làm

·        Các nam nữ tu sĩ là những người có cùng một lý tưởng như ta: hiến dâng cuộc đời để phục vụ Chúa và các linh hồn. Họ khấn giữ ba lời khuyên Phúc âm để bước theo sát Chúa Kitô hơn, theo Hiến pháp, đặc sủng và linh đạo của Đấng sáng lập, nhằm gia tăng sự thánh thiện trong Hội thánh. Vì thế ta phải kính trọng họ và tôn trọng những tài sản thiêng liêng đó của họ.

·        Luôn yêu thương, quan tâm giúp đỡ tu sĩ nói chung, nhất là những người đang cộng tác với mình trong xứ. Cởi mở đón nhận họ như anh chị em; cho họ biết đường hướng mục vụ giáo xứ; đồng hành với họ trong công việc mục vu; bàn hỏi và trao đổi trước mỗi công việc và tin tưởng họ khi trao công việc. Rút ưu khuyết điểm sau mỗi công việc lớn; khích lệ đời sống thiêng liêng và tông đồ; quảng đại, bác ái và làm gương sáng.

·        Lý tưởng chung giữa linh mục và tu sĩ nam nữ đều là dâng hiến trọn vẹn cho Chúa và Dân của Ngài. Biết rằng đi tu nhưng vẫn không thôi là con người, nên phải luôn giữ mối liên hệ thánh thiện để thăng tiến và thánh hóa “tiếng gọi nhân loại” ngõ hầu giúp nhau sống sứ vụ tốt hơn (x. Tv 132, 1).

·        Tôn trọng, yêu thương chân thành, vui vẻ, cộng tác và thăng tiến những đặc sủng của họ. Sống trong sự bổ túc, hài hoà và liên đới, quan tâm các cộng đoàn Tu sĩ, cung cấp cho họ giáo lý và tu đức, giúp đỡ và khích lệ họ sống trung thành với ơn gọi theo đường lối riêng của mỗi Hội Dòng.

·        Hãy cầu nguyện cho nhau để cùng bước trên đường trọn lành, vì cầu nguyện là hơi thở, là nguồn sống cho đời sống tu trì của mỗi chúng ta.

·        Cần phải biết lắng nghe nhau, sửa lỗi cho nhau, giúp đỡ nhau, tha thứ và góp ý cho nhau, để xây dựng cho nhau có một đời sống dâng hiến cho Chúa và các linh hồn mỗi ngày mỗi tốt hơn.

·        Phải coi các tu sĩ như là những cộng tác viên chứ không phải là những người cấp dưới hay người giúp việc, nhất là đối với các nữ tu. Phải có tinh thần cởi mở và tạo điều kiện tốt nhất để họ làm việc, và đối xử với họ theo đức công bằng. 

C.5.b Những gì không nên cư xử, nói và làm

·        Không làm gương mù gương xấu, bè phái và phân biệt giữa các dòng. Không can thiệp vào việc nội bộ của hội dòng. Không nói hành nói xấu, làm mất danh dự, tiếng tốt của họ khi vắng mặt. Không làm hay nói lời tiêu cực phá sự hiệp nhất. Không kết án hay xét đoán vội vàng.

·        Không tìm ảnh hưởng hay uy tín cho cá nhân mình. Không đi sâu vào đời sống cá nhân, nhất là đối với nữ tu, nhưng phải tôn trọng và thăng tiến, cộng tác và nâng đỡ khi họ cần giúp đỡ về tinh thần.

·        Không cục bộ và đánh mãnh: Việc mình mình làm, việc người người làm; nhất là khi có nhiều dòng tu cùng hoạt động mà lại không cùng cộng tác với nhau để làm cho giáo xứ tốt hơn.

·        Không coi thường họ như những người giúp việc hay thuộc hạ, mà phải nhìn nhận và biết ơn họ là những cộng tác viên rất đắc lực cho hàng giáo sĩ trong các hoạt động mục vụ như giáo lý, ca hát, đàn nhạc…

 

[1] Pl 2,8; Dt 5,8.

 
VỀ MỤC LỤC
ĐỨC VÂNG PHỤC GIỮA VỢ CHỒNG

 

Tác phẩm: Cẩm  Nang  Hạnh  Phúc Gia  Đình  Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Tác giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)

 

B6. ĐỨC VÂNG PHỤC GIỮA VỢ CHỒNG

1. Người Ấn Độ thường kể về việc Thiên Chúa tạo dựng con người có nam và có nữ như sau:

Khi đã dựng nên người nam, Thiên Chúa sực nhớ, Ngài đã sử dụng hết những chất liệu cứng. Sau một hồi suy nghĩ, Ngài mới lấy vòng tròn của mặt trăng, vẻ mảnh khảnh của hoa cỏ, tính thay đổi của gió, sự lãng đãng của mây trời, sự nhút nhát của loài thỏ, nét hung dữ của hổ trên rừng, tiếng chim hót du dương, sự chung thuỷ của một con sư tử mẹ. Gom tất cả những yếu tố ấy lại, Thiên Chúa đã dựng nên người đàn bà và trao ban cho người đàn ông.

Chỉ sau một tuần lễ,  người đàn ông trở lại với Đấng Tạo Hóa và thưa với Ngài: “Lạy Chúa, người đàn bà mà Chúa đã ban tặng cho con không mang lại cho con một mảy may hạnh phúc. Nàng nói huyên thuyên và hành hạ con đủ điều. Nàng đòi buộc con phải chú ý đến nàng từng giây từng phút. Một việc không ra gì cũng đủ cho nàng than vãn. Con xin trả nàng lại cho Chúa, bởi vì con không thể sống với nàng”.

Thiên Chúa gật đầu đón tiếp người đàn bà. Nhưng cũng chỉ một tuần lễ sau, người đàn ông đã trở lại than với Chúa: “Lạy Chúa, cuộc sống của con trở thành vô vị và trống rỗng kể từ khi con mang người đàn bà trả lại cho Chúa. Lúc nào con cũng nghĩ về nàng. Lúc nào con cũng nhớ lại những lúc nàng nhảy múa ca hát. Nhất là con khôngthể quên được ánh mắt nàng nhìn con. Và nụ cười của nàng thì lúc nào cũng vang vọng trong trái tim con. Xin cho con được đón nhận nàng lại”.

Thiên Chúa lại trao trả người đàn bà cho người đàn ông. Nhưng không đầy ba ngày sau người đàn ông lại dẫn người đàn bà đến trước mặt Chúa và cũng lập lại một điệp khúc: “Chúa ơi, con không biết làm sao để diễn tả tâm trạng của con. Nhưng sau những kinh nghiệm trải qua với người đàn bà này, con thấy rằng, nàng mang lại cho con nhiều đau khổ hơn là hạnh phúc. Một lần nữa con van Chúa, con xin trả nàng lại cho Chúa, bởi vì con không thể sống với nàng”.

Lúc bấy giờ Thiên Chúa mới phán bảo: “Ngươi  không thể sống mà không có người đàn bà”. Nói thế rồi, Ngài bỏ mặc hai người đứng đó và tiếp tục công việc của mình. Người đàn ông chỉ còn biết thốt lên: “Tôi phải làm gì bây giờ? Tôi không thể sống với nàng, nhưng tôi cũng không thể sống thiếu nàng”.

2. Mượn câu chuyện dụ ngôn trên đây, chúng tôi muốn nêu bật điều mà Công Đồng Vaticanô II đã nói trong số 49 của Hiến Chế Vui mừng và Hy Vọng rằng, để có thể chu toàn trách nhiệm của đời sống hôn nhân và gia đình, người ta cần phải có những nhân đức anh hùng. Quả thực, nếu không có sự can đảm của bậc anh hùng, người ta không thể sống trọn ơn gọi của bậc vợ chồng. Chúng tôi đã nói đến hai nhân đức anh hùng trong bậc hôn nhân là khiết tịnh và khó nghèo; đến đây, chúng ta bàn đến nhân đức thứ ba là vâng phục.

Nếu có vâng phục thì chỉ có người vợ vâng phục chồng mà thôi, nếu không thì ông bà ta đâu có nói đến chuyện dạy vợ, giáo dục vợ? Thánh Phaolô chẳng nói rằng, chồng là đầu, là thủ lãnh của vợ đó sao? Vậy mà, nghĩ như thế là chối bỏ sự bình đẳng của vợ chồng và nghĩ như thế cũng có nghĩa là không lấy tình yêu thương làm dây ràng buộc giữa vợ chồng. Thật ra, sự vâng phục giữa vợ chồng mà chúng ta đang đề cập ở đây chính là sự phục vụ lẫn nhau.

Khi nói người chồng là thủ lãnh của vợ, thánh Phaolô cũng xác định rằng, tương quan ấy giống với tương quan giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Chúa Kitô làm đầu của Giáo Hội nhưng lại trao ban mạng sống mình vì Giáo Hội. Ở đây, phục vụ chính là danh hiệu mới mà thánh Phaolô muốn gán cho hai chữ vâng phục. Vâng phục là phục vụ. Thánh Phaolô đã nói về Chúa Giêsu: “Ngài đã vâng phục và đã vâng phục cho đến chết”. Thực tế, ý nghĩa sự vâng phục của Chúa Giêsu chính là phục vụ. Cái chết trên thập giá của Ngài là tột đỉnh của sự vâng phục và phục vụ. Chúa Giêsu chính là mẫu mực của sự vâng phục.

Qua bí tích Rửa Tội người tín hữu Kitô được nên một với Chúa Giêsu, họ đi lại con đường vâng phục của Ngài. Nhưng trong bí tích Hôn Phối, người tín hữu còn sống tinh thần vâng phục của Chúa Giêsu một cách đặc biệt hơn. Cộng đồng tình yêu được thiết lập qua bí tích Hôn Phối đòi hỏi hai người phối ngẫu phải thực thi sự vâng phục hơn bất cứ nơi nào. Trong quan hệ vợ chồng, không ai làm đầu hay làm bề trên, mỗi người đều là đầu của người khác. Bởi vì cả hai đã nên một trong thể xác và tinh thần.

Mỗi người là đầu của người khác, vợ là đầu của chồng, chồng là đầu của vợ. Vì thế, sẽ không còn chuyện chồng chúa vợ tôi hay phu xướng phụ tuỳ. Câu hỏi mà vợ chồng đặt ra không còn phải là: ai điều khiển hay ai làm chủ trong nhà, mà phải là: ai phục vụ ai và phải phục vụ như thế nào? Nói đến phục vụ là nói đến quên mình. Là Thầy và là Chúa, Đức Giêsu đã phục vụ như một người tôi tớ. Trong bí tích Hôn Phối, hai vợ chồng Kitô hữu cam kết làm chứng cho tình yêu và sự vâng phục của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống của họ. Nếu không có sự quên mình, nếu không có sự vâng phục và phục vụ nhau, làm sao họ có thể làm nhân chứng cho tình yêu của Ngài được?

 

VỀ MỤC LỤC
HIẾN THÂN XÁC CHO Y KHOA HỌC

 

Chúng tôi gặp nhau rất tình cờ. Hôm đó ông Vinh tới thử máu và đo huyết áp trong một Hội Chợ Y Tế do nhóm thiện nguyện Việt- Mỹ tổ chức. Ông ta mang kết quả tới nhờ tôi giải thích vài điều mà ông thắc mắc. Sau đó Vinh đột nhiên dụt dè nói, “tôi muốn hiến tặng  thân xác cho khoa học khi tôi chết, liệu bác sĩ giúp tôi làm thủ tục được không?”.  Tôi hơi ngạc nhiên nhưng thấy Vinh có vẻ thành thực nên nói chuyện thêm với Vinh vài phút rồi xin số điện thoại để sau này gặp lại. Hơn tuần lễ sau tôi mời ông tới chơi để tìm hiểu. Trò chuyện thì nhiều nhưng tập trung vào việc hiến xác. Ông cho hay là hiện nay sống một mình, có việc làm với bảo hiểm sức khỏe và hưu bổng đầy đủ, gia đình con cháu ổn định, đời sống cá nhân an lạc. Ý nghĩ hiến xác ông đã có từ lâu, vì thấy khoa học ở đất nước này tiến bộ quá, mình hưởng được nhiều phúc lợi thì bây giờ trả ơn vì nghe nói thân xác được dùng trong các nghiên cứu của khoa học gia cũng như sinh viên y khoa thực tập…

Ý nghĩ của ông Vinh mang người viết trở lại với thời kỳ học y khoa khi xưa. Hai năm đầu, có môn Cơ Thể Học, vừa lý thuyết vừa thực hành ngõ hầu hiểu rõ được sự cấu tạo của cơ thể con người. Đây là một trong nhiều môn học quan trọng nhất để đào tạo bác sĩ và các nhà chuyên môn về sức khỏe khác. .Thực hành là cặm cụi trên những hình hài vô danh, tay dao tay kéo rạch từng đường gân, thớ thịt, mạch máu để có cái nhìn cụ thể. Thầy dạy là vị giáo sư khả kính và các sinh viên đàn anh. Thầy có dọng nói truyền cảm hấp dẫn, lời giảng rõ ràng minh bạch lâu lâu chêm. vào một câu nói vui vui để đám học trò bớt căng thẳng. Nét vẽ của thầy trên bảng đen thật tuyệt vời, đâu ra đó, rất thành thạo, nhanh và diễn tả đầy đủ tác phẩm kỳ diệu của tạo hóa là con người. Đó là Giáo Sư Y Khoa Nguyễn Hữu, Giám Đốc Cơ Thể Học Viện trong nhiều thập niên của một thời xa xưa..

Những hình hài vô danh nằm trên bàn đá lạnh trong căn phòng nhỏ ngợp mùi phóc môn tại Cơ Thể Học Viện, đường Trần Hoàng Quân Chợ Lớn, tới từ đâu, không ai biết. Có thể là từ tự hiến hoặc bán xác của bệnh nhận bệnh viện Chợ Quán, viện tâm thần Biên Hòa  hoặc tử thi trôi sông dạt biển, tử tội vô thừa nhận. Nhưng những hình hài đó đã giúp sinh viên y khoa rất nhiều và đã đựoc ghi ơn, nâng niu tôn trọng trong khi thực tập. Mới đây, đồng nghiệp Phan Bảo Khánh tại Sài Gòn, rất xúc động với những người hứa nguyện hiến xác đã có ý kiến "Họ đã ra đi nhưng còn đó những bó cơ, mạch máu, từng bộ phận cơ thể… cho chúng ta giảng dạy, nghiên cứu để phục vụ cho khoa học và cao hơn là vì cuộc sống tươi đẹp. Họ là những người bất tử”.

Các viện nghiên cứu khoa học,  trường y, bệnh viện trên  khắp thế giới đều khẩn khoản mong ước được đón nhận những “ người bất tử” như vậy. Vừa mới ra đi thì các bộ phận tốt lành tức khắc được ghép cho người bệnh có nhu cầu, mang lại đời sống gần như bình thường cho họ. Trong vài ba năm thì hình hài liên tục được mổ xẻ, nghiên cứu mang lại những hiểu biết về chữa trị, phòng ngừa nan bệnh.

Với hình hài để nghiên cứu, đơn vị thu nhận sẽ ướp xác với formaldehyde chích vào mạch máu để các mô bào được cất giữ, tránh hư rữa. Đó là lý do thân xác phải toàn vẹn để có thể tẩm niệm ướp giữ. Đôi khi xác cũng được cất giữ bằng cách ướp với chất nhựa dẻo plastic.

Thủ tục hiến xác cũng giản dị. Một văn bản ngỏ ý muốn hiến, ký tên bên dưới với 2 người trưởng thành làm chứng, gửi  tới cơ quan nghiên cứu mà mình muốn tặng dữ. Người hiến tặng cũng ở tuổi thành niên hợp pháp.

Chẳng hạn như:

“Tôi ký tên dưới đây là Nguyễn Văn Trần, 72 tuổi, hiện ngụ tại số 1234 đường Marie Curie thành phố Sơn Lâm, trong tâm trạng rất tỉnh táo, sáng suốt,  làm giấy này nguyện hiến tặng thân xác tôi, khi mãn phần, cho Bệnh viện của trường Đại học Y Khoa với mục đích góp phần vào sự tiến bộ y khoa học và giáo dục.

Tôi hiểu rằng ý nguyện của tôi cần phải được ban Giám đốc của trường cứu xét và chấp nhận. Trong trường hợp ý nguyện của tôi không được thỏa mãn, thân nhân của tôi sẽ đứng ra lo phần tang chế.

Tôi cũng đồng ý là tất cả hồ sơ y khoa của tôi được chuyển giao cho trường để hiểu rõ tường tận về tình trạng sức khỏe của tôi.

Tôi cũng ý thức rằng thời gian mà trường xử dụng thân xác tôi cho mục đích y khoa học và giáo dục có thể kéo dài cả 2, 3 năm.

Tôi yêu cầu những ai lo việc hậu sự của tôi thông báo ngay cho trường về sự mãn phần của tôi.

Ngày tháng năm tại địa phương mình đang cư ngụ 

Ký tên.

Hai người làm chứng đồng ký.

Và nhớ cho thân nhân biết rõ ý định của mình để tránh trường hợp bất đống ý kiến sau này. Cũng lưu ý rằng, một lúc nào đó mình không muốn hiến tặng thì chỉ cần viết một văn bản đổi ý gửi cho cơ quan thụ hưởng.

Ý nguyện cần được đơn vị thu nhận đồng ý tùy theo tiêu chuẩn riêng của họ và tùy theo mỗi quốc gia. Chẳng hạn có nơi từ chối nếu người hảo tâm có tiền sử bệnh truyền nhiễm như viêm gan các loại, HIV, lao; phỏng nặng, thương tích trầm trọng, chết đuối, quá mập phì, đói ăn cơ thể bắt đầu rữa hủy, đã có ý định quyên sinh…Có cơ quan chỉ nhận thân xác toàn vẹn, không hư rữa, chưa bị mổ khám nghiệm tử thi, không bị lấy đi một bộ phận để cấy ghép trị bệnh, ngoại trừ giác mạc của mắt.

Người hiến được cấp một thẻ ghi nhận hiến xác để luôn luôn mang theo mình, phòng khi cần khẩn cấp.

Tại Hoa Kỳ, hiến bộ phận có thể thực hiện  tại nơi thi bằng lái xe và sẽ đựơc ghi chú trên bằng này.

Trong thời gian nghiên cứu, hình hài sẽ được cơ quan thụ hưởng bảo tồn trang trọng, đảm bảo chân giá trị của người hiến tặng cũng như tôn trọng quà tặng mà người cho đã trao cho

Sau nghiên cứu, hình hài sẽ được hỏa thiêu. được đưa về cho thân nhân mai tang nếu họ muốn hoặc sẽ được bệnh viện long trọng rải trên biển cả hoặc trong lòng đất. Cát bụi trở về cát bụi.

Người cho không được hưởng một hiện kim hiện vật nào. Đó là quy luật của chính quyền, để tránh mua bán hoặc kẻ bất lương đào mồ trộm xác. Bệnh viện chi trả phí tổn chuyên trở hình hài tới bệnh viện, nếu không quá xa.

Thân nhân có thể tổ chức lễ phát tang, cầu nguyện trước khi chuyển cho bệnh viện, nhưng lưu ý nhà quàn không tẩm niệm. Đó là việc mà sau này bệnh viện đảm trách theo phương pháp khoa học thích hợp.

Cũng xin ghi nhận rằng, hầu hết các tôn giáo đều khuyến khích sự hiến xác để phục vụ cho mục đích cao cả khoa học vì đây là một cử chỉ vị tha, bác ái, từ bi.

Kết luận.

Để kết luận, xin ghi lại cảm nghĩ của nam ca sĩ Ngọc Sơn, khi ký giấy hiến xác cách đây mấy năm: “Con người sinh ra từ cát bụi, lìa trần thì cũng trở về với cát bụi. Nếu đem thân xác đi chôn vùi trong lúc các trường y họ thiếu tiêu bản người để thực tập và nghiên cứu khoa học thì phí phạm quá. Tôi muốn phụng sự cuộc sống cả sau khi mình đã chết”.

Bác sĩ Nguyễn Ý Đức

Texas-Hoa Kỳ   www.bsnguyenyduc.com

 
VỀ MỤC LỤC
VỢ CHỒNG NHÍ - Chuyện phiếm của Gã Siêu

 

Trong lãnh vực hôn nhân, xã hội Việt Nam ngày xưa xem ra có nhiều quan niệm hơi bị bất ổn. Và một trong những quan niệm hơi bị bất ổn, đó là tục tảo hôn, lấy nhau quá sớm, thậm chí còn có cả tục phúc hôn, lấy nhau từ lúc còn trong bụng mẹ.

Thực vậy, hai ông bố ngồi uống rượu, chén thù chén tạc với nhau, rồi đính ước cho con cái, ngay cả khi chúng chưa có mặt trên cõi đời này, thành thử mới có những cảnh tréo cẳng ngỗng, vốn được ca dao diễn tả.

Khi thì chồng còn… babilac:

- Bồng bồng cõng chồng đi chơi,

  Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng.

  Cho tôi mượn chiếc gàu sòng,

  Để tôi tát nước múc chồng tôi lên.

Khi thì vợ còn rất… nhỏ:

- Lấy chồng từ thuở mười lăm,

  Chồng chê tôi bé chẳng nằm với tôi.

  Đến năm mười tám đôi mươi,

  Tôi nằm dưới đất, chồng lôi lên giường.

  Một rằng thương, hai rằng thương.

  Có bốn chân giường gẫy một còn ba,

  Ai về nhắn nhủ mẹ cha,

  Chồng tôi nay đã giao hoà cùng tôi.

Cha mẹ nào thì cũng yêu thương con cái. Khi chúng lớn lên, các ngài có bổn phận phải lo dựng vợ gả chồng, để chúng được yên bề gia thất, còn mình thì cũng sớm có cháu bế và chóng được bước lên hàng ông bà nội, hay ông bà ngoại.

Nhất là đối với con gái, bởi vì thiên hạ vốn thường diễn tả: Có con gái lớn trong nhà chẳng khác nào có trái bom nổ chậm, chẳng biết nó sẽ phát nổ vào lúc nào. Thành thử mới xảy ra những cặp vợ chồng trẻ con:

- Lấy anh từ thuở mười ba,

  Đến năm mười tám thiếp đà năm con.

  Ra đường thiếp hãy còn son,

  Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng.

Ấy là gã chưa xét tới góc cạnh kinh tế. Xã hội Việt Nam vốn là một xã hội nông nghiệp. Mà nông nghiệp thì đòi phải có nhiều người để canh tác, để “cày sâu cuốn bẫm” trong một thời buổi chưa có máy móc, vẫn cứ lấy sức người làm chính và vẫn cứ con trâu đi trước cái cày theo sau. Lấy vợ cho con trai là thêm được một người làm không công trên thửa ruộng của mình!!!

Xét về tuổi tác, các cụ ta ngày xưa vốn thường chủ trương: Nữ thập tam, nam thập lục. Gái mười ba, trai mười sáu. Trong khi đó, giáo luật cũ khoản 1067 đã qui định: Nam mười sáu, nữ mười bốn. Nếu dưới lứa tuổi này thì cuộc hôn nhân bị coi là bất hợp pháp. Còn theo luật nhà nước hiện nay thì: Gái mười tám, trai hai mươi.

Mặc dù luật pháp đã quy định hẳn hoi trên giấy trắng mực đen, thế mà vẫn có những cặp xé rào, tranh thủ lấy nhau rất sớm, để rồi phải gánh chịu những hậu quả thảm khốc, héo hắt cả một đời. Gã xin trình bày một trong những trường hợp điển hình đã xảy ra tại Việt Nam hôm nay và được Vũ Mai ghi lại trn  trang của Vnexpress như sau:

Một cô gái trẻ có khuôn mặt bầu bĩnh, đứng lặng lẽ một góc trong phòng xử, đôi mắt ngấn lệ, nhìn theo Nguyễn Tấn Vũ gầy guộc, nhỏ bé trong chiếc sơ mi trắng rộng thùng thình, được dẫn vào vành móng ngựa. Cô gái là nạn nhân và cũng là vợ bị cáo trong vụ án giết người này.

Do ở cùng xóm, Nguyễn Tấn Vũ (ngụ Bình Thạnh) đã đem lòng yêu Trang từ khi còn là cậu học sinh phổ thông. Thấy đôi trẻ quấn quýt bên nhau, bố mẹ hai bên có nhắc nhở, cảnh cáo, nhưng cho rằng Vũ ít tuổi hơn Trang, lại thấy tình cảm láng giềng thân tình, người lớn cũng chép miệng bỏ qua.

Một hôm, Vũ bẽn lẽn dắt Trang về thưa với mẹ rằng cô đã có thai hơn năm tháng khiến vị phụ huynh không khỏi ngỡ ngàng, sửng sốt. Biết pháp luật không cho phép bọn trẻ lấy nhau, khi Vũ chỉ vừa qua tuổi mười sáu còn Trang cũng chỉ mới mười bảy, nhưng hai gia đình đành bất chấp, bởi họ cần phải “hợp thức hóa” cho cái bào thai ấy. Một đám cưới vội vàng, chắp vá được tiến hành, Trang trở thành bà mẹ bất đắc dĩ và phải dở dang chuyện học khi mới vào lớp mười.

Tuy là vợ chồng nhưng "đứa nào ở nhà đứa nấy". Cuộc sống của cái gia đình “trẻ con” này vẫn phụ thuộc vào sự trợ giúp của hai bên nội ngoại. Ngoài việc chăm sóc con, Trang chỉ phụ cha mẹ làm vài việc nhà lặt vặt, còn Vũ xin đi làm phục vụ tại quán cà phê.

Mang tiếng là đã có vợ con, nhưng Vũ cũng chỉ là một chàng trai trong độ tuổi "vị thành niên", lại làm việc trong môi trường “thoáng”, nên nhiều lần bỏ đi chơi với bạn bè, quên trách nhiệm làm chồng, làm cha khiến Trang không khỏi phiền muộn, nghi ngờ.

Rồi một ngày, cô cũng bỏ đứa con thơ dại cho ông bà ngoại trông coi, đi giải sầu với các bạn. "Gái một con", xinh xắn, lại đang độ tuổi xuân thì, Trang được không ít chàng trai theo đuổi. Thấy Trang hay đi lại với người con trai khác, chị gái cô đã gọi "em rể" nhắc nhở:

- Trang nó có bạn trai đấy, em liệu mà giữ gìn hạnh phúc cho bản thân đi.

Giật mình, nhưng đến khi chính mắt trông thấy vợ ôm eo người khác, Vũ quyết định “phải làm một cái gì đó”.

Khuya 31/3/2007, biết Trang vừa đi chơi với bạn trai về, Vũ lấy một con dao bỏ vào cốp xe rồi chạy tới nhà Trang, định cho "tình địch" một trận, nhưng không gặp. Tức giận quay sang vợ hỏi đầu đuôi sự thật, thì cậu nhận được cái gật đầu xác nhận:

- Tôi có bạn trai khác rồi, tôi không muốn tiếp tục quen anh nữa.

Cô lớn tiếng xỉ vả và thách thức, khi thấy Vũ chạy lại xe lôi ra con dao, dứ dứ trong tay. Bị kích động, trong khoảnh khắc, con dao trên tay Vũ đã ngập trên người Trang.

Thấy vợ gục xuống trong vũng máu, Vũ ôm đầu bỏ chạy tới nhà bạn. Còn Trang, được mọi người đưa đi cấp cứu nên giữ được mạng sống, mang thương tích 58% vĩnh viễn. Sau mấy ngày lẩn trốn, quá lo lắng cho vợ, nghĩ đến con, Vũ quyết định đến công an đầu thú.

Và ngày 7/8, Vũ phải đối diện với chiếc vành móng ngựa để trả giá cho những gì mình đã gây ra. Cậu nhận tội, nhưng với đầu óc non nớt của mình, Vũ không thể lý giải một cách trơn tru động cơ dẫn tới hành động của mình. Tất cả mọi diễn biến tâm lý đều được Hội đồng xét xử phân tích ngọn ngành và cậu chỉ biết gật đầu xác nhận. Đưa tay vào chiếc còng số 8, Vũ trở lại trại giam với cái án bốn năm tù.

Được gọi lên hàng ghế dành cho nạn nhân bị hại, Trang chưa nói được gì, thì đã giọt ngắn giọt dài. Một tay ôm lấy thân mình, một tay cô bịt miệng, cố ngăn tiếng nấc. Đưa mắt nhìn dáng chồng thiểu não gục đầu, cô nức nở:

- Tôi thấy Vũ hay đi chơi với bạn bè nên nghĩ rằng anh ấy đã chán mình và đã có người khác. Vì thế, tôi cũng đi chơi và quen biết bạn trai mới. Tôi nghĩ, khi hay chuyện này, anh ấy sẽ sợ mất tôi và sẽ sống tử tế hơn. Buổi tối xảy ra chuyện, tôi đã quá ngang tàng và nói những điều không nên. Vả lại, tôi nghĩ bản chất Vũ hiền lành, nên đã lớn tiếng thách thức, khi anh ấy đang nóng giận. Giờ đây, tôi rất hối hận về hành động nông nổi của mình.

Cả khán phòng im lặng nghe những lời chân tình từ người mẹ trẻ. Khi được hỏi có yêu cầu bị cáo bồi thường gì không, Trang thảng thốt:

- Chúng tôi là vợ chồng, tôi rất thương anh ấy. Mọi chuyện đều bắt nguồn từ tôi, nên không yêu cầu bồi thường gì. Tôi chỉ xin tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt cho anh ấy sớm được trở về để phụ giúp tôi nuôi con.

Giờ nghị án, còn lại một mình, Vũ co người trên băng ghế dài, chiếc áo cậu mặc càng như rộng hơn và nhăn nheo hơn.

Bên ngoài, Trang bước nhanh ra phía cổng tòa rồi quay vào bưng mặt khóc. Đưa tay vuốt những sợi tóc ướt nhòe, bám chặt vào má, cô nức nở:

- Sáng nay em bế thằng bé theo, cứ tưởng người ta sẽ cho cha con nó gặp nhau một chút, nhưng vì quy định của tòa không cho trẻ con vào, nên em phải để nó ngoài cổng. Giờ chỉ còn tuyên án thôi, nhưng họ cũng không cho em mang nó vào. Hôm trước tới ngày thăm, anh ấy bảo nhớ con lắm.

Hít một hơi thật dài, Trang lau sạch những vệt nước trên đôi mắt to tròn, sưng mọng. Cô chia sẻ:

- Cho dù có phải chờ đợi anh ấy bao nhiêu em cũng sẽ chờ. Con em cần có bố, và thật sự em chưa bao giờ hết yêu Vũ.

Tòa xét thấy, VKS truy tố Vũ về tội "giết người" nhưng hành vi của Vũ chưa đủ yếu tố cấu thành tội này, nên đã tuyên buộc Nguyễn Tấn Vũ mức án bốn năm tù về tội "cố ý gây thương tích". Đưa tay vào chiếc còng số tám, Vũ quay lại nhìn người vợ trẻ đầy hy vọng.

Từ câu chuyện trên, gã tạm gọi những cặp vợ chồng loại này là những cặp vợ chồng…nhí. Thực vậy, chữ “nhí” trong tiếng Việt Nam vừa có nghĩa là nhỏ, là bé, là trẻ, lại vừa có nghĩa là hơi lẳng lơ, hơi lí lắc, hay se sua áo quần, sửa sang điệu bộ cho được nhiều người để ý đến. Chẳng hạn như khi nói:

- Con nhỏ đó nhí nhảnh quá!

Ngày xưa trong lớp gã có hai cô nàng cùng tên Nga. Vì thế bọn gã đã đặt cho họ những cái “hỗn danh”: Nga Nhí là cô nàng nhỏ bé, mi nhon. Còn Nga Tồ là cô nàng to lớn đẫy đà!

Riêng trong phạm vi tình cảm, có những ông chồng, không phải chỉ bỏ cơm đi ăn phở dăm ba bữa, rồi lại trở về với cơm mà ca bản: Tung cánh chim tìm về tổ ấm. Và lúc đó phở chỉ là một món ăn tạm bợ trong lúc ngẫu hứng lý qua cầu mà thôi.

Thế nhưng, cũng có những ông chồng, mặc dù vợ con đùm đề, gia đình bề thế, mà vẫn cứ can đảm đèo bồng vợ nọ con kia. Vì tập tục ngày xưa ấy công nhận chế độ đa thê, trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng, nên họ cũng được cưới xin đàng hoàng và vì vậy, họ thường được gọi là vợ bé để đối lại với vợ lớn, bà nhỏ để đối lại với bà lớn và vợ hai để đối lại với vợ cả. Thôi thì:

- Vợ cả vơ hai, hai vợ đều là vợ cả!

Còn hiện nay, chế độ đa thê đã bị chấm hết từ lâu, vì thế những cái “rờ moọc” ngoài luồng ấy thường được thiên hạ gọi là…bồ nhí. Xem ra cách gọi này vừa tươi trẻ hơn, vừa khoái lỗ tai hơn, lại vừa hợp tình và hợp lý hơn, cho dù những cô bồ nhí này chẳng còn nhỏ, chẳng còn trẻ và cũng chẳng lí lắc tí nào cả và lại thường được dấu kỹ ở một nơi nào đó!

Trở lại với những cặp vợ chồng nhí, gã thấy như thế này: Xét về phương diện sinh lý học hay cơ thể học,  họ được coi như là đã tạm đủ những điều kiện, những tiêu chuẩn cần thiết để làm cha làm mẹ, bằng chứng cụ thể là họ đã sinh ra được một nhóc tì, nếu “mắn” lắm là hai tí nhau.

Tuy nhiên, sinh con không giống như sinh vật và nuôi con cũng chẳng giống như nuôi vật. Nuôi một con vật, chúng ta chỉ cần cho nó ăn là đủ. Nhưng đối với con cái, chúng ta không phải chỉ cho ăn, mà còn có bổn phận phải giáo dục chúng nên người.

Hơn thế nữa, mục đích của hôn nhân không phải chỉ là sinh đẻ con cái, mà còn phải giúp đỡ lẫn nhau và tạo dựng hạnh phúc cho nhau, bằng cách cùng nhau xây dựng một mái ấm gia đình.

Xét về những phương diện này, thì những cặp vợ chồng nhí hoàn toàn thiếu khả năng, không thể nào thực hiện được.

 

Trước hết, những cặp vợ chồng nhí này nuôi sống mình chưa nổi, thì làm sao nuôi sống được con cái và gia đình.  

Sở dĩ như vậy là vì họ chưa có được một nghề nghiệp vững chắc trong tay. Với lứa tuổi mười sáu, mười bảy, họ mới chỉ là những cô cậu học trò vô tư, ăn chửa no lo chửa đến, chẳng có một khả năng chuyên biệt nào cả.

Lúc mới lập gia đình, thì cậy dựa vào cha mẹ. Khi ra riêng, thì được cha mẹ đôi bên chu cấp cho phần nào. Những số tiền trợ giúp ấy được ví như một con cá, chứ không phải là chiếc cần câu. Con cá dù lớn đến đâu, ăn hoài cũng sẽ hết. Trong khi đó, nếu có được chiếc cần câu, họ sẽ bắt được con cá khác để mà ăn. Cũng vậy, dưới một góc độ nào đó, nghề nghiệp chính là một chiếc cần câu, để câu lấy chén cơm manh áo cho bản thân và gia đình. Vì thế, người xưa đã từng bảo:

- Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh.

- Đất ruộng bề bề, không bằng một nghề trong tay.

 

Tiếp đến, những cặp vợ chồng nhí này, bản thân còn chưa nên người, thì làm sao dạy được cho con cái nên người. 

Một anh chồng cưới được một cô vợ nhí, sau một thời gian chung sống, đã chia sẻ kinh nghiệm như sau: Điều khiến anh ta khó xử nhất, đó là là tính trẻ con của cô vợ nhí. Hơi một tí là hờn, hơi một tí là dỗi. Được cái cũng dễ làm lành. Nhưng để làm lành, cô vợ nhí cũng bắt anh ta phải năn nỉ ỉ ôi chán chê mê mỏi mới chịu tha thứ.

Chúa nhật, cô vợ nhí thích đi chơi với đám bạn gái như khi còn tự do, chứ không lo chuyện dọn dẹp nhà cửa. Tuy đã có gia đình riêng, nhưng cách cư xử của cô vợ nhí chẳng khác chi mấy so với khi vẫn còn ở nhà với bố mẹ đẻ.

Các cô vợ nhí thì vô tư, ít nghĩ đến chuyện gia đình, chỉ biết ngày hôm nay, chứ chưa cần lo việc ngày mai. Chẳng lẽ chuyện gì cũng phải tranh luận hay bàn cãi, thôi thì để cho gia đình được êm ấm, đành phải cắn răng chịu đựng:  nhất vợ nhì trời, vợ luôn là số một và vợ nói gì cũng đúng, chẳng sai chút nào.

Chính vì thế, khi nhìn thấy cô vợ nhí mang bầu, một anh chồng đã phải nhắn nhủ như sau:

- Trẻ con sắp là mẹ của trẻ con rồi đấy. Phải lớn lên, vợ nhé!

Đa số các cô vợ nhí đều có tính khí thất thường, sáng nắng chiều mưa, giữa trưa sương mù, nên để làm cho họ vui cũng không phải là chuyện đơn giản. Vợ càng nhí, thì càng phải cưng. Vợ càng trẻ thì càng phải chiều! Phải chăng đó cũng chính là một qui luật nếp sống lứa đôi?

Còn anh chồng nhí cũng vậy. Vào cái tuổi mười sáu mười bảy, “ăn chửa no lo chửa đến”, có anh con giai nào mà lại chẳng ham chơi. Chơi ngày không đủ, thậm chí còn tranh thủ chơi cả ban đêm nữa.

Thực vậy vì ham chơi, anh chồng nhí chẳng chịu làm ăn. Nếu kiếm được tí tiền còm nào, thì cũng tiêu pha cho riêng mình. Không đem tiền về cho vợ cho con đã đành, mà hơn thế nữa, mỗi khi bước chân vào nhà, anh chồng nhí còn hạch sách, đòi vợ đưa tiền, để được tiếp tục cuộc chơi. Nếu vợ không đưa, thì văng tục chửi bới, rồi đánh đập, thượng cẳng chân hạ cẳng tay với vợ.

Vì ham chơi, anh chồng nhí suốt ngày đàn đúm, ăn nhậu với bè bạn, quên luôn cả cô vợ nhí và đứa con èo uột ở nhà. Con đau cũng mặc. Vợ ốm cũng kệ. Nhiều khi về tới nhà, thì chân nam đá chân chiêu, hơi rượu bốc lên nồng nặc, khiến vợ con lại phải một phen hầu hạ.

Tất cả những thái độ trên chứng tỏ anh chồng nhí chưa bao giờ ý thức được trách nhiệm của mình. Đó là trách nhiệm của một người cha và của một người chồng, trách nhiệm của một người đứng đầu trong gia đình. Một người có tinh thần trách nhiệm phải là một người luôn cố gắng làm hết sức, để chu toàn những bổn phận của mình ở mọi nơi và trong mọi lúc.

 

Sau cùng, những cặp vợ chồng nhí này thường chóng chán và dễ đổi thay, khiến cho gia đình bị tan vỡ 

Trước khi bước vào ngưỡng cửa hôn nhân, người ta thường phải tìm hiểu nhau một cách kỹ càng, rồi mới đi tới một quyết định chọn lựa. Và khi đã chọn lựa, thì phải trung thành với quyết định của mình.

Theo gã nghĩ: chọn lựa vừa có nghĩa là từ bỏ, lại vừa có nghĩa là chấp nhận. Từ bỏ những gì khả dĩ làm cho tình yêu bị tàn héo và gia đình bị tan vỡ. Đồng thời chấp nhận người mình yêu với tất cả những sở trường cũng như những sở đoản, những khuyết điểm cũng như ưu điểm, để rồi giúp nhau thăng tiến và trở nên tốt lành hơn.

Những cặp vợ chồng nhí, vì chưa biết suy nghĩ chín chắn, nên những quyết định của họ thường vội vàng, dựa trên những tình cảm nồng cháy thưở ban đầu, hay vì sự việc đã rồi, nên đành phải chấp nhận sự quyết định của cha mẹ đôi bên, chẳng hạn như cô nàng tuổi “teen” đã lỡ…dính bầu!

Vì thế, sau một thời gian ngắn chung sống, họ bắt đầu cảm thấy chán nhau và không còn trung thành với sự chọn lựa của mình nữa. Nhất là khi có những sự bất đồng giữa hai người, hay có những áp lực và những lời dèm pha từ bên ngoài.

Một khi đã chán nhau, anh chồng nhí bèn đi tìm cho mình một đào mới, còn cô vợ nhí, thì cũng đi tìm cho mình một kép mới, theo đúng bài bổn anh ăn nem, thì em ăn chả. Nhà tan cửa nát. Anh đi đường anh. Tôi đi đường tôi. Tình nghĩa đôi ta có thế thôi. Chỉ đứa con là lãnh đủ những hậu quả của cuộc tình đã đổ vỡ.

Hiện nay tục tảo hôn không còn nữa, và những cặp vợ chồng nhí cũng không nhiều, thỉnh thoảng mới thấy xuất hiện ở nơi này nơi khác. Tuy nhiên, cần chấm dứt tệ trạng này, để không còn phải chứng kiến những tình huống tang thương và bi đát.

Gã Siêu  gasieu@gmail.com

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Duoc chon giua loai nguoi va cho loai nguoi; GIAO SI: Xuat phat tu giao dan, hien dien vi giao dan va cay dua vao giao dan, de cung lam VINH DANH THIEN CHUA

*************