Những Nguyên Tắc
Hướng Dẫn Toàn Bộ Ðời Sống Kinh Tế Xã Hội |
Hiến Chế Mục Vụ
Về Giáo Hội Trong Thế Giới
Ngày Nay
Gaudium Et Spes
Prepared for
Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Phần Thứ Hai
Chương III
Ðời Sống Kinh Tế Xã
Hội
Ðoạn 2: Những
Nguyên Tắc Hướng Dẫn Toàn Bộ Ðời Sống Kinh Tế Xã Hội
67.
Việc làm, những điều kiện làm việc và giải trí. Việc làm của con
người trong công cuộc sản xuất và trao đổi sản phẩm hay cung ứng dịch vụ kinh tế
có giá trị hơn các yếu tố khác của đời sống kinh tế, vì các yếu tố đó chỉ có giá
trị như dụng cụ.
Thực thế, việc làm này hoặc làm cho
chính mình hoặc làm mướn đều trực tiếp phát xuất từ con người. Con người gần như
in vào thiên nhiên dấu vết của mình và bắt thiên nhiên phải tùng phục ý muốn của
mình. Nhờ việc làm, con người theo lệ thường nuôi sống mình và gia đình, liên
kết với anh em và phục vụ họ, có thể thực thi bác ái đích thực và góp công vào
việc kiện toàn công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa. Hơn nữa chúng tôi cho rằng nhờ
việc làm của mình, con người cộng tác vào chính công cuộc cứu rỗi của Chúa Giêsu
Kitô, Ðấng đã nâng cao giá trị của việc làm khi Người làm việc với chính hai bàn
tay của mình tại Nazareth 78*. Do đó, mỗi
người có bổn phận phải trung thành làm việc và cũng có quyền làm việc nữa
79*. Trong những hoàn cảnh cụ thể, chính xã hội
cũng có bổn phận góp phần giúp người công dân có thể tìm được công ăn việc làm.
Sau cùng, tùy theo phận vụ và năng suất của mỗi người cũng như tình trạng của xí
nghiệp và công ích 6, việc làm cần phải được
trả lương sao cho con người có đủ khả năng xây dựng cho mình và gia đình một đời
sống xứng hợp cả về phương diện vật chất, xã hội, văn hóa cũng như tinh thần
80*.
Hoạt động kinh tế thường là kết quả
của việc hợp tác giữa nhiều người. Do đó, nếu tổ chức và điều hành hoạt động này
làm thiệt hại cho bất cứ lớp công nhân nào thì đều là bất công và vô nhân đạo.
Ngay cả ngày nay, điều thường xảy ra là công nhân trở thành nô lệ cho chính việc
làm của mình. Ðiều ấy không thể được biện minh bằng bất cứ luật kinh tế nào. Bởi
vậy, mọi phương thức sản xuất cần phải thích nghi với nhu cầu và lối sống của
con người: trước hết thích nghi với đời sống gia đình, nhất là đối với người mẹ
gia đình, và luôn luôn còn phải lưu tâm đến phái tính và tuổi tác. Hơn nữa, giới
lao động cũng phải có cơ hội để phát huy tài năng và nhân cách ngay chính lúc
làm việc. Họ phải dành thời giờ và sức lực cho công việc với tinh thần trách
nhiệm phải có. Tuy nhiên, mỗi người cần được hưởng đầy đủ sự nghỉ ngơi và thời
giờ nhàn rỗi để sống đời sống gia đình, văn hóa, xã hội và tôn giáo. Ngoài ra họ
cũng cần phải có cơ hội để tự do thi thố tài nghệ và khả năng mà có lẽ trong
công việc của nghề nghiệp họ ít có dịp để trau dồi.
68.
Tham gia vào xí nghiệp, tổ chức kinh tế tổng quát, tranh chấp lao động.
Hoạt động trong các xí nghiệp kinh tế là việc hợp tác giữa các nhân vị, đó là
những con người tự do và tự lập, được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Bởi
thế, khi đã tìm ra những phương thức thích hợp, cần phải cổ võ sự tham gia tích
cực của mọi người vào việc quản trị xí nghiệp, tùy theo nhiệm vụ của mỗi người,
hoặc họ là chủ nhân, chủ sự, hoặc là đốc công hay công nhân mà vẫn giữ được sự
thống nhất cần thiết trong việc điều hành công việc 7.
Nhiều khi không phải trong chính phạm vi xí nghiệp, nhưng trong những chương
trình đại qui mô hơn, người ta đưa ra những quyết định về các tình trạng kinh tế
và xã hội liên quan đến số phận tương lai của công nhân cũng như của con cái họ,
nên họ cũng phải được tham dự vào những quyết định này hoặc chính họ hoặc qua
những đại diện tự họ chọn lấy.
Giữa những quyền lợi căn bản của
con người, đối với công nhân, cần phải kể đến quyền được tự do lập những hiệp
hội để có thể thực sự đại diện cho họ và góp phần vào việc tổ chức đời sống kinh
tế một cách tốt đẹp. Ngoài ra, cũng cần phải kể đến quyền tự do tham gia
81* vào hoạt động của những hiệp hội này mà không
sợ bị trả thù. Nhờ lối tham gia có tổ chức như trên liên kết với việc huấn luyện
dần dần về kinh tế và xã hội, mọi người càng ngày càng ý thức hơn về bổn phận và
trách nhiệm của mình. Nhờ đó, tùy theo phương tiện và khả năng riêng, chính công
nhân tiến tới mức cảm thấy mình được góp phần vào việc phát triển toàn bộ kinh
tế và xã hội cũng như vào việc mưu cầu ích chung.
Trường hợp xảy ra những tranh chấp
về kinh tế xã hội, cần phải cố gắng đi đến một giải quyết ôn hòa. Nhưng điều
phải làm trước tiên là luôn luôn tìm cách tạo một cuộc đối thoại chân thành giữa
các phe nhóm liên hệ. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh hiện tại, đình công, dầu là một
phương tiện cuối cùng, song vẫn là phương tiện cần thiết để bênh vực những quyền
lợi riêng và thỏa mãn những đòi hỏi chính đáng của công nhân
82*. Dù sao cũng cần phải tìm cách đưa tới thương
thuyết và đối thoại hòa giải càng sớm càng hay.
69. Của
cải trần gian là để cho mọi người hưởng dụng
83*. Thiên Chúa đã đặt định trái đất và mọi vật
trên trái đất thuộc quyền xử dụng của mọi người và mọi dân tộc. Chính vì thế,
của cải được tạo dựng phải được phân phối cho tất cả mọi người một cách hợp lý
theo luật công bằng là luật đi liền với bác ái 8.
Dù chấp nhận bất cứ hình thức tư hữu nào đã được nhìn nhận bằng các định chế hợp
pháp của các dân tộc, tuy nhiên tùy theo hoàn cảnh khác biệt và thay đổi, phải
luôn luôn lưu ý đến mục đích chung hưởng của cải. Vì thế, khi xử dụng của cải,
con người phải coi của cải vất chất mà mình làm chủ một cách chính đáng không
chỉ như của riêng mình, nhưng còn là của chung nữa: nghĩa là, của cải đó có thể
sinh ích không những cho riêng mình mà còn cho cả người khác
9. Vả lại, mọi người đều có quyền có một phần của
cải đầy đủ cho mình và cho gia đình mình. Các Giáo Phụ và các Tiến Sĩ Giáo Hội
đã nghĩ như thế. Các ngài dạy rằng mọi người có bổn phận phải nâng đỡ người
nghèo và không phải chỉ giúp đỡ bằng của dư thừa 10.
Còn những người sống trong cảnh cùng quẫn cực độ, họ có quyền lấy ở của cải
người khác những gì cần thiết cho mình 11.
Trước con số quá lớn những người đói khổ trong thế giới, Thánh Công Ðồng thiết
tha kêu gọi mọi người hoặc mọi chính quyền hãy nhớ laị lời sau đây của các Giáo
Phụ: "hãy cho kẻ sắp chết đói của ăn, vì nếu không cho họ ăn tức là đã giết họ"
12. Tùy theo khả năng, họ nên thực sự san sẻ
và dùng của cải của mình đặc biệt để giúp phương tiện cho mỗi người hoặc cả một
dân tộc để chính họ có thể tự túc và phát triển.
Trong những xã hội kinh tế kém mở
mang, đôi khi sự chung hưởng của cải được thể hiện đầy đủ phần nào là do những
tập tục và truyền thống riêng của cộng đoàn xã hội, nhờ đó, mỗi phần tử được
hưởng những của cải tối cần. Tuy nhiên điều nên tránh là đừng coi một số tập tục
như thể hoàn toàn bất biến, nếu thực sự nó không còn đáp ứng những đòi hỏi mới
của thời đại này. Ðàng khác, cũng đừng vì thiếu khôn ngoan mà hành động ngược
lại những tập tục tốt đẹp, vì một khi được thích nghi với hoàn cảnh hiện đại,
những tập tục này vẫn còn đem lại nhiều lợi ích. Cũng thế, ở những quốc gia kinh
tế rất phát triển, một hệ thống gồm những tổ chức xã hội nhằm vào việc bảo hiểm
và an ninh có thể góp phần giúp vào việc thực hiện sự chung hưởng của cải. Vả
lại, cần phải cổ võ những dịch vụ gia đình và xã hội, nhất là những dịch vụ đóng
góp vào văn hóa và giáo dục. Tuy nhiên khi thành lập mọi tổ chức trên cần phải
lưu tâm đừng để người công dân có thái độ phần nào thụ động, hoặc trốn tránh
trách nhiệm hoặc từ chối phục vụ xã hội.
70. Vấn
đề đầu tư và tiền tệ. Công việc đầu tư cũng phải làm sao tạo được
công ăn việc làm và đem lợi tức đầy đủ cho dân chúng trong hiện tại cũng như
trong tương lai. Bất cứ ai nắm giữ vai trò chủ chốt trong những việc đầu tư này
và trong việc tổ chức đời sống kinh tế - hoặc cá nhân, hoặc tập thể, hoặc công
quyền - cũng phải chú tâm đến những mục tiêu trên, và phải ý thức bổn phận nặng
nề của mình: một mặt phải sẵn sàng tiên liệu những nhu cầu cần thiết cho mỗi cá
nhân hoặc cho cả cộng đoàn có một đời sống đàng hoàng; mặt khác họ cũng phải dự
liệu cho tương lai và thiết lập quân bình đúng mức giữa những nhu cầu tiêu thụ
hiện tại của cá nhân hoặc của đoàn thể và những đòi hỏi phải đầu tư cho thế hệ
mai sau. Họ cũng phải luôn quan tâm đến những nhu cầu cấp bách của các quốc gia
hay những miền kinh tế kém mở mang. Trong vấn đề tiền tệ cũng phải tránh sao cho
khỏi nguy hại tới lợi ích của xứ sở mình cũng như của các quốc gia khác. Vả lại,
cũng phải liệu sao cho những ai eo hẹp về kinh tế khỏi bị thiệt thòi một cách
bất công vì những vụ thay đổi giá trị tiền tệ.
71.
Tiến tới sở hữu và quyền tư hữu. Vấn đề ruộng đất. Quyền sở hữu
84* và những hình thức khác của quyền tư hữu
trên của cải vật chất giúp cho con người biểu lộ nhân vị, tạo cho họ cơ hội làm
tròn phận sự của mình trong xã hội cũng như trong lãnh vực kinh tế. Do đó, cần
cổ võ mọi cá nhân cũng như mỗi đoàn thể tiến tới một chủ quyền nào đó trên của
cải vật chất.
Quyền tư hữu cũng như quyền làm chủ
của cải bảo đảm cho mỗi người một lãnh vực cần thiết để cá nhân và gia đình được
tự trị. Các quyền này cũng phải được coi như nằm trong phạm vi quyền tự do của
con người. Sau cùng, những quyền này còn là một điều kiện tạo nên tự do của
người công dân, vì khuyến khích họ đảm trách và thi hành phận vụ của mình
13.
Ngày nay chủ quyền hoặc quyền tư
hữu mặc nhiều hình thức khác nhau và sự khác biệt này ngày một gia tăng. Tuy
nhiên không kể đến những tài sản của xã hội, những quyền lợi và phục dịch mà xã
hội dành cho, tất cả những hình thức sở hữu đó làm cho con người được vững tâm
hơn. Ðiều vừa nói về quyền tư hữu về của cải vật chất, cũng có giá trị về những
của cải tinh thần, chẳng hạn như những khả năng chuyên nghiệp.
Tuy nhiên quyền tư hữu không cản
trở những hình thức khác nhau của quyền sở hữu công cộng. Dĩ nhiên chỉ có thẩm
quyền hợp pháp mới có thể buộc chuyển nhượng của cải tư nhân vào sở hữu công
cộng tùy theo những đòi hỏi và trong giới hạn công ích, nhưng phải bồi thường
tương xứng. Ngoài ra, công quyền cũng có bổn phận ngăn ngừa đừng để ai lạm dụng
quyền tư hữu mà phạm đến công ích 14.
Chính quyền tư hữu tự nó có một
tính cách xã hội. Tính cách xã hội này đặt nền tảng trên luật chung hưởng của
cải 15. Nếu tính cách xã hội này không được
tôn trọng thì quyền sở hữu thường đem đến cơ hội sinh ra những tham lam và gây
xáo trộn trầm trọng. Ðó là một cớ cho những người chống báng đòi hủy bỏ quyền tư
hữu.
Trong nhiều miền kinh tế kém mở
mang, vẫn còn những đồng ruộng rộng lớn hoặc rất bao la nhưng chỉ được canh tác
sơ sài hay bị bỏ hoang vì tự lợi; trong khi đó phần lớn dân chúng hoặc thiếu đất
đai hoặc chỉ được hưởng một phần đất quá ít ỏi và đàng khác việc tăng gia sản
xuất nông nghiệp lại hiển nhiên là vấn đề cấp bách. Ðôi khi nông dân làm thuê
hoặc những tá canh chỉ lãnh được một số lương hoặc một lợi tức không xứng với
con người. Họ không có được một chỗ ở xứng đáng mà còn bị bọn trung gian bóc
lột. Thiếu mọi bảo đảm an ninh, họ sống trong một tình trạng lệ thuộc hoàn toàn
đến nỗi họ hầu như không còn có thể hành động theo sáng kiến và với tinh thần
trách nhiệm. Và đối với họ, mọi cuộc phát triển văn hóa và tham gia vào đời sống
xã hội, chính trị đều bị cấm chế. Do đó tùy trường hợp, cần phải có những cuộc
cải cách nhằm gia tăng lợi tức, cải thiện trạng huống làm việc, đảm bảo cho việc
thuê mướn và sau hết khuyến khích sáng kiến khi làm việc. Lại nữa, cần phải phân
chia ruộng đất chưa được canh tác đầy đủ cho những ai có khả năng làm cho đất
đai đó sinh lợi. Trong trường hợp này, cần phải cung cấp vật dụng và những
phương tiện cần thiết cho họ, nhất là hỗ trợ về phương diện giáo dục và giúp tổ
chức các hợp tác xã một cách chính đáng. Một khi công ích đòi hỏi phải truất
hữu, thì cũng phải bồi thường cân xứng tùy theo hoàn cảnh.
72.
Hành động kinh tế xã hội và Nước Chúa Kitô. Là những người hoạt
động tích cực cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội ngày nay và tranh đấu cho
công bình bác ái, người Kitô hữu cần phải xác tín rằng họ có thể đóng góp nhiều
cho nền thịnh vượng của nhân loại và cho hòa bình thế giới. Trong những hoạt
động này, họ phải nêu gương sáng với tư cách cá nhân hay đoàn thể. Một khi đã
đạt được khả năng chuyên môn và kinh nghiệm cần thiết, trung thành với Chúa Kitô
và Phúc Âm của Người, họ phải giữ đúng bậc thang giá trị trong các hoạt động
trần thế. Nhờ vậy cả cuộc sống của họ, riêng tư cũng như giữa xã hội đều được
thấm nhuần tinh thần của các Mối Phúc Thật, đặc biệt là tinh thần nghèo khó.
Bất cứ ai vâng theo Chúa Kitô, tiên
vàn phải tìm Nước Thiên Chúa và từ đó tìm được một tình yêu mãnh liệt và tinh
khiết hơn để giúp đỡ các anh em mình và thể hiện công bằng dưới sự thúc đẩy của
đức ái 16.
Chú Thích:
78*
Việc làm có giá trị cao hơn tất cả các yếu tố khác của sinh hoạt kinh tế, vì: 1)
có tính cách nhân bản (không chỉ là khí cụ của con người), 2) là cần thiết cho
cuộc sống, 3) cổ võ tinh thần anh em và tinh thần phục vụ lẫn nhau, 4) do đó
giúp ta thực hiện đức thương yêu nhau, 5) để kiện toàn công cuộc tạo dựng, 6)
ngoài ra nhờ đó ta có thể cộng tác với Chúa Cứu Thế, 7) không kể việc chúng ta
bắt chước chính Người thuở xưa đã làm việc tại Nazareth.
Trước đây (số 35a), Công Ðồng đã
nói rằng nhờ việc làm mà con người được hoàn hảo hơn và xây dựng xã hội. Bởi đó
việc làm cũng là phương tiện để xây dựng hòa bình! Cho nên việc làm không những
chỉ có giá trị tự nhiên về phương diện cá nhân cũng như cho xã hội và cả vũ trụ,
mà còn có giá trị siêu nhiên giúp ta đền tội, cầu xin nhiều ơn Chúa cho mình và
cho tha nhân, thánh hóa bản thân khi phải thực hành nhiều nhân đức như kiên
nhẫn, cần mẫn, mạnh bạo, khiêm tốn... và đặc biệt là đức ái đối với Chúa cũng
như đối với anh em.
79*
A) Có bổn phận làm việc: Nếu việc làm thực sự có ích lợi cá nhân và xã hội như
vừa nói trên, ai không chịu làm việc kẻ ấy phạm đến Chúa bởi vi phạm đến xã hội
và anh em, chưa kể đến việc gây thiệt hại cho mình! Trước đây Công Ðồng nhắc lại
rằng đức tin khiến tín hữu nhập thế và hoạt động cho thực tại trần thế (số 43a).
Ngoài ra còn có những hoàn cảnh cụ thể buộc ta làm việc: ví dụ nghĩa vụ cha mẹ
phải nuôi nấng con cái, đức công bằng nếu lập khế ước, đức vâng lời cũng như
hiếu thảo của con cái trong gia đình v.v...
B) Có quyền làm việc: vì có bổn
phận như vừa nói trên đây. Nhân phẩm cũng đòi hỏi con người có thể hưởng thụ tất
cả những giá trị của việc làm. Dĩ nhiên nhân quyền này không có nghĩa là mỗi cá
nhân có quyền đòi hỏi nơi cá nhân khác hay xã hội một công việc nào đó, vì hiểu
như vậy sẽ không tôn trọng quyền tự do của người khác. Ở đây nhân quyền chỉ có
nghĩa là không ai có thể bị ngăn trở hay bị từ chối khi xin làm việc với đầy đủ
những điều kiện cần thiết. Hơn nữa chính quyền phải làm sao tổ chức đời sống
kinh tế xã hội để có thể giúp đỡ công dân tìm cơ hội làm việc như Công Ðồng nhắc
lại trong số này.
6
Xem Leô XIII, Tđ. Rerum Novarum: AAS 23 (1890-91), trg 649-662. - Piô XI, Tđ.
Quadragesimo anno: AAS 23 (1931), trg 200-201; - n.t., Tđ. Divini Redemptoris:
AAS 29 (1937), trg 92. - Piô XII, Sứ điệp truyền thanh vọng lễ Giáng Sinh 1942:
AAS 35 (1943), trg 20; - n.t., Huấn từ 13-6-1943: AAS 35 (1943), trg 172; -
n.t., Sứ điệp truyền thanh gửi thợ thuyền Tây Ban Nha, 11-3-1951: AAS 43 (1951),
trg 215. - Gioan XXIII, Tđ. Mater et Magistra: AAS 53 (1961), trg 419.
80*
Phải được trả lương tương xứng, không phải chỉ trả theo sức mạnh của người làm
việc (là việc làm của con người chứ không phải của cái máy) mà còn theo nhu cầu
của con người trước đời sống vật chất, xã hội, văn hóa và đạo đức. Hơn nữa,
tương xứng với nhu cầu không chỉ của một mình người làm mà cả của gia đình họ
nữa. Giáo lý của Giáo Hội từ Ðức Leô XIII đến giờ vẫn nhấn mạnh rằng lương bổng
đầy đủ cho gia đình là thuộc nhân quyền của người làm việc. Dĩ nhiên phải làm
trọn nhiệm vụ này là trả công đầy đủ cho gia đình tùy từng việc và khả năng sản
xuất, tùy hoàn cảnh xí nghiệp, tùy đòi hỏi của công ích, đặc biệt phải làm sao
để có thể cho càng nhiều người làm việc càng tốt.
7
Xem Gioan XXIII, Tđ. Mater et Magistra: AAS 53 (1961), trg 408, 424, 427; còn
tiếng điều hành (curatione) trích trong bản văn Latinh của Tđ. Quadragesimo
anno: AAS 23 (1931), trg 199. Về diễn tiến vấn đề, xem thêm: Piô XII, Huấn từ
3-6-1950: AAS 42 (1950), trg 485-488. - Phaolô VI, Huấn từ 8-6-1964: AAS 56
(1964), trg 574-579.
81*
Công Ðồng nhắc lại rằng công nhân có nhân quyền tập đoàn và mục đích của nghiệp
đoàn hay những hình thức khác là để đại diện cho công nhân (ví dụ để lập khế ước
lao động) cũng như để góp phần vào tổ chức kinh tế. Nếu chỉ chấp nhận nhân quyền
này trên nguyên tắc rồi tạo nên hằng ngàn sự đe dọa và áp lực để ngăn cản công
nhân hoạt động tự do trong nghiệp đoàn, như thế là xâm phạm quyền lợi công nhân
và trái lẽ công bằng.
82*
Nhiều khi người ta nói về quyền đình công để giải quyết những tranh chấp lao
động như là một trong các nhân quyền căn bản mà chủ nghĩa dân chủ đã đem lại cho
công dân. Công Ðồng có lập trường khiêm tốn hơn. Theo Công Ðồng sự đình công 1)
có thể là phương thế để bảo vệ quyền lợi cũng như để đòi hỏi những nguyện vọng
hợp lý, 2) phương thế cần thiết và tối hậu, nghĩa là phương thế duy nhất sau khi
cuộc đối thoại và những biện pháp hòa giải đã thất bại.
Sở dĩ như vậy là vì sự đình công
gây nên thiệt thòi cho chính người lao động, cho xí nghiệp và cho công ích nữa.
Thực ra cuộc đình công có hiệu lực chính là vì gây nên thiệt thòi đó. Cho nên
đức ái cũng như đức công bằng cấm việc làm hại cho tha nhân, ngoại trừ trường
hợp đó là vũ khí cần thiết để bảo vệ quyền lợi và đồng thời sự thiệt thòi không
quá đáng.
Bởi vậy chính quyền có thể phế trừ
sự đình công. Nhưng luật ấy sẽ bất công (cho nên vô giá trị) nếu chính quyền
không cung cấp phương pháp hữu hiệu và tôn trọng quyền tự do của giới lao động
để giải quyết các cuộc tranh chấp về việc làm.
Cuối cùng Công Ðồng không nói gì về
cuộc đình công chính trị. Trường hợp này phức tạp hơn vì lúc ấy cuộc đình công
giống như phương tiện bạo động bất hợp pháp. Do đó phải xét theo nguyên tắc khác
(x.số 75).
83*
Công Ðồng nhắc lại giáo lý truyền thống (các tài liệu trong ghi chú làm chứng).
Ta có thể tóm tắt giáo lý của Giáo Hội như sau: 1) Theo ý Ðấng Tạo Hóa của cải
phải phục dịch cho mọi người (x. Populorum Progressio, số 23), và phải bất chấp
các kỳ thị (ở trên, số 64). 2) Cho nên cùng đích của chính của cải là phục dịch
con người (Populorum Progressio, số 22). 3) Tùy theo nhu cầu vật chất, trí tuệ,
luân lý, tinh thần và tôn giáo của họ (ở trên, số 64). 4) Của cải phải được đưa
tới đầy đủ cho tất cả mọi người nhờ sự phân chia của cải một cách thích hợp hơn
(x. Hiến chế tín lý về Giáo Hội, 36). 5) Tức là theo sự đòi hỏi của đức công
bằng và với tinh thần yêu thương (Populorum Progressio, 22). 6) Kết luận: mọi
người đều có thực quyền về những cái cần thiết (PP.22). 7) Các quyền lợi khác,
kể cả quyền tư hữu, đều phụ thuộc quyền căn bản này (PP.26). 8) Do đó quyền tư
hữu theo bản tính có mục đích xã hội (sau này, số 71). 9) Cho nên chúng ta phải
lên án hình thức tư bản chủ nghĩa chủ trương quyền tư hữu vô hạn và tuyệt đối
(PP.26). 10) Tất cả mọi người đều phải góp phần trong việc phân chia của cải cho
công bằng hơn (do việc làm, lòng quảng đại) (Hiến chế tín lý về Giáo Hội 36; ở
trên, 64; PP 23). 11) Ðặc biệt chính quyền phải can thiệp khi nào cần thiết (PP.
23). 12) Các dân tộc kém mở mang phải được dân tộc khác trợ giúp (sau này,
85-87) (PP. đặc biệt từ số 43 trở đi). 13) Phải giúp phương tiện cho mọi người
cũng như các dân tộc để tự mình phát triển (PP.15,65).
8
Xem Piô XII, Tđ. Sertum Laetitia: AAS 31 (1939), trg 642. - Gioan XXIII,
Allocutio consistorialis: AAS 52 (1960), trg 5-11; - n.t., Tđ. Mater et
Magistra: AAS 53 (1961). trg 411.
9
Xem T. Tôma, Summa theol. II-II, q.32, a.5 ad 2; - n.v.t., q.66, a.2: xem dẫn
giải trong Leô XIII, Tđ. Rerum Novarum: AAS 23 (1890-91), trg 651. - xem thêm
Piô XII, Huấn từ 1-6-1941: AAS 33 (1941), trg 199; - n.t., Sứ điệp truyền thanh
lễ Giáng Sinh 1954: AAS 47 (1955), trg 27.
10
Xem T. Basiliô, Hom. in illud Lucae "Destruam horrea mea", số 2: PG 31, 263. -
Lactantiô, Divinarum Institutionum, c. V, về sự công bình: PL 6,565 B. - T.
Augustinô, In Joann. Ev. tr. 50, số 6: PL 35, 1760; - n.t., Enarratio in Ps.
CXLVII, 12: PL 37, 1922. - T. Gregoriô Cả, Hom. in Ev., bài 20, 12: PL 76, 1165;
- n.t., Regulae Pastoralis liber, phần III, ch. 21: PL 77, 87. - T. Bonaventura,
In III Sent., d. 33 dub. 1: x.b. Quaracchi III, 728; - n.t., In IV Sent., d. 15,
p. II, a. 2, q. 1: n.v.t., IV, 371 b; - Quaest. de superfluo: ms. Assisi, Bibl.
comun. 186, ff. 112 a - 113a. - T. Albertô Cả, In III Sent., d. 33, a.3, sol. 1:
x. b. Borgnet XXVIII, 611; - n.t., In IV Sent., d. 15,a. 16: n.v.t., XXIX,
494-497. Về việc xác định của dư thừa của thời đại chúng ta: xem Gioan XXIII, Sứ
điệp truyền thanh truyền hình 11-9-1962: AAS 54 (1962), trg 682: "Bổn phận của
mọi người và là bổn phận cấp bách của Kitô hữu, chính là thẩm định của dư thừa
theo mức độ nhu yếu của người khác và ân cần chăm sóc sao cho việc quản trị và
phân phối của cải được tạo dựng có lợi cho mọi người."
11
Trong trường hợp này có thể áp dụng được nguyên tắc: "Trong lúc cùng quẫn cực
độ, mọi sự là của chung, nghĩa là phải được chia sớt". Ðàng khác, đối với lý do,
phạm vi và phương cách áp dụng nguyên tắc phải theo bản văn đề ra; ngoài các tác
giả tân thời được công nhận, xem thêm T. Tôma, Summa Theol., II-II, q.66, a. 7.
Hiển nhiên, để áp dụng đúng nguyên tắc, phải tôn trọng mọi điều kiện theo "luân
lý" đòi hỏi.
12
Xem Gratiani Decretum C. 21, dist. LXXXVI: x.b. Friedberg I, 302. Lời này đã tìm
thấy trong PL 56, 491 A và PL 56, 1132 B. - Xem Antonianum 27 (1952) trg
349-366.
84*
Công Ðồng nhắc lại những lý do làm cho quyền tư hữu trở thành chính nghĩa: 1) nó
phát biểu nhân cách, 2) giúp con người làm tròn nhiệm vụ trong xã hội, 3) là
phương tiện cần thiết để bảo đảm quyền tự trị cá nhân và gia đình, 4) và giống
như sự nối dài của quyền tự do, 5) nó khuyến khích con người làm việc, 6) và do
đó trở thành điều kiện cho quyền tự do dân sự.
Nói cách khác và theo các tài liệu
được trích lại trong ghi chú 13, 1) bản tính con người đoán được nhu cầu về
tương lai nên đã đòi hỏi quyền tư hữu. Khác với thú vật, con người phải lo cho
tương lai ! 2) Quyền tự do để tìm kiếm cùng đích cũng đòi hỏi quyền tư hữu một
phần nào đó. 3) Ðặc biệt quyền tư hữu rất cần thiết để bảo đảm quyền tự trị
trước mặt chính quyền, 4) Quyền cũng như bổn phận làm việc là những lý do bênh
vực cho quyền tư hữu. 5) Cuối cùng chính công ích đòi hỏi quyền tư hữu: vì nó
giúp con người làm việc hăng hái.
Như vậy ta phải quả quyết rằng
quyền tư hữu ít ra là quyền của đại gia đình theo khía cạnh tinh thần, và phát
sinh bởi luật tự nhiên. (x. Haring, La Loi du Christ, 1963, III, 605-606).
13
Xem Leô XIII, Tđ. Rerum Novarum: AAS 23 (1890-91), trg 643-646. - Piô XI, Tđ.
Quadragesimo anno: AAS 23 (1931), trg 191. - Piô XII, Sứ điệp truyền thanh
1-6-1941: AAS 33 (1941), trg 199; - n.t., Sứ điệp truyền thanh Lễ Giáng Sinh
1942: AAS 35 (1943), trg 17; - n.t., Sứ điệp truyền thanh 1-9-1944: AAS 36
(1944), trg 253. - Gioan XXIII, Tđ. Mater et Magistra: AAS 53 (1961), trg
428-429.
14
Xem Piô XI, Tđ. Quadragesimo anno: AAS 23 (1931), trg 214. - Gioan XXIII, Tđ.
Mater et Magistra: AAS 53 (1961), trg 429.
15
Xem Piô XII, Sứ điệp truyền thanh Lễ Hiện Xuống 1941: AAS 44 (1941), trg 199. -
Gioan XXIII, Tđ. Mater et Magistra: AAS 53 (1961) trg 430.
16
Về việc xử dụng đứng đắn những của cải theo giáo lý của Tân Ước, xem Lc 3,11;
10,30tt; 11, 41; 1P 5,3; Mc 8,36; 12,29-31; Giac 5,1-6; 1Tm 6,8; Eph 4,28; 2Cor
8,13tt; 1Gio 3,17-20.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
PHÁT TRIỂN ƠN GỌI TRUYỀN GIÁO
TRONG MỘT GIÁO XỨ
|
Làm thế nào để phát
triển ơn gọi truyền giáo trong một giáo xứ là mối bận tâm đang
được đặt ra cho công cuộc loan báo Tin Mừng hôm nay. Việc phát
triển này nói lên vai trò đặc biệt quan trọng của mỗi giáo xứ có
ảnh hưởng sâu rộng đối với sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội. Do
đó, giáo xứ trở thành hạt nhân cơ bản giúp phát triển ơn gọi
truyền giáo cách hiệu quả và bền vững. Là thành viên của từng xứ
họ nhất định, người Kitô hữu ngày càng ý thức thâm sâu hơn ơn
gọi của mình nhờ việc khám phá và làm triển nở các giá trị Tin
Mừng trong hoàn cảnh và môi trường sống đặc thù tại nơi mình
đang sinh sống. Đây là yêu cầu cấp thiết đòi hỏi sự tâm huyết và
khôn ngoan của các mục tử và cộng đồng tín hữu nói chung. Nhờ
đó, tương quan Đức ái không chỉ biểu tỏ trong nội bộ từng giáo
xứ nhất định mà còn hướng tới việc cố kết ngày càng khăng khít
hơn với các cộng đồng lương dân trên cơ sở tôn trọng, đối thoại
và hiệp nhất.
1. Giáo xứ, hạt
nhân phát triển ơn gọi truyền giáo
Như đã đề cập, giáo
xứ là hạt nhân cơ bản để phát triển ơn gọi truyền giáo. Mọi định
hướng, chương trình cụ thể mang tính vĩ mô liên quan đến việc
xúc tiến công cuộc truyền giáo nếu không được triển khai bước
đầu từ mỗi giáo xứ thì e rằng khó có thể đạt được những kết quả
khả quan. Do đó, giáo xứ trở thành địa bàn lý tưởng nhất để khơi
dậy và phát triển ơn gọi truyền giáo vốn tiềm tàng và phong phú
từ chính tâm hồn của mỗi Kitô hữu. Dù có những đặc thù, mỗi giáo
xứ đều hội tụ những khả năng cần thiết nhằm thúc đẩy việc truyền
giáo. Vấn đề là là làm sao để phát hiện và vận dụng những khả
năng ấy. Trên thực tế, tại các giáo xứ ở Việt Nam nói chung,
hướng phát triển này còn rất hạn chế do bị chi phối bởi những
điều kiện, hoàn cảnh khác nhau. Chúng ta có thể nhận ra một thực
trạng, đó là, hoạt động truyền giáo tại các giáo xứ chưa thoát
ra khỏi những đường hướng truyền thống kém hiệu quả, còn mang
tính hình thức và khép kín, nặng về số lượng… Yếu tố con người
chưa được đề cao, nhất là ơn gọi truyền giáo chưa được khơi dậy
cách đúng mức.
Để phát triển ơn gọi
truyền giáo trong một giáo xứ, linh mục quản xứ và cộng đoàn tín
hữu cần hoạch định một kế hoạch toàn diện, trong đó việc phát
triển nhân bản và làm sáng tỏ gương mặt đích thực của Đức Kitô
là sứ vụ căn yếu nhất. Phải làm sao tạo cho môi trường giáo xứ
thành một cộng đồng sinh động, mang đậm bản sắc liên đới vị tha
là giá trị nền tảng của Tin Mừng.
2. Định hướng phát
triển
2.1. Gây ý thức ơn
gọi truyền giáo
Đây là điều cần làm
trước hết của người mục tử khi đến nhận lãnh nhiệm sở. Bởi mọi
định hướng liên quan đến hoạt động truyền giáo sẽ không đạt hiệu
quả mong muốn nếu không gây được ý thức về ơn gọi truyền giáo.
Do đó, cha sở phải biết cách tạo lập nơi người giáo dân tinh
thần xả kỷ, sẵn sàng tận hiến cho hoạt động tông đồ.
Gây ý thức ơn gọi
truyền giáo được được thực hiện qua việc tác động cách toàn diện
sâu rộng trên mọi sinh hoạt tâm linh và đời sống xã hội thường
nhật của của người giáo dân, phải làm sao đưa họ “trở lại với
Đức Kitô, cởi bỏ hết mọi ý thức hệ, mọi quan niệm thần học hoài
nghi, cả chính mình, mà theo Đức Kitô trong sứ mệnh của Ngài:
“Không thể mời gọi người khác trở lại nếu chính chúng ta không
trở lại mỗi ngày” (Sứ mệnh…, 47) (Felipe Gómez, SJ,
Truyền giáo học 1, Antôn & Đuốc sáng, tr. 173). Những tác
động này luôn được đặt dưới ánh sáng Lời Chúa với Đức ái Kitô
giáo làm kim chỉ nam cho mọi ý tưởng hướng tới sứ vụ loan báo
Tin Mừng.
Việc gây ý thức về
ơn gọi truyền giáo là một tiến trình đầy khó khăn nhưng đó là
bước chuẩn bị có tính quyết định đối với một giáo xứ trong sứ vụ
truyền giáo nói chung.
2.2. Phát triển đội
ngũ truyền giáo
Một khi đã gây được
ý thức truyền giáo, hay nói cách khác đã tạo lập được “tinh thần
truyền giáo” mạnh mẽ, giáo xứ sẽ gặp được lợi thế cho bước tiếp
theo là phát triển đội ngũ truyền giáo. Có thể nói, ơn gọi
truyền giáo tại mỗi giáo xứ có biểu hiện sinh động và bừng phát
mạnh mẽ hay không cần phải kể đến đội ngũ truyền giáo tại giáo
xứ ấy phát triển tới mức độ nào. Do đó, việc xây dựng đội ngũ
truyền giáo là yêu cầu cấp thiết giúp cho hoạt động truyền giáo
trong giáo xứ được phát triển có hệ thống trên nền tảng liên
đới.
Đội ngũ truyền giáo
được quy tụ trên cơ sở lòng tự nguyện của người giáo dân, làm
sao cho họ ý thức được trách vụ cao cả khi quên mình dấn thân
xây dựng giáo xứ thành cộng đoàn truyền giáo năng động.
Cha xứ là người tiên
phong trong đội ngũ truyền giáo của giáo xứ. Ngài là người chủ
động hoạch định mọi chương trình liên quan đến việc phát triển
ơn gọi truyền giáo trong giáo xứ, đồng thời nỗ lực tạo điều kiện
cho hoạt động truyền giáo tại nhiệm sở của mình đạt hiệu quả
nhất.
Hội đồng mục vụ, các
ban - ngành, đoàn thể là những nòng cốt của đội ngũ truyền giáo
trong một giáo xứ. Do đó, các đối tượng này được xây dựng, phát
triển song song cả về lượng và chất. Về lượng: phải làm sao cho
số thành viên tự nguyện tham gia các ban, ngành, hội đoàn ngày
càng đông đảo, đủ mọi lửa tuổi, trình độ học vấn... Về chất:
thành viên tham gia đội ngũ truyền giáo chính thức của giáo xứ
phải là các đối tượng giàu nhiệt huyết tông đồ, biết dấn thân
cho lợi ích chung của cộng đoàn giáo xứ và mọi người. Do đó,
việc đào luyện “tinh thần truyền giáo” cho đội ngũ truyền giáo
là mục tiêu quan trọng xuyên suốt hoạt động truyền giáo.
Cha xứ thường xuyên
tổ chức các lớp huấn luyện về kỹ năng chuyên môn cho đội ngũ
truyền giáo của giáo xứ đã được thiết lập. Các lớp học này do
chính cha xứ trực tiếp hướng dẫn hoặc do các chuyên gia có
chuyên môn, kinh nghiệm về hoạt động đoàn thể Công giáo được mời
đến chia sẻ.
Giáo xứ cần đầu tư
và tạo những điều kiện cần thiết cho các hội đoàn có linh đạo
truyền giáo dễ thích nghi với môi trường truyền giáo của giáo xứ
như: Hội Têrêxa, Gia đình Khôi Bình, Gia đình Thánh Tâm, Hội
Lêgiô...
Cha xứ thường xuyên
tổ chức tĩnh tâm định kỳ cho các ban, ngành, đoàn thể vào các
dịp quan trọng có liên quan đến những sự kiện truyền giáo của
Giáo Hội: Ngày Quốc tế Truyền giáo, Ngày Quốc tế Bệnh nhân…Chủ
đề tĩnh tâm cần tập trung nhắm tới ơn gọi truyền giáo, khích lệ
và kêu mời các thành viên trong đội ngũ truyền giáo nòng cốt của
giáo xứ hãy dấn thân bằng cả tâm huyết cho việc loan báo Tin
Mừng. Cha xứ cần tận dụng các kỳ tĩnh tâm cho các hội đoàn để
hâm nóng tinh thần truyền giáo, bầu khí liên đới trong hoạt động
truyền giáo giữa các thành viên này, thúc đẩy và nâng đỡ họ vượt
qua mọi khó khăn khi phải đối diện với lợi ích riêng tư của gia
đình và của cộng đoàn.
Trong tương quan ơn
gọi truyền giáo nói chung, cha xứ không ngừng nỗ lực kêu gọi,
khích lệ về tinh thần, vật chất để nâng đỡ ơn gọi truyền giáo,
đặc biệt là ơn gọi linh mục, tu sỹ nơi những người trẻ trong
giáo xứ - Đây là những hạt mầm Đức tin sẽ triển nở và giúp cho
mảnh đất truyền giáo tại mỗi giáo xứ ngày càng màu mỡ, phong phú
và dồi dào hơn. Không chỉ trên tòa giảng, cha xứ nên thường
xuyên gặp gỡ, chia sẻ thân tình với các bạn trẻ trong giáo xứ về
ơn gọi và thao thức loan báo Tin Mừng trong thời đại hôm nay.
Qua những buổi gặp gỡ này, cha xứ sẽ là người đồng hành cùng các
em trong việc tháo gỡ những khúc mắc, khó khăn và tạo điều kiện
cho các em được phát triển lý tưởng cao đẹp nơi mình, là trở
thành tông đồ mẫu mực của Chúa Kitô, hết lòng phục vụ những
người nghèo khổ nhất.
2.3. Phát triển ơn
gọi truyền giáo trong giáo xứ qua đời sống thực tiễn
Để phát triển ơn gọi
truyền giáo trong giáo xứ, ngoài các yếu tố đã nêu trên thì việc
sống “tinh thần truyền giáo” qua đời sống thực tiễn là yêu cầu
quan trọng nhất nhằm đem lại hiệu quả tích cực cho hoạt động
truyền giáo của mỗi giáo xứ.
1o Chứng
nhân sống niềm tin
Phát triển ơn gọi
truyền giáo ở khía cạnh này được bắt đầu từ mỗi cá nhân và gia
đình trong giáo xứ. Cha xứ, Hội đồng mục vụ giáo xứ, đội ngũ
giáo lý viên tích cực chăm lo nuôi dưỡng đời sống Đức tin của
của người giáo dân và định hướng cho họ sống tốt vai trò tông đồ
qua những hoạt động thực tiễn thường ngày.
Kêu mời và tạo điều
kiện cho mọi gia đình trong giáo xứ trở thành điểm sáng như
những “Gia đình Nazareth nhỏ” biết tận tâm phục vụ lợi
ích những người xung quanh. Quy tụ các bậc làm cha mẹ vào các
hội đoàn của giáo xứ như Hội Giuse, Hội Các Bà Mẹ Công
Giáo…Thông qua các Hội này, cha xứ thường xuyên tiếp xúc, chia
sẻ và thúc đẩy các hội viên hãy trở nên những mẫu mực tuyệt hảo
cho con cái trong việc sống ơn gọi truyền giáo. Chính các bậc
cha mẹ là những tông đồ giáo dân đắc lực khi tham gia các hoạt
động truyền giáo của giáo xứ. Cha xứ cũng thường xuyên chia sẻ
và gợi mở cho những người làm cha mẹ những đường hướng tâm linh
giúp họ trở nên điển chứng Tin Mừng giữa “chợ đời”.
Các ban - ngành,
đoàn thể của giáo xứ là những trung gian giữa cha xứ và các gia
đình. Trong trường hợp gia đình nào xẩy ra bất hòa bất thuận nội
bộ hay với những người lương dân thì cha xứ và các đại diện của
các đoàn thể sẽ trực tiếp giải hòa và nối lại dây liên đới giữa
các bên liên quan.
Thông qua các lớp
giáo lý thuộc Khối Vào Đời và Tiền Hôn Nhân, cha xứ và các giáo
lý viên cần gợi mở và tạo cho các học viên ý thức được vai trò
chứng nhân của “phía” Công giáo khi được mời gọi “nên duyên”
cùng người bạn đời không chung niềm tin với mình.
2o Chủ
động đối thoại
Cha xứ và cộng đoàn
giáo xứ chủ động trong việc đối thoại với bà con lương dân và
những người theo các tôn giáo khác cùng sinh sống ngay trên địa
bàn giáo xứ cũng như các cộng đồng phụ cận. Tinh thần truyền
giáo chỉ có thể lan tỏa khi mỗi thành viên trong giáo xứ biết
cởi mở, tôn trọng những khác biệt đối với anh chị em không cùng
niềm tin với mình. Do đó, để có thể phát triển ơn gọi truyền
giáo, cha xứ và Hội đồng mục vụ giáo xứ cần định ra những hình
thức đối thoại nhằm củng cố và siết chặt tình liên đới giữa cộng
đoàn của mình với các cộng đồng xung quanh.
Tôn trọng những khác
biệt: cha xứ thường xuyên nhắc nhở bà con giáo dân không nên có
thái độ thành kiến trước những dị biệt trong văn hóa ứng xử của
bà con lương dân xung quanh, nhưng thấy được giá trị nhân văn ẩn
tàng trong lối sống, cách sống của họ. Tuyệt đối tránh những
cuộc cãi cọ, tranh luận vô bổ về quan điểm tín ngưỡng, tôn giáo
hay hệ tư tưởng giữa những người có đạo với những người lương
dân.
3o Nhịp
cầu tâm giao
Những định hướng
trên chỉ có thể trở thành hiện thực khi cộng đoàn giáo xứ biết
chủ động bắc những “nhịp cầu tâm giao”. Nhịp cầu này được khởi
phát từ con tim đã thấm nhuần Đức ái Kitô giáo, biết chia sẻ yêu
thương với hết mọi người.
Để nhịp cầu tâm giao
được thông suốt, mọi thành viên trong xứ cần xóa bỏ mọi dị nghị,
ác cảm với anh chị em lương dân xung quanh. Cha xứ và những
người hữu trách của giáo xứ là những người đi bước trước để khai
thông những bế tắc làm cản trở tình thân hữu giáo lương.
Về giao thông:
phối hợp làm những trục lộ chung giữa hai làng giáo – lương nhằm
tạo thuận lợi cho việc giao lưu gặp gỡ được dễ dàng, thuận
tiện.
Về giải trí:
giáo xứ nên tổ chức các sân chơi chung: sân bóng chuyền, bóng
đá…, và tạo điều kiện đón tiếp bà con, nhất là các bạn trẻ từ
các làng lương lân cận đến cùng giao hữu thường xuyên tại các
sân chơi này. Tùy điều kiện cho phép, các sân chơi có thể đặt
tại một địa điểm nhất định trên địa bàn giáo xứ, tốt nhất là gần
nhà thờ xứ .
Về giáo dục:
giáo xứ mở các lớp học phụ đạo về văn hóa tại trường giáo lý của
giáo xứ và cho các em học sinh lương dân đến tham dự các lớp học
này. Các em không chỉ được nâng cao về trình độ văn hóa mà còn
có cơ hội tiếp xúc để hiểu biết nhau hơn.
Vào các dịp đại lễ
như Noel, Tết Nguyên đán…, các gia đình, nhất là các bạn trẻ
trong giáo xứ tổ chức mời các gia đình nhất là các bạn trẻ lương
dân đến tham dự các chương trình canh thức, họp mặt đầu xuân và
dự tiệc vui thân mật. Nếu được, giáo xứ nên cho phép bạn bè
lương dân được tham gia các tiết mục hoạt cảnh, ca hát giàu tính
nhân văn và chia sẻ những cảm nghiệm riêng tư liên quan đến đời
sống tâm linh và triết lý nhân sinh.
Để nhịp cầu tâm giao
ngày càng bền vững hơn, giáo xứ cần tổ chức các nhóm tình nguyện
viên, các đội cứu trợ của giáo xứ thường xuyên tham gia các hoạt
động thăm hỏi, cứu trợ các gia đình, cá nhân tại các làng lương
bị đau nặng, gặp tai ương, hoạn nạn.
4o Hoạt
động từ thiện – bác ái
Để phát triển ơn gọi
truyền giáo trong giáo xứ, việc xúc tiến và đẩy mạnh hoạt động
từ thiện – bác ái được coi là đòi hỏi đặc biệt cần thiết cho
hành vi “sống đức tin” trong sứ vụ truyền giáo. Do vậy, giáo xứ
cần phải đặt hoạt động từ thiện – bác ái làm tiêu chí hàng đầu
cho thành công của hoạt động truyền giáo.
Muốn hoạt động từ
thiện bác ái thành công, giáo xứ cần có chương trình đào luyện
“tinh thần truyền giáo” cho đội ngũ truyền giáo như đã nêu trên.
Đội ngũ này không chỉ năng động trong công tác mà luôn chứng tỏ
được phẩm tính của người môn đệ Chúa Kitô, biết quên mình vì
hạnh phúc của người khác.
Thành lập Quỹ bác
ái: kêu gọi mọi người trong giáo xứ hãy bỏ những “đồng xu bà góa
nghèo” vào quỹ bác ái của giáo xứ với tinh thần “lá rách ít đùm
lá rách nhiều”. Quỹ này do Ban Bác Ái – Caritas nắm giữ.
Kêu gọi các gia đình
khá giả, các nhà hảo tâm trong giáo xứ nâng đỡ cách đặc biệt
cho những gia đình, cá nhân đang lâm vào hoàn cảnh quá bi đát do
nghèo túng, bệnh tật.
Hoạt động từ thiện –
bác ái được mở rộng đến các đối tượng không phân biệt lương
giáo: các gia đình nghèo, người đau ốm, neo đơn, học sinh nghèo
vượt khó…
Các ban – ngành,
đoàn thể của giáo xứ, đặc biệt là Ban Bác Ái lập danh sách cụ
thể các đối tượng giáo dân cũng như lương dân cần được quan tâm
thăm hỏi, chăm sóc, cưu mang trong điều kiện có thể. Đối với
những người già yếu neo đơn, giáo xứ nên cắt cử hoặc mời gọi
những người thiện nguyện trong cộng đoàn đến chăm sóc, lo lắng
thuốc men và các nhu cầu cần thiết khác cho họ. Giáo xứ có thể
xây sẵn vài ba căn hộ nhỏ trên vùng đất thuộc giáo xứ và ưu tiên
mời những người neo đơn không có nhà cửa đến ở tại căn hộ này.
Đối với những trường hợp gặp rủi ro, hoạn nạn, mất mát về tinh
thần, các ban ngành, đoàn thể của giáo xứ đến động viên, khích
lệ và nâng đỡ họ bằng tinh thần hay vật chất, giúp họ sớm vượt
qua khó khăn, ổn định cuộc sống.
Khi có người trong
giáo xứ hay bà con lương dân sống trên địa bàn giáo xứ và những
vùng phụ cận qua đời, cha xứ và các ban ngành đoàn thể kịp thời
đến phân ưu, cầu nguyện, giúp đỡ tang quyến.
Công tác từ thiện –
bác ái của giáo xứ không đơn thuần chú trọng việc trao ban vật
chất, mà còn hơn thế nữa, các thành viên trong giáo xứ khi tham
gia hoạt động này được hướng tới việc biểu tỏ gương mặt đích
thực của Đức Kitô biết “chạnh lòng thương” những ai bé mọn, yếu
đuối, bần cùng.
5o Cùng
tham gia hoạt động công ích và phát triển nhân bản
Cha xứ và các ban
ngành đoàn thể phát động, cổ vũ bà con giáo dân cùng với anh chị
em lương dân tham gia các hoạt động công ích: bảo vệ môi trường,
bài trừ tệ nạn xã hội, xây dựng các công trình phúc lợi chung
nhằm phục vụ đồng thời cho cả bà con giáo dân và lương dân đang
sinh sống trên địa bàn giáo xứ. Chúa nhật hàng tuần, cha xứ kêu
gọi các em trong Hội Têrêxa, Hội Thiếu Nhi Thánh Thể cùng với
các bạn trẻ lương dân tham gia thu gom rác thải và làm vệ sinh
các trục đường công cộng…
Trên tinh thần cùng
nhau xây dựng, phát triển, mọi thành viên trong giáo xứ có trách
nhiệm liên đới với cộng đồng lương dân và những những người theo
tôn giáo khác trong những vấn đề có liên quan đến phẩm giá và
quyền lợi chính đáng của con người.
Giáo xứ kêu mời và
phát động các bạn trẻ trong giáo xứ tham gia các nhóm bảo vệ sự
sống của giáo xứ, giáo phận hay liên giáo phận. Cha xứ thường
xuyên tổ chức các cuộc nói chuyện với các bạn trẻ về tác hại của
phá thai theo nhãn quan luân lý; khích lệ và tạo điều kiện cho
họ trở nên chứng nhân đắc lực bảo vệ sự sống, bảo vệ các quyền
căn bản của con người.
Kết luận
Phát triển ơn gọi
truyền giáo trong giáo xứ là yêu cầu cấp thiết cho sứ vụ loan
báo Tin Mừng. Vấn đề này đòi hỏi sự nỗ lực và dấn thân cao độ
của mọi thành phần dân Chúa tại mỗi giáo xứ nhất định. “Tinh
thần truyền giáo” không chỉ biểu tỏ và giới hạn trong các nhóm,
các hoạt động mang tính hình thức nhỏ lẻ. Trên hết, ơn gọi
truyền giáo là một hồng ân và được khởi đi từ chính con tim tràn
đầy yêu thương của Đức Kitô. Do vậy, để giáo xứ thực sự trở
thành điểm sáng của đời sống chứng nhân Tin Mừng, các tín hữu
được mời gọi bước theo Đức Kitô trên hành trình thứ tha, chia
sẻ, nhất là biết chấp nhận những thiệt thòi, để qua đó, mọi
người nhận ra cộng đoàn Đức tin sinh động đang hiện tỏ giữa lòng
thế giới hôm nay.
Tháng 06/2011
J.B. Nguyễn Quốc Tuấn |
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH ĐẠO THỜI NAY (1)
|
Có một mối
nguy rõ ràng khi nói về linh đạo thời nay. Người ta có
thể nghi ngờ rằng đời sống thiêng liêng mỗi thời mỗi khác, rằng
có lẽ ngay cả yếu tính của sự thánh thiện cũng thay đổi theo
thời gian. Nhiều người có thể lập luận rằng sự hoàn thiện Kitô
giáo, cách nào đó, phụ thuộc vào tính cập nhật, điều mà
nói theo ngôn ngữ Thánh Kinh có nghĩa là xuôi theo thế gian và
những giá trị thời thượng của thế gian. Thậm chí cũng có nghĩa
là nếu một người trước hết không học nghệ thuật trở nên “phù
hợp” (ngày nay từ này xem ra đang rất “ăn khách”), thì người
ấy không thể nên thánh.
Tất cả những
hàm ý trên cho thấy rằng đối với nhiều người trong chúng ta
sự thánh thiện dường như có nghĩa tương đương với sự phù
hợp! Chúng ta chợt tự hỏi thật chăng đời sống thiêng liêng
của hôm nay vẫn không khác với đời sống thiêng liêng của cách
đây 10 năm. Nếu không khác, thì sao lại nói về linh đạo thời
nay? Còn nếu khác, thì đời sống thiêng liêng hôm nay có còn
là đời sống thiêng liêng mà các bậc thầy trong quá khứ đã mô tả
rất rành mạch hay không?
Không ít linh
mục, tu sĩ (kể cả tu sĩ chiêm niệm), và giáo dân đang cảm thấy
lúng túng. Họ nghe nói về nào là thần học mới, luân lý mới, nào
là Giáo Hội sau Công Đồng, nào là những người Công Giáo mãi gần
đây vẫn còn thuộc về văn hóa thiểu số nhưng nay đã thoát ra khỏi
cái gọi là “vành đai cơ chế” để cuối cùng hội nhập vào dòng chảy
của xã hội hiện đại. Người ta bảo với chúng ta rằng Giáo Hội
đang lớn lên.
Phải chăng dù
với bao nhiêu thay đổi ngoạn mục trong Công Giáo như thế, việc
theo đuổi sự thánh thiện vẫn không có gì phải thay đổi? Nghĩa
là, chúng ta trở lại với câu hỏi phải chăng hôm nay ta vẫn có
thể nói về đời sống thiêng liêng theo ngôn ngữ cách đây một thế
hệ hay một thập niên. Câu trả lời dứt khoát là CÓ THỂ, vì bất
chấp mọi ồn ào tranh cãi, Đức Kitô vẫn là một hôm qua, hôm nay
và ngày mai. Các nguyên tắc mà Ngài đã tuyên bố ở Palestine vào
thế kỷ thứ nhất vẫn có hiệu lực và vẫn cần thiết cho nước Mỹ ở
thế kỷ hai mươi.
Thực ra chính
những người đương thời của Đức Giêsu nói chung cũng không chấp
nhận lời Ngài; và chuyện xảy ra ở Canvê đã làm chứng quá hùng
hồn rằng Ngài đã gây thù chuốc oán do những lời Ngài nói, và
(tôi vẫn băn khoăn hoài rằng) họ đã thanh toán Ngài chính vì
Ngài đã nói những điều ấy. Nhiều người đương thời của chúng ta
hôm nay, nói cho cùng, cũng không mặn mà mấy với giáo huấn của
Đức Giêsu. Vì thế, việc người ta chấp nhận hay bài bác Kitô
giáo, cách riêng sự thánh thiện Kitô giáo, chẳng phải là điều gì
mới mẻ. Đức Giêsu thời ấy có các môn đệ và cũng có những người
phỉ báng Ngài; thì thời nay cũng y vậy.
Nếu có gì đặc
trưng cho thời đại chúng ta, thì đó là dữ kiện này của lịch sử
tôn giáo: ngày nay một số người yêu mến Đức Giêsu đến mức hy
sinh bản thân mình một cách anh hùng, đồng thời có những người
khác gạt bỏ Đức Giêsu, đến mức điên cuồng chống báng chính nghĩa
của Ngài. Vậy rốt cục, linh đạo thời nay là gì? Hoặc giả chúng
ta phân tách rành mạch hai đàng: đâu là linh đạo Kitô giáo mọi
thời, và đâu là – nếu có – nét riêng của linh đạo này trong thời
của chúng ta?
ĐÂU LÀ LINH ĐẠO KITÔ GIÁO?
Chúng ta
bắt đầu bằng câu hỏi: “Linh đạo Kitô giáo là gì?” Đối với một số
người, mấy tiếng “linh đạo” hay “đời sống thiêng liêng” xem
chừng kỳ quặc. Nghe có vẻ như chia tách thể xác và tâm linh theo
kiểu đi ngược lại với điều mà chúng ta biết về con người: con
người không chỉ là hồn, mà còn là xác nữa.
Có vẻ như
chúng ta thiên lệch ngay từ điểm xuất phát khi tách rời một phần
của bản tính mình – tâm linh – và quá tập trung vào đó như thể
Thiên Chúa không được phụng sự nơi thịt và máu và mồ hôi và nước
mắt của người ta, những thứ hầu chắc là thuộc thân xác chứ không
thuộc tinh thần. Tuy nhiên, sẽ không có vấn đề, khi chúng ta coi
những từ như “linh đạo”, “tâm linh” là những từ hữu dụng để diễn
tả nhiều hơn cái hàm ý chứa trong vỏ từ ngữ đơn thuần của nó.
Quả là con
người chúng ta gồm thể xác và tâm linh, nhưng giữa hai đàng, thì
tâm linh quan trọng hơn. Nhờ phần này của hữu thể mình mà chúng
ta, loài thụ tạo, được thông hiệp với Thiên Chúa. Và Thiên Chúa,
trong tư cách là Thiên Chúa, đâu có thể xác. Ngài dựng nên chúng
ta theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài bằng cách ban cho chúng
ta tâm linh, giống như tinh thần của Ngài, với một trí năng cho
phép chúng ta suy nghĩ và một ý chí cho phép chúng ta yêu
thương. Những gì chúng ta suy nghĩ và yêu mến trong tâm linh của
mình sẽ ấn định mọi điều khác, gồm cả những gì chúng ta hành
động qua thân xác của mình. Chúng ta quì gối cầu nguyện hay nằm
dài trên giường, chúng ta mở miệng để khen ngợi, ủi an, hay để
gây tổn thương bằng những lời chỉ trích và miệt thị, tất cả đều
tùy thuộc những gì ở bên trong chúng ta.
Tuy nhiên,
đời sống thiêng liêng có một ý nghĩa đặc biệt, chứ không chỉ là
việc sử dụng đúng đắn trí năng và ý chí thuộc tâm linh mình. Đời
sống thiêng liêng mở thêm chiều kích ưu việt cho thực hành luân
lý. Đời sống luân lý, nói cho cùng, liên quan tới việc sử dụng
tự do riêng của chúng ta. Chúng ta tin rằng con người được dựng
nên để ca ngợi, kính tôn, và phụng sự Thiên Chúa, và nhờ đó cứu
độ linh hồn mình. Chúng ta cũng tin rằng mọi điều khác dưới gầm
trời này đã được tạo ra cho con người, nhằm giúp con người đạt
được mục đích theo đó mình đã được tạo dựng. Vậy thì, chúng ta
sẽ sống một đời sống luân lý tốt (phân biệt với đời sống thiêng
liêng) nếu ta sử dụng mọi sự trong cuộc sống mình bao lâu chúng
giúp đạt mục đích của cuộc hiện sinh, và loại bỏ chúng một khi
chúng cản trở việc đạt mục đích ấy. Đó là luân lý. Đó chưa phải
là linh đạo.
Cách nào
đó, có thể nói rằng đời sống linh đạo bắt đầu ở chỗ đời sống
luân lý kết thúc. Hoặc nhìn từ một góc khác, linh đạo Kitô giáo
giả thiết luân lý Kitô giáo, nhưng nó vượt quá nền
tảng của luân lý để xây dựng điều mà chúng ta vẫn gọi là công
trình của sự thánh thiện - kiểu nói này nghe như phóng đại,
nhưng thật chính xác. Sự “vượt quá” này có thể bao hàm nhiều
nghĩa, nhưng không có nghĩa nào giải thích thấu triệt ý nghĩa
của linh đạo, hay của sự thánh thiện. Chúng ta có thể vượt quá
những gì mình bị ràng buộc nghiêm ngặt phải làm để cứu linh hồn
mình. Chúng ta có thể vượt quá sự tuân phục các điều răn của
Thiên Chúa để thực hành các lời khuyên của Phúc Âm. Chúng ta có
thể vượt quá tiếng gọi của bổn phận để phụng sự Thiên Chúa với
lòng quảng đại. Chúng ta có thể vượt quá sự nhẫn nại chấp nhận
đau khổ để thực sự ưu tiên chọn lựa thập giá. Chúng ta có thể
vượt quá những đòi hỏi của luật để đảm nhận cả những thực hành
bác ái mà luật không đòi buộc. Chúng ta có thể vượt quá những
nghĩa cử bác ái anh hùng ‘năm thì mười họa’, để trao hiến trọn
cả cuộc sống mình, suốt đời, dành riêng cho việc phụng sự Đức
Kitô và Giáo Hội. Trong tất cả các trường hợp ấy, sự vượt quá
những gì tuyệt đối cần thiết để tránh tội (bình diện luân lý) và
để trao hiến chính mình cho Thiên Chúa (sự thánh thiện) là một
diễn tả đồng thời hai điều. Thứ nhất, nó diễn tả không chỉ ơn
thường sủng của Thiên Chúa, ơn mà nếu không có thì không thể nào
đạt được sự thánh thiện; thứ hai, nó diễn tả không chỉ sự sẵn
sàng thông thường của ý chí để đáp lại ân sủng ấy – nếu không có
sự sẵn sàng này thì sự thánh thiện cũng chẳng thể nào sản sinh
được.
Lịch sử
Kitô giáo từ thời các Tông Đồ là một bằng chứng cho thấy hai yếu
tố ấy thường xuyên sống hoạt trong Giáo Hội. Tất cả các thánh và
các vị tuẫn đạo, các trinh nữ và các chứng nhân đức tin... chứng
minh cho dữ kiện hai mặt này: đó là, với việc Đức Kitô đến và
với ân sủng chan hòa của Ngài, con người không chỉ có thể tránh
tội mà còn có khả năng nên thánh nữa. Hơn nữa, tất cả những ai
cộng tác với ân sủng được ban cho này sẽ vươn lên các đỉnh cao
hoàn thiện và đạt được các mục tiêu mà những người khác dù bẩm
sinh có giỏi giang đến mấy cũng không đạt được. Tự nhiên
(nature) không thể sản sinh ra sự thánh thiện.
Điều mà
Thánh Phaolô nói với các tín hữu Rôma có thể áp dụng cho tất cả
những ai đã học được bí quyết nên thánh: “Những ai chỉ quan
tâm đến những sự xác thịt thì không bao giờ có thể làm hài lòng
Thiên Chúa. Tuy nhiên, mối quan tâm của anh em không nằm ở những
điều xác thịt, nhưng là ở Thần Khí, vì Thần Khí Thiên Chúa cư
ngụ trong anh em.” Một cách căn bản, theo các tiêu chuẩn
Kitô giáo thì chính việc Thần Khí Thiên Chúa cư ngụ trong tín
hữu làm cho người ấy thuộc Thần Khí. Và cuối cùng, điều làm cho
con người ấy thuộc Thần Khí chính là sự cộng tác tự do và quảng
đại của người ấy với Thánh Thần Đấng cư ngụ trong người ấy. Ở
đâu mà Thánh Thần Thiên Chúa gặp gỡ một tinh thần nhiệt thành
đáp trả nơi con người, thì ở đấy ta có đời sống thiêng liêng. Vì
thế, theo ngôn ngữ của Thánh Phaolô, đối lập với Thần Khí là xác
thịt, và ai sống theo xác thịt thì không trung thành với lòng
tốt cao vời của Thiên Chúa. [còn tiếp phần 2]
THIÊN
PHONG
dịch từ
“Contemporary Spirituality”
của Cha John
A. Hardon, S.J. (+2000), Tôi Tớ Chúa. |
VỀ MỤC LỤC |
|
Chiếc bánh
thứ nhất:
Sống
phút hiện tại |
Tác Phẩm: NĂM CHIẾC
BÁNH
VÀ HAI CON CÁ
Đức Hồng Y:
Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận
Chiếc bánh
thứ nhất:
Sống
phút hiện tại
Các bạn có thể gặp
Chúa Giêsu, dọc theo những nẻo đường của cuộc sống mỗi
ngày!...Đây là chiều kích nền tảng của sự gặp gỡ đó: Không phải
các bạn gặp một biến cố hay một sự vật gì đó, nhưng các bạn gặp
một con người, đó là Thiên Chúa hằng sống.
(Gioan Phaolô II, Sứ
điệp NQTGT XII, số 1)
Tên tôi là Phanxicô
Nguyễn Văn Thuận, người Việt Nam. Đối với người ngoại quốc tên
tôi khó đọc, nên ở Tanjania, Nigeria, Đại Hàn, Đài Loan, các bạn
trẻ gọi tôi là “Bác Francis” (Uncle Francis) hay đơn giản hơn
nữa là “Francis!”
Đến 23-4-1975 tôi làm
Giám mục đã được tám năm, tại Nha Trang, Trung phần Việt Nam,
Giáo phận đầu tiên Tòa Thánh trao phó cho tôi. Tôi đã sống
những ngày tháng hạnh phúc ở đó và Nha Trang vẫn chiếm một chỗ
đặc biệt trong quả tim tôi. Ngày 23-4-1975, Đức Phaolô VI đã
đặt tôi làm Tổng Giám mục phó Sàigòn. Khi cộng sản đến Sàigòn,
họ đã bảo rằng: “Việc bổ nhiệm một Giám mục một tuần trước
khi chúng tôi đến Sàigòn là một âm mưu giữa Vatican và đế quốc,
nhằm tổ chức chống cộng sau này”.
Ba tháng sau, ngày
15-8-1975, tôi được mời vào Dinh Độc lập lúc 2 giờ chiều và bị
bắt ở đó.
Đêm đó, trên đường dài
450 km, xe công an chở tôi về nơi quản thúc. Bao nhiêu tâm tình
lẫn lộn trong đầu óc tôi: lo lắng có, cô đơn có, mệt mỏi có,
sau mấy tháng căng thẳng...nhưng trong trí tôi, một quyết định
sáng tỏ đã đánh tan mây mù. Tôi nhớ lời Đức Cha John Walsh, một
Giám mục truyền giáo gốc Mỹ, đã nói lúc ngài được tự do sau 12
năm tù ở Trung cộng: “Tôi đã mất nữa đời người để chờ đợi”.
Rất đúng! tất cả mọi tù nhân, trong đó có tôi, phút giây nào
cũng mong đợi tự do. Suy nghĩ kỹ, trên chiếc xe Toyota trắng,
tôi đã đặt cho mình một quyết định: “Tôi sẽ không chờ đợi. Tôi
sống phút hiện tại và làm cho nó đầy tình thương”.
Đây không phải là một
cảm hứng đột xuất, nhưng là một xác tín đã ấp ủ suốt quãng đời
mãi từ tiểu chủng viện: “Nếu tôi mất giờ đợi chờ, không làm gì
hết, biết đâu những điều tôi đợi sẽ không bao giờ đến. Chỉ có
một điều, dù không đợi cũng vẫn đến, đó là sự chết!”
Trong làng Cây Vông,
nơi tôi bị quản thúc, ngày đêm có nhân viên an ninh chìm nổi
theo dõi. Trong óc một tư tưởng không ngừng làm tôi xót xa,
thao thức: “Giáo dân của tôi! một đoàn chiên hoang mang, giữa
bao hiểm nguy, thách đố của một giai đoạn lịch sử mới. Làm sao
tôi có thể gần gủi, liên lạc với họ, trong giai đoạn họ cần đến
người mục tử nhất! Các nhà sách Công giáo bị đóng cửa, trường
học Công giáo do Nhà nước quản lý, tôn giáo sẽ không còn được
dạy dỗ trong các trường nữa; các linh mục, sư huynh, nữ tu có
khả năng phải đi ra thôn quê, đi nông trường lao động, không
được dạy học nữa! Sự xa lìa giáo dân là một cú “sốc” giày vò
tan nát quả tim tôi.
Tôi không đợi chờ.
Tôi sống phút hiện tại và làm cho nó đầy tình thương. Nhưng làm
thế nào?
Một đêm, một tia sáng
đến với tôi: “Con hãy bắt chước thánh Phaolô. Khi ngài ở tù,
không hoạt động tông đồ được, ngài đã viết thư cho các giáo
đoàn. Đơn giản vậy mà con đi tìm đâu cho xa?”
Sáng hôm sau, vừa mới
tinh sương, giữa tháng 10 năm 1975, tôi làm hiệu cho một cậu bé
7 tuổi, tên Quang, vừa đi lễ 5 giờ ra, trời còn mù và lạnh:
“Quang! con về nói má con mua cho ông mấy “bloc” lịch cũ, ông
cần dùng”. Chiều tối, chú bé mang lại mấy “bloc” lịch cũ. Thế
là mỗi đêm trong tháng 10 và tháng 11, 1975, tôi đã đóng hết
cửa, lấy giấy xi-măng dán bên trong và viết “Sứ điệp từ ngục tù”
cho giáo dân của tôi, dưới ánh đèn dầu leo lét, mặc cho muỗi tha
hồ đốt. Mỗi sáng thực sớm tôi trao cho bé Quang, mấy tờ lịch
tôi đã viết sau lưng, mang về cho anh, chị của Quang chép lại
kẻo mất. Nếu để trên bàn tôi, “ông An” (một giáo dân) thấy sẽ
sinh tai họa. Đấy là đầu đuôi sách “Đường Hy Vọng”, sứ điệp lao
tù thành hình là như thế. Hiện nay sách đã được xuất bản bằng
tám thứ tiếng.
Chúa đã ban ơn cho tôi
có nghị lực để tiếp tục làm việc, kể cả những lúc chán nản
nhất. Tôi đã viết đêm ngày trong một tháng rưỡi, vì tôi sẽ bị
“chuyển trại” và không có điều kiện hoàn tất được. Lúc viết đến
số 1001 tôi quyết dừng lại, xem đây như công trình “nghìn lẻ
một đêm”. Ngày 8-12-1975, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Tội, tôi đã tạ ơn
Đức Mẹ cho tôi viết xong “Đường Hy Vọng” và trao trong tay Đức
Mẹ gìn giữ, đó là của Đức Mẹ, nhờ ơn của Đức Mẹ, xin Đức Mẹ tiếp
tục lo liệu. Đoán vậy mà không sai, đến ngày 18-3-1976, tôi bị
đưa vào trại Phú Khánh, biệt giam vất vả nhất.
Năm 1980, lúc bị đưa
ra quản thúc ở Giang Xá, Bắc Việt, tôi đã tiếp tục viết mỗi đêm
trong bí mật cuốn thứ hai, “Đường Hy Vọng Dưới Aùnh Sáng Lời
Chúa và Công Đồng Vatican II”, cuốn thứ ba, “Những Người Lữ Hành
Trên Đường Hy Vọng”.
Tôi không chờ đợi.
Tôi sống phút hiện tại và làm cho nó đầy yêu thương.
Trong Phúc âm, các
Tông đồ muốn chọn con đường dễ nhất, khỏe nhất: “Xin Thầy cho
dân chúng về, để họ mua thức ăn”...Nhưng Chúa Giêsu muốn hành
động trong phút hiện tại: “Chính các con hãy cho họ ăn đi” (Lc
9, 1). Trên thánh giá, khi người ăn trộm thưa với Chúa Giêsu:
“Thưa Ngài, khi về thiên đàng xin Ngài nhớ đến tôi”. Chúa Giêsu
đáp: “Hôm nay con sẽ ở cùng Ta trên nước thiên đàng” (Lc 23,
42-43). Trong tiếng “hôm nay” của Chúa Giêsu, tôi cảm thấy tất
cả sự tha thứ, tất cả tình thương của Ngài.
Cha Maximiliano Kolbe
sống tinh thần ấy khi ngài khuyên các tập sinh trong dòng: “Tất
cả, tuyệt đối, không điều kiện”. Tôi đã nghe Đức Cha Helder
Camara nói: “Cả cuộc đời là học yêu thương”. Một lần Mẹ Têrêxa
Calcutta gửi thư cho tôi, Mẹ viết: “Điều quan trọng không phải
là số công tác đã thực hiện nhưng là mức độ tình yêu ta đã để
vào mỗi công việc”.
Làm sao yêu thương đến
cao độ như thế trong mỗi phút hiện tại? Tôi nghĩ rằng tôi phải
sống mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút như là giờ phút cuối cùng của
đời tôi. Dẹp bỏ những gì là phụ thuộc, tập trung cả tâm hồn cho
những gì là chính yếu. Mỗi lời nói, mỗi tư tưởng, mỗi cử chỉ,
mỗi cú điện thoại, mỗi quyết định phải là “đẹp nhất” của đời
tôi. Tôi phải dành cho mỗi người tình yêu của tôi, nụ cười của
tôi: tôi phải lo sợ đánh mất một giây phút nào trong đời mình
vì đã sống không ý nghĩa...
Tôi đã viết trong sách
Đường Hy Vọng: “Con chỉ có một giây phút đẹp nhất: giây phút
hiện tại (x Mt 6, 34; Gc 4, 13-15). Sống trong tình yêu Chúa
cách trọn vẹn, đời con sẽ tuyệt đẹp nếu kết tinh bằng từng triệu
giây phút đẹp nhất. Con thấy đơn sơ, không phải khó (ĐHV 997).
Các bạn trẻ thân mến,
trong thời đại này, Chúa Giêsu cần đến các bạn. Đức Gioan
Phaolô II tha thiết kêu gọi các bạn hãy đương đầu với những
thách đố của thế giới hôm nay :
Chúng ta đang sống
trong một giai đoạn đầy biến chuyển kinh khủng. Những lý thuyết
được xem là đủ sức thi gan cùng tuế nguyệt nay đã đến lúc xế
chiều. Trên hoàn cầu, cần phải phác họa lại ranh giới của nhiều
quốc gia. Nhân loại tự cảm thấy mình rất lúng túng, hốt hoảng,
lo lắng (Mt 9, 36). Nhưng lời Chúa không bao giờ qua đi; đọc
lại lịch sử, chúng ta thấy bao nhiêu biến cố thăng trầm, đang
lúc ấy lời Chúa đứng vững và chiếu sáng (Mt 24, 35). Đức tin
của Hội thánh được xây dựng trên Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu thế
độc nhất: hôm qua hôm nay và mãi mãi
(Eb 13, 18).
(Gioan Phaolô II, Sứ
điệp NQTGT XII, số 2)
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Chiều hôm qua, Lễ
Đức Mẹ Hồn Xác lên trời, con đã bị bắt.
Đưa đi trong đêm,
từ Sàigòn đến Nha Trang.
Trên đường dài bốn
trăm rưởi cây số,
ngồi trên xe giữa
hai công an.
Con bắt đầu kinh
nghiệm cuộc đời một tù nhân.
Bao nhiêu tâm tình
lẫn lộn trong đầu óc con:
Buồn có, sợ có,
căng thẳng có.
Tim con tan nát vì
phải xa cách giáo dân của con.
Giữa cơn khổ nhục,
con đã nhớ lời Thánh kinh:
“Họ đã liệt con vào
giữa người gian ác” (Lc 22, 37).
Xe chở con xuyên ba
giáo phận đã gắn liền với đời con:
Sàigòn, Phan Thiết,
Nha Trang.
Con yêu mến đoàn
chiên của con
và sẳn sàng chịu tù
đày, chịu chết vì họ.
Họ không biết vị
mục tử của họ
đang bước đi giai
đoạn đầu của Đàng Thánh Giá;
Giữa đại dương cay
đắng cực độ ấy,
con cảm thấy mình
tự do hơn bao giờ hết.
Con không có gì
hết, dù một xu cũng không,
trừ tràng chuỗi Mân
côi, và ý thức Chúa Giêsu,
Mẹ Maria không bao
giờ rời con.
Trên đường tù đày
con đã cầu nguyện:
Lạy Chúa là Chúa
của con, là tất cả mọi sự của con.
Lạy Mẹ Maria, con
xin dâng mình cho Mẹ,
toàn thân con thuộc
về Mẹ,
mọi người thân yêu
và mọi sự của con là của Mẹ.
Lạy Chúa, con không
đợi chờ,
con quyết sống phút
hiện tại,
và làm cho nó đầy
tình thương,
vì chấm này nối
tiếp chấm kia,
ngàn vạn chấm thành
một đường dài.
Phút này nối tiếp
phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống.
Chấm mỗi chấm cho
đúng, đời sẽ đẹp.
Sống mỗi phút cho
tốt, đời sẽ thánh.
Đường hy vọng do
mỗi chấm hy vọng.
Đời hy vọng do mỗi
phút hy vọng.
Như Chúa Giêsu,
trọn đời đã làm những gì đẹp lòng Đức Chúa Cha.
Mỗi phút giây con
muốn làm lại với Chúa,
“một giao ước mới,
một giao ước vĩnh
cửu”.
Con muốn cùng với
Hội thánh hát vang:
Vinh danh Chúa Cha
và Chúa Con và
Chúa Thánh Thần.
Alleluia! Alleluia!
Alleluia!
Cây Vông, Nha Trang
nơi tôi bị quản thúc
16-8-1975, hôm sau lễ
Đức Mẹ Lên Trời.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NGỤ NGÔN THỜI BẤN LOẠN (KỲ 25)
|
Ngụ ngôn 77
Rừng mở hội nghị truyền thông quốc
tế. Mỗi khu rừng trên thế giới cử đại biểu là chim bồ câu đưa
thư, chim én báo mùa xuân và tắc kè đổi màu báo tín hiệu. Rừng
Nam không cử bồ câu, chim én và tắc kè, mà lại cử cáo và rắn đi
dự.
Khi đại biểu cáo và rắn của rừng
Nam đứng lên chào và tự giới thiệu thì cả hội nghị không thể
giữ lịch sự được nữa mà bật cười ồ, cười nghiêng ngửa, cười vang
dội. Lý do là vì cáo và rắn là loài gian ngoa mà lại được cử đi
họp chung với các loài chim hiền hoà, hơn nữa cáo và rắn vừa nói
vừa cà lăm không ai hiểu gì cả.
Giờ giải lao, mấy chú chim non hỏi
chuyện cáo và rắn: “Sao hai bạn lại đi dự hội nghị quốc tế?”.
Cáo và rắn lủi đi mất không dám trả lời.
Vị chủ trì hội nghị đi ngang qua,
nghe vậy bèn đứng lại giải thích: “Cáo và rắn không biết ngoại
ngữ, cho nên rừng Nam cử đi để khỏi ý kiến ý cò gì cho rách
việc. Cáo và rắn cũng chẳng nghe được gì nên khỏi so sánh lôi
thôi. Quan trọng nhất là hai anh này ranh mãnh lắm, có gì sơ sẩy
là biết đường lủi nhanh cho khoẻ!”
Ngụ ngôn 78
Lại chuyện rừng mở hội nghị truyền
thông quốc tế. Lần này rừng qui định là đại biểu chỉ là bồ câu,
vì đề tài là “bồ câu đưa thư điện tử”. Điều kiện tham dự là biết
quốc tế ngữ và có kinh nghiệm 10 năm đưa thư. Bồ câu rừng Nam
lâu nay không được đưa thư vì lãnh vực đưa thư chưa được tư nhân
hoá.
Do đó hội nghị truyền thông rừng
Nam được mở ra để tìm cách đối phó. Cáo gầm lên: “Thôi tẩy chay
cho rồi. Khỏi tham dự!” Sư tử bảo: “Không được. Cứ tham dự. Tôi
đã có cách”.
Đến ngày hội nghị, bồ câu các khu
rừng hân hoan vỗ cánh bay về và thảo luận sôi nổi. Bồ câu rừng
Nam cũng đến, theo thói quen thì trễ mất mấy tiếng nhưng vẫn vào
chỗ ngồi và nói líu lo tiếng gì khó hiểu...
Khi bế mạc, mỗi con bồ câu ngậm
một cành lá lên đặt vào đài kỷ niệm. Người ta nhận thấy tất cả
bồ câu các khu rừng đều đặt xuống cành ôliu, riêng bồ câu rừng
Nam thì lại ngậm đến đặt vào đó một con thằn lằn. Tất cả rú lên
kinh hãi. Bồ câu rừng Nam lúng túng đánh rơi bộ lông giả, hiện
nguyên hình là con cú vọ láo liên.
Ngụ ngôn 79
Năm sau rừng lại mở hội nghị
truyền thông quốc tế. Lần này ban tổ chức đã dày dạn kinh nghiệm
nên không thể có chỗ cho các mưu mô như mấy lần trước. Sẽ không
có chuyện người không biết gì cả có thể đi dự được. Rừng Nam cử
một đại biểu có uy tín, nói năng lưu loát, phát biểu rõ ràng tuy
hay nguỵ biện. Vị đại biểu này luôn ngồi trong xe có phủ bạt
kín, không bao giờ cho đại hội thấy mặt, không biết vì khiêm tốn
hay vì để bảo mật.
Khi đại hội gần kết thúc, ban tổ
chức yêu cầu tất cả đại biểu lên chụp hình lưu niệm. Đại biểu
rừng Nam từ chối mãi, nhất định không ló mặt ra khỏi xe. Một anh
nhân viên ban trật tự thấy vậy khó chịu quá, bèn bứt tung tấm
bạt phủ xe đại biểu rừng Nam ấy.
Khi vị đại biểu nói năng lưu loát
của rừng Nam ló mặt ra, tất cả khu rừng ồ lên rúng động. Vị đại
biểu ấy là một cái loa phóng thanh rất to, được thiết kế điều
khiển từ xa!
Gioan Lê Quang
Vinh, VRNs |
VỀ MỤC LỤC |
|
Căn tính và phận vụ người Tín Hữu Giáo Dân trong Giáo hội và
giữa Trần thế (1) |
NGUYỄN HỌC TẬP
I - THỰC THỂ.
Công Đồng Vatican
II đã dành một sự chú ý đặc biệt đến thực thể người tín hữu
giáo dân.
Chương IV của Hiến
Chế Lumen Gentium là văn bản đầu tiên của Công Đồng trong cả
lịch sử Giáo Hội được dành riêng để nói về căn tính và phận
vụ của người tín hữu giáo dân.
Chúng ta đặc tâm
chú ý đến hai yếu tố nói lên đặc tính của người tín hữu giáo dân
trong sứ mạng của mình, đó là
Giáo
Hội tính ( ecclesiologità) và trần thế tính ( secolarità ) (
U. Sartorio, Linee
di dibattito sui laici nel postconcilio italiano, il " Sinodo
1987 e la Christifideles laici ",, in Credereoggi, n.3, 1994,
p.48).
a ) Giáo
Hội Tính: người tín hữu giáo dân
- không những
thuộc về Giáo Hội,
- mà còn là Giáo
Hội,
và động tác làm cho
mình hiện diện giữa trần thế không có gì khác hơn là làm cho
Giáo Hội hiện diện giữa thế gian.
Hiểu như vậy, tư
tưởng của Công Đồng đã vượt lên trên quan niệm cho rằng người
tín hữu giáo dân chỉ là chiếc cầu gạch nối, là người đại diện
của Giáo Hội trong các mối tương giao với thế giới.
- "
Người tín hữu giáo dân không còn chỉ là người đứng trung gian,
mà chính là Giáo Hội " giữa trần thế, giữa thế giới dân ngoại "
( M.D. Chenu, I laici e la consacratio mundi),
b) Đặc
tính trần thế: người tín hữu giáo dân được Chúa kêu gọi
sống Giáo Hội tính của mình, theo phương thức trần thế,
trong lãnh vực trần thế, nơi mà mình đang ra công dấn thân xây
dựng Nước Chúa:
- "
Theo ơn gọi của
mình, chính người tín hữu giáo dân tìm kiếm Nước Chúa bằng cách
hành xử xây dựng các sự việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý
Chúa muốn " ( Lumen gentium, n. 31).
Dưới hai đặc tính
đó, chúng ta tuần tự đề cập đến
- Phép Rửa và
đời sống mới Ki tô giáo,
- Tham dự vào
phận vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Ki Tô,
- Đặc tính trần
thế,
- Đặc tính giáo
dân từ viễn ảnh vũ trụ quan đến Ki Tô luận,
- Đưọc mời gọi
nên thánh thiện.
1
- Phép Rửa và đời sống mới Ki Tô Giáo.
Từ Công Đồng
Vatican II trở đi, Giáo Hội luôn luôn nhận thức cần phải
khai triển nền thần học về căn tính người tín hữu giáo dân
và, tiếp theo Thượng Hội Đồng Giám Mục năm 1987,
Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II đã nêu lên những đường nét chính
trong Huấn Dụ Christifideles laici của ngài.
Căn tính hay bản
tính người tín hữu giáo dân ,
còn hơn cả những gì chỉ gồm trong quan niệm đối ngược tiêu
cực, "
không phải là giáo
sĩ ".
Căn tính người tín
hữu giáo dân được định giá theo những gì tích cực, đó là
-
" Người tín hữu
giáo dân, cũng như tất cả các thành phần của Giáo Hội, là những
nhánh có gốc rễ trong Chúa Ki Tô, là Cây Nho thật, được Người
làm cho sống và trở nên những người đem lại sự sống cho người
khác " ( Christifideles laici, n. 9).
Như vậy người tín
hữu giáo dân có căn tính thiết yếu của mình bởi sự kiện là vì
họ ở trong Chúa Ki Tô, như là cành nho sống.
Điều đó mặc nhiên
hàm chứa đặc tính tín hữu giáo dân của tín hũu Chúa Ki Tô có nền
tảng trước tiên trên quyết định của con người
- chấp nhận đồ
án cứu rổi của Thiên Chúa, như là ơn ban nhưng không,
- chọn lựa Chúa
Ki Tô như là khuôn mẫu của cuộc sống
- và để cho mình
được biến đổi hình dạng trong trường phái của lời Người.
Như vậy, nói cho
cùng, căn tính hay bản tính của người tín hữu giáo dân chính yếu
là
- được đặt nền
tảng trên bản tính Chúa Ki Tô,
- trên sự kiện
thuộc về Người ,
chớ không phải trên
sự kiện " không phải là giáo sĩ ".
Căn tính vừa kể
được đặt nền tảng kế đến trên việc
-
đã được lãnh nhận
Phép Rửa
-
và nhờ Phép Rửa trở
thành tạo vật mới trong Chúa Ki Tô.
Kế đến, trên căn
tính nầy, mà trong lòng cộng đồng các môn đệ Chúa Ki Tô có được
nhiều phận vụ khác nhau và các phẩm trật phân biệt nhau.
Nhu vậy Công Đồng
Vatican II đặc tâm chú ý đến sự kiện là người tín hữu giáo dân
cần phải được xem là người,
- không phai vì
không có được một chức vụ thừa tác viên được truyền chức hay vì
không phải là một tu sĩ,
- mà là
người
đã được rửa tội,
hội nhập vào Chúa Giêsu và được kiến tạo thành dân Chúa nhờ Phép
Rửa " ( Lumen gentium, n. 31).
Và
với tư cách đó, sự hiện diện của người tín hữu giáo dân giữa
trần thế là sự hiện diện
để hội nhập văn hoá
Phúc Âm vào dòng lịch sử.
Chúng ta có thể xác
nhận căn tính người tín hữu giáo dân theo 4 chiều hướng
1)
Người tín hữu giáo dân là người đã được nhận Phép Rửa.
Xác nhận điều đó,
có nghĩa là chúng ta đặc tâm chú ý đến tiến trình, trong đó
Thiên Chúa muốn cứu rổi nhân loại, ban cho con người có phương
tiện để đến với đức tin và hội nhập hiệp thông với Người.
Trong phương thức
đó, con người cảm nhận mình được liên hệ vào tiến trình làm cho
mình dần dần ý thức được rằng Phép Rửa đã tác động thế nào trong
cuộc sống mình và làm cho mình có được tất cả các đặc tính của
người môn đệ Chúa Ki Tô, mà đặc tính trước tiên giữa các đặc
tính đó, đó là Điều Răn Yêu Thương.
2) Người tín hữu
giáo dân được hội nhập vào Chúa Ki Tô.
Xác
nhận vừa kể nhấn mạnh rằng bản tính của người nhận được Phép
Rửa, chúng ta cần phải tìm ra điều mới mẻ được tác dụng của Phép
Rửa mang lại cho. Đó là Phép Rửa làm cho người nhận được trở
thành
con Thiên Chúa trong Chúa Giêsu.
3) Người tín hữu giáo dân là thành phần Dân Chúa.
Là phần của Dân
Chúa mới, làm cho người nhận được Phép Rửa thành " người được
tuyển chọn ", được Chúa tuyển chọn với mục đích chính xác để
nhớ rằng, bằng căn tính của mình, ngay cả trước khi bằng sứ
mạng, nhân chứng cho tất cả mọi người Thiên Chúa hiện diện trong
dòng lịch sử của họ để cứu độ họ, nhờ vào sự chấp nhận của họ
trở nên thành phần dân Người.
4) Người tín hữu giáo dân khác với các thừa tác viên được truyền
chức.
Người tín hữu giáo
dân là người sống ơn gọi Phép Rửa của mình, thiết lập Vương Quốc
của Chúa, bằng
- một cuộc sống
theo tinh thần trọn hảo của Phúc Âm
- và thể hiện
công cuộc chuyên cần dấn thân của mình loan báo Phúc Âm trước
thế gian,
- gánh nhận lấy
các vấn đề phức tạp trần thế, bởi vì người tín hữu giáo dân đang
hiện diện giữa những thực thể đó như là dấu chứng đặc tâm nhân
từ và cứu độ của Chúa.
Vị thừa tác viên
được truyền chức trái lại, là thực thể được Vị Thầy Chí Thánh
muốn, để cho cộng đồng Dân Chúa mới có được giữa các Tông Đồ
- những con
người được Chúa Thánh Thần soi sáng,
- có khả năng
xác nhận các ân sủng được Chúa ban cho trong Dân Chúa
- và phát huy
các ân sủng đó vì lợi ích cho cộng đồng.
Căn tính của người
tín hữu giao dân cũng khác với căn tính của các tu sĩ và các
thành phần được truyền chức . Khác, nhưng không phải vì đó
mà căn tính của người tín hữu giáo dân thấp kém hơn, đúng
hơn chỉ khác nhau mà thôi,
- khác nhau về
phương diện thuộc về chức linh mục của Chúa Ki Tô đối với sứ
mạng nội bộ của Cộng Đồng Dân Chúa và cấu trúc,
- cũng như khác
nhau về phương diện dấn thân chuyên cần giữa thế giới.
Qua những
gì vừa duyệt xét để tìm hiểu, chúng ta được hướng dẫn một cách
ngắn gọn vào phẩm giá của người tín hữu giáo dân
( Christifideles
laici, n. 14)
Nhân phẩm của người tín hữu giáo dân, trước tiên chúng ta nên
nên tìm hiểu dựa trên sự kiện họ là con người và với tư cách là
con người, phẩm giá của họ được dựa trên nền tảng cá biệt của
mình, đó là
hình ảnh và
giống như . Thiên Chúa.
Điều đó cho biết
con người là tạo vật duy nhứt giữa các tao vật trần thế có ý
thức và tự do, trung tâm điểm và thượng đỉnh của tất cả những gì
hiện hữu trên mặt đất.
Như vậy,
nguồn mạch xa của phẩm giá người tín hữu giáo dân là tính chất "
bà con, máu mủ " giữa người tín hữu giáo dân tạo vật và
Thên Chúa, Đấng Tạo Hoá, tức là "
được dựng nên giống
hình ảnh và giống như Thiên Chúa " ( Gen 1, 26 - 27).
Điều vừa kể, một khi được biết đến nhờ Mạc Khải cho, sẽ hướng
dẫn người tín hữu giáo dân chấp nhận con đường Ki Tô giáo, và
qua Phép Rửa, trở thành thành phần sống động của Thân Thể Mầu
Nhiệm Chúa Ki Tô, đó là Giáo Hội, mà người tín hữu giáo dân là
thành phần cấu trúc, để
đem ơn cứu rổi được Chúa Giêsu tác động vào lịch sử hằng ngày
của thế gian.
Tất cả những điều
đó trở thành khả thi, bởi lẽ nhờ ân sủng Phép Rửa, người tín hữu
giáo dân đã trở thành " con trong Chúa Con ", và là đàn
em của Chúa Giêsu.
Trở thành em của
Chúa Giêsu có nghĩa là mình đã được thông hiệp với Chúa Cha,
mà Chúa Ki Tô là Con, thông hiệp nhờ động tác của Chúa Thánh
Thần.
2 - Tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Ki
Tô.
Vẫn
nhờ Phép Rửa, người tín hữu giáo dân thể hiện sâu đậm hơn căn
tính nầy của mình, bằng cách chia xẻ chức vụ phục vụ của Chúa
Giêsu, Người Tôi Tớ Chúa, bằng cách thực hiện và tham dự,
giữa thực tại trần thế, ba "munera Christi, " phận vụ
của Chúa Giêsu ", tư tế, ngôn sứ và vương giả.
a) Tham dự vào chức vụ tư tế của Chúa Ki Tô.
Công Đồng xác nhận
rằng, người tín hữu Chúa Ki Tô, với Phép Rửa, đã trở nên mật
thiết kết hợp với đời sống và sứ mạng của Chúa Ki Tô, từ đó
cũng tham dự vào chức vụ tế tự của Người.
Như Chúa
Giêsu đã biết dâng hiến chính mình, trở thành của lễ đẹp lòng
Chúa Cha để hoà giải lại giữa Thiên Chúa và con người, cũng vậy
người tín hữu giáo dân phải nhìn và đặt mục đích cho thực tại
trần thế, thiết định trong đời sống của mình một sự thông hiệp
sâu đậm với Chúa Thánh Thần. Bởi vì chính Người cho họ có khả
năng " làm cho trở nên thánh thiện " - nghĩa là đưọc Chúa
chấp nhận -
việc làm, niềm vui,
sự đau khổ, lời cầu nguyện của mình.
Như vậy, phận vụ tư
tế của người tín hữu giáo dân là hoán chuyển trong thực tại nơi
mình đang sống và hành động thành chiều kích thiêng liêng, bằng
cách làm trở thành tư tưởng và ý nghĩa điều mà tâm hồn nhân loại
cảm nhân và tìm cách thực hiện trong nhũng hoàn cảnh khác nhau
của cuộc sống.
Người tín hữu giáo
dân tham dự vào chức vụ tư tế của Chúa Ki Tô, khi thực hiện các
động tác của mình trong nhãn quang Phúc Âm và dâng lên Chúa Cha,
như là dấu chứng ngợi khen và yêu thương Người.
b) Tham dự vào chức vụ ngôn sứ của Chúa Ki Tô.
Suy nghĩ về những
gì Công Đồng Vatican II đã nói, Đức Thánh Cha Gioan Phaolồ II
cho biết thế nào căn tính kể trên của
người tín hữu giáo dân trở nên nguồn mạch để họ có khả năng tác
động:
-
" Việc tham dự vào
chức vụ ngôn sứ của Chúa Ki Tô...khiến cho người tín hữu giáo
dân có khả năng và bổn phận phải đón nhận Phúc Âm trong đức tin
và loan báo bằng ngôn từ và bằng hành động, bằng cách
không nghi ngại can đảm tố giác sự ác. Hiệp nhứt với Chúa Ki Tô,
" Vị Đại Ngôn Sứ " ( Lc 7, 16), và được thiết lập nên trong Chúa
Thánh Thần thành " các chứng nhân Chúa Phục Sinh "; các tín hữu
giáo dân được làm cho tham dự theo ý nghĩa đức tin thiêng liêng
của Giáo Hội không thể sai lầm vào đức tin, cũng như vào ân sủng
của lời Chúa ( Act 2, 17-18; Ap. 19, 10). Người tín hữu giáo
dân cũng được kêu gọi làm chiếu sáng lên điều mới mẻ và sức
mạnh của Phúc Âm trong đời sống hằng ngày của mình, trong
gia đình, ngoài xã hội; cũng như phát biểu lên, với lòng nhẫn
nại và can đảm trong các trạng thái đối nghịch của thời đại hiện
tại sự hy vọng của mình vào niềm vinh quang, ngay cả trong các
cấu trúc của đời sống trần thế " ( Christifideles laici, n. 14).
Tham dự vào địa vị ngôn sứ của Chúa Ki Tô bắt buộc người tín hữu
giáo dân chính yếu phải sống điều mà mình là nhân chứng của Phúc
Âm.
c) Tham dự vào
chức vụ vương giả của Chúa Ki Tô.
Công Đồng Vatican
II phát hoạ đường hướng chức vụ vương giả của Chúa Ki Tô và sự
tham dự của người tín hữu giáo dân vào chức vụ đó như sau:
-
" Chúa Ki Tô đã làm cho mình vâng
lời cho đến chết và bởi đó Người được Chúa Cha nhắc lên vào vinh
quang của Vương Quốc; dưới chân Người mọi vật đều được đặt phục
tùng bên dưới, để cho Người đặt chính mình và mọi tạo vật vâng
phục Chúa Cha, để Thiên Chúa là tất cả trong mọi loài. Quyền
năng nầy, Chúa Giêsu đã thông ban cho các môn đệ, để các các vị
cũng được thiết lập nên trong tự do vương giả " ( Lumen Gemtium,
n. 36).
Đức Thánh Cha Gioan
Phaolồ II lấy lại tư tưởng đó và xác nhận:
- "
Nhờ vào việc họ thuộc về Chúa Ki
Tô là Chúa và là vua vũ trụ, người tín hữu giáo dân tham dự vào
chức vụ vương giả của Người và họ được mời gọi phục vụ Vương
Quốc của Thiên Chúa và loan truyền Vương Quốc đó trong lịch sử.
Họ sống đời sống vương giả Ki tô giáo, trước tiên là qua việc
chiến đấu thiêng liêng để chiến thắng nơi chính mình vương quyền
của tội lỗi ( Rom 6,12) và kế đến bằng việc dâng hiến chính mình
để phục vụ, trong bác ái và công lý. Chính Chúa Giêsu hiện diện
nơi tất cả đàn em của Người, nhứt là nơi những ai bé mọn " ( Mt
25, 40) ( Christifideles laici, n. 14).
Như vậy, người tín
hữu giáo dân có thể nhập thể và thực hiện phận vụ vương giả của
Chúa Ki Tô, bằng ba phương thức:
- bằng cách
chiến thắng nơi chính mình vương quyền của tội lỗi,
- đưa anh em vào
Vương Quốc của Chúa Ki Tô
- và thiết lập mọi sự trong Chúa Ki Tô.
Tiến sĩ Nguyễn Học Tập |
VỀ MỤC LỤC |
|
QUAN NIỆM VỀ PHÁI TÍNH (3)
|
DẠY VỀ PHÁI TÍNH
Ấn tượng về tình ái được củng cố
bỡi cách thức trong đó con trẻ được cắt nghĩa để hiểu về những
sự việc của cuộc đời. Sự cắt nghĩa về tình ái thường đi kèm với
sự lúng túng về tâm lý vì ở đây sự phát triển tự nhiên của đứa
trẻ bị ngăn trở bỡi sự do dự chu toàn những bổn phận tự nhiên
của cha mẹ. Không may, cha mẹ được nuôi dưỡng lớn lên trong sự
chế ngự liên quan đến những vấn đề tình ái nên bị lúng túng bỡi
những câu hỏi của đứa trẻ, và vì thế hoặc không trả lời gì cả
hoặc nếu không làm giận dữ đứa trẻ họ tránh vấn đề. Đứa trẻ cảm
thấy có một cái gì sai với đối tượng của sự tò mò của nó nếu
không nói với chính nó. Nhiều đứa trẻ vì thế, đặc biệt là con
gái không bao giờ tỏ ra ra thích thú trong vấn đề nầy, và sự
nhút nhát cũng như khuynh hướng muốn tránh sự đụng chạm với vấn
đề nguy hiểm nầy có thể ngăn cản sự chấp nhận của bất cứ sự giải
thích nào hoặc sản xuất một khủng hoảng trầm trọng nếu chúng
phải đối diện với những sự việc như thế. Dưới những điều kiện ưu
đãi hơn, những đứa trẻ mà ngay từ đầu sự tò mò tìm hiểu của
chúng bị làm thất vọng, phải trải qua một giai đoạn mơ hồ, trong
đó chúng tỏ ra không còn chút gì thích thú về bất cứ vấn đề phái
tính nào cho tới khi nhu cầu cho một kiến thức rộng rãi hơn về
vấn đề đó đòi hỏi. Nếu may mắn, chúng tìm được những thầy giáo
hoặc những người lớn được chúng yêu quí cung cấp cho những thông
tin cần thiết trong một cách thế thích hợp và lành mạnh. Nhưng
thường nguồn thông tin hoặc được cống hiến bỡi những người lớn
không được chính xác lắm, hoặc bằng văn chương không tốt, hoặc
bằng những tranh cãi gợi đầy gợi cảm của những đứa bạn ở học
đường chỉ cho biết được một nửa.
Thật ra, toàn thể vấn đề có thể
được giải quyết một cách dễ dàng và thích hợp nếu bố mẹ được
huấn luyện một cách đầy đủ. Hai điều kiện tiên quyết cần phải có
cho bất cứ một người lớn nào bị hỏi bỡi một đứa trẻ: - thoát
khỏi sự lúng túng – và nên trả lời cho câu hỏi của con trẻ ngay
cả ở vào tuổi còn quá sớm nhưng trong cách thế thích hợp. Bố mẹ
sẽ không giận dữ câu hỏi của đứa trẻ như: cái chớp của sấm sét
đến từ đâu? Nhưng câu hỏi nầy thì xa vời với những vấn đề của
cuộc sống. Vậy tại sao bố mẹ lại giận dữ với câu hỏi xem ra thực
tế hơn, có liên quan đến cuộc sống hơn: con trẻ đến từ đâu? Hãy
trả lời mọi câu hỏi mà con trẻ có thể hỏi một cách chính xác
nhưng không đi quá đòi hỏi được làm bỡi câu hỏi. Câu hỏi của con
trẻ diễn tả sự thích thú của nó và khả năng hiểu biết của nó. Vì
thế, bố mẹ nên lắng nghe cách cẩn thận ý nghĩa của câu hỏi. Sự
bỏ quên qui luật nầy là một trong những nguồn thông thường nhất
của sự bối rối của bố mẹ. Thay vì lắng nghe câu hỏi của con trẻ,
họ tưởng tượng nó sẽ hỏi câu hỏi gì kế tiếp. Nhưng điều đó không
xảy ra hoặc ít là nó không thể cho tới khi nó đủ khôn lớn qua
nhiều năm tháng.
Khi đứa trẻ hỏi: Con trẻ đế từ
đâu? Câu trả lời chính xác la: Từ mẹ. Không có gì lúng túng
trong cự việc nầy ngoại trừ những ý nghĩ không được trong sáng
mà chỉ người lớn tức khắc liên kết với. Tuy nhiên, đứa trẻ thì
thõa mãn. Sau đó một thời gian nó sẽ hỏi: Làm sao đứa trẻ vào
trong mẹ? Một lần nữa câu trả lời cũng chỉ đơn giản: Từ người
cha. Đối với đứa trẻ như vậy là đủ, nó không hề nghĩ gì khác vì
con trẻ không thích những phản ứng tự động thuộc về thể lý. Ngay
cả câu hỏi sẽ được hỏi vào những năm sau đó: Làm sao đứa trẻ đi
từ cha vào trong mẹ? Bấy giờ câu hỏi có thể được trả lời với sự
cắt nghĩa của tình yêu trong hôn nhân, là cái sẽ làm thỏa mãn sự
tò mò muốn tìm hiểu của đứa trẻ đã đến tuổi khôn lớn đủ để hiểu.
Trong cách thế đó, những cha mẹ có trình độ hiểu biết sâu rộng
có thể dẫn đứa trẻ đi vào sự trưởng thành, đồng thời cũng có thể
yêu cầu cô giáo hoặc bác sĩ cắt nghĩa thêm cho nó một cách chính
xác nếu sách vở không co những thông tin thích hợp với lứa tuổi
của nó.
Cần sự lưu ý và cố gắng lắng nghe
khi đứa trẻ hỏi những câu hỏi như thế. Bố mẹ phải bảo đảm rằng
những câu hỏi nầy là những diển tả chân thành muốn tìm hiểu chứ
không phải là những dụng cụ để chiếm sự chú ý. Bất cứ ai quen
với kỷ thuật giáo dục có thể nhận thấy cách dễ dàng những câu
hỏi thật hay giả và hình thức thích lập đi lập lại những câu hỏi
giống như vậy.
SỰ SỚM TÌM HIỂU
VỀ PHÁI TÍNH CỦA ĐỨA TRẺ
Một yếu tố khác cũng làm ngăn trở
sự phát triển của thái độ tự nhiên đối với phái tính trong con
trẻ, đặc biệt là nơi con trai. Trẻ con nhìn thân thể chúng như
một phần của vũ trụ lạ lùng và xem xét rất kỹ. Những cha mẹ lo
lắng thái quá, khi khám phá ra chúng có những hành động như thế,
trở thành quá lo lắng và thường vụng về cố gắng ngăn cản những
hành động sờ chim. Phớt lờ những tìm tòi về thân thể của đứa trẻ
thì ít nguy hiểm hơn là làm nó sợ hãi, vì chúng ta biết rằng
chuyện thủ dâm từ khuynh hướng tự nhiên của đứa trẻ thì ít hơn
là như một kết quả của sự can thiệp bạo lực vào những hành động
vô nghĩa và vô hại. Hầu hết những thói quen xấu của con trẻ thì
được vun trồng một cách khéo léo dầu không có ý hướng bỡi cha mẹ
và vú nuôi là những người không biết rằng đứa trẻ bình thường có
khuynh hướng lập đi lập lại bất cứ cử động nào mà nó bị cấm. Vì
thế, sự can thiệp của người lớn vào việc tò mò tìm hiểu của đứa
trẻ, không ngăn cản được hành động của nó mà còn khuyến khích nó
thêm thực hành và tạo nên những xung khắc tâm thần, là cái trở
nên nguy hiểm trong suốt thời kỳ niên thiếu hơn là những kết quả
về thể lý. Đặt nơi đứa trẻ niềm tin rằng cơ quan sinh dục là dơ
bẩn và là điều cấm kỵ, và như vậy liên kết chúng với tội là một
sự đầu độc đầu óc đứa trẻ.
Những kinh nghiệm phái tính đầu
tiên của một đứa trẻ ảnh hưởng thái độ của nó đối với phái tính.
Những kinh nghiệm như thế xảy ra rất sớm. Lớn lên nó quên đi,
nhưng tất cả con trẻ đều kinh nghiệm sự hồi hộp về phái tính,
đứa thì rõ ràng, đứa thì mơ hồ. Những người lớn hôn đứa trẻ trên
miệng nó mà không chút nghi ngờ phản ứng của nó. Những kích
thích nhè nhẹ về cảm xúc phái tính không giới hạn cho một tuổi
nào. Một số trò chơi, những thực tập thể dục, hoặc những cử động
được lập đi lập lại gợi lên những kích thích tương tự. Cảm giác
sợ thường gợi lên sự kích thích phái tính. Trẻ con không thể cắt
nghĩa những cảm giác nầy dầu chúng có được sự thõa mãn lớn lao
từ đó. Cha mẹ có thể giúp làm giảm bớt sự tai hại từ những kinh
nghiệm huyền bí nầy nếu họ có sự tin tưởng tràn đầy của con cái
họ. Tuy nhiên, hầu hết bố mẹ qua sự can thiệp đầy khiển trách
trước đây, đã làm mất đi niềm tin của con cái bao lâu vấn đề
phái tính được quan tâm. Sự thảo luận tình cờ không hồi hộp,
không lúng túng có thể cất đi sự lẫn lộn của đứa trẻ.
Lm
Lê Văn Quảng Psy.D. |
VỀ MỤC LỤC |
|
ÂM MƯU MỚI
|
Chuyện kể rằng, tận dụng sự tiến bộ của
khoa học kỹ thuật, đặc biệt là internet, Lucifer triệu tập các
tướng lãnh ma quỉ để tìm âm mưu mới bày kế ám hại con người. Sau
khi nghe phân tích tình hình thế giới, ôn lại những phương cách
mà chúng thường dùng để đánh gục con người, Lucifer treo giải
thưởng cho âm mưu mới trong việc ám hại con người.
* * *
Tôi có ý kiến, chú quỉ cầm đầu bộ “đam mê”
lên tiếng. Chúng ta nên tận dụng internet để tiếp tục cám dỗ đam
mê xác thịt của con người. Đánh vào giới nào cũng chết cả vì ai
ai cũng có internet. Tiếp đến, chú quỉ cầm đầu bộ “lòng tham”
lên tiếng. Thời buổi thông tin toàn cầu ai cũng muốn kinh doanh
và kiếm tiền để tìm sự an toàn cho tương lai; trân thủ, chúng ta
nên cám dỗ con người về tiền bạc, chiến tranh. Cứ gieo rắc sự an
nguy, cứ gieo rắc sự hưởng thụ thì làm cho người dân ham kiếm
tiền, còn giới chính trị ham đánh nhau. Như thế thế giới này sẽ
loạn lên trong hận thù và ghen ghét.
Hội đồng tướng lãnh quỉ đang đăm chiêu suy
nghĩ nhìn Lucifer quyết định, bỗng từ dưới cuối phòng xuất hiện
một chú quỉ già, hắn đứng lên góp ý. “Thưa quí vị, cám dỗ về
nhục dục thì chúng ta đã dùng từ lâu, nó hiệu quả, nhưng nó cũng
giới hạn. Cám dỗ về tiền bạc, quyền lực cũng là phương sách cũ,
có gì mới đâu; mà thực ra ý kiến của hai chú cũng chẳng ăn nhập
gì với chủ ý của thủ lãnh Lucifer. Chúng ta nhớ là con người
đang sống trong thời đại internet, cái gì cũng nhanh, tốc độ,
nhắy mắt. Vậy chúng ta hãy tận dụng sự phát triển tối ưu này để
cám dỗ con người. “Nhưng bằng phương cách nào?” hội đồng nhìn
quỉ già sốt sắng hỏi. Chú chậm rãi thưa, “Thiên Chúa là Đấng rất
kiên nhẫn. Quí vị coi, Ngài đã rất kiên nhẫn trong việc thực thi
chương trình cứu độ. Từ cái vụ tụi mình đánh gục được Adam và
Eva, Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn để từ từ cứu độ con người qua Đức
Kitô; và đến bầy giờ Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn để chờ đợi con
người, và kiên nhẫn yêu thương con người. Cái hay là Ngài không
ép con người, mà chỉ kiên nhẫn, tôn trọng và chờ đợi họ thực tâm
trở về. Vì thế, tôi nghĩ, chúng ta cám dỗ con người đi ngược lại
với sự kiên nhẫn của Thiên Chúa là hiệu quả nhất. Vậy hãy dùng
internet, dùng đời sống hiện đại, dùng xe cộ cao tốc, dùng mọi
phương tiện mà do con người sáng chế trong thời đại kỹ thuật số
để đánh gục chúng, tức là làm cho con người mất khả năng kiên
nhẫn.”
Nói tới đây, hội dồng xem chừng vẫn chưa
thông suốt nên đồng thanh lên tiếng. “Nhưng mà kiên nhẫn thì có
liên hệ gì tới phần rỗi của chúng?” “Ha, ha, ha.” Khỉ già cười
vang, “Mấy chú nghĩ coi, chỉ cần một cái click chuột thì con
người có bất cứ mọi hàng hóa chúng muốn; chỉ cần ngồi lên xe cao
tốc, chúng sẽ đi đến ngay nơi mà chúng muốn; chỉ cần ăn vội cái
hamburger là chúng đã ăn xong một bữa ăn…như thế cám dỗ cho con
người sống trong vội vàng, cho người phải chạy đua với thời
gian, cho con người luôn lao mình phía trước cho kịp với “cái
click chuột” chẳng phải hiệu quả hay sao?” Khỉ già tiếp, “Càng
chạy đua với thời gian, con người quên đi quy luật tự nhiên của
Thiên Chúa tiền định, càng quên đi khả năng lắng nghe chính
mình, và càng không bận tâm đến những người xunh quanh. Khi
không chấp nhận sống theo tiến trình của quy luật tự nhiên, con
người bước ra khỏi sự tiền định bao bộc của Thiên Chúa; khi
không lắng nghe chính mình, con người không biết mình đang đi về
đâu; khi không đồng hành với người thân và đồng loại, con người
hành trình một mình trong cô đơn. Như thế, họ trở nên miếng mồi
ngon cho chúng ta.” Nghe tới đây, hội đồng quỉ tỏ vẻ thán phục.
“Quỉ già nói đúng, kế hoạch này xem rất đúng với đời sống hiện
đại.” Quỉ già tiếp, “Cám dỗ cho con người cảm thấy cái gì họ
cũng cần phải có ngay, đi tới ngay, ăn ngay, lập gia đình ngay,
ly dị ngay, lành bệnh ngay,… tức là để họ luôn luôn cảm thấy là
mình phải làm cái gì đó cho xong; xong hết cái này rồi phải xong
cái khác; và như thế họ không bao giờ biết là mình sống để làm
gì, làm việc để làm gì, và thậm chí ăn để làm gì. Bị sập bẩy
này, con người mất phương hướng, và mất kiên nhẫn khi cứ van xin
Thiên Chúa phải cứu mình thật nhanh như một cái ‘click chuột.’
Khi sập bẩy này, chúng không đủ kiên nhẫn với Thiên Chúa, không
kiên nhẫn với quy luật tư nhiên, và không kiên nhẫn với chính
mình và người khác. Như thế, chúng vội vàng tìm sự đáp ứng bằng
những cái “click chuột” mà chúng ta dụ dỗ chúng. Chúng chết
chắc! Nhờ sáng kiến này, quỉ già được trao giải nhất.
* * *
Bạn thân mến, qua chín đề tài về Kiên nhẫn
– Kiên cường của mục Sống Sao Cho Đẹp mà chúng ta đã chia
sẻ, trong bài cuối này, câu chuyện tưởng tượng trên nói lên điều
gì trong đời sống của con người hiện đại?
Con người hôm nay thích “doing” (làm), mà
không ý thức “being” (là). Cứ vội vàng, và vội vàng như cái máy
mà không biết mình đi đâu. Chạy xe thật nhanh, bấm còi inh ỏi,
thế nhưng khi đến đèn đỏ cũng dừng lại như bao xe khác có phải
không? Chen lấn xếp hàng, vội vàng tìm chỗ nhất, nhưng cũng chia
sẻ một cuốn phim, cùng ăn một cái bánh, phải không bạn? Vội vàng
chạy đua với thời gian, làm hết việc này đến việc khác, tham gia
“sinh hoạt” này đến sinh hoạt khác, mà không biết mình làm để
làm gì, cho ai, với mục đích tối hậu là gì, thì liệu có ổn
không? Dù bạn chạy nhanh hay chậm, làm nhiều hay ít nhưng kết
điểm đến của tất cả chúng ta cũng chỉ là nấm mồ bình lặng, âm
thầm ngàn thu. Như thế, vấn đề là bạn sống cho ai, mục đích gì,
và về đâu, chứ không phải bao nhiêu việc đã giúp danh bạn nỗi
lên trong cuộc đời này!
Chúng ta hãy cầu chúc nhau học biết kiên
nhẫn để nên trọn vẹn “Là” chính mình trước khi “Làm” cho người
khác.
Br. Huynhquảng
www.brhuynhquang.org
|
VỀ MỤC LỤC |
|
LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG SỨ VỤ
TRONG CÁC MỐI TƯƠNG QUAN |
Mời thăm Blog của
Lm. Trần Minh Huy
http://www.chivilongchuathuongtoi.tk/
Tác phẩm: ĐÀO TẠO ỨNG SINH LINH
MỤC GIÁO PHẬN
CHƯƠNG
NĂM
ỨNG
SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN
HỌC SỐNG CĂN TÍNH VÀ SỨ
VỤ LINH MỤC
C. LINH MỤC GIÁO PHẬN SỐNG SỨ VỤ
TRONG CÁC MỐI TƯƠNG QUAN
Các nhà tu đức nói rằng linh mục không lên
thiên đàng hay xuống hỏa ngục một mình, mà còn kéo theo nhiều
người khác nữa, nhất là những người được trao phó cho sự chăm
sóc mục vụ của linh mục. Linh mục không sống trong ốc đảo, mà
sống với, sống vì và sống cho các linh hồn. Vì thế đời sống
thánh thiện hay không của linh mục được thể hiện trong các mối
tương quan, nhờ các mối tương quan hay do các mối tương quan,
nhất là đối với linh mục triều: nên thánh bằng các thừa tác vụ
của mình.
Ngày nay người ta nhấn mạnh nhiều về Giáo
Hội tham gia, Nguyên lý bổ trợ và Thần học mục vụ dấn thân, cũng
như sự cộng tác và vai trò của giáo dân trong hoạt động dưỡng
giáo và truyền giáo của Giáo Hội, nhằm giúp linh mục thực thi sứ
vụ cách tốt đẹp trong lòng Giáo Hội và Xã Hội Việt Nam đang biến
đổi từng ngày, mà mỗi người phải biết thay đổi chính mình cho
thích hợp và hiệu quả, không đợi đến lúc bị bó buộc phải thay
đổi, sợ e đã quá muộn chăng: vì một khi người ta muốn một người
phải thay đổi đường lối mà không được thì họ sẽ tìm cách thay
thế (loại bỏ) con người đó, ít nhất là vô hiệu hóa hoạt động, uy
tín và ảnh hưởng của người đó!
Chính trong định hướng mục vụ này, chúng ta
sẽ xét đến đề tài “Linh mục giáo phận sống sứ vụ của mình
trong các mối tương quan.” Thật ra đây là đúc kết các bài
làm nhóm có hướng dẫn, được cập nhật và hiệu đính sau mấy khóa
học của các lớp Thần học Đại chủng viện thánh Giuse Hà Nội và
lớp Thần học Bổ túc Bùi Chu. Sự hợp tác giữa giáo viên và học
viên này vừa áp dụng phương pháp sư phạm Kích Biện Pháp
vừa sử dụng Phương Pháp Luận Sáng Tạo. Nỗ lực để tăng
cường, củng cố và cải thiện các mối tương quan tốt lẽ ra phải có
sự tương tác đối xứng về cả hai phía, nhưng ở đây nhấn mạnh hơn
về phía các linh mục giáo phận tương lai vì mục đích đào tạo và
tự đào tạo của họ.
C.1.
Tương quan với Giám Mục Bản
Quyền
C.1.a Những
gì nên cư xử, nói và làm
·
Thái độ của linh mục đối với
Giám mục Bản quyền là hợp tác, vâng lời, tình bạn; nhìn thấy nơi
Ngài một người cha thực sự và vâng phục Ngài với tất cả lòng
kính trọng, thương yêu, thảo hiếu. Sự vâng lời càng đến từ con
tim thì mối tương quan giữa Giám Mục và linh mục càng trở nên
gần gũi và tốt đẹp.
·
Thánh Giêrônimô dạy “hãy
vâng phục và đón nhận Giám mục như Đấng sinh thành linh hồn ta”.
Thánh Ignaxiô thì nói “hãy theo Giám Mục như Chúa Giêsu theo
Chúa Cha”. Còn thánh Augustinô căn dặn “Người dưới cần
vâng phục người trên như chính mình muốn những người dưới mình
vâng phục mình. Hãy giữ tôn ti trật tự, hãy tìm sự an bình.”
·
Quảng đại cam kết trung thành
tuân giữ tất cả và từng quy luật, tránh mọi hình thức tuân giữ
từng phần theo tiêu chuẩn chủ quan, gây chia rẽ ảnh hưởng đến
giáo dân và dư luận công cộng, thiệt hại nặng nề về mục vụ.
·
Cởi mở trong đối thoại và
hiệp thông trong tình yêu thương chân thành, cùng linh mục đoàn
hiệp nhất chung quanh ngài.
·
Báo cáo hiện tình giáo xứ.
Trình bày những khó khăn của mình (những vấn đề cá nhân cũng như
khi thi hành sứ vụ); trình bày chương trình, kế hoạch của giáo
xứ.
·
Sẵn sàng hợp tác và thi hành
nhiệm vụ được Đấng Bản Quyền trao; sẵn sàng rời bỏ nhiệm vụ và
nhiệm sở khi ngài cần. Vâng lời trong trạng thái nội tâm và sẵn
sàng làm theo ý ngài.
·
Thánh Phaolô đã nói về Chúa
Giêsu “đã vâng lời đến chết và chết trên thập giá”, vì
thế cần vâng lời triệt để. Thánh nhân còn dạy: “Chúa Giêsu đã
học biết thế nào là vâng lời nhờ các đau khổ của Người”
·
Vâng lời, kính trọng, hợp tác
với Giám mục trong tất cả công việc của giáo phận. Sống tình
bạn, gần gũi, yêu mến, nâng đỡ Ngài bằng lời cầu nguyện hằng
ngày để giúp ngài chu toàn trách nhiệm nặng nề mà ngài phải gánh
vác. Thông cảm với Giám mục, vì ngài cũng có thể có yếu đuối,
thiếu sót và bất toàn của con người như chúng ta.
·
Tóm lại, sự vâng phục chẳng
làm mất giá trị của linh mục, nhưng đề cao giá trị trách nhiệm
Chúa trao cho; vâng lời với tất cả lòng kính trọng và vâng phục
đến từ con tim chứ không phải bởi quyền lực và lý lẽ.
C.1.b Những
gì không nên cư xử, nói và làm
·
Không vận động xin được bổ
nhiệm chức vụ; không tự ý xin nhiệm sở, hay đến một nơi nào;
không từ chối đến nơi nào khi được Bản quyền yêu cầu.
·
Không lạm dụng lòng khoan
dung, nhân từ, rộng lượng, cởi mở của ngài mà cầu vinh, “a dua,
xu nịnh”
·
Làm mọi việc theo ý Đấng đã
sai mình, chứ không phải là làm theo ý kiến cá nhân của mình.
·
Không bao giờ làm gì ngoại lệ
tại giáo xứ mình được trao phó mà không được phép của Đấng Bản
Quyền.
·
Để giữ sự hòa hợp trong giáo
xứ, không tùy tiện làm theo ý riêng hay ý của một người hay nhóm
nào đó trong giáo xứ, mà phải làm theo qui định chung của Giáo
Phận.
·
Không vào bè phái, phe nhóm,
gây áp lực, khó dễ, hay nói với giáo dân và những người khác
những điều không cần thiết về Giám mục của mình.
·
Tránh lối tùng phục “bằng
mặt mà không bằng lòng” hay “quyền phục, lý phục mà tâm
không phục”.
·
Không nên vội vàng và nông
nổi phê bình, chỉ trích, chống đối, xa lánh Giám mục khi ngài có
những quan điểm và cách làm không giống ta; không nói hành, nói
xấu, than phiền về ngài với anh em như “đổ dầu vào lửa”
dẫn đến tình trạng bất hợp tác, kính nhi viễn chi.
·
Trong những chuyện gay cấn và
xung đột, không được giấu diếm hay dối trá với Giám Mục. Phải
thành thực trình bày rõ ràng đúng thực tế, không che đậy hay
phóng đại. Nêu rõ các phải trái, lỗi lầm của mình và của đối
phương, để giúp Giám mục sáng suốt phân định cách xử trí đúng
đắn. Không tìm gây ảnh hưởng trên Giám mục và lừa dối Ngài để
kéo Ngài về phe mình và công nhận việc mình làm, trái với sự
thật và công bằng.
C.2.
Tương quan với các linh mục
đàn anh, nhất là đối với cha sở của mình
C.2.a Những
gì nên cư xử, nói và làm
·
Kính trọng các linh mục đàn
anh vì họ là người đi trước, nhiều kinh nghiệm, nhiều hy sinh và
nhiều cống hiến cho Giáo Hội. Yêu mến trong tình huynh đệ bí
tích; hợp tác trong công việc; hiệp nhất trong linh mục đoàn.
·
Tỏ lòng biết ơn và luôn giữ
mối tương quan trong tình tương thân tương ái với các linh mục
đàn anh, hiểu hoàn cảnh cụ thể của các ngài.
·
Cầu nguyện cho các ngài để
các ngài bền vững trong ơn gọi linh mục của mình, vì dẫu là linh
mục của Chúa đã nhiều năm nhưng vẫn còn đó sự yếu đuối của con
người và sự mỏi mệt của trách nhiệm, tuổi tác và bệnh tật.
·
Cảm thông với người lầm lỗi;
trung dung trong các tranh cãi; khiêm tốn học hỏi kinh nghiệm.
Tìm dịp thuận tiện để thăm viếng, an ủi các đấng ốm đau, bệnh
tật.
·
Cần học hỏi kinh nghiệm, đời
sống thiêng liêng, và đời sống tông đồ của các ngài. Nhiệt thành
làm những gì cha xứ phân chia, để làm việc tôn vinh Thiên Chúa
và cứu rỗi các linh hồn, theo đúng lý tưởng, ơn gọi và thiên
chức linh mục.
·
Luôn đặt cha xứ ở vị trí ưu
tiên, nghĩa là nhìn nhận ngài là người có trách nhiệm trong mọi
hoạt động và đời sống của giáo xứ. Bàn hỏi, xin ý kiến và
sự hướng dẫn của các ngài, cũng như chia sẻ kinh nghiệm mục vụ
và thiêng liêng để đời sống và công việc đạt được kết quả tốt.
·
Năng lui tới và sống hiệp
thông với các vị trong hạt. Luôn giữ mối liên lạc với các linh
mục trong cùng một địa bàn hay cùng hạt mà mình phục vụ.
·
Đích thân và cổ vũ anh em
năng đến thăm các vị đã nghỉ hưu. Có thể nhờ các ngài giải tội
và linh hướng.
·
Kính trọng tuổi tác và kinh
nghiệm của các linh mục đàn anh, kể cả các linh mục “đàn anh
ít tuổi hơn” vì chịu chức trước. Bàn hỏi, học tập kinh
nghiệm mục vụ, cộng tác với các ngài trong việc chăm sóc các
linh hồn. Giúp đỡ và cảm thông khi các ngài gặp khó khăn,
chia sẻ của cải, nhất là
đối với các vị đau yếu, phiền muộn, cô đơn, bị hiểu lầm, bách
hại.
C.2.b Những
gì không nên cư xử, nói và làm
·
Không xem thường những vị già
nua, tuổi tác; không tự cao, tự đại vì kiến thức mới mẻ, vì sức
khoẻ hơn người.
·
Không tách mình ra xa, cục
bộ; không bè phái, chia rẽ. Không chê trách, chỉ trích, nói
xấu, công kích khi có bất đồng hoặc a dua cùng những người chống
đối để hạ giá uy tín của các ngài, ham dành phần thắng và so đo
tính toán thiệt hơn.
·
Không làm việc vượt quá giới
hạn cho phép của mình, hay qua mặt các ngài, phớt lờ các ngài,
khi liên quan đến việc chung của giáo xứ. Không làm việc gì
liên quan đến giáo xứ mà không bàn hỏi, xin ý kiến, và sự giúp
đỡ của các ngài.
·
Không nên tỏ thái độ bất hợp
tác với cha xứ trong một số công việc mà mình cảm thấy không hợp
lý hay không vừa ý.
·
Không chê bỏ vị tiền nhiệm đã
làm việc nơi giáo xứ mà nay mình đang phục vụ. Không bài xích vị
tiền nhiệm dựa vào câu nói “tân quan tân chế”, không phá
đổ hay vội chỉnh sửa những công trình, vật chất cũng như tinh
thần, của vị tiền nhiệm, kẻo chuốc lấy sự chống đối của những
người ủng hộ ngài.
·
Không phê bình hay đòi họ
phải làm giống như thế hệ của mình. Không tìm “khẳng định mình”
mà vùi người lầm lỗi xuống hố.
·
Không bỏ rơi các ngài, khi
các ngài gặp khó khăn thử thách về tuổi cao sức yếu, tình cảm,
tính nết, nỗi cô đơn, hay sự chê trách chống đối của giáo dân.
·
Không phê bình, chỉ trích
những thiếu sót, những lỗi lầm của các linh mục đàn anh, đặc
biệt đối với cha xứ, vì đó có thể là những lỗi lầm của mình
trong tương lai, nếu Chúa không giữ gìn.
·
Không coi thường hay thiếu
kính trọng, chê bai các ngài lạc hậu không cập nhật với thời
đại, khó tính, không hiểu và thông cảm với linh mục trẻ. Hãy tự
hỏi mình đã làm được gì cho các ngài?
C.3.
Tương quan với các linh mục
đàn em, nhất là đối với cha phó của mình
C.3.a Những
gì nên cư xử, nói và làm
·
Yêu thương huynh đệ, gần gũi,
cởi mở chia sẻ; sẵn sàng trao đổi kinh nghiệm và kiến thức. Ân
cần, khiêm tốn, tận tình khi được yêu cầu góp ý, xây dựng.
·
Hợp tác trong công việc; hợp
nhất, nâng đỡ, động viên người gặp khó khăn. Cảm thông với người
lầm lỗi. Trung dung trong các tranh cãi; mau giải hoà những bất
đồng.
·
Cần lo liệu cho các linh mục
trẻ, nhất là cha phó của mình, trong những năm đầu mới chịu chức
có những điều kiện dễ dàng về đời sống và công việc mục vụ.
·
Cầu nguyện cho các linh mục
đàn em còn trẻ trong sứ mạng mới, đón nhận họ như những người em
thực sự và giúp đỡ họ trong những công tác và gánh nặng đầu tiên
của sứ vụ linh mục.
·
Luôn tìm cách giúp đỡ, đề bạt
và cộng tác làm việc với các linh mục trẻ trong địa hạt của
mình. Thông cảm và tạo điều kiện cho linh mục đàn em làm việc
mục vụ tốt hơn mình càng tốt.
·
Tôn
trọng những ý kiến và sáng kiến của các ngài trong đời sống
thiêng liêng và mục vụ. Đồng thời phải biết lắng nghe các ngài
sửa lỗi, góp ý và xây dựng cho đời sống linh mục của mình.
·
Cố gắng hiểu tâm trạng của
họ, dù khác với tâm trạng mình, và quan tâm đến các dự tính của
họ với lòng nhân hậu. Chia sẻ những kinh nghiệm mục vụ cho họ,
vì chắc chắn họ còn rất bỡ ngỡ, nhất là những kinh nghiệm mình
đã trải qua, những bài học mình đã học được. Nêu gương sáng về
đời sống thiêng liêng và nhân bản, và sống xứng đáng như những
người anh thực sự.
·
Đón nhận họ như những người
em, giúp đỡ họ trong những công tác đầu tiên của sứ vụ linh mục,
hiểu tâm trạng, các dự tính của họ cách thiện chí. Tạo điều kiện
để họ làm việc mục vụ cũng như phát triển nhân cách và nhân đức.
·
Quan tâm đời sống tinh thần,
vật chất, chia sẻ kinh nghiệm mục vụ, cách ứng xử trong giao
tiếp với các hội đoàn cũng như mọi thành phần trong xã hội.
·
Chia sẻ công việc và quyền
điều hành, tiền bạc rõ ràng, công bằng, đối thoại cởi mở, sống
vui tươi hiệp nhất, sửa lỗi cho nhau trong tình huynh đệ. Giúp
nhau trong đời sống thiêng liêng, tri thức, vật chất.
C.3.b Những
gì không nên cư xử, nói và làm
·
Không nói hành, nói xấu.
Không hống hách, trưởng giả, tự cao, tự đại. Không cục bộ; chỉ
trích, công kích khi có bất đồng. Không bè phái, chia rẽ, đố kỵ.
Không sống bất hoà cho dù có những bất đồng.
·
Không ham dành phần thắng, so
đo tính toán thiệt hơn. Không tìm “khẳng định mình” bằng cách
vùi đàn em lầm lỗi xuống hố.
·
Không phê bình, nhưng tìm mọi
cách nâng đỡ đàn em, vì những khó khăn và thử thách ban đầu của
đời sống thực tế rất khác với những gì đã học trong Chủng Viện.
·
Không để linh mục trẻ nghĩ
mình đã học đầy đủ hết mà không tự đào tạo bản thân để trưởng
thành hơn và thích nghi với môi trường phục vụ.
·
Không nên thử sức nhau về
kiến thức, trắc nghiệm nhau về những vấn đề ngoài phạm vi sứ vụ
để đánh giá nhau. Không phân ranh giới và để mặc đàn em phải tự
xoay sở một mình hoặc “khoán trắng” và nhắm mắt làm ngơ trước
những công việc họ được giao phó.
·
Không bảo thủ, độc đoán,
thành kiến, coi thường những sáng kiến mới và cách làm việc mới
cũng như suy nghĩ mới của họ. Không chê bai những bỡ ngỡ, thiếu
sót của họ mà cố gắng động viên để họ làm tốt hơn.
·
Không sợ linh mục trẻ giỏi
hơn mình rồi tìm cách chê bai trẻ tuổi, thiếu kinh nghiệm, đối
xử như người giúp việc, có khi còn nói tiếng nặng, tiếng nhẹ...
cậy mình là đàn anh để coi thường và dùng quyền lấn át.
·
Không tranh chấp, dành giật
với các linh mục đàn em, nói xấu, kể chuyện của họ với giáo dân
và người khác, nhưng phải có sự quan tâm nâng đỡ, góp ý chân
thành trong tinh thần tương trợ lẫn nhau. Anh em Linh mục nâng
đỡ nhau là một thành trì vững chắc cho cả hai.
C.4.
Tương quan với các chủng
sinh, dự tu và các mầm non ơn gọi giáo sĩ
C.4.a Những
gì nên cư xử, nói và làm
·
Yêu thương, khích lệ, nâng đỡ
tinh thần và vật chất cho các chủng sinh, dự tu và mầm non ơn
gọi giáo sĩ, nhất là các em trong giáo xứ của mình, vì Giáo hội
không thể tồn tại nếu không có các thừa tác viên nối tiếp sứ vụ
Chúa Giêsu.
·
Các linh mục tương lai và mầm
non ơn gọi giáo sĩ là những người tiếp nối ta trong việc loan
báo Tin Mừng. Luôn mang trong mình thao thức tìm những ơn gọi
tương lai cho Chúa và Giáo Hội, vì tìm ơn gọi và nuôi dưỡng ơn
gọi linh mục tương lai là bổn phận và trách nhiệm đặc biệt của
các cha xứ.
·
Hãy nuôi dưỡng, động viên,
khích lệ, giúp đỡ vật lực cho các mầm non ơn gọi đó. Tạo môi
trường thuận lợi cho các mầm non ơn gọi sinh hoạt định kỳ, tạo
sự gần gũi với các em. Hướng dẫn việc học tập cho các em, giáo
huấn, rèn luyện các em về những kiến thức nhân bản và tu đức.
·
Kêu gọi các em tham gia các
hoạt động trong các hội đoàn của giáo xứ như: giúp lễ, giáo lý
viên, giới trẻ, ca đoàn... Nhờ việc tham gia vào các hội đoàn
này, các em gần gũi với Chúa, hăng say việc tông đồ, hun đúc
tinh thần tu trì và tinh thần sống cộng đoàn, gần gũi với nhiều
người, dễ cảm thông với con người, chia sẻ những khó khăn mà họ
gặp.
·
Giúp cho các em yêu mến Chúa,
yêu mến đời sống cầu nguyện, giúp các em năng lãnh nhận bí tích
Hoà Giải, bí tích Thánh Thể, viếng Thánh Thể, lần chuỗi Mân
côi...
·
Cung cấp sách thiêng liêng,
hạnh các thánh, sách đào tạo linh mục và những sách liên quan
đến ơn gọi tu trì hầu giúp cho các em có được ý thức tích cực về
đời sống thánh hiến.
·
Giúp các em hiểu biết dần về
ơn gọi linh mục-tu sĩ, mở ra cho các em cái nhìn về ơn gọi linh
mục và tu trì, giúp các em tập sống đời tu ngay trong môi trường
các em sinh sống như gia đình, trường học cũng như các nơi sinh
hoạt khác.
·
Tạo điều kiện thuận lợi cho
các em gặp gỡ nhau, sinh hoạt với nhau định kỳ. Qua đó, giúp các
em yêu thương nhau, giúp đỡ lẫn nhau, hy sinh cho nhau, chia sẻ
đời sống cho nhau.
·
Giúp cho các em nhiệt tâm
trong ơn gọi đang vươn tới, giúp các em có trách nhiệm về ơn gọi
của mình và của người khác. Giúp các em có đời sống vui tươi,
cởi mở, sẵng sàng tiếp đón và nâng đỡ những người cần đến các
em.
·
Nhất là giúp các em tiếp xúc
và làm quen với Lời Chúa qua việc đọc, suy ngẫm, tâm niệm Lời
Chúa hằng ngày và lấy Lời Chúa làm châm ngôn để sống trong ngày.
Tập các em yêu mến Mẹ Maria và các thánh, đọc sách hạnh các
thánh, noi gương các thánh, tập sống các nhân đức của các ngài,
đặc biệt gương Mẹ Maria.
·
Để tâm giải thích cho các em
sự cao quý và cần thiết của chức linh mục, qua lời giảng dạy và
chính đời sống phục vụ vô vị lợi của mình. Cổ vũ ơn kêu gọi cho
giáo phận trong các giáo xứ mà mình có trách nhiệm, qua các bài
giảng, các giờ giáo lý và nhu cầu của Giáo Hội địa phương.
·
Khuyến khích lập Hội Cổ Võ và
Bảo Trợ Ơn Gọi, và tích cực tham gia. Lập Gia Đình Ơn Gọi trong
giáo xứ (gồm tất cả những người đang tu, đang tìm hiểu ơn gọi,
và có ý hướng đi tu), sinh hoạt mỗi năm một lần vào dịp Tết
(liên hoan, tặng quà).
·
Giúp các Ơn Gọi trong giáo xứ
sinh hoạt học hỏi hàng tuần. Quan tâm tìm biết hoàn cảnh của
từng em để có thể giúp đỡ cách thích hợp và hiệu quả.
·
Đón nhận tất cả các em muốn
đi tu. Tạo điều kiện để các em có thể phục vụ Bàn Thánh (giúp
lễ). Lấy tình cha con chăm sóc các ơn gọi và chủng sinh nối tiếp
mình; hướng dẫn cho họ sống ơn gọi của mình. Trao cho họ vài
công việc vừa sức họ, để huấn luyện họ.
·
Kêu gọi, cầu nguyện, khích
lệ, động viên, nâng đỡ các ơn gọi. Lo cho giáo lý ơn gọi, huấn
luyện các em giúp lễ, tiếp xúc với từng em để phát hiện những
tài năng và ý Chúa nơi các em, giúp các em can đảm lựa chọn.
·
Sống trong sáng, vui tươi và
nhiệt thành hợp tác với chủng viện trong việc đào tạo linh mục
tương lai. Cha xứ cố gắng tạo cơ hội để biết, làm việc với các
chủng sinh và trở nên một phần trong việc đào tạo họ, mà một
ngày kia họ sẽ hội nhập với mình trong sứ vụ linh mục.
·
Vai trò và sự đóng góp của
cha xứ rất quan trọng trong việc đào tạo ứng sinh: Cung ứng cho
chủng sinh nhiều cơ hội thuận lợi để anh được kinh nghiệm và
tham dự vào sứ vụ giáo xứ; phát triển đời sống cầu nguyện của
anh ngay trong bối cảnh đời sống giáo xứ, vì đó sẽ là cuộc sống
thực sự của anh sau này; học hỏi với cha xứ mà anh đang sống với
ngài như người tập sự; được làm quen với nhiều giáo xứ khác nhau
trong Giáo phận; đem những gì đã học trong chủng viện vào hành
động, trong những hoàn cảnh thực tế; kinh nghiệm được cuộc sống
nhà xứ; qua việc phục vụ và cộng tác với giáo dân, chủng sinh có
thể học được nơi họ rất nhiều điều, đó là một chuẩn bị tuyệt vời
cho sứ vụ của anh sau này. Sự hiện diện hữu hình của các chủng
sinh ở trong giáo xứ sẽ thăng tiến việc thúc đẩy và phát triển
các ơn gọi linh mục và tu sĩ.
C.4.b Những
gì không nên cư xử, nói và làm
·
Không dửng dưng, vô trách
nhiệm, hoặc xa lánh việc kêu gọi những người có thiện chí dấn
thân phục vụ Chúa, phục vụ Giáo Hội và các linh hồn trong đời
sống tu trì. Không từ chối những ơn gọi đến với mình, vì sợ mất
thời gian hoặc tốn kém tiền của.
·
Không làm vơi đi lòng nhiệt
tâm của các em đang có thiện chí dấn thân phục vụ Chúa, Giáo Hội
và các linh hồn. Không kể khổ, hay đưa ra những khó khăn như
muốn thử thách mức chịu đựng của các mầm non ơn gọi.
·
Không nên có thái độ nhăn nhó
khó chịu hay gây khó khăn cho một ơn gọi nào đó muốn tìm đến với
đời sống này. Trái lại phải hết sức nâng đỡ về của cải vật chất,
chỉ dạy về đời sống tâm linh và động viên về đời sống tinh thần
để mầm non này có thể triển nở.
·
Không nên coi việc đào tạo
chủng sinh là trách nhiệm riêng của Chủng viện và Giám mục giáo
phận, vì nó là trách nhiệm của toàn thể Hội thánh, nhất là hàng
giáo sĩ.
·
Không được nói cũng như làm
những gì gây ấn tượng xấu trước các chủng sinh đàn em trong tình
cảm, cách sống, cách cư xử hay trong cung cách làm mục vụ của
mình.
·
Không nên nói nhiều đến mặt
trái cuộc đời của con người linh mục. Không gây gương mù để có
thể làm cho những mầm non ơn gọi này “vỡ mộng”.
·
Không lợi dụng, khai thác họ
như người giúp việc cho mình. Không trao cho họ công việc quá
sức mà họ không thể làm được.
·
Không tránh né, thờ ơ lãnh
đạm với việc cầu nguyện, kêu gọi, khích lệ động viên, giáo dục,
hướng dẫn, để cung cấp những ơn gọi cho Giáo hội.
·
Không sống ngược với điều
mình dậy bảo và làm gương xấu cho mầm non ơn gọi.
C.5.
Tương quan với các tu sĩ
nam nữ
C.5.a Những
gì nên cư xử, nói và làm
·
Các nam nữ tu sĩ là những
người có cùng một lý tưởng như ta: hiến dâng cuộc đời để phục vụ
Chúa và các linh hồn. Họ khấn giữ ba lời khuyên Phúc âm để bước
theo sát Chúa Kitô hơn, theo Hiến pháp, đặc sủng và linh đạo của
Đấng sáng lập, nhằm gia tăng sự thánh thiện trong Hội thánh. Vì
thế ta phải kính trọng họ và tôn trọng những tài sản thiêng
liêng đó của họ.
·
Luôn yêu thương, quan tâm
giúp đỡ tu sĩ nói chung, nhất là những người đang cộng tác với
mình trong xứ. Cởi mở đón nhận họ như anh chị em; cho họ biết
đường hướng mục vụ giáo xứ; đồng hành với họ trong công việc mục
vu; bàn hỏi và trao đổi trước mỗi công việc và tin tưởng họ khi
trao công việc. Rút ưu khuyết điểm sau mỗi công việc lớn; khích
lệ đời sống thiêng liêng và tông đồ; quảng đại, bác ái và làm
gương sáng.
·
Lý tưởng chung giữa linh mục
và tu sĩ nam nữ đều là dâng hiến trọn vẹn cho Chúa và Dân của
Ngài. Biết rằng đi tu nhưng vẫn không thôi là con người, nên
phải luôn giữ mối liên hệ thánh thiện để thăng tiến và thánh hóa
“tiếng gọi nhân loại” ngõ hầu giúp nhau sống sứ vụ tốt
hơn (x. Tv 132, 1).
·
Tôn trọng, yêu thương chân
thành, vui vẻ, cộng tác và thăng tiến những đặc sủng của họ.
Sống trong sự bổ túc, hài hoà và liên đới, quan tâm các cộng
đoàn Tu sĩ, cung cấp cho họ giáo lý và tu đức, giúp đỡ và khích
lệ họ sống trung thành với ơn gọi theo đường lối riêng của mỗi
Hội Dòng.
·
Hãy cầu nguyện cho nhau để
cùng bước trên đường trọn lành, vì cầu nguyện là hơi thở, là
nguồn sống cho đời sống tu trì của mỗi chúng ta.
·
Cần phải biết lắng nghe nhau,
sửa lỗi cho nhau, giúp đỡ nhau, tha thứ và góp ý cho nhau, để
xây dựng cho nhau có một đời sống dâng hiến cho Chúa và các linh
hồn mỗi ngày mỗi tốt hơn.
·
Phải coi các tu sĩ như là
những cộng tác viên chứ không phải là những người cấp dưới hay
người giúp việc, nhất là đối với các nữ tu. Phải có tinh thần
cởi mở và tạo điều kiện tốt nhất để họ làm việc, và đối xử với
họ theo đức công bằng.
C.5.b Những
gì không nên cư xử, nói và làm
·
Không làm gương mù gương xấu,
bè phái và phân biệt giữa các dòng. Không can thiệp vào việc nội
bộ của hội dòng. Không nói hành nói xấu, làm mất danh dự, tiếng
tốt của họ khi vắng mặt. Không làm hay nói lời tiêu cực phá sự
hiệp nhất. Không kết án hay xét đoán vội vàng.
·
Không tìm ảnh
hưởng hay uy tín cho cá nhân mình. Không đi sâu vào đời sống cá
nhân, nhất là đối với nữ tu, nhưng phải tôn trọng và thăng tiến,
cộng tác và nâng đỡ khi họ cần giúp đỡ về tinh thần.
·
Không cục bộ
và đánh mãnh: Việc mình mình làm, việc người người làm; nhất là
khi có nhiều dòng tu cùng hoạt động mà lại không cùng cộng tác
với nhau để làm cho giáo xứ tốt hơn.
·
Không coi
thường họ như những người giúp việc hay thuộc hạ, mà phải nhìn
nhận và biết ơn họ là những cộng tác viên rất đắc lực cho hàng
giáo sĩ trong các hoạt động mục vụ như giáo lý, ca hát, đàn
nhạc…
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỨC VÂNG PHỤC GIỮA VỢ CHỒNG
|
Tác phẩm: Cẩm Nang Hạnh Phúc Gia Đình
Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Tác
giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)
B6. ĐỨC VÂNG PHỤC GIỮA VỢ CHỒNG
1.
Người Ấn Độ thường kể về việc Thiên Chúa tạo dựng con
người có nam và có nữ như sau:
Khi đã dựng nên người nam, Thiên
Chúa sực nhớ, Ngài đã sử dụng hết những chất liệu cứng. Sau một
hồi suy nghĩ, Ngài mới lấy vòng tròn của mặt trăng, vẻ mảnh
khảnh của hoa cỏ, tính thay đổi của gió, sự lãng đãng của mây
trời, sự nhút nhát của loài thỏ, nét hung dữ của hổ trên rừng,
tiếng chim hót du dương, sự chung thuỷ của một con sư tử mẹ. Gom
tất cả những yếu tố ấy lại, Thiên Chúa đã dựng nên người đàn bà
và trao ban cho người đàn ông.
Chỉ sau một tuần lễ, người đàn
ông trở lại với Đấng Tạo Hóa và thưa với Ngài: “Lạy
Chúa, người đàn bà mà Chúa đã ban tặng cho con không mang lại
cho con một mảy may hạnh phúc. Nàng nói huyên thuyên và hành hạ
con đủ điều. Nàng đòi buộc con phải chú ý đến nàng từng giây
từng phút. Một việc không ra gì cũng đủ cho nàng than vãn. Con
xin trả nàng lại cho Chúa, bởi vì con không thể sống với nàng”.
Thiên Chúa gật đầu đón tiếp người
đàn bà. Nhưng cũng chỉ một tuần lễ sau, người đàn ông đã trở lại
than với Chúa: “Lạy Chúa, cuộc sống của con trở thành vô vị
và trống rỗng kể từ khi con mang người đàn bà trả lại cho Chúa.
Lúc nào con cũng nghĩ về nàng. Lúc nào con cũng nhớ lại những
lúc nàng nhảy múa ca hát. Nhất là con khôngthể quên được ánh mắt
nàng nhìn con. Và nụ cười của nàng thì lúc nào cũng vang vọng
trong trái tim con. Xin cho con được đón nhận nàng lại”.
Thiên Chúa lại trao trả người đàn
bà cho người đàn ông. Nhưng không đầy ba ngày sau người đàn ông
lại dẫn người đàn bà đến trước mặt Chúa và cũng lập lại một điệp
khúc: “Chúa ơi, con
không biết làm sao để diễn tả tâm trạng của con. Nhưng sau những
kinh nghiệm trải qua với người đàn bà này, con thấy rằng, nàng
mang lại cho con nhiều đau khổ hơn là hạnh phúc. Một lần nữa con
van Chúa, con xin trả nàng lại cho Chúa, bởi vì con không thể
sống với nàng”.
Lúc bấy giờ Thiên Chúa mới phán
bảo: “Ngươi không thể sống mà không có người đàn bà”.
Nói thế rồi, Ngài bỏ mặc hai người đứng đó và tiếp tục công việc
của mình. Người đàn ông chỉ còn biết thốt lên: “Tôi
phải làm gì bây giờ? Tôi không thể sống với nàng, nhưng tôi cũng
không thể sống thiếu nàng”.
2.
Mượn câu chuyện dụ ngôn trên đây, chúng tôi muốn nêu bật
điều mà Công Đồng Vaticanô II đã nói trong số 49 của Hiến Chế
Vui mừng và Hy Vọng rằng, để có thể chu toàn trách nhiệm của đời
sống hôn nhân và gia đình, người ta cần phải có những nhân đức
anh hùng. Quả thực, nếu không có sự can đảm của bậc anh hùng,
người ta không thể sống trọn ơn gọi của bậc vợ chồng. Chúng tôi
đã nói đến hai nhân đức anh hùng trong bậc hôn nhân là khiết
tịnh và khó nghèo; đến đây, chúng ta bàn đến nhân đức thứ ba là
vâng phục.
Nếu có vâng phục thì chỉ có người
vợ vâng phục chồng mà thôi, nếu không thì ông bà ta đâu có nói
đến chuyện dạy vợ, giáo dục vợ? Thánh Phaolô chẳng nói rằng,
chồng là đầu, là thủ lãnh của vợ đó sao? Vậy mà, nghĩ như thế là
chối bỏ sự bình đẳng của vợ chồng và nghĩ như thế cũng có nghĩa
là không lấy tình yêu thương làm dây ràng buộc giữa vợ chồng.
Thật ra, sự vâng phục giữa vợ chồng mà chúng ta đang đề cập ở
đây chính là sự phục vụ lẫn nhau.
Khi nói người chồng là thủ lãnh
của vợ, thánh Phaolô cũng xác định rằng, tương quan ấy giống với
tương quan giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Chúa Kitô làm đầu của
Giáo Hội nhưng lại trao ban mạng sống mình vì Giáo Hội. Ở đây,
phục vụ chính là danh hiệu mới mà thánh Phaolô muốn gán cho hai
chữ vâng phục. Vâng phục là phục vụ. Thánh Phaolô đã nói về Chúa
Giêsu: “Ngài đã vâng phục và đã vâng phục cho đến chết”.
Thực tế, ý nghĩa sự vâng phục của Chúa Giêsu chính là phục vụ.
Cái chết trên thập giá của Ngài là tột đỉnh của sự vâng phục và
phục vụ. Chúa Giêsu chính là mẫu mực của sự vâng phục.
Qua bí tích Rửa Tội người tín hữu
Kitô được nên một với Chúa Giêsu, họ đi lại con đường vâng phục
của Ngài. Nhưng trong bí tích Hôn Phối, người tín hữu còn sống
tinh thần vâng phục của Chúa Giêsu một cách đặc biệt hơn. Cộng
đồng tình yêu được thiết lập qua bí tích Hôn Phối đòi hỏi hai
người phối ngẫu phải thực thi sự vâng phục hơn bất cứ nơi nào.
Trong quan hệ vợ chồng, không ai làm đầu hay làm bề trên, mỗi
người đều là đầu của người khác. Bởi vì cả hai đã nên một trong
thể xác và tinh thần.
Mỗi người là đầu của người khác,
vợ là đầu của chồng, chồng là đầu của vợ. Vì thế, sẽ không còn
chuyện chồng chúa vợ tôi hay phu xướng phụ tuỳ. Câu hỏi mà vợ
chồng đặt ra không còn phải là: ai điều khiển hay ai làm chủ
trong nhà, mà phải là: ai phục vụ ai và phải phục vụ như thế
nào? Nói đến phục vụ là nói đến quên mình. Là Thầy và là Chúa,
Đức Giêsu đã phục vụ như một người tôi tớ. Trong bí tích Hôn
Phối, hai vợ chồng Kitô hữu cam kết làm chứng cho tình yêu và sự
vâng phục của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống của họ. Nếu không
có sự quên mình, nếu không có sự vâng phục và phục vụ nhau, làm
sao họ có thể làm nhân chứng cho tình yêu của Ngài được?
|
VỀ MỤC LỤC |
|
HIẾN THÂN XÁC CHO Y KHOA HỌC
|
Chúng tôi gặp
nhau rất tình cờ. Hôm đó ông Vinh tới thử máu và đo huyết áp
trong một Hội Chợ Y Tế do nhóm thiện nguyện Việt- Mỹ tổ chức.
Ông ta mang kết quả tới nhờ tôi giải thích vài điều mà ông thắc
mắc. Sau đó Vinh đột nhiên dụt dè nói, “tôi muốn hiến tặng thân
xác cho khoa học khi tôi chết, liệu bác sĩ giúp tôi làm thủ tục
được không?”. Tôi hơi ngạc nhiên nhưng thấy Vinh có vẻ thành
thực nên nói chuyện thêm với Vinh vài phút rồi xin số điện thoại
để sau này gặp lại. Hơn tuần lễ sau tôi mời ông tới chơi để tìm
hiểu. Trò chuyện thì nhiều nhưng tập trung vào việc hiến xác.
Ông cho hay là hiện nay sống một mình, có việc làm với bảo hiểm
sức khỏe và hưu bổng đầy đủ, gia đình con cháu ổn định, đời sống
cá nhân an lạc. Ý nghĩ hiến xác ông đã có từ lâu, vì thấy khoa
học ở đất nước này tiến bộ quá, mình hưởng được nhiều phúc lợi
thì bây giờ trả ơn vì nghe nói thân xác được dùng trong các
nghiên cứu của khoa học gia cũng như sinh viên y khoa thực tập…
Ý nghĩ của
ông Vinh mang người viết trở lại với thời kỳ học y khoa khi xưa.
Hai năm đầu, có môn Cơ Thể Học, vừa lý thuyết vừa thực hành ngõ
hầu hiểu rõ được sự cấu tạo của cơ thể con người. Đây là một
trong nhiều môn học quan trọng nhất để đào tạo bác sĩ và các nhà
chuyên môn về sức khỏe khác. .Thực hành là cặm cụi trên những
hình hài vô danh, tay dao tay kéo rạch từng đường gân, thớ thịt,
mạch máu để có cái nhìn cụ thể. Thầy dạy là vị giáo sư khả kính
và các sinh viên đàn anh. Thầy có dọng nói truyền cảm hấp dẫn,
lời giảng rõ ràng minh bạch lâu lâu chêm. vào một câu nói vui
vui để đám học trò bớt căng thẳng. Nét vẽ của thầy trên bảng đen
thật tuyệt vời, đâu ra đó, rất thành thạo, nhanh và diễn tả đầy
đủ tác phẩm kỳ diệu của tạo hóa là con người. Đó là Giáo Sư Y
Khoa Nguyễn Hữu, Giám Đốc Cơ Thể Học Viện trong nhiều thập niên
của một thời xa xưa..
Những hình
hài vô danh nằm trên bàn đá lạnh trong căn phòng nhỏ ngợp mùi
phóc môn tại Cơ Thể Học Viện, đường Trần Hoàng Quân Chợ Lớn, tới
từ đâu, không ai biết. Có thể là từ tự hiến hoặc bán xác của
bệnh nhận bệnh viện Chợ Quán, viện tâm thần Biên Hòa hoặc tử
thi trôi sông dạt biển, tử tội vô thừa nhận. Nhưng những hình
hài đó đã giúp sinh viên y khoa rất nhiều và đã đựoc ghi ơn,
nâng niu tôn trọng trong khi thực tập. Mới đây, đồng nghiệp
Phan Bảo Khánh tại Sài Gòn,
rất xúc động với những người hứa nguyện hiến xác đã có ý kiến
"Họ đã ra đi nhưng còn đó những bó cơ, mạch
máu, từng bộ phận cơ thể… cho chúng ta giảng dạy, nghiên cứu để
phục vụ cho khoa học và cao hơn là vì cuộc sống tươi đẹp. Họ là
những người bất tử”.
Các viện
nghiên cứu khoa học, trường y, bệnh viện trên khắp thế giới
đều khẩn khoản mong ước được đón nhận những “ người bất tử” như
vậy. Vừa mới ra đi thì các bộ phận tốt lành tức khắc được ghép
cho người bệnh có nhu cầu, mang lại đời sống gần như bình thường
cho họ. Trong vài ba năm thì hình hài liên tục được mổ xẻ,
nghiên cứu mang lại những hiểu biết về chữa trị, phòng ngừa nan
bệnh.
Với hình hài
để nghiên cứu, đơn vị thu nhận sẽ ướp xác với formaldehyde chích
vào mạch máu để các mô bào được cất giữ, tránh hư rữa. Đó là lý
do thân xác phải toàn vẹn để có thể tẩm niệm ướp giữ. Đôi khi
xác cũng được cất giữ bằng cách ướp với chất nhựa dẻo plastic.
Thủ tục hiến
xác cũng giản dị. Một văn bản ngỏ ý muốn hiến, ký tên bên dưới
với 2 người trưởng thành làm chứng, gửi tới cơ quan nghiên cứu
mà mình muốn tặng dữ. Người hiến tặng cũng ở tuổi thành niên hợp
pháp.
Chẳng hạn
như:
“Tôi ký
tên dưới đây là Nguyễn Văn Trần, 72 tuổi, hiện ngụ tại số 1234
đường Marie Curie thành phố Sơn Lâm, trong tâm trạng rất tỉnh
táo, sáng suốt, làm giấy này nguyện hiến tặng thân xác tôi, khi
mãn phần, cho Bệnh viện của trường Đại học Y Khoa với mục đích
góp phần vào sự tiến bộ y khoa học và giáo dục.
Tôi hiểu
rằng ý nguyện của tôi cần phải được ban Giám đốc của trường cứu
xét và chấp nhận. Trong trường hợp ý nguyện của tôi không được
thỏa mãn, thân nhân của tôi sẽ đứng ra lo phần tang chế.
Tôi cũng
đồng ý là tất cả hồ sơ y khoa của tôi được chuyển giao cho
trường để hiểu rõ tường tận về tình trạng sức khỏe của tôi.
Tôi cũng ý
thức rằng thời gian mà trường xử dụng thân xác tôi cho mục đích
y khoa học và giáo dục có thể kéo dài cả 2, 3 năm.
Tôi yêu
cầu những ai lo việc hậu sự của tôi thông báo ngay cho trường về
sự mãn phần của tôi.
Ngày tháng
năm tại địa phương mình đang cư ngụ
Ký tên.
Hai người
làm chứng đồng ký.
Và nhớ cho
thân nhân biết rõ ý định của mình để tránh trường hợp bất đống ý
kiến sau này. Cũng lưu ý rằng, một lúc nào đó mình không muốn
hiến tặng thì chỉ cần viết một văn bản đổi ý gửi cho cơ quan thụ
hưởng.
Ý nguyện cần
được đơn vị thu nhận đồng ý tùy theo tiêu chuẩn riêng của họ và
tùy theo mỗi quốc gia. Chẳng hạn có nơi từ chối nếu người hảo
tâm có tiền sử bệnh truyền nhiễm như viêm gan các loại, HIV,
lao; phỏng nặng, thương tích trầm trọng, chết đuối, quá mập phì,
đói ăn cơ thể bắt đầu rữa hủy, đã có ý định quyên sinh…Có cơ
quan chỉ nhận thân xác toàn vẹn, không hư rữa, chưa bị mổ khám
nghiệm tử thi, không bị lấy đi một bộ phận để cấy ghép trị bệnh,
ngoại trừ giác mạc của mắt.
Người hiến
được cấp một thẻ ghi nhận hiến xác để luôn luôn mang theo mình,
phòng khi cần khẩn cấp.
Tại Hoa Kỳ,
hiến bộ phận có thể thực hiện tại nơi thi bằng lái xe và sẽ
đựơc ghi chú trên bằng này.
Trong thời
gian nghiên cứu, hình hài sẽ được cơ quan thụ hưởng bảo tồn
trang trọng, đảm bảo chân giá trị của người hiến tặng cũng như
tôn trọng quà tặng mà người cho đã trao cho
Sau nghiên
cứu, hình hài sẽ được hỏa thiêu. được đưa về cho thân nhân mai
tang nếu họ muốn hoặc sẽ được bệnh viện long trọng rải trên biển
cả hoặc trong lòng đất. Cát bụi trở về cát bụi.
Người cho
không được hưởng một hiện kim hiện vật nào. Đó là quy luật của
chính quyền, để tránh mua bán hoặc kẻ bất lương đào mồ trộm xác.
Bệnh viện chi trả phí tổn chuyên trở hình hài tới bệnh viện, nếu
không quá xa.
Thân nhân có
thể tổ chức lễ phát tang, cầu nguyện trước khi chuyển cho bệnh
viện, nhưng lưu ý nhà quàn không tẩm niệm. Đó là việc mà sau này
bệnh viện đảm trách theo phương pháp khoa học thích hợp.
Cũng xin ghi
nhận rằng, hầu hết các tôn giáo đều khuyến khích sự hiến xác để
phục vụ cho mục đích cao cả khoa học vì đây là một cử chỉ vị
tha, bác ái, từ bi.
Kết luận.
Để kết luận,
xin ghi lại cảm nghĩ của nam ca sĩ Ngọc Sơn, khi ký giấy hiến
xác cách đây mấy năm: “Con
người sinh ra từ cát bụi, lìa trần thì cũng trở về với cát bụi.
Nếu đem thân xác đi chôn vùi trong lúc các trường y họ thiếu
tiêu bản người để thực tập và nghiên cứu khoa học thì phí phạm
quá. Tôi muốn phụng sự cuộc sống cả sau khi mình đã chết”.
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Texas-Hoa Kỳ
www.bsnguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
VỢ CHỒNG NHÍ - Chuyện phiếm của Gã Siêu
|
Trong lãnh vực hôn nhân, xã hội Việt Nam
ngày xưa xem ra có nhiều quan niệm hơi bị bất ổn. Và một trong
những quan niệm hơi bị bất ổn, đó là tục tảo hôn, lấy nhau quá
sớm, thậm chí còn có cả tục phúc hôn, lấy nhau từ lúc còn trong
bụng mẹ.
Thực vậy, hai ông bố ngồi uống rượu, chén
thù chén tạc với nhau, rồi đính ước cho con cái, ngay cả khi
chúng chưa có mặt trên cõi đời này, thành thử mới có những cảnh
tréo cẳng ngỗng, vốn được ca dao diễn tả.
Khi thì chồng còn… babilac:
- Bồng bồng cõng chồng đi chơi,
Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng.
Cho tôi mượn chiếc gàu sòng,
Để tôi tát nước múc chồng tôi lên.
Khi thì vợ còn rất… nhỏ:
- Lấy chồng từ thuở mười lăm,
Chồng chê tôi bé chẳng nằm với tôi.
Đến năm mười tám đôi mươi,
Tôi nằm dưới đất, chồng lôi lên giường.
Một rằng thương, hai rằng thương.
Có bốn chân giường gẫy một còn ba,
Ai về nhắn nhủ mẹ cha,
Chồng tôi nay đã giao hoà cùng tôi.
Cha mẹ nào thì cũng yêu thương con cái. Khi
chúng lớn lên, các ngài có bổn phận phải lo dựng vợ gả chồng, để
chúng được yên bề gia thất, còn mình thì cũng sớm có cháu bế và
chóng được bước lên hàng ông bà nội, hay ông bà ngoại.
Nhất là đối với con gái, bởi vì thiên hạ
vốn thường diễn tả: Có con gái lớn trong nhà chẳng khác nào có
trái bom nổ chậm, chẳng biết nó sẽ phát nổ vào lúc nào. Thành
thử mới xảy ra những cặp vợ chồng trẻ con:
- Lấy anh từ thuở mười ba,
Đến năm mười tám thiếp đà năm con.
Ra đường thiếp hãy còn son,
Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng.
Ấy là gã chưa xét tới góc cạnh kinh tế. Xã
hội Việt Nam vốn là một xã hội nông nghiệp. Mà nông nghiệp thì
đòi phải có nhiều người để canh tác, để “cày sâu cuốn bẫm” trong
một thời buổi chưa có máy móc, vẫn cứ lấy sức người làm chính và
vẫn cứ con trâu đi trước cái cày theo sau. Lấy vợ cho con trai
là thêm được một người làm không công trên thửa ruộng của
mình!!!
Xét về tuổi tác, các cụ ta ngày xưa vốn
thường chủ trương: Nữ thập tam, nam thập lục. Gái mười ba, trai
mười sáu. Trong khi đó, giáo luật cũ khoản 1067 đã qui định: Nam
mười sáu, nữ mười bốn. Nếu dưới lứa tuổi này thì cuộc hôn nhân
bị coi là bất hợp pháp. Còn theo luật nhà nước hiện nay thì: Gái
mười tám, trai hai mươi.
Mặc dù luật pháp đã quy định hẳn hoi trên
giấy trắng mực đen, thế mà vẫn có những cặp xé rào, tranh thủ
lấy nhau rất sớm, để rồi phải gánh chịu những hậu quả thảm khốc,
héo hắt cả một đời. Gã xin trình bày một trong những trường hợp
điển hình đã xảy ra tại Việt Nam hôm nay và được Vũ Mai ghi lại
trn trang của Vnexpress như sau:
Một cô gái trẻ có khuôn mặt bầu bĩnh, đứng
lặng lẽ một góc trong phòng xử, đôi mắt ngấn lệ, nhìn theo
Nguyễn Tấn Vũ gầy guộc, nhỏ bé trong chiếc sơ mi trắng rộng
thùng thình, được dẫn vào vành móng ngựa. Cô gái là nạn nhân và
cũng là vợ bị cáo trong vụ án giết người này.
Do ở cùng xóm, Nguyễn Tấn Vũ (ngụ Bình
Thạnh) đã đem lòng yêu Trang từ khi còn là cậu học sinh phổ
thông. Thấy đôi trẻ quấn quýt bên nhau, bố mẹ hai bên có nhắc
nhở, cảnh cáo, nhưng cho rằng Vũ ít tuổi hơn Trang, lại thấy
tình cảm láng giềng thân tình, người lớn cũng chép miệng bỏ qua.
Một hôm, Vũ bẽn lẽn dắt Trang về thưa với
mẹ rằng cô đã có thai hơn năm tháng khiến vị phụ huynh không
khỏi ngỡ ngàng, sửng sốt. Biết pháp luật không cho phép bọn trẻ
lấy nhau, khi Vũ chỉ vừa qua tuổi mười sáu còn Trang cũng chỉ
mới mười bảy, nhưng hai gia đình đành bất chấp, bởi họ cần phải
“hợp thức hóa” cho cái bào thai ấy. Một đám cưới vội vàng, chắp
vá được tiến hành, Trang trở thành bà mẹ bất đắc dĩ và phải dở
dang chuyện học khi mới vào lớp mười.
Tuy là vợ chồng nhưng "đứa nào ở nhà đứa
nấy". Cuộc sống của cái gia đình “trẻ con” này vẫn phụ thuộc vào
sự trợ giúp của hai bên nội ngoại. Ngoài việc chăm sóc con,
Trang chỉ phụ cha mẹ làm vài việc nhà lặt vặt, còn Vũ xin đi làm
phục vụ tại quán cà phê.
Mang tiếng là đã có vợ con, nhưng Vũ cũng
chỉ là một chàng trai trong độ tuổi "vị thành niên", lại làm
việc trong môi trường “thoáng”, nên nhiều lần bỏ đi chơi với bạn
bè, quên trách nhiệm làm chồng, làm cha khiến Trang không khỏi
phiền muộn, nghi ngờ.
Rồi một ngày, cô cũng bỏ đứa con thơ dại
cho ông bà ngoại trông coi, đi giải sầu với các bạn. "Gái một
con", xinh xắn, lại đang độ tuổi xuân thì, Trang được không ít
chàng trai theo đuổi. Thấy Trang hay đi lại với người con trai
khác, chị gái cô đã gọi "em rể" nhắc nhở:
- Trang nó có bạn trai đấy, em liệu mà giữ
gìn hạnh phúc cho bản thân đi.
Giật mình, nhưng đến khi chính mắt trông
thấy vợ ôm eo người khác, Vũ quyết định “phải làm một cái gì
đó”.
Khuya 31/3/2007, biết Trang vừa đi chơi với
bạn trai về, Vũ lấy một con dao bỏ vào cốp xe rồi chạy tới nhà
Trang, định cho "tình địch" một trận, nhưng không gặp. Tức giận
quay sang vợ hỏi đầu đuôi sự thật, thì cậu nhận được cái gật đầu
xác nhận:
- Tôi có bạn trai khác rồi, tôi không muốn
tiếp tục quen anh nữa.
Cô lớn tiếng xỉ vả và thách thức, khi thấy
Vũ chạy lại xe lôi ra con dao, dứ dứ trong tay. Bị kích động,
trong khoảnh khắc, con dao trên tay Vũ đã ngập trên người Trang.
Thấy vợ gục xuống trong vũng máu, Vũ ôm đầu
bỏ chạy tới nhà bạn. Còn Trang, được mọi người đưa đi cấp cứu
nên giữ được mạng sống, mang thương tích 58% vĩnh viễn. Sau mấy
ngày lẩn trốn, quá lo lắng cho vợ, nghĩ đến con, Vũ quyết định
đến công an đầu thú.
Và ngày 7/8, Vũ phải đối diện với chiếc
vành móng ngựa để trả giá cho những gì mình đã gây ra. Cậu nhận
tội, nhưng với đầu óc non nớt của mình, Vũ không thể lý giải một
cách trơn tru động cơ dẫn tới hành động của mình. Tất cả mọi
diễn biến tâm lý đều được Hội đồng xét xử phân tích ngọn ngành
và cậu chỉ biết gật đầu xác nhận. Đưa tay vào chiếc còng số 8,
Vũ trở lại trại giam với cái án bốn năm tù.
Được gọi lên hàng ghế dành cho nạn nhân bị
hại, Trang chưa nói được gì, thì đã giọt ngắn giọt dài. Một tay
ôm lấy thân mình, một tay cô bịt miệng, cố ngăn tiếng nấc. Đưa
mắt nhìn dáng chồng thiểu não gục đầu, cô nức nở:
- Tôi thấy Vũ hay đi chơi với bạn bè nên
nghĩ rằng anh ấy đã chán mình và đã có người khác. Vì thế, tôi
cũng đi chơi và quen biết bạn trai mới. Tôi nghĩ, khi hay chuyện
này, anh ấy sẽ sợ mất tôi và sẽ sống tử tế hơn. Buổi tối xảy ra
chuyện, tôi đã quá ngang tàng và nói những điều không nên. Vả
lại, tôi nghĩ bản chất Vũ hiền lành, nên đã lớn tiếng thách
thức, khi anh ấy đang nóng giận. Giờ đây, tôi rất hối hận về
hành động nông nổi của mình.
Cả khán phòng im lặng nghe những lời chân
tình từ người mẹ trẻ. Khi được hỏi có yêu cầu bị cáo bồi thường
gì không, Trang thảng thốt:
- Chúng tôi là vợ chồng, tôi rất thương anh
ấy. Mọi chuyện đều bắt nguồn từ tôi, nên không yêu cầu bồi
thường gì. Tôi chỉ xin tòa xem xét giảm nhẹ hình phạt cho anh ấy
sớm được trở về để phụ giúp tôi nuôi con.
Giờ nghị án, còn lại một mình, Vũ co người
trên băng ghế dài, chiếc áo cậu mặc càng như rộng hơn và nhăn
nheo hơn.
Bên ngoài, Trang bước nhanh ra phía cổng
tòa rồi quay vào bưng mặt khóc. Đưa tay vuốt những sợi tóc ướt
nhòe, bám chặt vào má, cô nức nở:
- Sáng nay em bế thằng bé theo, cứ tưởng
người ta sẽ cho cha con nó gặp nhau một chút, nhưng vì quy định
của tòa không cho trẻ con vào, nên em phải để nó ngoài cổng. Giờ
chỉ còn tuyên án thôi, nhưng họ cũng không cho em mang nó vào.
Hôm trước tới ngày thăm, anh ấy bảo nhớ con lắm.
Hít một hơi thật dài, Trang lau sạch những
vệt nước trên đôi mắt to tròn, sưng mọng. Cô chia sẻ:
- Cho dù có phải chờ đợi anh ấy bao nhiêu
em cũng sẽ chờ. Con em cần có bố, và thật sự em chưa bao giờ hết
yêu Vũ.
Tòa xét thấy, VKS truy tố Vũ về tội "giết
người" nhưng hành vi của Vũ chưa đủ yếu tố cấu thành tội này,
nên đã tuyên buộc Nguyễn Tấn Vũ mức án bốn năm tù về tội "cố ý
gây thương tích". Đưa tay vào chiếc còng số tám, Vũ quay lại
nhìn người vợ trẻ đầy hy vọng.
Từ câu chuyện trên, gã tạm gọi những cặp vợ
chồng loại này là những cặp vợ chồng…nhí. Thực vậy, chữ “nhí”
trong tiếng Việt Nam vừa có nghĩa là nhỏ, là bé, là trẻ, lại vừa
có nghĩa là hơi lẳng lơ, hơi lí lắc, hay se sua áo quần, sửa
sang điệu bộ cho được nhiều người để ý đến. Chẳng hạn như khi
nói:
- Con nhỏ đó nhí nhảnh quá!
Ngày xưa trong lớp gã có hai cô nàng cùng
tên Nga. Vì thế bọn gã đã đặt cho họ những cái “hỗn danh”: Nga
Nhí là cô nàng nhỏ bé, mi nhon. Còn Nga Tồ là cô nàng to lớn đẫy
đà!
Riêng trong phạm vi tình cảm, có những ông
chồng, không phải chỉ bỏ cơm đi ăn phở dăm ba bữa, rồi lại trở
về với cơm mà ca bản: Tung cánh chim tìm về tổ ấm. Và lúc đó phở
chỉ là một món ăn tạm bợ trong lúc ngẫu hứng lý qua cầu mà thôi.
Thế nhưng, cũng có những ông chồng, mặc dù
vợ con đùm đề, gia đình bề thế, mà vẫn cứ can đảm đèo bồng vợ nọ
con kia. Vì tập tục ngày xưa ấy công nhận chế độ đa thê, trai
năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng, nên họ
cũng được cưới xin đàng hoàng và vì vậy, họ thường được gọi là
vợ bé để đối lại với vợ lớn, bà nhỏ để đối lại với bà lớn và vợ
hai để đối lại với vợ cả. Thôi thì:
- Vợ cả vơ hai, hai vợ đều là vợ cả!
Còn hiện nay, chế độ đa thê đã bị chấm hết
từ lâu, vì thế những cái “rờ moọc” ngoài luồng ấy thường được
thiên hạ gọi là…bồ nhí. Xem ra cách gọi này vừa tươi trẻ hơn,
vừa khoái lỗ tai hơn, lại vừa hợp tình và hợp lý hơn, cho dù
những cô bồ nhí này chẳng còn nhỏ, chẳng còn trẻ và cũng chẳng
lí lắc tí nào cả và lại thường được dấu kỹ ở một nơi nào đó!
Trở lại với những cặp vợ chồng nhí, gã thấy
như thế này: Xét về phương diện sinh lý học hay cơ thể học, họ
được coi như là đã tạm đủ những điều kiện, những tiêu chuẩn cần
thiết để làm cha làm mẹ, bằng chứng cụ thể là họ đã sinh ra được
một nhóc tì, nếu “mắn” lắm là hai tí nhau.
Tuy nhiên, sinh con không giống như sinh
vật và nuôi con cũng chẳng giống như nuôi vật. Nuôi một con vật,
chúng ta chỉ cần cho nó ăn là đủ. Nhưng đối với con cái, chúng
ta không phải chỉ cho ăn, mà còn có bổn phận phải giáo dục chúng
nên người.
Hơn thế nữa, mục đích của hôn nhân không
phải chỉ là sinh đẻ con cái, mà còn phải giúp đỡ lẫn nhau và tạo
dựng hạnh phúc cho nhau, bằng cách cùng nhau xây dựng một mái ấm
gia đình.
Xét về những phương diện này, thì những cặp
vợ chồng nhí hoàn toàn thiếu khả năng, không thể nào thực hiện
được.
Trước hết, những
cặp vợ chồng nhí này nuôi sống mình chưa nổi, thì làm sao nuôi
sống được con cái và gia đình.
Sở dĩ như vậy là vì họ chưa có được một
nghề nghiệp vững chắc trong tay. Với lứa tuổi mười sáu, mười
bảy, họ mới chỉ là những cô cậu học trò vô tư, ăn chửa no lo
chửa đến, chẳng có một khả năng chuyên biệt nào cả.
Lúc mới lập gia đình, thì cậy dựa vào cha
mẹ. Khi ra riêng, thì được cha mẹ đôi bên chu cấp cho phần nào.
Những số tiền trợ giúp ấy được ví như một con cá, chứ không phải
là chiếc cần câu. Con cá dù lớn đến đâu, ăn hoài cũng sẽ hết.
Trong khi đó, nếu có được chiếc cần câu, họ sẽ bắt được con cá
khác để mà ăn. Cũng vậy, dưới một góc độ nào đó, nghề nghiệp
chính là một chiếc cần câu, để câu lấy chén cơm manh áo cho bản
thân và gia đình. Vì thế, người xưa đã từng bảo:
- Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh.
- Đất ruộng bề bề, không bằng một nghề
trong tay.
Tiếp đến, những cặp vợ
chồng nhí này, bản thân còn chưa nên người, thì làm sao dạy được
cho con cái nên người.
Một anh chồng cưới được một cô vợ nhí, sau
một thời gian chung sống, đã chia sẻ kinh nghiệm như sau: Điều
khiến anh ta khó xử nhất, đó là là tính trẻ con của cô vợ nhí.
Hơi một tí là hờn, hơi một tí là dỗi. Được cái cũng dễ làm lành.
Nhưng để làm lành, cô vợ nhí cũng bắt anh ta phải năn nỉ ỉ ôi
chán chê mê mỏi mới chịu tha thứ.
Chúa nhật, cô vợ nhí thích đi chơi với đám
bạn gái như khi còn tự do, chứ không lo chuyện dọn dẹp nhà cửa.
Tuy đã có gia đình riêng, nhưng cách cư xử của cô vợ nhí chẳng
khác chi mấy so với khi vẫn còn ở nhà với bố mẹ đẻ.
Các cô vợ nhí thì vô tư, ít nghĩ đến chuyện
gia đình, chỉ biết ngày hôm nay, chứ chưa cần lo việc ngày mai.
Chẳng lẽ chuyện gì cũng phải tranh luận hay bàn cãi, thôi thì để
cho gia đình được êm ấm, đành phải cắn răng chịu đựng: nhất vợ
nhì trời, vợ luôn là số một và vợ nói gì cũng đúng, chẳng sai
chút nào.
Chính vì thế, khi nhìn thấy cô vợ nhí mang
bầu, một anh chồng đã phải nhắn nhủ như sau:
- Trẻ con sắp là mẹ của trẻ
con rồi đấy. Phải lớn lên, vợ nhé!
Đa số các cô vợ nhí đều có
tính khí thất thường, sáng nắng chiều mưa, giữa trưa sương mù,
nên để làm cho họ vui cũng không phải là chuyện đơn giản. Vợ
càng nhí, thì càng phải cưng. Vợ càng trẻ thì càng phải chiều!
Phải chăng đó cũng chính là một qui luật nếp sống lứa đôi?
Còn anh chồng nhí cũng vậy.
Vào cái tuổi mười sáu mười bảy, “ăn chửa no lo chửa đến”, có anh
con giai nào mà lại chẳng ham chơi. Chơi ngày không đủ, thậm chí
còn tranh thủ chơi cả ban đêm nữa.
Thực vậy vì ham chơi, anh
chồng nhí chẳng chịu làm ăn. Nếu kiếm được tí tiền còm nào, thì
cũng tiêu pha cho riêng mình. Không đem tiền về cho vợ cho con
đã đành, mà hơn thế nữa, mỗi khi bước chân vào nhà, anh chồng
nhí còn hạch sách, đòi vợ đưa tiền, để được tiếp tục cuộc chơi.
Nếu vợ không đưa, thì văng tục chửi bới, rồi đánh đập, thượng
cẳng chân hạ cẳng tay với vợ.
Vì ham chơi, anh chồng nhí
suốt ngày đàn đúm, ăn nhậu với bè bạn, quên luôn cả cô vợ nhí và
đứa con èo uột ở nhà. Con đau cũng mặc. Vợ ốm cũng kệ. Nhiều khi
về tới nhà, thì chân nam đá chân chiêu, hơi rượu bốc lên nồng
nặc, khiến vợ con lại phải một phen hầu hạ.
Tất cả những thái độ trên
chứng tỏ anh chồng nhí chưa bao giờ ý thức được trách nhiệm của
mình. Đó là trách nhiệm của một người cha và của một người
chồng, trách nhiệm của một người đứng đầu trong gia đình. Một
người có tinh thần trách nhiệm phải là một người luôn cố gắng
làm hết sức, để chu toàn những bổn phận của mình ở mọi nơi và
trong mọi lúc.
Sau
cùng, những cặp vợ chồng nhí này thường chóng chán và dễ đổi
thay, khiến cho gia đình bị tan vỡ
Trước khi bước vào ngưỡng
cửa hôn nhân, người ta thường phải tìm hiểu nhau một cách kỹ
càng, rồi mới đi tới một quyết định chọn lựa. Và khi đã chọn
lựa, thì phải trung thành với quyết định của mình.
Theo gã nghĩ: chọn lựa vừa
có nghĩa là từ bỏ, lại vừa có nghĩa là chấp nhận. Từ bỏ những gì
khả dĩ làm cho tình yêu bị tàn héo và gia đình bị tan vỡ. Đồng
thời chấp nhận người mình yêu với tất cả những sở trường cũng
như những sở đoản, những khuyết điểm cũng như ưu điểm, để rồi
giúp nhau thăng tiến và trở nên tốt lành hơn.
Những cặp vợ chồng nhí, vì
chưa biết suy nghĩ chín chắn, nên những quyết định của họ thường
vội vàng, dựa trên những tình cảm nồng cháy thưở ban đầu, hay vì
sự việc đã rồi, nên đành phải chấp nhận sự quyết định của cha mẹ
đôi bên, chẳng hạn như cô nàng tuổi “teen” đã lỡ…dính bầu!
Vì thế, sau một thời gian
ngắn chung sống, họ bắt đầu cảm thấy chán nhau và không còn
trung thành với sự chọn lựa của mình nữa. Nhất là khi có những
sự bất đồng giữa hai người, hay có những áp lực và những lời dèm
pha từ bên ngoài.
Một khi đã chán nhau, anh
chồng nhí bèn đi tìm cho mình một đào mới, còn cô vợ nhí, thì
cũng đi tìm cho mình một kép mới, theo đúng bài bổn anh ăn nem,
thì em ăn chả. Nhà tan cửa nát. Anh đi đường anh. Tôi đi đường
tôi. Tình nghĩa đôi ta có thế thôi. Chỉ đứa con là lãnh đủ những
hậu quả của cuộc tình đã đổ vỡ.
Hiện nay tục tảo hôn không
còn nữa, và những cặp vợ chồng nhí cũng không nhiều, thỉnh
thoảng mới thấy xuất hiện ở nơi này nơi khác. Tuy nhiên, cần
chấm dứt tệ trạng này, để không còn phải chứng kiến những tình
huống tang thương và bi đát.
Gã
Siêu gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|