Giám Mục Ðoàn và vị Thủ Lãnh |
Hiến Chế Tín Lý
Về Giáo Hội
Lumen Gentium
Bản dịch Việt
Ngữ của Giáo Hoàng Học Viện Piô X
Prepared for
Internet by Vietnamese Missionaries in Asia
Chương III
Tổ Chức Phẩm
Trật Giáo Hội
Và Ðặc Biệt Về
Chức Giám Mục
(tiếp theo)
22. Giám Mục Ðoàn và vị Thủ Lãnh.
29* Thánh Phêrô và các Tông Ðồ khác tạo thành một cộng
đoàn Tông Ðồ duy nhất theo như Chúa đã ấn định; tương tự như
thế, Giáo Hoàng Roma, Ðấng kế vị Phêrô, cùng với các Giám Mục là
những người kế vị các Tông Ðồ đều liên kết với nhau. Ðặc tính và
bản chất cộng đoàn của hàng giám mục được biểu lộ qua luật lệ cổ
truyền: theo đó Giám Mục trên khắp hoàn cầu thông hiệp với nhau
và với Giám Mục Roma bằng mối dây hiệp nhất, bác ái và bình an
23 và qua sự triệu tập các Công Ðồng
24 để cùng nhau quyết định những vấn đề quan trọng đặc
biệt
25 sau khi Nghị Phụ đã cân nhắc kỹ lưỡng
26. Bản chất ấy được xác nhận bởi việc triệu tập các
Công Ðồng Chung qua bao thời đại. Và bản chất cộng đoàn ấy cũng
được một tập truyền xa xưa công nhận, đó là việc nhiều Giám Mục
được mời đến tấn phong một người mới được chọn lên nhiệm vụ tối
cao của chức linh mục. Người lãnh nhận bí tích truyền chức và
hiệp thông giáo phẩm với Thủ Lãnh cùng các phần tử trong Cộng
Ðoàn trở thành phần tử của Giám Mục Ðoàn.
Nhưng cộng đoàn
giám mục hoặc giám mục đoàn chỉ có quyền hành khi hiệp với Giáo
Hoàng Roma, đấng kế vị thánh Phêrô, Thủ Lãnh của cộng đoàn giám
mục; nhưng quyền tối thượng trên tất cả các Chủ Chăn và tín hữu
của Giáo Hoàng Roma vẫn luôn luôn được bảo toàn trọn vẹn. Thực
vậy, do nhiệm vụ của mình, là Ðại Diện Chúa Kitô và Chủ Chăn của
toàn thể Giáo Hội, Ðức Giáo Hoàng Roma có một quyền bính trọn
vẹn, tối cao, phổ quát trên Giáo Hội, và bao giờ Ngài cũng được
tự do thi hành quyền bính ấy, Giám Mục Ðoàn kế vị cộng đoàn Tông
Ðồ trong việc giáo huấn và chăn dắt, chính trong Giám Mục Ðoàn
mà cộng đoàn Tông Ðồ được trường tồn. Hiệp nhất với Thủ Lãnh,
tức Giáo Hoàng Roma, và không bao giờ tách rời khỏi Thủ Lãnh ấy,
giám mục đoàn cũng có quyền bính trọn vẹn và tối cao trên toàn
thể Giáo Hội
27, nhưng chỉ có thể thi hành quyền này khi có sự ưng
thuận của Giáo Hoàng Roma. Chúa đã đặt một mình Phêrô làm đá
nền, trao chìa khóa Giáo Hội cho một mình Ngài (x. Mt 16,18-19),
cũng đã đặt Ngài là Chủ Chăn của toàn thể đàn chiên Chúa (x. Gio
21,15tt); những quyền tháo gỡ cầm buộc của Người đã ban cho
Phêrô (x. Mt 16,19), hẳn cũng đã ban cho cả cộng đoàn Tông Ðồ
hiệp nhất với Thủ Lãnh (x. Mt 18,18; 28,16-20)
28. Gồm nhiều phần khác nhau, cộng đoàn giám mục diễn
tả đặc tính đa dạng và phổ quát của Dân Thiên Chúa; đồng thời,
tụ họp dưới quyền thủ lãnh duy nhất, cộng đoàn giám mục diễn tả
sự hiệp nhất của đàn chiên Chúa Kitô. Trong cộng đoàn này, các
Giám Mục, khi trung thành tôn trọng quyền tối thượng và quyền
điều khiển của vị Thủ Lãnh, các Ngài thi hành quyền bính riêng
để mưu ích cho tín hữu mình và cho toàn thể Giáo Hội, nhờ có
Chúa Thánh Thần không ngừng củng cố cơ thể và sự thuận hòa trong
cơ thể ấy. Quyền bính tối cao của giám mục đoàn trên toàn thể
Giáo Hội được thi hành cách trọng thể trong Công Ðồng Chung.
Nhưng không bao giờ có Công Ðồng Chung nếu không được Ðấng kế vị
Thánh Phêrô phê chuẩn hay ít ra chấp nhận; Ðức Giáo Hoàng Roma
có đặc quyền triệu tập, chủ tọa và phê chuẩn các Công Ðồng này
29. Hiệp nhất với Giáo Hoàng, các Giám Mục trên khắp
thế giới còn có thể thực hành quyền cộng đoàn ấy, khi vị Thủ
Lãnh cộng đoàn mời gọi các ngài cùng hành động cách cộng đoàn,
hay ít ra khi ngài ưng thuận hoặc tự do chấp nhận hành động hiệp
nhất của các Giám Mục rải rác để làm cho nó trở thành một hành
động có tính cách cộng đoàn thực sự.
30*
23. Mối liên lạc giữa các Giám Mục
trong cộng đoàn. Sự hiệp nhất của Giám Mục Ðoàn
còn được biểu lộ qua mối tương giao giữa mỗi Giám Mục với các
Giáo Hội địa phương và Giáo Hội phổ quát. Ðức Giáo Hoàng Roma,
Ðấng kế vị Phêrô, là nguyên lý và nền tảng hữu hình, vĩnh cửu
30 của sự hiệp nhất giữa các Giám Mục cũng như giữa
các tín hữu. Còn mỗi Giám Mục là nguyên lý và nền tảng hữu hình
của sự hiệp nhất trong Giáo Hội địa phương
31. Các Giáo Hội này được thành lập theo hình ảnh Giáo
Hội phổ quát: chính nhờ và trong các Giáo Hội ấy mà có một Giáo
Hội công giáo, duy nhất
32. Vì thế mỗi Giám Mục đại diện cho Giáo Hội mình, và
tất cả các Giám Mục cùng với Giáo Hoàng đại diện cho toàn thể
Giáo Hội trong mối dây bình an, yêu thương và hiệp nhất.
Mỗi Giám Mục
được đặt làm Thủ Lãnh một Giáo Hội địa phương, thực hành quyền
mục vụ trên phần Dân Thiên Chúa được trao phó cho mình, chứ
không thực hành quyền mục vụ trên các Giáo Hội địa phương khác,
hoặc Giáo Hội phổ quát. Nhưng với tư cách là phần tử giám mục
đoàn, và là người kế vị hợp pháp các Tông Ðồ, mỗi Giám Mục, do
sự thành lập và giới lệnh của Chúa Kitô, có bổn phận
33 ân cần săn sóc đến toàn thể Giáo Hội. Sự ân cần săn
sóc đó, cho dầu không được thể hiện bằng một hành động thuộc
quyền tài thẩm, vẫn mang lại rất nhiều lợi ích cho Giáo Hội phổ
quát. Thực vậy, tất cả các Giám Mục có nhiệm vụ phát huy và bảo
vệ sự hiệp nhất đức tin và kỷ luật chung của cả Giáo Hội, dạy
cho tín hữu biết yêu mến toàn Nhiệm Thể Chúa Kitô, nhất là các
chi thể nghèo khó, đau khổ và đang chịu bách hại vì sự công
chính (x. Mt 5,10), sau cùng các ngài còn có nhiệm vụ phát huy
mọi sinh hoạt chung của toàn Giáo Hội, nhất là phát triển đức
tin và làm cho ánh sáng chân lý toàn vẹn chiếu soi trên mọi
người. Ðàng khác, khi điều khiển khéo léo Giáo Hội địa phương là
một phần Giáo Hội phổ quát, dĩ nhiên các Giám Mục đã góp phần
hữu hiệu vào công ích của toàn Nhiệm Thể cũng là thân thể của
các Giáo Hội
34.
Lo lắng rao
truyền Phúc Âm cho khắp thế giới là một bổn phận của cộng đoàn
các Chủ Chăn. Chúa Kitô đã ra lệnh chung cho tất cả các ngài và
giao phó cho các ngài một bổn phận chung, như Ðức Giáo Hoàng
Coelestinô đã nhắc nhở các Nghị Phụ Công Ðồng Ephesô
35. Vì thế các Giám Mục, trong phạm vi trách nhiệm
riêng của các ngài cho phép, phải cộng tác với nhau và với Ðức
Giáo Hoàng là người được đặc biệt ủy thác nhiệm vụ cao cả truyền
bá danh hiệu Kitô hữu
36. Do đó, các Giám Mục phải dốc toàn lực đóng góp cho
các xứ truyền giáo nhiều thợ gặt, nhiều sự trợ giúp thiêng liêng
và vật chất, vừa bằng cách tự mình trực tiếp giúp đỡ, vừa khuyến
khích các tín hữu nhiệt thành cộng tác. Sau cùng, trong niềm cảm
thông phổ quát của đức ái, theo gương lành đáng kính của các thế
kỷ đầu, các Giám Mục hãy sẵn lòng lấy tình huynh đệ trợ giúp các
Giáo Hội khác, nhất là những Giáo Hội gần nhất và túng thiếu
nhất.
Các Giáo Hội
khác nhau mà các Tông Ðồ và những đấng kế vị đã thành lập tại
nhiều nơi khác nhau theo dòng thời gian, Chúa Quan Phòng đã muốn
tụ hợp lại thành nhiều nhóm được liên kết ở tổ chức; các nhóm
này có kỷ luật riêng, phụng vụ riêng, thừa hưởng di sản thần học
và thiêng liêng riêng mà không phương hại đến sự hiệp nhất đức
tin cũng như bản chất duy nhất và thần linh của Giáo Hội phổ
quát. Trong các Giáo Hội ấy, một vài Giáo Hội, nhất là những
Giáo Hội cổ xưa do các Giáo Chủ lãnh đạo, như các bà mẹ đức tin,
đã sinh nhiều Giáo Hội khác như con cái mình, và vẫn còn liên
kết với nhau cho đến ngày nay bằng mối dây bác ái mật thiết và
bằng đời sống bí tích trong sự tôn trọng quyền lợi và nghĩa vụ
lẫn nhau
37. Các Giáo Hội địa phương tuy khác nhau như thế
nhưng đều hướng về sự hiệp nhất, nên càng minh chứng đặc tính
công giáo của một Giáo Hội không phân chia. Cũng thế, ngày nay
các Hội Ðồng Giám Mục có thể góp phần phong phú bằng nhiều thể
cách để cụ thể hóa tinh thần cộng đoàn.
31*
24. Thừa tác vụ Giám Mục.
32* Chúa Giêsu, Ðấng được ban mọi quyền năng trên trời
dưới đất, đã trao cho các Giám Mục, vì là những người kế vị các
Tông Ðồ, sứ mệnh dạy dỗ muôn dân và rao giảng Phúc Âm cho mọi
tạo vật, hầu mọi người được rỗi nhờ lãnh nhận đức tin, phép
Thánh Tẩy, và việc chu toàn giới răn Chúa (x. Mt 28,18-20; Mc
16,15-16; CvTđ 26,17t). Ðể hoàn thành sứ mệnh đó, Chúa Kitô đã
hứa ban Thánh Thần từ trời xuống, để nhờ sức mạnh của Thánh
Thần, các ngài làm chứng cho Chúa Kitô đến tận cùng trái đất,
trước mọi dân nước và vua chúa (CvTđ 1,8; 2,1tt.; 9,15). Nhiệm
vụ Chúa đã trao phó cho các chủ chăn của dân Người thực là một
việc phục vụ, mà Thánh Kinh gọi rõ ràng là "diakonia" nghĩa là
thừa tác vụ (x. CvTđ 1,17 và 25; 21,19; Rm 11,13; 1Tm 1,12).
Chức vụ bổ
nhiệm theo giáo luật được trao cho các Giám Mục hoặc theo tập
tục hợp pháp chưa bị quyền tối thượng và phổ quát của Giáo Hội
đoạn tiêu, hoặc theo các luật lệ được Giáo Hội ban hành hay thừa
nhận, hoặc trực tiếp do chính đấng kế vị Phêrô; nếu Ðức Giáo
Hoàng phản đối hoặc từ chối không cho hiệp thông với Tòa Thánh,
thì các Giám Mục không thể được lãnh nhận chức vụ
38.
33*
_________
Chú thích
29* Tiểu mục 2: (các số
22-23) Giám Mục Ðoàn.
Tiết này được
tranh luận nhiều nhất, có nhiều chú thích và sửa đổi nhất, đặc
biệt là số 22: bởi vậy công việc soạn thảo sau cùng rất nặng nề.
Người ta biết có hai bản phúc trình ngược hẳn nhau được đệ trình
lên Công Ðồng, một của Giám Mục Parente, ủng hộ bản văn, sau
cùng được chấp thuận với một ít điều sửa đổi, và một của Giám
Mục Franic trình bày những khó khăn chống với bản văn. Cũng nhờ
"bản phúc trình" sau này mà có phần chú thích sơ khởi, đến giờ
chót được đặt thêm vào bản văn để xoa dịu một vài lập trường
quyết liệt. Khó khăn chính là vì người ta sợ Cộng Ðoàn tính của
Giám Mục có thể phương hại tới tín điều về quyền tối thượng của
Giáo Hoàng. Khó khăn khác nữa là vì từ ngữ Giám Mục Ðoàn, nếu
hiểu theo nghĩa pháp lý, sẽ đưa đến sự bình đẳng giữa các phần
tử trong đoàn và như vậy, dường như quyền tối thượng bị đe dọa.
Sau cùng, từ ngữ đó không có trong Thánh Kinh hay trong Truyền
Thống. Công Ðồng vẫn lưu ý đến những vấn nạn đó khi soạn thảo
bản văn và cũng vì vậy mà xác nhận một lần nữa về quyền tối
thượng của Giáo Hoàng trong một bản văn đề cập đến các Giám Mục.
23 Xem Eusebiô, Hist. Eccl.,
V, 24,10 : GCS II,1, trg 495; x.b. Bardy, Sources Chr. II, trg
69. Dionysiô, trong Eusebiô, n.v.t. VII, 5,2: GCS II, 2, trg
638t ; Bardy, II trg 168t.
24 Xem về các Công Ðồng thời
trước, Eusebiô, Hist. Eccl. V, 23-24: GCS II, 1, trg 488 tt;
Bardy, II, trg 66t. và nhiều chỗ khác. CÐ Nicea, đ.th. 5:
Conc.Oec. Decr., trg 7.
25 Xem Tertullianô, De
Jejunio, 13: PL 2, 972B: CSEL 20, trg. 292, hàng 13-16.
26 Xem T. Cyprianô, Epist.
56, 3 : Hartel, III B, trg 650 ; Bayard, trg 154.
27 Xem phúc trình chính thức
của Zinelli, trong CÐ Vat I : Mansi 52, 1109C.
28 Xem CÐ Vat I, lược đồ
Hiến chế tín lý, II, De Eccl. Christi, ch. 4: Mansi 53, 310. Xem
phúc trình của Kleutgen về lược đồ sửa lại: Mansi 53, 321B-322B
và tuyên bố của Zinelli: Mansi 52, 1110. Cũng xem T. Leô Cả,
Serm. 4,3 : PL 54, 151A.
29 Xem CIC, các kh. 222 và
227.
30* Trong số 22 này, chúng
ta phân biệt bốn đề xướng:
(1) Ðề xướng
thứ nhất quả quyết sự hiện hữu của Giám Mục Ðoàn kế vị Tông Ðồ
Ðoàn, phác họa một chứng cứ lịch sử, và liệt kê những điều kiện
gia nhập đoàn. Ðây là một trong những quả quyết quan trọng nhất
của Công Ðồng mà người ta muốn bày tỏ tính cách bổ túc của nó
cho Công Ðồng Vaticanô I. Công Ðồng xác nhận nguồn gốc Tông Ðồ
Ðoàn là do Chúa, hợp với tinh thần Tân Ước (x. số 19), và Tông
Ðồ Ðoàn được các người kế vị là Giám Mục tiếp nối liên tục. Sự
liên tục đó là một kết quả hợp lý vì Chúa đã hứa cho Giáo Hội
được trường tồn. Nhiều tài liệu của Truyền thống cũng xác nhận
sự liên tục này. Ðược phong chức Giám Mục và hiệp thông giáo
phẩm với Thủ Lãnh cũng như với các phần tử trong đoàn, là đã gia
nhập Giám Mục Ðoàn. Giám Mục Ðoàn luôn đòi phải có Thủ Lãnh.
(2) Giám Mục
Ðoàn cũng có quyền bính tối cao và trọn vẹn trên toàn thể Giáo
Hội. Ðiều quả quyết này gây ra nhiều vấn đề thần học quan trọng,
vì như chúng ta biết, Giáo Hoàng cũng có đặc quyền ấy. Việc soạn
thảo đã cố gắng minh giải vấn đề với câu: "Hiệp nhất với Thủ
Lãnh (là Giáo Hoàng Roma), Giám Mục Ðoàn cũng có quyền bính trọn
vẹn và tối cao trên toàn thể Giáo Hội, nhưng chỉ có thể thi hành
quyền này khi có sự ưng thuận của Giáo Hoàng". Như vậy phải
chăng có hai quyền bính tối cao và trọn vẹn trong Giáo Hội? Làm
sao có thể thế được? Bản phúc trình chính thức đã trả lời: "Vấn
nạn sẽ không còn một khi lưu ý là trong Giáo Hội không phải có
hai nhưng chỉ một quyền bính mà Chúa Kitô đã trao ban cho toàn
thể Tông Ðồ Ðoàn, cho cả Phêrô lẫn các Tông Ðồ. Chúng ta cũng
nhận rằng quyền bính ấy thuộc về một mình Giáo Hoàng, và được
thực thi trên các Giám Mục chỉ có trong thường năng; muốn có
trong hiện năng phải tùy thuộc vào Giáo Hoàng. Như vậy, Giám Mục
Ðoàn không hạn chế quyền tối cao của Giáo Hoàng; nhưng chỉ thừa
nhận và chuẩn y cho chức vị Giám Mục theo tư tưởng của Giáo Hội
sơ khai: được phong chức Giám Mục là được tham dự thường năng
vào quyền hành Chúa Kitô, để khi được Giáo Hoàng mời gọi, các
Giám Mục có thể thực thi quyền hành đó ở hiện năng trong cả Giáo
Hội.
Ðể lưu ý đến
những dự liệu này và những dự liệu của chú thích sơ khởi, chúng
ta nên phân biệt:
- Quyền hành
(để điều khiển Giáo Hội) nơi Giám Mục Ðoàn hiệp thông với Giáo
Hoàng, là một vị trong đoàn với tư cách thủ lãnh.
- Sự thực thi
(tối cao, trên toàn thể Giáo Hội) quyền hành đó đòi phải được
Giáo Hoàng mời gọi, đòi phải hiệp thông hữu hiệu với Ngài hoặc
ít nhất không chống lại Ngài.
- Sự chỉ định
pháp lý (theo giáo luật), theo đó Giáo Hoàng trao phó cho một
Giám Mục một lãnh thổ hay một nhiệm vụ và ban quyền tham dự vào
trách nhiệm tập đoàn trên toàn thể Giáo Hội.
(3) Trong thực
tại Giám Mục Ðoàn và trong sự thực thi quyền hành tập đoàn, toàn
thể hàng giáo phẩm phải phục vụ cho việc hiệp nhất Dân Chúa.
Giáo Hoàng là người gìn giữ việc hiệp nhất đó cả trên bình diện
cơ cấu lẫn bình diện pháp lý và cai trị. Với các Giám Mục, thì
Giám Mục Ðoàn chính là dấu hiệu của việc hiệp nhất này trong
Giáo Hội, được đảm bảo qua sự hiệp thông tập đoàn và qua những
mối tương giao huynh đệ trong hàng Giám Mục.
(4) Sự thực thi
quyền Giám Mục Ðoàn: quyền hành tối cao của Giám Mục Ðoàn được
thực thi bằng hai cách: trong Công Ðồng Chung do Giáo Hoàng
triệu tập (hoặc ít nhất được Ngài chấp thuận); ngoài Công Ðồng,
do các Giám Mục rải rác khắp hoàn cầu khi được Giáo Hoàng mời
gọi thực thi một việc có tính cách tập đoàn.
30 Xem CÐ Vat. I, Hiến chế
tín lý Pastor aeternus: Dz 1821 (3050t).
31 Xem T. Cyprianô, Epist.
66, 8: Hartel III, 2, trg 733: "Giám Mục trong Giáo Hội và Giáo
Hội trong Giám Mục".
32 Xem T. Cypianô, Epist.
55, 24: Hartel, trg 642, hàng 13: "Una Ecclesia per totum mundum
in multa membra divisa". Epist. 36,4: Hartel, trg 575, hàng
20-21.
33 Xem Piô XII, Tđ. Fidei
Donum, 21-4-1957: AAS 49 (1957), trg 237.
34 Xem T. Hilariô Pict., In
Ps. 14,3: PL 9, 206: CSEL 22, trg 86. T. Gregoriô Cả, Moral. IV,
7,12: PL 75, 643 C. Basiliô Cả, In Is. 15, 296: PG 30,637C.
35 T. Coelestinô, Epist. 18,
1-2, gửi đến Công Ðồng Eph.: PL 50, 505AB; Schwartz, Acta Conc.
Oec. I, 1,1, trg 22. Xem Benedictô XV, Tông thư Maximum illud:
AAS 11 (1919), trg 440. Piô XI, Tđ. Rerum Eccl., 28-2-1926: AAS
18 (1926), trg 69. Piô XII, Tđ. Fidei Donum, n.v.t.
36 Leô XIII, Tđ. Grande
munus, 30-9-1880: AAS 13 (1880), trg 145. - Xem CIC, kh. 1327,
kh. 1350 đoạn 2.
37 Về những quyền của các
Tòa giáo chủ, xem CÐ Nicea đ. th. 6 về Alexandria và Antiochia,
và đ. th. 7 về Giêrusalem: Conc. Oec. Decr., trg 8. CÐ Lateranô
IV, năm 1215, Hiến chế V: De dignitate Patriarcharum: n.v.t.,
trg 212. CÐ Ferr. - Flor.: n.v.t., trg 504.
31* Số 23: Trên bình diện
liên lạc chiều ngang giữa các Giám Mục, sự thực thi quyền Giám
Mục Ðoàn thường được khai triển dưới ba hình thức:
- Giám Mục là
dấu hiệu và khí cụ hiệp nhất trong Giáo Hội địa phương (x. sắc
lệnh về nhiệm vụ mục vụ của Giám Mục, số 6). Từ đó Giám Mục quan
tâm đến trách vụ của toàn thể Giáo Hội.
- Trách nhiệm
tập đoàn về việc loan báo Phúc Âm cho cả thế giới: bởi vậy phải
hỗ trợ các Giáo Hội tại miền truyền giáo và các Giáo Hội ít được
nâng đỡ (x. sắc lệnh về hoạt động Truyền Giáo, số 20).
- Ý nghĩa và
giá trị các Giáo Hội có tòa thượng phụ ở Ðông Phương và các Giáo
Hội khác phát sinh ra từ đó. Phải tôn trọng các Giáo Hội này vì
có truyền thống và kỷ luật riêng.
Số 23 kết thúc
bằng vài dòng vắn tắt nói về Hội Ðồng Giám Mục qui tụ các Giám
Mục trong một lãnh thổ hay trong một quốc gia.
32* Tiểu mục 3: thừa tác vụ
Giám Mục và những quyền năng (các số 24-27).
38 Xem CIC cho Giáo Hội Ðông
Phương, các kh. 216-314: về các Giáo Chủ; các kh. 324-339: về
các Ðại Tổng Giám Mục; các kh. 362-391: về các vị chức sắc khác;
đặc biệt các kh. 238, đoạn 3; 216; 240; 251; 255: về các Giám
Mục được các Giáo Chủ đặt lên.
33* Số 24: Nói về thừa tác
vụ Giám Mục, tiếp tục cho số 20. Ở đây không bàn về chức vị hay
quyền bính, nhưng về thừa tác vụ Giám Mục. Công Ðồng nhấn mạnh
tới đặc tính phục vụ của những người được Chúa kêu gọi cai trị
Dân Chúa, theo kiểu nói của Thánh Kinh (x. Mt 20, 24-28; Gio
13,1-17). Giám Mục là người phục vụ cho phần dân được trao phó,
và phục vụ cho toàn thế giới. Ngài phải nỗ lực rao giảng và làm
cho Phúc Âm sống động, và nếu cần, phải hiến mạng sống cho đoàn
chiên. Muốn được thế, các Giám Mục nhận lấy sức mạnh của Chúa
Thánh Thần, Ðấng thánh hiến các Ngài để phục vụ. Công Ðồng còn
thêm một đoạn nữa bàn đến sứ mệnh theo giáo luật, nghĩa là Giám
Mục được quyền cấp trên chỉ định đặc trách một lãnh thổ hay một
số dân nhất định. Có ba cách thức chỉ định được coi là có hiệu
lực: tập tục chưa bị đoạn tiêu, luật lệ được Tòa Thánh ban hành
hay thừa nhận, do chính Giáo Hoàng chỉ định. Với hai cách đầu
tiên, phải có sự chấp thuận minh nhiên hay mặc nhiên của Tòa
Thánh, nếu không sẽ bất thành sự.
Ba số kế tiếp
đề cập đến quyền năng Giám Mục (các số 25-27). Nhiều nhà thần
học phân biệt thành hai quyền năng phẩm trật: quyền theo chức vị
và quyền theo sứ mệnh. Công Ðồng trái lại đã chọn kiểu nói ba
quyền năng: giảng dạy, thánh hóa và cai trị Dân Chúa, và cho như
vậy là tiện lợi hơn, vì cách phân chia này cho phép mô tả các
quyền năng, và nếu cần, minh xác các quyền năng đó. Có lẽ còn lý
do nữa là liên kết quyền năng của giáo phẩm với ba nhiệm vụ của
Chúa Kitô (được nhắc tới trong các số 34-36): nhiệm vụ tư tế,
tiên tri và vương giả.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SANG
|
VRNs
(11.12.2011) –
Ninh Bình – Suy niệm Lời Chúa của Đức tổng giám mục
Giuse Ngô Quang Kiệt về Chúa nhật III Mùa Vọng, năm B
[Is 61,1-2a.10-11; 1 Tx 5,16-24; Ga 1,6-8.19-28]
Trên đời có nhiều thứ ánh sáng: ánh sáng vật lý, ánh
sáng văn hoá, ánh sáng khoa học, ánh sáng tâm linh.
Để nhìn ra ánh sáng, cần có một khả năng nào đó. Để
thấy ánh sáng vật lý, chỉ cần có đôi mắt bình
thường. Nhưng để nhìn thấy ánh sáng khoa học, phải
có một số vốn kiến thức cần thiết. Để thấy ánh sáng
văn hoá, cần được khai tâm mở trí. Và để thấy được
ánh sáng tâm linh, cần có các chứng nhân chiếu dọi.
Thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta là chứng nhân của Đức
Ki-tô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Ki-tô bằng
chính cuộc đời trong sáng của ngài. Nhìn vào cuộc
đời ngài, ta thấy toả ra các làn ánh sáng sau đây:
Làn ánh sáng thứ nhất
mà ta thấy nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng
của sự khiêm nhường.
Ngài khước từ mọi vinh quang người ta phủ quanh
ngài. Ngài thành thực nhận mình không phải là Đấng
Cứu Thế toàn dân mong chờ, không phải là Ê-li-a vĩ
đại, cũng không phải là một tiên tri cao cả. Ngài tự
nhận mình chỉ là một “tiếng kêu trong sa mạc”. Ngài
khiêm nhường nói rằng ngài không xứng đáng xách giày
cho Đẫng Cứu Thế. Thật là khiêm nhường tự hạ. Đức
khiêm nhường ấy chiếu lên dung mạo ngài một làn ánh
sáng. ánh sáng ấy khiến cho lời chứng của ngài càng
có sức thuyết phục. ánh sáng ấy phản chiếu dung mạo
đích thực của Đấng Cứu Thế, Đấng tuyệt đối khiêm
nhường.
Làn ánh sáng thứ hai
ta thấy nơi cuộc đời của thánh nhân là làn ánh sáng
của sự khổ hạnh.
Phần lớn đời ngài ẩn dật trong sa mạc. Sống trong sa
mạc đồng nghĩa với sống khổ hạnh. Ngoài sự khắc
nghiệt của thời tiết, sự hoang vu cô tịch, sự đe doạ
của thú dữ, thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta còn tự nguyện
sống khó nghèo, đơn sơ, đạm bạc. Y phục của ngài chỉ
là mảnh da thú quấn quanh thân thể. Thức ăn của ngài
là châu chấu và mật ong rừng. Sự khổ hạnh không chỉ
loé sáng lên một ý chí mạnh mẽ biết vượt thắng chính
bản thân mình, mà còn chiếu ánh sáng hy vọng vào
tương lai. Người lệ thuộc vào vật chất là người bị
trói buộc trong hiện tại. Người khổ hạnh là người
đặt niểm hy vọng ở tương lai. Niềm hy vọng ấy chiếu
sáng vào cuộc đời hiện tại vì làm cho cuộc sống có
một ý nghĩa cao đẹp và sâu xa. Tương lai tươi sáng
mà thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta chờ đón chính là Đức
Giê-su Ki-tô mà ngài loan báo.
Làn ánh sáng thứ ba
nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự trung
thực.
Trung thực trong những lời nói về chính mình, nên
ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng
lầm Ngài có. Ngài chỉ nhận những sự thực rất khiêm
nhường, rất bé nhỏ của mình. Trung thực với lòng
mình, nên ngài sống một cuộc sống khổ hạnh, không
phô trương, không giả dối. Trung thực trong những
phán đoán về người khác, nên ngài đã thẳng thắn
khuyên vua Hê-rô-đê không đựơc phép lấy chị dâu.
Chính sự trung thực này đã phải trả giá bằng cái
chết chẳng toàn thây. Nhưng sự trung thực ấy đã làm
sáng lên cuộc đời chứng nhân. Làn ánh sáng ấy cho ta
thoáng thấy ánh sáng đích thực của Đấng là Sự Thật,
là chính Đức Giê-su Ki-tô.
Làn ánh sáng thứ tư
nơi cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự quên
mình.
Biết mình chỉ là người đưa tin, thánh nhân luôn xoá
mình đi, để cho Đấng là chính Tin Mừng được nổi bật.
Biết mình chỉ là người mở đường, thánh nhân luôn tự
hạ để cho Đấng là Đường được mọi người nhận biết.
Làm chứng cho sự thật, thánh nhân đã tự nguyện hy
sinh để cho Đấng là Sự Thật được trân trọng. Khi mọi
người tuốn đến với Ngài, Ngài đã không giữ lại cho
mình, nhưng đã giới thiệu họ đến với Đức Giê-su, nên
ngài nói: “Người đến sau tôi, nhưng tôi không đáng
cởi dây giầy cho Người” (Ga 1,27). Nhiều môn đệ đã
theo Ngài, nhưng Ngài giới thiệu để họ theo làm môn
đệ Đức Giê-su. Khi thấy đám đông đã bỏ ngài để đi
theo Đức Giê-su, ngài hài lòng vì thấy nhiệm vụ đã
hoàn tất, nên ngài nói: “Chúa phải nổi bật lên, còn
tôi phải lu mờ đi”(Ga 3, 30).
Thánh Gioan Baotixita thật là một chứng nhân tuyệt
hảo. Ngài đã biết tự hạ mình xuống để Chúa được nổi
bật lên. Ngài đã biết ẩn mình trong bóng tối để Chúa
được xuất hiện trong ánh sáng. Ngài đã biết tự huỷ
mình đi để Chúa được nhận biết. Ngài đúng là người
đi mở đường cho Chúa. Ngài thực là chứng nhân của
ánh sáng.
Mùa Vọng này, mọi người đang chờ đón Chúa đến. Chúa
muốn tôi hãy đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn tôi làm
chứng cho Chúa. Chúa muốn tôi giới thiệu Chúa cho
anh em. Nhưng rất nhiều khi, thay vì mở đường cho
Chúa, tôi chỉ lo mở đường cho tôi. Rất nhiều khi
thay vì làm chứng cho Chúa, tôi chỉ lo làm chứng cho
tôi. Rất nhiều khi thay vì giới thiệu Chúa, tôi chỉ
giới thiệu bản thân mình.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi hãy soi mình vào tấm gương
của thánh Gio-an Bao-ti-xi-ta để biết cách dọn đường
cho Chúa ngự đến. Xin thánh Gio-an Baotixita giúp
chúng con sống trong sáng để trở nên chứng nhân của
ánh sáng.
ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Lá Thư Ngỏ Của Ba Giám Mục Việt Nam Hải Ngoại Gởi Các Linh
Mục, Tu Sĩ, Và Cộng Đoàn Dân Chúa Tại Hải Ngoại |
Kính thưa
qúy Đức Ông, Linh Mục, Tu Sĩ và anh chị em tín hữu,
Trong tuần
vừa qua từ ngày 28 tháng 11 đến ngày 2 tháng 12, ba anh em chúng
tôi là Dominic Mai Thanh Lương, Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận
Orange, Hoa Kỳ, Vincent Nguyễn Mạnh Hiếu, Giám Mục Phụ Tá Tổng
Giáo Phận Toronto, Canada và Vincent Nguyễn Văn Long, Giám Mục
Phụ Tá Tổng Giáo Phận Melbourne, Australia, đã có dịp gặp gỡ và
chia sẻ những kinh nghiệm mục vụ cũng như những thao thức của
các Cộng Đồng Dân Chúa nơi chúng tôi đang sống và làm việc.
Chúng tôi cũng có dịp lắng nghe những quan tâm, ưu tư của các
linh mục, tu sĩ và giáo dân qua những cuộc đối thoại trong tinh
thần đoàn kết và xây dựng. Mặc dù đây chỉ là buổi gặp gỡ hữu
nghị, chúng tôi nhận thấy cũng cần chia sẻ với anh chị em một số
điều như sau:
1. Chúng tôi
chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa đã thương dìu dắt khối
người Việt Công Giáo hải ngoại. Sau những năm tháng nhiều đau
thương, vất vả và khốn khổ, chúng ta đã ổn định và trở thành một
trong những phần tử năng động nhất trong các Giáo Hội địa
phưong, nơi chúng ta sinh sống. Lực lượng các linh mục, tu sĩ,
giáo dân đông đảo và nhất là đời sống đạo nhiệt thành đã làm
rạng rỡ cho truyền thống và di sản đức tin mà các Thánh Tử Đạo
Việt Nam đã đổ máu đào minh chứng.
2. Chúng tôi
cũng cảm tạ Thiên Chúa vì tấm gương trung kiên anh dũng của Đức
Cố Hồng Y Phanxico Xavie Nguyễn Văn Thuận. Quá trình phong thánh
đã được xúc tiến cho vị “Tôi Tớ Chúa” này với nhiều cuộc lắng
nghe các nhân chứng ở nhiều nơi trên thế giới. Chúng tôi kêu gọi
anh chị em tiếp tục cầu nguyện và hợp tác khi có thể, ngõ hầu
Ngài sớm được tôn phong vào hàng hiển thánh, làm vinh danh Giáo
Hội và dân tộc Việt Nam.
3. Chúng tôi
cảm thấy cần phát huy tinh thần đoàn kết và liên đới trong các
thành phần Dân Chúa, hầu tạo sức mạnh và hữu hiệu hóa các sinh
hoạt của chúng ta từ trong các giáo đoàn đến giáo phận, quốc gia
và quốc tế. Chúng tôi rất hoan nghênh và khuyến khích các sinh
hoạt nhằm tạo tình liên đới, giúp nhau thăng tiến trong công
việc mục vụ và sống đạo.
4. Chúng tôi
cũng nhận thấy cần đáp ứng với các nhu cầu mới trong hoàn cảnh
mục vụ mới: các anh em linh mục tu sĩ thế hệ trẻ, giới trẻ thuộc
thế hệ thứ hai và thứ ba tại hải ngoại, các cháu thiếu nhi… Nỗi
ưu tư chung của chúng ta là làm sao duy trì gia sản đức tin và
văn hóa đặc thù Việt Nam cho các thế hệ nối tiếp trong môi
trường tục hóa đang đe dọa đến đời sống siêu nhiên của người tín
hữu.
5. Sau cùng,
chúng tôi biểu lộ sự liên đới với Giáo Hội quê mẹ Việt Nam trong
cuộc hành trình tiến về tương lai tươi sáng hơn cho Giáo Hội và
cho đất nước. Nhất là, chúng tôi đặc biệt biểu tỏ sự liên đới
với giáo xứ Thái Hà hiện đang chịu nhiều thử thách trong khi đòi
hỏi những điều chính đáng. Chúng tôi kêu gọi nhà cầm quyền hãy
tôn trọng tự do tôn giáo và nhân quyền, để người dân được sống
đúng với nhân phẩm theo hiến chư ơng của Liên Hiệp Quốc và có đủ
điều kiện để phát huy một đất nước thật sự tự do, độc lập và
thịnh vượng.
Chúng tôi cảm
tạ Thiên Chúa đã quan phòng cho chúng tôi có cơ hội gặp gỡ, chia
sẻ và lắng nghe. Chúng tôi cũng nhận ra sự hạn hẹp trong cuộc
gặp gỡ lần đầu tiên này trước nhiều kỳ vọng của nhiều tổ chức,
đoàn thể cũng như cá nhân trong khối người Việt Công Giáo hải
ngoại. Ước mong của chúng tôi là tiếp tục lắng nghe và cầu
nguyen để dưới sự linh ứng của Chúa Thánh Thần, chúng tôi sẽ
phục vụ anh chị em một cách hữu hiệu hơn và mang lại nhiều lợi
ích cho Giáo Hội.
Trong Chúa
Giêsu Kitô,
Các
Đức Cha đồng ký tên
+
Dominic Mai Thanh Lương
+
Vincent Nguyễn Mạnh Hiếu
+
Vincent Nguyễn Văn Long
Viết tại
Trung Tâm Mục Vụ Việt Nam
Orange
County, ngày 2 tháng 12 năm 2011 |
VỀ MỤC LỤC |
|
SUY NIỆM MÙA VỌNG VÀ GIÁNG SINH
|
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD
Lễ Giáng Sinh sắp tới, mọi người nói
về Chúa hài đồng và Mẹ Maria nơi máng cỏ ở Bethlehem. Đó là nhắc
lại một lịch sử và khởi điểm ơn cứu độ loài người của Chúa
Kitô.
Để đào sâu ý nghĩa Đức Mẹ cưu mang
Chúa Giêsu và hạ sinh ra Người làm đấng cứu chuộc nhân loại,
chúng ta thử tìm hiểu Chúa Giêsu Kito là ai với màu nhiệm nhập
thể của Chúa qua hai thánh Phaolo và Gioan.
Mùa Vọng là mùa chúng ta sửa soạn tâm
hồn để đón nhận Chúa Cứu Thế đến với chúng ta.. Mọi người quyết
noi gương Đức mẹ và Chúa Giêsu, sống làm sao để ơn phúc và gương
đức của các ngài được chiếu sáng lan tỏa trong mọi môi trường,
nơi những người anh em huynh đệ và tất cả mọi người, nhất là
những người không phải là Kitô hữu.
CHÚA GIÊSU KITÔ
LÀ AI?
MÀU NHIỆM NHẬP
THỂ THEO THÁNH PHAOLO VÀ GIOAN
Chúng ta thử đọc đoạn thư thánh
Phaolo gửi tín hữu Galát: “…Khi nghĩa tử (người
thừa kế) chưa đến tuổi thì nó không khác gì một tên nô lệ, mặc
dù nó vẫn làm chủ tất cả mọi của cải, nhưng ở dưới sự coi sóc
của người giám hộ và viên quản lý cho đến khi đủ tuổi do người
cha định đoạt. Chúng ta cũng vậy, khi chúng ta còn vị thành
niên, chúng ta bị nô lệ bởi những yếu tố quyền lực của vũ trụ.
Nhưng khi thời gian đến hồi viên mãn, Thiên Chúa sai Con mình
đến, sinh ra bởi một người đàn bà và sống dưới lề luật, để chuộc
những ai sống dưới lề luật, hầu chúng ta có thể được ơn nhận làm
nghĩa tử. Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai
Thần Khí của con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên
“Áp-ba, Cha ơi!”. Thế là anh em không còn là nô lệ nữa, nhưng là
con. Và đã là con thì cũng là người thừa kế nhờ Thiên Chúa”
(Galatians 4: 4-7)
Đoạn văn trên có ý nghĩa gì?
Chúng ta thường nghe đoạn thánh thư
này trong Mùa Giáng sinh, khi bắt đầu sắp sửa long trọng mừng
Chúa ra đời. Cứ theo mạch văn, thì đây là lúc chúng ta tiến đến
gần nhất tư tưởng hằng hữu / hiện hữu từ trước (preexistence) và
nhập thể (incarnation) của Thiên Chúa. Ý nghĩa tiếng “sai đến”
(Thiên Chúa sai con mình đến), được
đặt song song tương ứng với tiếng “sai Thần Khí của con mình
đến” ở câu kế tiếp. Trong Cựu ước sách Khôn Ngoan ta cũng thấy
một điệp khúc tương đồng như vậy: “Thiên Chúa sai đấng Khôn
Ngoan và Thánh Thần đến thế gian” (Wisdom 9: 10,17). Sự phối
hợp liên hoàn này giữa cựu ước và tân ước cho ta thấy tiếng
“sai đến” có ý nghĩa không phải từ “dưới đất” như trường hợp
sai các tiên tri, mà là từ “trên trời” xuống…
Tư tưởng về Chúa Kito hằng hữu,
theo mạch văn trong thư thánh Phaolo thì Chúa Kito là đấng tạo
dựng nên trời đất. “…nhưng đối với chúng ta, chỉ có một Thiên
Chúa là Cha, đấng tạo thành vạn vật và là cùng đích của chúng
ta; và cũng chỉ có một Chúa là Đức Giêsu Kitô, nhờ Người mà vạn
vật được tạo thành, và nhờ Người mà chúng ta được hiện hữu”(1Corinthians
8:6) hoặc: “..Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, là
trưởng tử sinh ra trước mọi loài thụ tạo, vì trong Người muôn
vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô
hình. Dầu là hàng dũng lực thần tiên hay là bậc quyền năng
thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho
Người” (Colossians 1:15-16) Và khi thánh Phaolo nói
rằng “tảng đá đi theo dân trong sa mạc thì ngài có ý nói tảng đá
là Chúa Kito: “ …tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng,
vì họ uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng ấy vẫn đi theo
họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô” (1Corinthians 10:4).
Còn về màu nhiệm nhập thể thì được nêu lên trong bài thánh thư
gửi tín hữu Philiphê. “Đức Gêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà
không nghĩ nhất thiết phải duy trì địa vị ngang hàng với Thiên
Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy
thân nô lệ trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế”
(Philippians 2: 6-7).
Bản văn thì viết như vậy, nhưng chúng
ta cũng nhận thấy rằng theo thánh Phaolo, tính hằng hữu và màu
nhiệm nhập thể tuy là sự thật, nhưng vẫn còn đang được cưu mang,
chưa hoàn toàn hiện hình. Lý do: Đối với thánh Phaolo, điểm quan
trọng và là khởi điểm của hết mọi sự là màu nhiệm Chúa Phục
Sinh; nghĩa là thánh Phaolo coi việc làm / hành động của
đấng cứu thế đặc biệt hơn là con người đấng cứu thế. Ngược lại
với thánh Phaolo, thánh Gioan lấy khởi điểm và trọng tâm của vấn
đề là tính hằng hữu và nhập thể của con Thiên Chúa.
Như vậy rõ ràng chúng ta thấy có hai
cách để khám phá ra Chúa Giêsu Kito là ai. Một đằng theo thánh
Phaolo, ngài bắt đầu từ loài người vươn tới Thiên Chúa, nghĩa là
từ thân xác thực đi đến thần linh Chúa, từ Chúa Kitô lịch sử đi
tới sự hằng hữu của Người. Đằng khác, cách của thánh Gioan thì
ngược lại, khởi đầu từ “Ngôi Lời” Thiên Chúa đi tới xác định bản
tính người của Ngài, nghĩa là từ tính hằng hữu (tức Thiên Chúa)
đi tới sự hiện hữu của con người Thiên Chúa trong không gian và
thời gian, tức Chúa Kitô lịch sử.
Thánh Phaolo chứng minh Chúa Kito
bằng sự Chúa Phục Sinh khải hoàn qua hai giai đoạn: Loài người
chịu chết và Thiên Chúa phục sinh. Thánh Gioan
nhìn Chúa Kito qua màu nhiệm nhập thể.
Hai phương cách này cuối cùng đã làm
nảy sinh ra hai trường phái Kito học. Phái Antiochene ảnh hưởng
bởi thánh Phaolo và phái Alexandria ảnh hưởng bởi thánh Gioan.
Nhưng không có phái nào đứng trung dung ở giữa. Trái lại mỗi
phái đều dùng luận lý của cả hai thánh Phaolo và Gioan. Điều này
chứng tỏ là họ đã chịu ảnh hưởng của cả hai thánh nhân, giống
như hai giòng sông phối hợp với nhau thành một để rồi không còn
có thể phân biệt, xác định được nước của giòng sông nào nữa.
Sự khác biệt này đáng cho chúng ta
suy nghĩ, chẳng hạn như hai phái đã cắt nghĩa khác nhau về sự hạ
mình làm người của Chúa Giêsu ở đoạn 2: 6-9 của thư thánh Phaolo
gửi tín hữu Philippians. Từ thế kỷ I và II, và ngay cả hiện nay,
hai cách trình bày và đọc sách thánh khác nhau đó vẫn có thể
được chấp nhận. Theo phái Alexandria, đề mục khởi đầu của bài ca
thánh thư là Con Thiên Chúa hằng hữu hiện diện dưới hình thức
Thiên Chúa. Nghĩa là sự hạ mình xuống thế làm người của
Chúa bao hàm trong màu nhiệm nhập thể để trở thành
phàm nhân. Theo phái Antiochene, đề mục duy nhất của bài
thánh ca, từ đầu cho đến cuối, là Chúa Kito lịch sử,
Giêsu thành Nazareth. Nghĩa là Chúa tự hạ mình xuống thế làm
người để trở thành nô lệ và tự mình chịu khổ hình và chịu
chết.
Thực ra sự khác biệt giữa hai trường
phái không phải ở chỗ phái này theo thánh Phaolo, phái kia theo
thánh Gioan, mà là nhóm này cắt nghĩa ý tưởng của thánh Gioan
theo cách suy tư của thánh Phaolo, nhóm kia cắt nghĩa tư tưởng
của thánh Phaolo theo suy nghĩ của thánh Gioan.. Có chăng sự
khác biệt giữa hai phái là họ đã dùng những chi tiết và cấu trúc
luận lý khác nhau để làm sáng tỏ màu nhiệm Chúa Kito. Chúng ta
có thể nói rằng những nét chính về tín điều của Giáo Hội cũng
như khoa thần học đã được tạo thành từ những tranh luận của hai
trường phái này mà cho đến nay vẫn còn ảnh hưởng.
ĐƯỢC SINH RA BỞI
MỘT NGƯỜI ĐÀN BÀ TUYỆT VỜI.
Dù sao thì cả hai thánh Phaolo và
Gioan đều công nhận màu nhiệm nhập thể của Chúa Kitô. Nhưng
thánh Phaolo rất ít nói tới màu nhiệm nhập thể, còn về Đức
Maria, Mẹ Ngôi Lời nhập thể, thì ngài lại hoàn toàn im lặng.
Nhưng khi ngài nói “con người kiệt tác được sinh ra bởi một
người đàn bà (factus sub muliere) thì rõ ràng người đàn bà đó là
Đức Maria. Cũng như trong thư gửi dân Roma, cùng tư tưởng đó
nhưng đựoc diễn tả một cách khác: “….Xét như một người phàm,
Đức Giêsu Kitô xuất thân từ dòng dõi vua David” (Romans 1:
3).
Tuy ngắn gọn như vậy, nhưng cách
tuyên xưng của thánh Phaolo rất quan trọng. Nó là một trong
những đề mục nòng cốt của cuộc tranh luận chống lại nguyên tắc
ngộ đạo của thuyết vô nhân tính
về Đức Kito từ thế kỷ II. Thực ra, chúa Giêsu không phải từ
thiên đàng hiện xuống; mà Chúa được sinh ra bởi một người đàn
bà. Chúa hoàn toàn mặc lấy xác của một con người lịch sử.“giống
như mọi người phàm nhân” (Philippians 2: 7).
Về vấn đề này, Terbullian đã đặt vấn
đề: “ Tại sao chúng ta nói rằng Chúa Kitô là người, nếu không
phải vì Chúa sinh ra bởi bà Maria là con người thụ tạo?”.
Một tư tưởng nữa là vì “Chúa Kitô sinh ra do một người đàn
bà”. Cách nói này diễn tả nhân tính của Chúa Kitô hay
hơn là cách nói “Ngài là con của một người đàn ông”.
Nếu hiểu theo nghĩa đen câu nói này thì Chúa Giêsu đâu phải là
con một người đàn ông, bởi lẽ không có người đàn ông nào là cha
Ngài cả, mà Ngài thực sự là “con một người đàn bà”.
Bài thánh thư Phaolo gửi tín hữu
Galat cũng là trung tâm điểm của cuộc bàn cãi về tước hiệu Đức
Maria là “Mẹ Thiên Chúa” trong các cuộc tranh luận sau này liên
quan đến Kitô học. Vì lý do đó mà thư thánh Phaolo gửi tín hữu
Galat được chọn làm bài đọc II trong lễ kính Đức trinh Nữ Maria,
Mẹ Thiên Chúa vào ngày 1 tháng giêng hàng năm.
Còn một chi tiết nữa chúng ta cần
phải để ý. Giả sử thánh Phaolo nói: “Chúa Giêsu sinh ra ‘do
bà Maria’” thì cách nói này chỉ đơn giản nhắc đến một sử
liệu có tính tiểu sử. Nhưng thánh Phaolo đã nói: “Đức Kitô sinh
ra do ‘một người đàn bà’” thì tiếng “người đàn bà” có một
nghĩa rất rộng và phổ quát. Và người đàn bà này hay bất cứ người
đàn bà nào đã được nâng lên địa vị cao vời tột đỉnh của Đức
Maria rồi. Chính Maria này là một người đàn bà tuyệt vời.
ĐỨC MARIA CÓ Ý
NGHĨA GÌ ĐỐI VỚI CHÚNG TA?
Đọc bài thánh thư của thánh Phaolo
khi Giáng Sinh gần kề, chúng ta không thể chỉ để ý đến những lời
chú thích nói về những sự kiện, nhưng phải cẩn trọng suy niệm
nghiêm túc ý nghĩa thần học chất chứa trong đó hầu rút ra một
bài học làm kim chỉ nam cho đời sống thiêng liêng của chúng ta,
làm sao để Lời Chúa được chiếu tỏa và sống động nơi mỗi người
chúng ta.
Lời Origen nói, cũng được thánh
Augustin, thánh Bernard, thày dòng Luther và nhiều người khác
nhắc tới, rất đáng cho ta để ý: “Tôi nghĩ gì khi mà Chúa Kito
lại một lần nữa được sinh ra ở Bethlehem bởi bà Maria nhưng niềm
tin lại không được phát sinh ra trong tâm hồn tôi?”
.
Đức Maria Mẹ Thiên Chúa được thể hiện
dưới hai thình thức: thể chất và tinh thần. Ngài là Mẹ Thiên
Chúa không phải chỉ vì đã cưu mang Chúa trong bụng 9 tháng 10
ngày mà trước tiên còn vì Mẹ đã chấp nhận ấp ủ Chúa trong trái
tim mẹ với một niềm tin sắt son. Khi sứ thần Chúa đến với Đức
Maria và báo tin bà sẽ mang thai và sinh một con trai tên là
Giêsu, là đấng Cao Cả, là Thiên Chúa thì bà rất bối rối vì bà
không hề biết đến việc vợ chồng. Nhưng khi nghe sứ thần xác định
là quyền năng đấng tối cao, Thánh Thần Chúa sẽ ngự xuống trên
bà. thì Maria hoàn toàn tin tưởng và trả lời:“XinVâng”
(Luke1:28-38). Hai tiếng Xin Vâng chứng tỏ một Niềm Tin tuyệt
đối của Mẹ Maria nơi Thiên Chúa. Dĩ nhiên chúng ta không thể bắt
chước Đức Mẹ tái sinh ra Chúa lần nữa, nhưng ta có thể noi theo
niềm tin sắt son đó của Đức Mẹ.
Chúa Giêsu đã là người đầu tiên đặt
cho Giáo Hội tước hiệu là “Mẹ Chúa Kitô” khi Ngài nói: “Mẹ
ta, anh em ta chính là những người biết nghe lời Thiên Chúa và
đem ra thực hành”. (Luke 8: 21; Mark 3: 35; Matthew 12: 50).
Theo truyền thống, thực tế này đã được áp dụng theo hai phương
cách: mục vụ và tu đức. Trong tinh thần mục vụ, chúng ta thấy
Giáo Hội đã áp dụng tình Mẫu tử của mình bằng cách ban phép “bí
tích phổ quát của ơn cứu độ” thật nhiều, càng nhiều càng
tốt.. Vế tu đức thì tất cả mọi người, từng mỗi cá nhân, mỗi tâm
hồn hay những ai thành tâm tin cậy nơi Chúa đều có lòng sốt sáng
được Chúa yêu thương che chở.
Thánh Isaac of Stella, một nhà thần
học thời Trung Cổ đã làm một tổng hợp tất cả những yếu tố đó
trong một bài giảng huấn nổi danh. Ngài viết: “ Đức Maria và
Giáo Hội là một người Mẹ hơn một người mẹ, là một Trinh Nữ hơn
một trinh nữ….Do đó những điều được nói trong Kinh Thánh, những
điều được nói về Giáo Hội phổ quát, về đức Trinh Nữ, về Thánh
Mẫu thì cũng được nói về chính cá nhân Đức Maria. Và những điều
đặc biệt nói về Đức Maria thì phải hiểu một cách tổng quát là
“Đức Nữ Đồng Trinh Mẹ Giáo Hội”…..Cuối cùng, tất cả những ai có
lòng tin nơi Chúa đều là bạn trăm năm của Lời Chúa, là mẹ, là ái
nữ và chị em của Chúa Kitô. Tất cả những tâm hồn, những ai tin
tưởng nơi Chúa, hiểu theo đúng nghĩa của nó, đều là trinh nữ và
đầy ẩn sủng.”
Công đồng Vatican II trong viễn kiến
đầu tiên đã nói: “Giáo Hội….chính mình đã trở thành hiền mẫu.
Nhờ việc rao giảng và ban phép bí tích thánh tẩy, Giáo Hội đã
mang lại một đời sống mới bất tử cho con cái mình là kẻ được cưu
mang bởi Chúa Thánh Thần và được Chúa sinh ra”
.
Để áp dụng cho từng cá nhân, thánh
Ambrose đã viết: “Những ai tin vào Chúa thì sẽ cưu
mang lời Chúa trong lòng và phát khởi, truyền bá ra ngoài trong
cuộc sống hàng ngày….Nếu chỉ có một người là Mẹ Chúa Kitô theo
nghĩa xác thịt thì tất cả mọi người, theo nghĩa đức tin, có thể
phát sinh ra Chúa Kito khi mà họ chấp nhận lời Chúa hằng sống”
.
Một Giáo Phụ Đông phương đã lặp lại ý lời thánh Ambrose như
sau: “ Đức Kitô luôn luôn được sinh ra trong tâm hồn mỗi
người một cách nhiệm màu, mặc lấy xác thịt của những ai được cứu
rỗi và trở thành mẹ đồng trinh, đấng đã sinh ra Chúa Kito”.
Muốn trở thành Mẹ Chúa Giêsu một cách
cụ thể thì chúng ta phải làm gì? Hãy đọc lại Tin Mừng thánh
Luca:…Lắng nghe Lời Chúa và thực hành Lời Chúa (Luke
8:21; Mark 3:35; Matthew 12: 50). Để tìm hiểu ý nghĩa lời
thánh kinh đó, chúng ta thử nghiệm xem Đức Maria trở thành Mẹ
Thiên Chúa như thế nào. Mẹ cưu mang Chúa trong lòng và sinh ra
Chúa. Qua đó, chúng ta thấy hai dữ kiện cần để ý: Lời sách
Isaiah “Đúng như lời Chúa phán, trinh nữ sẽ thụ thai
và sẽ sinh hạ một con trai”, và lời thiên thần
Gabriel nói cùng Maria: “Ngươi sẽ thụ thai và sinh
con trai đầu lòng”.
Để có tước hiệu mẹ, người đàn bà phải
mang thai và sinh hạ hài nhi. Không hoàn chỉnh hai giai đoạn đó,
tư cách hiền mẫu bị gián đoạn hoặc bất toàn. Chúng ta thử tưởng
tượng khi người đàn bà mang thai, nhưng vì một lý do nào đó thai
bị hư (miscarriage) hoặc vì tội lỗi xui khiến không muốn sinh
con nên phá hủy thai (abortion). Đứa trẻ chết không được diễm
phúc chào đời.
Hai hiện tượng thai hư đó đã làm cho
tước hiệu Hiền Mẫu của người đàn bà có thai trở nên bất toàn.
Nhưng từ khi có kỹ thuật thụ thai nhân tạo lại nảy ra một loại
hiền mẫu đối ngược với loại hiền mẫu bất toàn trên là người đàn
bà có sinh hạ ra hài nhi nhưng không thụ thai. Đó là những hài
nhi được thụ thai trong ống nơi phòng thí nghiệm rồi đem cấy vào
tử cung người đàn bà được thuê mướn. Những đứa con này sinh ra
không phải do máu mủ của họ, vì họ không thụ thai, không do trái
tim, lòng ao ước của họ và thân xác họ.
Hai loại hiền mẫu bất toàn này chúng
ta cũng thấy xuất hiện trong đời sống thiêng liêng. Những người
nghe lời Chúa nhưng không thực hành. Những người có đời sống tâm
linh bị hư hoại nhiều lần; họ toan tính hoàn lương trở lại đường
ngay chính nhưng chỉ được nửa đường lại gẫy gánh. Họ cưu mang
Chúa nhưng không sinh hạ ra Chúa. Họ là những kẻ chỉ đọc lời
Chúa nơi cửa miệng nhưng tâm hồn rỗng tuếch, như thoáng coi hình
họ trong gương rồi ra đi mà không để ý coi mặt mũi họ thế
nào.(James 1:23). Tóm lại họ có đức tin nhưng là đức tin chết.
Nhưng trái lại, ta thấy có những
người sinh hạ ra Chúa Kito nhưng lại không cưu mang Người. Họ
sinh hoạt, làm việc đạo rất hăng say, cả những việc tốt lành
nhưng không do từ tâm, không vì tình yêu Chúa và ý ngay lành mà
chỉ vì thói quen, giả hình nhân đức, với mục đích biểu diễn phô
trương vì lợi ích riêng tư cá nhân mình…hoặc đơn giản chỉ để
thỏa mãn tự ái mà thôi. Tóm lại, họ là những kẻ hành động nhưng
không có niềm tin.
Thánh Francis thành Assisi đã tóm
lược ý nghĩa của hiền mẫu thực một cách tích cực như sau:
“Chúng ta là mẹ Chúa Kitô –ngài nói- khi chúng ta ôm ấp Người ở
trong tâm, trong lòng chúng ta, nơi thân xác chúng ta bằng một
tình yêu Chúa với một lương tâm trong sáng và chân thành. Chúng
ta phát sinh, biểu hiện ra Chúa qua những hành động thánh khả dĩ
có thể chiếu tỏa, soi sáng làm gương cho mọi người chung quanh
chúng ta…. Thánh đức và êm đềm, khiêm tốn, an bình, dễ thương và
mong ước thay khi chúng ta có một người anh em huynh đệ, một
người con như vậy là Đức Giêsu Kito”
.
Thánh nhân cũng nói cho chúng ta biết là khi chúng ta cưu mang
Chúa Kitô là khi chúng ta yêu thương Người với tất cả chân tình
và lương tâm ngay chính. Chúng ta sinh ra Chúa Kitô khi chúng ta
chu toàn những hành vi thánh khiến Chúa được chiếu tỏa ra muôn
nơi cho muôn dân. Khi người ngoài nhìn vào ta là nhìn thấy
chính Chúa Kitô trong ta.
ĐÔI LỜI KẾT:
“XIN VÂNG, FIAT, AMEN”
Mẹ Maria đã cho chúng ta một tấm
gương sáng ngời. Mẹ thụ thai / cưu mang Chúa và sinh hạ ra Chúa
cho chúng ta trong ngày Giáng Sinh. Mẹ thực sự là Hiền Mẫu toàn
vẹn. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Hai tiếng “Xin Vâng / Fiat /
Amen” đã gói gém đầy đủ ý nghĩa. Mẹ đã thực sự thụ thai
Chúa trong bụng và trong trái tim. Rồi 9 tháng 10 ngày sau, Mẹ
đã hạ sinh ra Chúa Giêsu tai Bethlehem nơi máng cỏ. Ngay từ giờ
phút đó ơn cứu độ của Chúa ban cho loài người, mỗi người chúng
ta đã bắt đầu và hoàn chỉnh khi Chúa chịu chết, phục sinh và lên
trời.
Nhưng Chúa đòi hỏi có sự cộng tác của
mỗi cá nhân chúng ta thì ơn cứu độ đó mới hoàn chỉnh đối với bản
thân chúng ta. Chúng ta phải chấp nhận lời Chúa và thực thi lời
Chúa để ơn cứu độ Chúa được vẹn toàn.
Thánh Phaolo nói: “….Thiên Chúa yêu
thương những ai vui vẻ dâng hiến” (2Corinthians 9: 7). Mẹ Maria
trả lời Chúa “Xin Vâng” với tâm hồn vui mừng hớn hở. Chúng ta
hãy cầu xin Mẹ ban ơn phúc cho chúng ta để nói một cách vui vẻ
lời hứa Xin Vâng với Chúa để canh tân đời sống, cưu mang và hạ
sinh Chúa Giêsu Kito trong mùa Giáng Sinh này và mãi mãi trong
cuộc đời chúng ta.
Fleming Island, Florida 15 Dec. 2011
NTC
Gnostic Docetism: Thuyết không chấp nhận nhân tính /
tính người của chúa Kitô dựa vào sự hiểu biết của con
người
Tertullian, “De carne Christi”, 5,6 (CC,2,p.881)
Origen, “Commentary on the Gospel of Luke”, 22, 3 (SCh,
87, p.302)
Isaac of Stella, “Sermones”, 51 (PL 194, 1863f.)
St. Ambrose, “Expositio Evangelii Secumdum Lucam”, II,
26 (CSEL 32, 4, p.55)
St.
Maximus the Confessor, “Commentary on the Our Father”,
(PG 90, 899)
St. Francis of Assisi, “Lettera ai fedeli”, 1 (Fonti
Francescane, n.178).
|
VỀ MỤC LỤC |
|
“THIÊN CHÚA SẼ TRẢ CHO ANH EM XỨNG
VỚI NHỮNG GÌ ANH EM ĐÃ LÀM”
|
Hằng năm Tỉnh Dòng chúng tôi tổ chức Tĩnh Tâm Năm chung cho anh
em Tu Sĩ trong Tỉnh Dòng, trong chương trình Tĩnh Tâm luôn có
một buổi sám hối, thường do một Linh Mục đảm nhiệm, đọc Lời
Chúa, giúp anh em xét mình, sám hối, cầu nguyện và tản ra giải
tội lẫn cho nhau...
Năm nay ban tổ chức mời cha Tiến Lộc giúp
sám hối. Tiến Lộc, một Linh Mục nhiều sáng kiến đã giúp anh em
xét mình như những cuộc xét mình khác, nhưng lại khác các cuộc
xét mình trước đây, đó là ngài chú trọng đến thứ tội NÓI XẤU
NGƯỜI KHÁC. Cha Tiến lộc bắt đầu bằng câu hỏi: “Ai dám giơ
tay lên quả quyết rằng mình không hề nói xấu người khác ?” Rồi
ngài trưng dẫn lời của Thánh nữ Marie Madeleine de Pazzi, rằng:
“Tôi sẽ xin phong Thánh ngay cho người nào trong đời chưa một
lần nói xấu kẻ khác !” Dĩ nhiên không ai dám giơ tay lên vì ai
cũng kinh nghiệm về việc nói xấu người khác, và cũng kinh nghiệm
nỗi đau khi bị người khác nói xấu.
Quả thật, nói xấu người khác là vi phạm đức
bác ái, bởi người bị nói xấu không có cơ hội bào chữa cho mình,
và thường chúng ta có ác cảm với người bị nói xấu, hoặc ít là có
cái nhìn thiếu thiện cảm về họ cho dẫu mình đã cảnh giác. Chúng
ta thường bị ảnh hưởng từ câu chuyện đầu tiên về người khác.
Là một bất công và vi phạm đức bác ái trầm
trọng hơn nữa nếu câu chuyện nói xấu đó không phải là sự thật,
hoặc là chỉ đúng một phần còn một phần do thêm thắt. Càng là bất
công hơn nếu đó lại là một câu chuyện hoàn toàn bịa đặt, dựa
trên những suy đoán thiếu nền tảng: Tôi nghe một Cha nói…, tôi
nghe một Đức Cha nói…, tôi nghe một cán bộ nói... Nhưng Cha nào,
Đức Cha nào, cán bộ nào thì lại không nói rõ !
Mức độ bất công và lỗi đức bác ái càng gia tăng trần trọng khi
người nói xấu càng có chức vụ và địa vị cao trong xã hội, vì ảnh
hưởng của người ấy rộng lớn hơn những người khác, dễ làm cho
người ta tin hơn những người khác.
Thiên Chúa nhân từ vô cùng nhưng Thiên Chúa cũng công bằng vô
cùng, Ngài sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm của chúng ta nhưng Ngài
cũng đói buộc chúng ta phải hoàn trả sự công bằng cho những ai
chúng ta xúc phạm. Bài đọc một trong Kinh Sách Lễ Thánh Phanxicô
Xaviê ( ngày 3 tháng 12 ) trích một đoạn trong thư của Thánh
Phaolô gởi ông Timôthê: “Lời tố cáo một kỳ mục, anh đừng chấp
nhận, trừ phi có hai hoặc ba nhân chứng” ( 1Tm 5, 19 ), đó là
lời răn dạy kẻ làm thầy phải thận trọng đừng vội nghe nói xấu
hoặc chính mình đừng có đi nói xấu người khác vô căn cứ.
Năm 2007, sau khi đi Đại Phúc ở Giáo Xứ
Quần Cống, Giáo Phận Bùi Chu về, cha Quang Uy có viết trên báo
Ephata giai thoại lý thú nghe được ở Quần Cống từ miệng một số
cụ già trên 80 tuổi kể lại câu chuyện đến nay đã hơn 50 năm, khi
các cha Thừa Sai DCCT dạo ấy về làm Đại Phúc ở Quần Cống.
Trong một bài giảng, cha DCCT Canada đã thuyết về tội nói xấu
người khác, rằng tội sẽ được tha ngay trong tòa Giải Tội, nhưng
việc đền tội rất thú vị và… bất khả thi ! Đó là hãy bắt một con
vịt, nhổ sạch lông, làm thịt, nấu một bữa ăn thật ngon… Đến đây
thì cả Nhà Thờ vỗ tay thích thú. Nhưng chưa hết, cha giảng cứ
nhẩn nha tiếp tục: Sau đó đừng quên một việc quan trọng là còn
phải đem phơi chỗ lông vịt ấy ra trước gió cho khô ngoài sân.
Cuối cùng, việc đền tội là hãy đi nhặt lại cho đủ số lông vịt đã
bay đi tứ tung khắp làng trên xóm dưới. Dĩ nhiên nhặt chưa đủ
thì chưa hoàn thành việc… đền tội ! Mọi người chết lặng !
Là Tu Sĩ, chúng tôi càng phải lưu ý mình hơn ai hết về tội này,
tư cách và sứ mạng không cho phép chúng tôi buông tuồng trong
việc vi phạm đức công bằng và bác ái, càng không cho phép hơn
khi chính chúng tôi được giao sứ mạng rao giảng về công bằng và
bác ái, phải nhắc nhau: không phải rao giảng bằng lời nhưng bằng
chính cuộc sống cụ thể của mình. “Ngày nay người ta không cần
thầy dạy nhưng cần chứng tá”.
Những ngày Tĩnh Tâm đã đi qua, những nóng sốt của cuộc Tĩnh Tâm
cũng rất nhanh chóng hạ nhiệt, bao nhiêu người còn giữ được
quyết tâm không nói xấu ? Bài chia sẻ này cũng là dịp nhắc nhau
về cái cố tật thâm căn cố đế của kiếp người, nó vương vấn ràng
buộc không trừ một ai. Chúng ta hãy dừng lại để tỉnh thức như
lời kêu gọi đầu Mùa Vọng, vì chỉ có “kẻ tay sạch lòng thanh, mới
được nhìn ngắm Thiên Chúa”.
Xin Chúa giữ cho tay con được sạch, lòng con được trong trắng,
để con có thể nhìn ngắm Thiên Chúa đang đến gần, rất gần với
chúng con.
Lm. VĨNH SANG, DCCT, Mùa Vọng 2011 (Ephata
486)
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NGHĨ KHÁC |
Một nhà tâm lý học
thực hiện một cuộc khảo cứu với những người lính trong trại
tập huấn như sau. Mỗi bữa ăn, nhà tâm lý đứng
phía trước bàn thức ăn tự chọn, và lần
lượt đặt câu hỏi cho từng người lính tới lấy thức ăn. “Anh không
muốn ăn quả mơ đúng không?” Với câu hỏi này, chín mươi phần trăm
có câu trả lời là “không.”
Cũng những người
lính ấy, nhưng lần khác câu hỏi được đặt là, “Anh muốn ăn quả mơ
có đúng không?” Với câu hỏi này, số người trả lời “có” chiếm hơn
năm mươi phần trăm.
Lần thứ ba,
anh đặt câu hỏi với những người lính này như sau. “Anh ăn một
đĩa quả mơ hay là hai đĩa?” Kết quả là, bốn mươi phần trăm lấy
một đĩa, và năm mươi phần trăm lấy hai đĩa. [i]
* * *
Câu chuyện trên nói
lên điều gì trong mục Sống Sao Cho Đẹp? Đó là “Tính hiệu năng
của lời nói tích cực!” Từ ngữ có thể như nhau, nhưng cách diễn
đạt khác nhau sẽ sinh ra hiệu quả khác nhau. Câu hỏi thứ nhất,
nhà tâm lý học nhấn mạnh đến “không” thì kết quả “không” chiếm
chín mươi phần trăm. Câu hỏi thứ hai nhấn mạnh khía cạnh “có,”
thì số người đồng ý chiếm trên năm mươi phần trăm. Lần thứ ba,
khi sự chọn lựa chỉ còn là “một” hoặc “hai,” thì kết quả là hầu
như mọi người đều chấp thuận lấy một hoặc hai, tức là hầu như
tất cả mọi người đều đồng ý “có.”
Như thế đã rõ, bày
tỏ thái độ tích cực, diễn đạt lời nói tích cực chắc chắn góp
phần không nhỏ trong lối ứng xử đẹp với nhau và tôn trọng nhau.
Đã biết rằng nói tốt về người khác, và hành xử tích cự sẽ đem
lại niềm vui và sự khích lệ cho người khác, thế nhưng con người
vẫn có chiều hướng suy nghĩ điều tiêu cực và nói điều tiêu cực
về người khác. Vậy những điều tiêu cực này đến từ đâu? Hay nói
cách khác, lý do gì mà trong tâm mình đã “sản sinh” ra những
điều tiêu cực này? Một trong những nguyên nhân cho sự tiêu cực
ấy có lẽ là mình không hài lòng với chính mình về một điểm nào
đó trong con người mình. Cũng có thể là mình đang bị thiếu hụt
điều gì đó trong tâm hồn mình mà chưa được lấp đầy. Khi không
hài lòng với chính mình, khi không được lấp đầy những thiếu hụt
ấy, thì luật bù trừ tự nhiên xuất hiện. Hành xử hay nói tiêu cực
về người khác, một cách nào đó, nó là sự thể hiện cho sự bù trừ
này - “Tôi cảm thấy hơn một chút.”
Trong cuộc hội thảo
tại Đại Chủng Viện St. Vicent de Paul, Florida, khi bàn đến
nguyên nhân của sự cô đơn, chuyên gia tâm lý Dr. Carlos Gomez đã
kết luận rằng, nguyên nhân đầu tiên chính là sự phê bình chỉ
trích về người khác. Suy nghĩ thấu đáo, kết luận trên phản ảnh
trung thực những biến chuyển nội tâm con người. Khi ta phê bình
chỉ trích ai, một cách nào đó, ta đã vô tình xây nên một rào cản
giữa mình và đối tượng ấy. Vì là rào cản này, nên mình tự tách
mình ra khỏi mối quan hệ với người ấy – mình trở nên cô đơn. Vì
là càng thêm cô đơn, nên mình càng muốn bù trừ - nếu không bù
trừ được bằng hành động thì bằng lời nói. Như thế, phê bình, nói
tiêu cực, hành động tiêu cực cũng là sự phản ảnh của sự cô đơn.
Ai có thể giúp ta thấy được nhược điểm này trong con người mình
nếu không phải là tự chính ta trong thinh lặng để nhìn lại con
người mình?
* * *
Nhiều gia đình Việt
Nam định cư tại các nước có nền giáo dục tiến bộ, như Hoa Kỳ và
các nước tại Châu Âu, phần nào nhận nhận thấy rằng, sự khích lệ,
động viên, và ca ngợi (good job, congratulation) là những câu
nói được các nhà giáo dục lập đi lập lại cho học sinh hơn gấp
nhiều lần so với những lời trách mắng, phê bình. Chính trong
thái độ cư xử khích lệ này đã làm cho các em (kể cả người lớn)
cũng cảm thấy tự tin và vươn lên phía trước. Thực tế cho thấy
rằng, một em học sinh chơi thể thao trong trường không đạt hạng
nhất điều đó đâu có nghĩa là em đó “dỡ” phải không? Khả năng của
em chỉ có chừng ấy thì chỉ thế thôi. Sự khích lệ “good job” lúc
ấy rất cần thiết vì giúp em ấy khẳng định rằng lời khen “good
job” ấy nói lên sự thật là em đã làm tốt những gì em cần phải
làm. Lời khích lệ ấy còn mở ra cơ hội để em tự cố gắng vươn lên
trong những lần tới. Ngược lại, cũng trong hoàn cảnh tương tự
trên, nếu ta thay lời khích lệ bằng việc khiển trách thì hậu quả
sẽ như thế nào? Có thay đổi được kết quả không? Có giúp gì cho
bản thân em ấy không? Thái độ tích cực trong giáo dục giúp con
người lớn lên, ngược lại thái độ quan tòa xét án sẽ đẩy con
người vào ức chế, bao che, và mặc cảm.
* * *
Thật phù hợp khi
chúng ta xem Steve Jobs, đồng sáng lập viên máy tính Apple, như
là hoa trái của lối suy nghĩ và hành động tích cực của một con
người. Dù là một đứa bé bị bỏ rơi, một kẻ bỏ học, một doanh nhân
thất bại, nhưng Steve Jobs đã trở thành một trong những ngôi sao
sáng trong lãnh vực máy tính trong thời đại chúng ta. Nói một
cách cụ thế, ông đã góp phần không nhỏ trong sự thay đổi thế
giới con người. Theo ông, dù đã từng bị mất một phần tư tỷ Mỹ
Kim trong một năm, nhưng kim chỉ nam cho sự thành đạt của ông
chính là, “Think Different” (Nghĩ khác).
Thưa bạn, những
hoàn cảnh khó khăn mà bạn đang đối diện, những con người khó
tính mà bạn đang gặp hằng ngày, và những khuyết điểm trong người
mà bạn đang trăn trở, hôm nay bạn thử “nghĩ khác” xem sao? Chắc
chắn một điều, nếu bạn “nghĩ khác” thì những điều tiêu cực trên
sẽ “không giống” nữa, nó sẽ “khác.” Thử xem bạn!
Br. Huynhquảng
[i]
Dịch từ Galaxie Software, 10,000 Sermon
Illustrations (Biblical Studies Press, 2002), 2002.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐÊM GIÁNG SINH CỦA NGƯỜI BẢO DƯỠNG
|
Truyện ngắn của Trần Hiếu
“Một đêm Giáng Sinh tôi không thể quên được!” Bà Helen, với một
giọng hớn hở, nói với tôi. Đã lâu tôi không gặp bà, một người
bảo dưỡng nhận nuôi một số em Việt Nam trong chương trình An
Sinh Trẻ Em.
Tôi hỏi bà:
“Chuyện gì vậy?”
“Anh còn nhớ bé Thúy không?”
“Nhớ chứ. Tôi giữ hồ sơ của nó. Nó bây giờ chắc cũng ngoài 20
tuổi rồi!”
“Anh muốn nghe chuyện của nó không? Tôi bây giờ đã làm bà
ngoại, cũng vì nó!”
“Bà kể tôi nghe đi”, tôi giục bà.
* * *
Bà Helen kể:
“Vào đêm Giáng Sinh đầu thiên niên kỷ, tôi đang buồn rầu vì cô
em gái ở Illinois điện thoại cho hay, nó phải hủy chuyến qua
thăm vì bão tuyết, thì tôi nhận được cú điện thoại của bé Thúy.”
Thúy là một cô gái mồ côi mẹ, bị bố ngược đãi, nên toà Thiếu Nhi
phán quyết trở thành “Đứa con trực thuộc toà án” và được tôi sắp
xếp vào ở trong nhà bảo dưỡng của bà Helen. Lúc tiếp xúc lần
đầu, bà đã hỏi tôi rất nhiều về nó. Là một phụ nữ Mỹ da trắng
độc thân, làm kỹ sư cho hãng Lockheed, bà thỉnh thoảng phải tham
dự các cuộc huấn luyện quân sự vì bà là một trung tá trong Lực
Lượng Phòng Vệ. Nhưng bà cũng muốn làm phúc, nuôi dưỡng các em
gặp hoàn cảnh bất hạnh.
Tôi thắc mắc:
“Ủa, nó vẫn ở với bà chứ? Tại sao nó lại gọi?”
Bà tiếp tục kể:
“Không, lúc đó nó đã bỏ nhà đi hoang. Tôi nhớ nó da diết, và
khi tôi cảm thấy cô đơn như trong đêm Noel đó, thì nó gọi.
“Nó nói: ‘Má có thể cho con ghé thăm nhà không?’
“Tôi mừng hết lớn, nói ngay: ‘Con về đi. Con ở đâu để má đi
đón?’
“Thế rồi điện thoại đột ngột cúp. Tôi hụt hững, tâm trí hoang
mang lo lắng vô cùng. Mở cửa nhìn ra đường, tôi thấy bầu trời
trong, nhưng một luồng gío lạnh chợt thổi vào, tôi cảm thấy rùng
mình. Đóng cửa lại, tôi bắt đầu cầu nguyện. Tôi cầu xin làm
sao cho nó được an toàn.
“Anh biết không, tôi chưa bao giờ cầu nguyện sốt sắng đến thế.
Có lẽ vì đó là đêm Chúa Giáng Sinh, nhưng tôi biết tâm trí lúc
đó tôi đều nghĩ về bé Thúy. Tự nhiên, tôi bật khóc ngon lành.
“Tôi nhớ khi anh dẫn nó đến nhà tôi, nó vui vẻ hồn nhiên. Con bé
thật dễ thương, người trắng trẻo, khuôn mặt đẹp hiền từ. Tôi
thương nó ngay khi mới gặp. Rồi như anh biết đó, tôi coi nó như
con, sau ba năm thì tôi trở thành người giám hộ cho nó, rồi anh
đóng hồ sơ.
“Nó thật là một đứa thông minh, điểm học lúc nào cũng A. Tôi
thật hãnh diện vì nó. Mỗi lần đến trường gặp thầy giáo, hoặc
nói chuyện với bạn bè, tôi luôn tự hào mình đã góp công nuôi
dưỡng nó.
“Thế nhưng, từ khi lên 15 tuổi nó bắt đầu học kém đi. Tôi thấy
nó thường hỏi tôi về tin tức hằng ngày trên báo, lúc đầu tôi
không để ý nhưng sau đó thì tôi biết, là nó theo dõi phiên toà
người ta xử bố nó.
“Bố nó bị bắt trong một vụ trộm có đánh người. Trong mấy năm
trời chẳng bao giờ ông đi thăm con. Tôi hỏi nó có muốn thăm bố
không thì nó gạt đi. Lâu ngày nó cũng chẳng buồn nhắc đến ông
nữa.
“Tôi cũng hiểu, ông đã đối xử tệ với nó. Nhưng mà thôi, chuyện
đó anh biết rồi.
“Bố nó bị kết án chung thân, giam tù lớn ở nơi xa.
“Cũng khoảng thời gian đó, bé Thúy hay giở chứng, cãi lại tôi
gần như bất cứ điều gì. Tôi tôn trọng sự tư riêng của nó nên
cũng không nói chuyện nhiều với nó.
“Thế rồi một hôm nó bỏ nhà đi.
“Tôi đi tìm. Gọi cảnh sát. Tôi cũng gọi cả anh nữa đó. Nhưng mấy
hôm sau nó về. Anh có nhắc tôi nên cho nó đi gặp người cố vấn
tâm lý để nhờ họ khuyên giải.
“Nó ở nhà được vài tháng, rồi lại bỏ nhà đi. Mỗi lần vài ba
ngày. Sau đó thì đi hẳn. Lúc đó nó mới ngoài 16 tuổi.
“Tôi nghe vài đứa bạn của nó nói, nó đã đi xa, ở đâu dưới Los
Angeles. Nhưng làm sao mà tìm đây?
“Thế rồi tự nhiên nó gọi tôi vào đêm Noel, đêm Noel…
“Một cú gọi, nói được vài câu thì cúp.
“Tôi chờ nó gọi lại. Nhưng nó không gọi lại.
“Đáng lẽ tôi đi dự lễ nửa đêm, rồi ghé nhà người bạn ăn tối,
nhưng tôi hủy tất cả. Tôi đi làm đồ ăn tối, đủ cho hai người ăn,
bật đèn sáng tất cả các phòng, rồi ở nhà chờ, lỡ nó có gọi
lại...
“Gần đến nửa đêm, có tiếng bấm chuông gọi cửa…
“Ối trời ơi, nó về, nó về.
“Nó mang một áo khoác rộng, trùm kín cả đầu. Tôi sung sướng
bước đến định ôm choàng nó mà hôn thì nó đẩy tôi ra. Nó không
cho tôi ôm. Tôi tôn trọng ý nó, miệng lắp bắp mời nó ngồi vào
bàn ăn.
“Tôi nói: ‘Con ăn đi, đi nghỉ rồi mình nói chuyện sau.’
“Nó ăn ngấu nghiến, uống một ly sữa lớn, nhưng chẳng nói gì.
“Một lúc sau, khuôn mặt nó tái nhợt, rồi ôm bụng la, ‘Đau, đau
quá…’
“Tôi hỏi, có sao không? Đi bác sĩ nha? Rồi tôi ôm lấy nó.
“Đặt bàn tay tôi lên tay nó đang để ở trên bụng, thì tôi biết là
nó có thai. Có thể nó đang đau đẻ. Tôi bắt đầu hoảng. Nó tiếp
tục rên la.
“Tôi gọi 911, xin cấp cứu.
“Khi xe cứu thương đến thì bọng nước nó đã vỡ ra, loang lổ cả
sàn nhà. Người ta phải đỡ đẻ ngay nơi phòng ăn của nhà tôi.
“Trời ơi, một bé trai, kháu khỉnh vô cùng. Rồi họ đem cả hai mẹ
con vào nhà thương.”
* * *
Bà Helen chỉ tay về đứa bé trước mặt tôi và nói:
“Đó, cậu bé đó là con của nó.”
Tôi nhìn đứa bé, thật kháu khỉnh, dễ thương. Tôi nói:
“Thế bà trở thành bà ngoại rồi. Còn Thúy bây giờ nó làm gì?”
Bà nói:
“Anh không tin được. Từ khi có con, nó thay đổi hoàn toàn. Nó
ghi danh vào college rồi chuyển lên university. Năm vừa rồi nó
tốt nghiệp cử nhân tại San Jose State, và đang tiếp tục học
chương trình cao học.”
Tôi hỏi:
“Nó học về ngành gì?”
Bà đáp:
“Anh thử đoán coi… Nó học về Social Work, Công Tác Xã Hội. Nó
muốn trở thành một chuyên viên tâm lý xã hội.-”
|
VỀ MỤC LỤC |
|
NGƯỜI TÍN HỮU GIÁO DÂN VÀ CỘNG
ĐỒNG DÂN CHÚA TRONG HIẾN CHẾ LUMEN GENTIUM (LG, 32).
|
NGUYỄN HỌC TẬP
1 - Bình đẳng trong khác
biệt.
Động tác mà người giáo
dân hành xử giữa trần thế không được làm cho chúng ta quên rằng
người tín hữu giáo dân có căn nguyên gốc rễ trong Giáo Hội
và sống bằng chính đời sống của Chúa.
Con người của họ đã được
hoán cải và nhờ sự chuyển đổi đó, sống một cách sống mới trong
mối liên hệ đối với thế gian, và họ nhận được những liên hệ
mới trong mối tương giao với dân đã được chon, mà mình là
thành phần.
Tất cả những điều đó đều
được đặt nền tảng trên đời sống mới, mà Chúa Ki Tô đã cho họ
tham dự và cũng là nền tảng phẩm giá căn bản của mình.
Đời sống một cách chính
yếu, đều như nhau đối với mọi người, giáo sĩ, tu sĩ và
giáo dân, bởi vì đời sống của họ đều bắt nguồn từ Chúa Ki Tô,
và bởi vì đời sống đó hội nhập vào các tín hữu với cường độ
huớng về cùng một mục đích như nhau:
- " Phẫm giá chung
như nhau đối với các thành phần, qua sự tái sinh lại trong Chúa
Ki Tô, ân sủng như nhau đối với các đứa con, ơn gọi như nhau về
sự thánh thiện, một sự cứu độ duy nhứt, một nièm hy vọng duy
nhứt và một lòng ái bất phân chia " ( LG, 32).
Chính sự thông hiệp vào
cùng một đời sống đó tạo nên một sự hiệp nhứt chặt chẽ đối với
các tín hữu khác và cũng làm cho họ trở nên anh em với nhau,
kính trọng nhau và giúp đỡ nhau thục hiện một cách hoàn hảo phẩm
giá mới nầy và trải rộng ra cho những ai chưa có.
Mỗi tín hữu Chúa Ki Tô
đều phải có một nhãn quang mới về con ngưòi và về các sự vật.
Sự khác biệt về chủng
tộc, phái giống, hoàn cảnh xã hội, tài năng phẩm chất con người
sau khi được đổi mới trong Chúa Ki Tô, vẫn tồn tại.
Nhưng người tín hữu Chúa
Ki Tô biết rằng bên dưới các khác biệt đó, còn có đời sống
Thiên Chúa trong tất cả mọi người, mà đứng trước đời sống
đó, các sự khác biệt nhân loại trở thành lu mờ đi và thứ yếu.
Cả những gì khác biệt
trong nội bộ Dân Chúa cũng trở thành thứ yếu.
Các khác biệt vẫn hiện
diện:
- " Thật vậy, Giáo
Hội thánh, đuợc cấu trúc thành cơ chế của Chúa, được tổ chức và
hướng dẫn trong muôn vàn khác biệt ".
- " Cũng như trong
một thân thể, chúng ta có nhiều thành phần và không có thành
phần cơ quan nào có cùng một phận vụ như cơ quan kia, như vậy
tất cả cùng nhau hợp thành một thân thể duy nhứt của Chúa Ki Tô
và mỗi cá nhân, chúng ta là thành phần của nhau " ( Rom 12,
4-5).
Không phải mọi tín hữu
Chúa Ki tô đều nhận được đời sống Thiên Chúa cùng một phương
thức như nhau. mặc dầu tất cả đều có, không phân biệt, cùng một
đời sống ( như các thành phần của một thân thể con người, mỗi
thành phần đều có nơi mình cùng một sự sống như nhau ).
Nhưng cùng một sự sống
đó hội nhập vào mỗi thành phần với phận vụ ít nhiều khác biệt
nhau, vì lợi ích chung của cả thân thể.
Nhưng những gì khác biệt
nhau là khác biệt về phận vụ tác động, chớ không phải khác biệt
về đời sống, về phẩm giá:
- " Như vậy, không
phải tất cả mọi người đều đi trên một con đường như nhau, nhưng
tất cả đều được kêu gọi đến sự thánh thiện và họ cùng có số phận
đức tin tốt lành như nhau do lòng công bình của Chúa. Đối với
một vài người, do thánh ý Chúa, họ được thiết lập thành những vị
tiến sĩ, những vị phân phát các mầu nhiệm và chủ chăn đối với
những người khác, nhưng giữa tất cả vẫn hiện diện một sự đồng
đẳng đích thực về phẩm giá và về động tác chung cho tất cả mọi
tín hữu trong việc xây dựng Thân Thể Chúa Ki Tô " ( LG, id.).
2 - Phục vụ lẫn nhau.
Sự khác biệt nhau phải
được nhằm cho sụ hiệp nhứt, nhằm tạo được sự hiệp nhứt
sâu đậm hơn.
Hiến Chế Lumen Gentium
nhấn mạnh đến quan niệm về sự khác biệt trong việc phục vụ. Ai
càng được tham dự vào quyền năng của Chúa Ki Tô hơn, người đó
càng có bổn phận phải phục vụ anh em, theo gương Chúa Ki Tô:
- " là Đấng, mặc
dầu là Chúa của mọi sự, Người đến không phải để được phục vụ, mà
là để phục vụ " ( Mt 20, 28).
Bản văn của Thánh
Matthêu nhắc nhớ cho chúng ta ý nghĩa đích thực của uy quyền: uy
quyền là để phục vụ.
Uy quyền không có nghĩa
là đặc quyền, càng không phải là phương tiện, dụng cụ để trổi
vượt hơn những người khác, mà là chức năng được ban cho, đòi
buộc chuyên cần dấn thân để phục vụ.
Rất tiếc tâm thức vừa kể
được Chúa Giêsu dạy chúng ta trong Phúc Âm Thánh Matthêu, ngày
nay thường bị con người quên đi, nhứt là trong các lãnh vực trần
thế.
Quyền lực và uy thế
thường trở thành phương tiện hay dụng cụ để bắt buộc kẻ khác
phục vụ cho lợi thú của mình và được dùng chúng như là đặc ân
của mình để coi mình trổi vưọt, đàn áp,đè bẹp anh em..
Những kẻ thuộc hạ được
coi là những kẻ thấp kém, phải cuối đầu vâng phục các mệnh lệnh
từ trên ban xuống, và cũng không có quyền được hỏi tại sao những
mệnh lệnh đó được ban hành.
Người thời nay quên rằng
quyền lực có những lằn mức của mình ngay cả trong chính phận vụ
phải được hiểu một cách chính đáng.
Quyền lực được phát
sinh, nơi đâu có một thực thể xã hội, tức là một thực tế gồm
nhiều người, cùng nhau nhằm một mục đích chung, nhờ vào
sự phối hợp tác động giữa nhau.
Một số đông đảo con
người tạo thành một xã hội, khi họ phối hợp các hành động của
mình để thực hiện công ích.
Uy quyền là nguyên tắc
hiệp nhứt bảo đảm cho sự kết hợp đó. Bởi đó mục đích của uy
quyền không phải là đàn áp, cũng không phải là để cho mình đè
đầu cởi cổ người khác, mà là để thực hiện phục vụ đối với một
cộng đồng, được thành lập bởi những con người tự do và có hiểu
biết.
Bởi đó ra lệnh, trong ý
nghĩa thiết định một cách chính đáng các sự vật và động tác của
những thuộc hạ liên hệ, mà con phải tác động với uy quyền để
thực hiện trật tự đã được thiết định.
Và ngay cả trong động
tác đưa ra chỉ thị, cần phải lưu ý những người bên dưới mình
không phải là những con robots tự động máy móc, mà là những
con người tự do và có trí khôn để phán đoán.
Bởi đó họ phải thấy được
trong các " sắc lệnh, chỉ thị, nghị quyết ..." nhằm tổ
chức và đưa đến trật tự đó là phương thế phát triển con người
của mình trong chiều hướng tạo được công ích.
Những nguyên tắc vừa kể,
không những có giá trị trong những lãnh vực trần thế, mà cả và
nhứt là đối với xã hội Cộng Đồng Dân Chúa.
Các Vị Mục Tử là những
người để phục vụ các tín hữu và với quyền năng nhận được từ Chúa
Ki Tô. Các Vị cộng tác để tạo được một sự hiệp nhứt chặt chẽ
trong tinh thần kính trọng phẩm giá và ân sủng của mỗi tín
hữu.
Nên nhớ rắng, ngay cả
trước khi có mối liên hệ uy quyền - thuộc hệ, giữa chủ chăn và
tín hữu, trước đó còn có một phương diện quan trọng và nền tảng,
đó là tình huynh đệ trong Chúa Ki Tô:
- " Về vấn đề nầy,
Thánh Augustino nói rất xác đáng: " Nếu tôi hạ thấp xuống đồng
hàng với anh em, tôi tự an ủi mình là được ở với anh em. Bởi
chính vì anh em, mà tôi trở thành Giám Mục, nhưng với anh em,
tôi là tín hữu Chúa Ki Tô. Tước hiệu trước đó là tước hiệu phận
vụ, tước hiệu vừa kể là tước hiệu của ân sủng: bởi lẽ tuớc hiệu
trước đó là tước hiệu nguy hiểm, danh tánh phía sau là danh tánh
cứu rổi " ( AA. VV., La Costituzione dogmatica sulla Chiesa,
Elle Di Ci, II ed., Torino 1965, 782).
|
VỀ MỤC LỤC |
|
CÁC
KHỦNG HOẢNG CÓ THỂ XẢY RA TRONG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ LINH MỤC GIÁO
PHẬN |
Mời thăm Blog của
Lm. Trần Minh Huy
http://www.chivilongchuathuongtoi.tk/
Tác phẩm: ĐÀO TẠO ỨNG SINH LINH
MỤC GIÁO PHẬN
Lm.
Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
CHƯƠNG SÁU
ỨNG
SINH LINH MỤC GIÁO PHẬN
HỌC
VƯỢT LÊN KHỦNG HOẢNG VÀ TÁI ĐỊNH HƯỚNG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ ƠN GỌI
LINH MỤC (tiếp theo)
C.
CÁC KHỦNG HOẢNG CÓ THỂ XẢY RA TRONG ĐỜI SỐNG VÀ SỨ VỤ LINH MỤC
GIÁO PHẬN
“Chẳng lẽ Thiên Chúa
lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm
hằng kêu cứu với Người sao? Lẽ nào Người bắt họ chờ đợi mãi?
Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng minh xét cho họ.
Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn tìm thấy lòng tin
trên mặt đất nữa chăng?”
C.1. Các cơn khủng hoảng có thể
Chúng ta có thể nói rằng
khủng hoảng là một hiện tượng đặc trưng cho nhân loại qua dòng
những thập kỷ này. Ngày nay người ta nói đến khủng hoảng năng
lượng (dầu mõ, khí đốt), khủng hoảng chính trị (thay đổi quyền
lực đột ngột và cực đoan), khủng hoảng sinh thái (giảm thiểu
tầng ozone và quả địa cầu nóng lên), khủng hoảng kinh tế (nạn
lạm phát và thất nghiệp), khủng hoảng đạo đức (áp đặt một nền
đạo đức là kết quả những cuộc thăm dò đại đa số), khủng hoảng
đức tin (những gì che đậy đàng sau sinh hoạt tôn giáo), khủng
hoảng lãnh đạo (thiếu năng lực, phẩm chất, nhất là sự thống nhất
trong lời nói việc làm và cuộc sống), khủng hoảng ơn gọi (thiếu
ơn gọi giáo sĩ và sự không ổn định của giới trẻ), khủng hoảng
đời tu (sự tàn lụi của các Dòng lớn và những cộng đoàn đặc sủng
cá biệt, và sự phát sinh những phong trào tông đồ mới), khủng
hoảng căn tính linh mục (những gương xấu lạm dụng ở nhiều nước)…
Tuy nhiên, chúng ta cũng
phải nhìn nhận rằng các khủng hoảng cũng là một dữ kiện sinh
tồn. Có khủng hoảng tất nhiên đòi hỏi phải có những tiêu chuẩn
giải quyết: chúng ta phải mở ra với thế giới đang đổi thay,
nhưng phải tránh cơn cám dỗ khuôn đúc theo thế giới này, đồng
thời phải chuyển tải cái nhân Phúc Âm đến cho một thế giới đang
thực sự cần nó. Cái nhân Phúc Âm này không phải là một giáo
thuyết mà là một con người: Đức Giêsu Kitô, linh mục thượng phẩm
và là Thầy duy nhất của chúng ta. Đặt trọng tâm nơi Chúa Giêsu,
“vẫn là một hôm qua, hôm nay và mãi mãi”
là cách thế duy nhất để vượt lên khủng hoảng, tái định hướng đời
sống và sứ vụ của mình hầu trở nên môn đệ đích thực.
Chúng ta nói qua một số
khủng hoảng liên quan gần gũi với đời sống và sứ vụ của chúng
ta:
C.1a. Khủng hoảng tự nhiên về thể lý và sinh lý
Thông thường cứ 7 năm
một lần, tất cả mọi tế bào trong cơ thể đều được thay thế để
tăng trưởng. Vấn đề sinh lý cũng thế qua từng giai đoạn của tuổi
đời, các tuyến nội tiết và các loại hooc-môn cũng phát sinh và
bị kích thích trong lãnh vực tình cảm tính dục thông thường tự
nhiên: Ai dạy cho khỉ biết leo cây? mà người đời hay ví
von “trong lòng không có biển mà vẫn có sóng.”
Và có những lúc không
nhận ra những cơn sóng nguy hiểm, mà cứ coi thường đứng xem…
(Đường êm quá ta đi mà quên ngó, đến khi hay gai nhọn đã vào
thấu xương!) đến khi nhận ra nguy hiểm thật sự, thì sợ chạy trốn
cũng không còn kịp nữa !!! Sóng sẽ vùi dập… Vì thế Chúa Giêsu
căn dặn “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn…”
C.1b. Khủng hoảng đức tin
Nhiều khi có sự chênh
lệch đáng buồn giữa giáo thuyết và đời sống thực hành tôn giáo,
chịu ảnh hưởng những tư tưởng thần học cấp tiến, hoặc những trào
lưu tư tưởng thế tục và những đợt sống mới đã gây nên những cuộc
khủng hoảng đức tin, nhất là nơi giới trẻ.
Những thử thách đau khổ
có thể kéo con người đến gần Thiên Chúa, vì không còn có thể tin
tưởng cậy trông ai ngòai Chúa:
Âu là Thánh Ý Chúa
Trời
Giúp con lột bỏ một đời bơ vơ
Còn ai ngoài Chúa mà mơ
Cuối đường Chúa đứng đợi chờ đỡ nâng
Chúa ôi! Thôi thật “xin vâng”
Cạn tàu ráo máng xin dâng cho Ngài.
Nhưng những thử thách
đau khổ cũng có thể đẩy con người xa Ngài, vì không lý giải được
những đau khổ bất công bản thân cũng như những người vô tội phải
gánh chịu, những nghịch lý và ngôn hành bất nhất trong Giáo Hội
và do người của Giáo Hội, điều mà Chúa Giêsu đã ân cần cảnh báo
các môn đệ: “Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy
giữ; nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không
làm.”
Chúa Giêsu đã nói với
Phêrô: “Ma quỉ đòi sàng các con như sàng gạo, và Thầy đã cầu
nguyện cho con khỏi vấp ngã; nhưng khi chỗi dậy, con hãy củng cố
đức tin của anh em con.” Mỗi người chúng ta có bổn phận làm
như vậy cho nhau, và nhất là cho những người sẽ được giao phó
cho chúng ta sau này.
Bức thư ngắn sau đây của
ông G. Banner gửi cho một giáo sĩ đáng cho chúng ta suy nghĩ: “Thưa
cha, tôi muốn thấy một bài giảng, hơn là nghe một bài
giảng mỗi ngày. Tôi muốn cha cùng đi với tôi, chứ không chỉ
đường cho tôi mà thôi. Con mắt là một học trò giỏi và thông minh
hơn lỗ tai. Lời khuyên thâm thúy vẫn khó hiểu, nhưng gương mẫu
ăn ở bao giờ cũng rõ ràng. Tốt hơn hết là cha thực hành điều cha
tin đi, vì ai cũng thấy việc lành cha thực hiện. Nếu tôi thấy
cha làm, tôi có thể tập làm theo rất nhanh chóng. Những bài của
cha có lẽ rất khôn ngoan, xác đáng và hấp dẫn, nhưng tôi muốn
học tập đương lúc xem cha thực hành. Vì tôi có thể hiểu sai lời
giảng của cha, nhưng tôi không bao giờ hiểu sai cách làm việc và
cách cư xử của cha. Kính chào cha, G. Banner.”
C.1c. Khủng hoảng trong các tương quan
C.1c.1) Khủng hoảng quyền bính
Khủng hoảng đức tin kèm
theo khủng hoảng quyền bính: “Hãy nghe lời họ nói, nhưng đừng
bắt chước việc họ làm”; “Họ chất gánh nặng lên vai kẻ
khác còn họ không giơ ngón tay lay thử” [Người Việt Nam bị
trị thách thức: “Làm quan hãy xét cho dân, không tin ngài
xuống ngài mần ngài coi”]; “Họ giết chết các con mà tưởng
là làm vinh danh Chúa”… dẫn đến tình trạng vâng mà không
phục; bằng mặt mà không bằng lòng.
Giáo Hội được Chúa Kitô
thiết lập trên nền tảng các tông đồ, được tuyên xưng là công
giáo, thánh thiện và tông truyền. Mọi quyền bính đều phát xuất
từ Thiên Chúa nên sứ vụ giảng dạy, thánh hóa và điều khiển Dân
Chúa của Giáo Hội dựa trên thần quyền. Quyền bính Giáo Hội có
tính cách tập trung từ trên xuống dưới và sự vâng phục cũng có
tính cách tuyệt đối; nền tư pháp và kỷ luật có tính biện pháp
chế tài, nhưng cũng nhằm biến đổi, sửa chữa và đào tạo nên tốt,
tin tưởng vào lòng nhân hậu của Chúa rằng mỗi vị thánh đều có
một quá khứ và mỗi tội nhân đều có một tương lai, như ĐGH
Alexander nói: “Bản chất con người là lầm lỗi và bản chất
Thiên Chúa là tha thứ.”
Cuộc canh tân của Công
Đồng Vaticanô II mở ra con đường vâng phục đối thoại và trưởng
thành, nghĩa là khi truyền xuống mệnh lệnh, Bề trên cho phép và
lắng nghe bề dưới đối thoại, trình bày mọi lý do, quan điểm và
lập trường, kể cả có khi ngược lại ý Bề trên, Bề trên cũng nhẫn
nại giải thích, thuyết phục, và cùng bề dưới cầu nguyện để tìm ý
Chúa… Nhưng lời nói cuối cùng vẫn luôn luôn là của Bề trên, dù
nghịch lại ước vọng của bề dưới, và bề dưới sẽ vâng phục với
tinh thần đức tin và siêu nhiên, cảm thấy thỏa mãn nhu cầu được
nói, được trình bày, được giải thích, được biện hộ, được lắng
nghe…
Thế nhưng tâm thức con
người thời đại vẫn không ngừng tiến hóa và phát triển theo hướng
tự do thế tục và chủ nghĩa cá nhân, nên chúng ta thấy trong thế
giới, trong Giáo Hội hoàn vũ cũng như tại Việt Nam thời gian qua
có những hiểu lầm và thái quá, thể hiện nơi các phát biểu và
tranh cãi thiếu kính trọng, gây tổn thương và xúc phạm đau lòng
làm suy giảm uy tín và chứng tá Tin Mừng của Giáo Hội. Dĩ nhiên
bên nào cũng có cái lý chủ quan của mình, muốn xây dựng và bảo
vệ Giáo Hội theo cách nhìn cách nghĩ một chiều của mình, mà
không thấy được những thiếu sót khách quan có thể gây nguy hại
rất lớn. Chính ĐTC Biển Đức XVI, trong thư gửi Giáo Hội Ái Nhĩ
Lan, đã than phiền về “một sự bận tâm không đúng chỗ cho
thanh danh của Giáo Hội và một ưu tư mang tính lạm dụng nhằm bảo
vệ tiếng tăm của Giáo Hội khỏi những vụ tai tiếng, để tránh
những gương xấu,” thậm chí vì vậy mà có những điều nói không
đúng sự thật và bất công, khiến có những bức xúc mạo phạm, nhất
là trên các trang mạng internet, dễ bị kế hoạch của Thần Dữ lợi
dụng, mà không ai chịu cố gắng trả lời nghiêm túc câu hỏi của
Chúa Cứu Thế: “Tinh thần nào đang xúi đẩy các con?”
Cha Lombardi, phát ngôn
viên của Tòa Thánh đã cho biết Đức Thánh Cha đã nhiều lần nói
rằng những nguy hiểm và các cám dỗ nghiêm trọng nhất với Hội
Thánh ở ngay trong lòng Hội Thánh. Trong những thời kỳ khó khăn,
như những thời kỳ chúng ta đang trải qua, thì những căng thẳng
từ bên ngoài đưa vào tạo điều kiện cho những căng thẳng bên
trong nổi lên, góp phần vào việc gieo rắc thêm hỗn loạn và bất
ổn… Trong giai đoạn xung khắc và ngờ vực nầy, thế giới đang chờ
đợi nơi các Kitô hữu một chứng từ sự hoà thuận nẩy sinh từ sự
gặp gỡ của họ với Chúa Kitô phục sinh, là căn nguyên sự tương
trợ của họ, để xã hội nầy cũng tìm thấy được con đường đúng đắn
cho tương lai.
Khi nói ở Nhà thờ Chính
tòa Hà Nội, cũng như khi trả lời hãng thông tấn “Các Giáo Hội Á
châu”, Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Phó Chủ tịch HĐGMVN nói
rằng ngày nay các Giám Mục đã có thể nghe được tiếng nói của dân
Chúa. Nhờ truyền thông thời đại mới và internet, cũng như trình
độ văn hóa của giáo dân cao hơn, họ có thể theo dõi thời sự,
biết nhiều tin tức về Giáo hội, họ có thể bày tỏ ý kiến một cách
dễ dàng hơn, tiếng nói của giáo dân và các lời tuyên bố của họ
có thể được nghe thấy, và các nhà lãnh đạo của bất cứ tổ chức
nào, xã hội cũng như Giáo hội, phải lắng nghe và lắng nghe một
cách chăm chú hơn.
Điều đó đúng, nhưng phải nói trong sự kính trọng, đúng sự thật,
đúng người, đúng việc và đúng nơi, thì mới có tính cách xây dựng
tích cực, chứ ngược lại là tai hại và có thể đắc tội.
Ai cũng thấy rằng tình
trạng này cần phải được thay đổi, thay đổi về phía trên cũng như
về phía dưới. Nếu mà trên và dưới có thể xích lại gần nhau, nghe
nhau, hiểu nhau, vượt lên được những khác biệt và khó khăn cá
nhân để cùng tìm một mẫu số chung là vì Chúa, vì Giáo Hội và vì
các linh hồn thì không việc gì mà không giải quyết thỏa đáng
được cả. Nhưng nhiều khi việc đối thoại không dễ và thật khó mà
thấy được rằng phải bắt đầu thay đổi từ chính bản thân mình, về
phía các lãnh đạo cũng như về phía giáo dân và những người cấp
dưới.
Lời tuyên bố của các
Giám mục Nam Phi cho chúng ta thêm một chỉ dẫn: “Khi giải
thích những dấu chỉ thời đại và phân tích Thánh ý Chúa dưới sự
hướng dẫn của Chúa Thánh Linh, thì những bất đồng có thể nẩy
sinh ngay cả giữa các giám mục. Điều nầy đòi hỏi lòng bao dung
và sự nhạy bén… Chúng tôi tin tưởng rằng các vị lãnh đạo Giáo
Hội, dù là Giáo Triều Rôma hoặc các giám mục địa phương của một
quốc gia, là những người liêm chính luôn cố gắng trung thành với
Phúc Âm, mặc cho tính yếu đuối mỏng dòn con người và trong một
số trường hợp ngoại lệ, còn có cả những sai sót con người lớn
lao…Chắc chắn thỉnh thoảng những căng thẳng có thể xảy ra. Trong
trường hợp như vậy, chủ yếu phải tiếp tục bàn bạc một cách khiêm
nhường… Chúng tôi mời gọi tất cả các tín hữu Công giáo cũng dũng
cảm như thế trong việc ủng hộ giáo huấn tín lý, xã hội và luân
lý của Giáo Hội. Làm như vậy là một phần cốt yếu của sứ mạng rao
giảng Phúc Âm của Giáo Hội để làm thay đổi xã hội.”
Chúng ta phải thực sự
trở về nguồn Phúc Âm của Chúa Giêsu để có một cái nhìn đúng đắn
về quyền bính của Chúa Giêsu, Đấng đã phán
“Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải
làm người phục vụ anh em.”
Mới đây, Bộ Tu Sĩ ban hành Huấn thị “Phục Vụ Quyền Bính và
Vâng Phục”
coi đức vâng lời là một hành trình cùng tìm kiếm Chúa và ý Chúa,
nghe Lời Chúa và trở nên ý thức đối với ý định tình yêu của
Chúa. Văn kiện khuyên vâng lời cách thanh thản và vì đức tin,
đồng thời cũng cống hiến và liên kết các chỉ dẫn cho việc thực
thi quyền bính như mời người ta lắng nghe, ủng hộ đối thoại,
chia sẻ, đồng trách nhiệm, đối xử đầy lòng thương xót… Huấn thị
này nói với Bề trên hơn là với bề dưới, khi đề cập đến phẩm chất
và các điều kiện để bề trên có thể thi hành tốt nhiệm vụ, như có
khả năng tinh thần và khả năng hiểu biết tương ứng với thời đại,
đời sống nội tâm sâu xa dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần,
nghĩa là mỗi người tham gia vào công cuộc lãnh đạo, dù ở cấp độ
nào, đều phải nỗ lực canh tân, điều chỉnh bản thân mình cho phù
hợp với các tiêu chí lãnh đạo, khiến bề dưới có thể vâng lời
cách dễ dàng hơn. Mỗi người trong chúng ta cũng không quên liên
tưởng đến chính mình trong đó.
C.1c.2) Khủng hoảng tình cảm
Sách Diễm Ca nói rằng: “Tình
yêu mãnh liệt như tử thần, cơn đam mê dữ dội như âm phủ. Lửa
tình là ngọn lửa bùng cháy, một ngọn lửa thần thiêng. Nước lũ
không dập tắt nổi tình yêu, sóng cồn chẳng tài nào vùi lấp”
Những hấp dẫn, khao khát
tự nhiên của tình yêu con người dễ bộc lộ mãnh liệt hơn nữa như
một thứ bù trừ khi gặp đau khổ, buồn phiền, oan ức, chán nản,
tuyệt vọng, vì mọi thân xác đều có tính dục và mọi tương quan
đều có tính cách phái tính. Chúng ta có thể bị người khác hấp
dẫn tính dục như bà Bersabê vợ ông Uria đối với Vua Davít, và
chúng ta cũng có thể trở thành hấp dẫn tính dục đối với người
khác như Giuse Ai cập đối với bà vợ nhà quan. Bao nhiêu người đã
liều mình sa ngã khi gặp phải hoàn cảnh ấy mà không chạy đến với
nguồn trợ lực thiêng liêng nơi Chúa (x. Câu chuyện “một nơi nào
thật kín không ai nhìn thấy” của thầy Dòng nọ).
Thánh Kinh hằng nhắc nhở
“Hỡi ai nghĩ mình đang đứng vững, hãy coi chùng kẻo ngã”.
Anh hùng cũng không tránh khỏi cảnh “ngã đau” vì nhi nữ thường
tình. Cây bách cây tùng nhiều khi còn bị đốn ngã, huống là là
cây lau cây sậy! Trường hợp Salomon là một điển hình: “Vua
Sa-lô-môn nắm quyền trị nước trong thời bình, Thiên Chúa đã cho
ông được bốn bề yên ổn để ông dựng một ngôi nhà dâng kính Thánh
Danh, và chuẩn bị xây một đền thánh bền vững muôn đời. Ngài khôn
ngoan biết bao ngay từ thời niên thiếu, ngài thông minh dường
nào tựa dòng sông đầy ngập! Sự hiểu biết của ngài bao trùm mặt
đất, dụ ngôn và ẩn ngữ của ngài lan truyền khắp mọi nơi. Danh
tiếng ngài vang đến tận các đảo xa vời, vì hiếu hoà, ngài được
người người mến chuộng. Các bài ca, châm ngôn và dụ ngôn cũng
như các lời giải thích của ngài khiến mọi xứ phải trầm trồ khen
ngợi. Nhân danh Đức Chúa là Thiên Chúa, Đấng được gọi là Thiên
Chúa của Ít-ra-en, ngài đã gom vàng như đống sắt, đã chất bạc
như đống chì. Thế mà ngài đã trao thân cho bọn đàn bà con gái,
biến thân xác ngài thành nô lệ. Ngài đã bôi nhọ vinh quang, làm
ô danh dòng dõi khiến cơn thịnh nộ giáng xuống trên con cháu và
họ phải khổ đau vì sự điên dại của ngài.”
Trong lãnh vực này không
ai được phép cho rằng mình mạnh cả. Thánh Phaolo đã tâm sự: “Có
ai trong anh em yếu đuối mà tôi không cảm thấy yếu đuối; có ai
trong anh em sa ngã mà tôi không cảm thấy như thiêu như đốt?”
Và chính Chúa Kitô đã biết rõ thân phận con người mỏng dòn chúng
ta mà căn dặn: “Các con hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn để
khỏi sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì nhẹ nhàng chóng vánh
nhưng xác thịt thì nặng nề yếu đuối.” ĐHY Carlo Maria
Martini nói: “Mọi kitô hữu, mọi Giám mục, mọi linh mục phải
xác tín rằng không ai chắc chắn bền đỗ được; mối nguy lớn nhất
là tưởng rằng mình đã đạt đến một mức ổn định đến nỗi không cần
thận trọng nữa.”
Người Viện Nam khuyên “bảy mươi
chưa què chớ khoe mình lành” kẻo “cười người hôm trước
hôm sau người cười.”
Và khi nhỡ yếu đuối mà
sa ngã, hãy khiêm tốn cầu xin ơn mau mắn chỗi dậy, sám hối lật
sang trang đời mới, đứng về phía Chúa và Giáo Hội.
Ngày chuẩn bị ra trường, cha giáo mục vụ nhắc nhở anh em chúng
tôi rằng là linh mục triều ở giữa đời, trăm mắt sẽ cùng nhìn và
trăm tay sẽ cùng chỉ về phía chúng tôi; chúng tôi phải sống
dường như mọi cử chỉ đều được quay phim, mọi lời nói đều được
ghi âm. Ngày nay sự kiểm soát càng gia tăng hơn nữa, cái gì cũng
phải đăng ký, không những “sức mạnh thế gian” ghi nhận tất cả
mọi sơ hở mà còn gài bẫy cho chúng ta có thể mắc phải những yếu
đuối để mặc cả, đặt điều kiện ép buộc chúng ta không được làm
hay phải làm những điều có lợi cho họ, bất chấp những thiệt hại
của Giáo Hội, của các linh hồn và của cả chính chúng ta.
Nếu gặp phải trường hợp
không may đó, hãy khiêm tốn chân thành trình bày với Bề trên
Giáo Hội, chia sẻ với anh em linh mục, và nếu cần thú thật và
xin lỗi giáo dân, mọi người sẽ tha thứ, nâng đỡ và yêu thương
đùm bọc, nâng đỡ chúng ta đứng lên, sửa chữa làm lại từ đầu, tội
thì tha, lỗi thì sửa: “Trước kia, có vài người trong anh em
đã là như thế. Nhưng anh em đã được tẩy rửa, được thánh hoá,
được nên công chính nhờ danh Chúa Giê-su Ki-tô và nhờ Thần Khí
của Thiên Chúa chúng ta!”
Một câu chuyện thật xảy
ra tại Ba Lan: Mật vụ ép buộc một linh mục kia phải đọc một bản
thông cáo ngăn cản cuộc biểu tình của giáo dân. Linh mục đó
không chịu, mật vụ liền đưa ra bức ảnh chụp một người phụ nữ bế
đứa con, bằng chứng sa ngã của linh mục mà nó đã nắm được. Vị
linh mục tái mặt và mật vụ đe dọa sẽ đưa ra công khai nếu không
làm theo ý của nó. Sau khi cầu nguyện, linh mục đó nói với giáo
dân vào cuối thánh lễ: “Tôi đã sai lầm yếu đuối sa ngã trong
quá khứ. Nay mật vụ dựa vào đó để đặt điều kiện ép buộc tôi hợp
tác ngăn cản cuộc xuống đường ngày mai. Tôi kêu gọi anh chị em
hãy tham gia đông đủ. Hôm nay là thánh lễ cuối cùng của tôi ở
đây, xin anh chị em tha thứ lỗi lầm của tôi và cầu nguyện cho
tôi.” Sau phút im lặng ngỡ ngàng, cả nhà thờ nhôn nhao xin
linh mục ở lại với họ và cương quyết nói “ngày mai tất cả chúng
ta cùng xuống đường.”
Cương quyết thành thật
và khiêm tốn, can đảm nhận lỗi và sám hối sẽ vô hiệu hóa các
điều kiện của kẻ nghịch, bù lại sẽ được tâm hồn bằng an và ơn
tha thứ cho sự mỏng dòn yếu đuối con người của mình. Càng muốn
che đậy càng bị kẹt vì phải chấp nhận hết điều kiện nọ đến điều
kiện kia, luôn sống trong bất an và sợ hãi.
Biết như vậy, chúng ta
hãy luôn chạy đến với Chúa, nỗ lực sống trong sáng và triệt để
những đòi hỏi của chức linh mục, thông cảm nâng đỡ anh em và
khiêm tốn cầu xin, vì nếu Chúa không thương che chở thì có khi
mình đã sa ngã nặng nề hơn, nhớ lời ĐTC Biển Đức XVI dịp lễ hai
thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô tại Rôma: “mối nguy lớn nhất
của Giáo Hội không phải là bách hại bên ngoài, mà chính là những
‘thái độ tiêu cực’ có thể gây ô uế và ‘đầu độc cộng đồng Kitô
giáo” từ bên trong… những thử thách và bách hại bên ngoài này
không phải là mối nguy lớn lao nhất cho Giáo Hội, nhưng Giáo Hội
chịu thiệt hại lớn lao nhất từ những gì gây ô uế đức tin và đời
sống Kitô giáo của các thành viên và các cộng đoàn của Giáo Hội,
xói mòn sự toàn vẹn của Nhiệm Thể, làm Giáo Hội suy yếu khả năng
nói tiên tri và làm chứng nhân, làm hoen ố vẻ đẹp của khuôn mặt
Giáo Hội.” Và ngài tin tưởng quả quyết: “Thiên Chúa gần
gũi với những tôi tớ trung tín và giải thoát họ khỏi mọi sự dữ
và giải thoát Giáo Hội khỏi những quyền lực tiêu cực, chống đối”
Con trót dại bao lần sa
ngã,
Ôi Giêsu lượng cả đoái
nhìn.
Con nguyền can đảm đứng
lên
Lệ sa rửa sạch tội khiên
làu làu.
Xin ánh sáng rọi vào tâm
trí,
Tỉnh cơn mê, con sẽ dâng
Ngài
Bổng trầm điệu hát vui
say
Muôn ngàn khấn nguyện
giải bày khúc nôi.
Thánh Thi
Kinh Sáng Chúa Nhật Tuần I
C.1c.3) Khủng hoảng tình huynh đệ
Vì ảnh hưởng, vì tình cảm,
vì quyền bính và quyền lợi, vì những sự việc tiêu cực phức tạp
trong cuộc sống, nhiều người đã đi đến kết luận chua chát này: “Người
đối với người là lang sói, nữ tu đối với nữ tu là lang sói hơn,
linh mục đối với linh mục là lang sói nhất,” mà Thánh vịnh
diễn tả: “Giả như tên địch thù phỉ báng, thì tôi cũng cam
lòng, hay kẻ ghét ghen lên mày lên mặt, tôi có thể lánh đi.
Nhưng đây lại là bạn, người đồng vai đồng vế, chỗ thân tình tâm
phúc với tôi, đã cùng tôi chia ngọt sẻ bùi, trong đền Thiên
Chúa, giữa hội vui cùng sánh bước.” Tên
phản phúc ra tay hại người thân nghĩa, lại lỗi ước quên thề;
miệng nói năng ngọt xớt, lòng chỉ muốn chiến tranh, lời trơn tru
hơn mỡ, mà bén nhọn như gươm.
“Kẻ đến thăm, miệng nói lời giả dối, nhưng chủ ý thâu tin độc
địa, vừa ra khỏi nhà, đã vội rêu rao. Cả người bạn thân con hằng
tin cậy, đã cùng con chia cơm sẻ bánh, mà nay cũng giơ gót đạp
con!”
Và cũng chớ gì không có ai là Doerg.
Cha ơi! Cay đắng đã
nhiều,
Bao phen con cũng muốn
liều mà thôi!
Nhưng rồi tấc dạ bồi
hồi,
Chạnh nhớ Chúa chết trên
đồi Canvê,
Vì thương Chúa phải ê
chề,
Bị người kết án không hề
hở môi.
Đời con cũng lắm khúc
môi,
Bầm gan tím ruột vì
người bất
công,
Đôi khi muốn nói hả
lòng,
Sao con không động mà
người động con?
Tình bạn đích thực là một
cái gì tuyệt diệu trong đời, nhất là tình huynh đệ bí tích linh
mục, nhưng nếu gặp phải kẻ “lừa thầy phản bạn” thì không sao
diễn tả hết được nỗi đau! Khi nếu có gặp phải điều không mong
đợi đó, chúng ta cũng hãy cố gắng sống cao thượng, như lời thánh
Phaolô căn dặn là “lấy điều thiện mà chiến thắng điều ác, chứ
đừng để bị điều ác đánh bại mình”; hãy vượt lên những nỗi
đau buồn ấy chứ không để chúng đè bẹp và nghiền tán mình. Đừng
để mình bị hạ cấp nuôi lòng hận thù tìm cách trả đũa, như thánh
Phêrô dạy: “Đừng lấy ác báo ác, đừng lấy lời nguyền rủa đáp
lại lời nguyền rủa, nhưng trái lại, hãy chúc phúc, vì anh chị em
được Thiên Chúa kêu gọi chính là để thừa hưởng lời chúc phúc.”
Một trong bốn cột trụ chống
đỡ đời tu, đặc biệt trong việc sống ba lời khuyên Phúc Âm, chính
là tình huynh đệ, nhất là tình huynh đệ bí tích đối với anh em
linh mục chúng ta. Bốn cột trụ ấy là Chúa Giêsu, Phúc Âm, Tình
huynh đệ và việc kiên trì chu toàn Sứ vụ.
Kinh nghiệm đã cho chúng ta
biết rằng khi người ta phải buồn phiền, cô đơn, thất vọng là lúc
người ta dễ bị sa ngã vào tình cảm phái tính nhất. Vậy thì đừng
để mình phải sống trong buồn phiền đau khổ, và cũng đừng gây nên
đau khổ buồn phiền cho anh em khiến họ có thể phải sa ngã, chúng
ta có phần trách nhiệm trong sự sa ngã của anh em. Một khi anh
em linh mục thực sự yêu thương nâng đỡ nhau thì không một thứ
tình cảm nào có thể chen vào làm hại được họ. Chúng ta hãy nhớ
lại, suy nghĩ và nếm cảm về tình huynh đệ ấy:
·
một sự đoàn
kết bên nhau để cùng tiến bước,
·
một cuộc đối
thoại thường xuyên trong cuộc sống đa nguyên đa diện,
·
một cuộc gặp
gỡ cởi mở hơn cho cuộc hành trình đầy gian khó và nguy hiểm,
·
một sự có mặt
khích lệ hay một nâng đỡ hỗ trợ tinh thần,
·
một lời vui,
một tiếng cười thanh thỏa cùng chia sẻ tình thương dâng lên vời
vợi,
·
một cái nhìn
cảm thông khi vướng trở ngại, hay khi bị thất bại chua cay,
·
một “tôi
khác” để mỗi người có dịp phản tỉnh nhìn lại bộ mặt của mình, có
khi đã hoen ố bụi đời,
·
một bạn đồng
hành để con đường thập giá bớt nỗi đơn côi,
·
một Simong
vác đỡ hay một Vêrônica lau mặt,
·
một cái gì
khỏa lấp chỗ trống vắng tình thương sau tình yêu Thầy Chí Thánh,
·
một hiện diện
và hiện thân của Thiên Chúa cao xa vô hình.
Thấu hiểu điều đó, mỗi
người chúng ta cố gắng sống trở nên người bạn thật tốt của nhau
và của mọi người; đồng thời phải quyết tâm phá tan lời kết luận
chua chát “linh mục với linh mục là lang sói nhất” ở trên kia,
bằng niềm tin phó thác và lòng khiêm nhường đích thực. Đọc hạnh
tích thánh Gioan Maria Vianey, chúng ta biết lực học ngài rất
kém, nên khi thấy người ta đua nhau tới nghe ngài dạy giáo lý
buổi trưa, các anh em linh mục trong vùng lo sợ giáo dân bị lạc
đạo, bèn cùng nhau làm đơn vận động Giám mục Bản quyền không cho
ngài dạy giáo lý hoặc đổi đi nơi khác. Có người đưa lá đơn ghi
bao nhiêu yếu điểm của ngài với nhiều chữ ký tới cho ngài. Đọc
xong, ngài lấy bút viết ở cuối “Anh em chưa nói hết khuyết điểm
của con” và ký tên. Họ tưởng chắc chắn sẽ đuổi được Vianey,
nhưng khi đoc xong tờ đơn với lời ghi chú và chữ ký của cha
Vianey, Đức Giám Mục điềm tĩnh nói với các linh mục kia rằng
“Cha Vianey là người khiêm nhường thực sự, Chúa sẽ làm việc của
Ngài trong Vianey và qua Vianey, các cha về đi, tôi vẫn giữa
ngài lại ở Ars.” Tự hạ mình xuống là khiêm nhường, nhưng khi bị
hạ nhục mà sẵn lòng đón nhận là khiêm nhường đích thực. Xin cho
chúng ta biết dùng sự khiêm nhường đích thực để vượt lên khủng
hoảng.
Nếu trong mọi hoàn cảnh
cuộc sống mà các linh mục giữ được mối tương quan và đối thoại
của một “tình huynh đệ bí tích”
giữa các linh mục già và linh mục trẻ có thể đưa tới hiểu biết
lẫn nhau và cùng nhau giải quyết các vấn đề và khó khăn trong sứ
vụ linh mục của họ.
Sắc lệnh Chức vụ và đời sống linh mục khuyên các linh mục
nhiều tuổi hãy đón nhận những linh mục trẻ như những người em
thực sự và giúp đỡ họ trong những công tác và gánh nặng đầu tiên
của sứ vụ linh mục; gắng hiểu tâm trạng của họ và theo dõi các
dự tính của họ với thiện chí. Và các linh mục trẻ phải biết kính
trọng tuổi tác và kinh nghiệm của các vị lớn tuổi; bàn hỏi với
các ngài và sẵn lòng cộng tác với các ngài trong việc chăm sóc
các linh hồn.
Tình huynh đệ bí tích này
còn “hơn cả tình yêu của phụ nữ” (hãy xem tình bạn của David và
Gionathan trong 2 Sm 1) và tình huynh đệ ấy trở thành bảo đảm
cho đời độc thân của mọi linh mục trong tất cả cuộc sống và sứ
vụ của họ. “Ngọt ngào tốt đẹp biết bao, anh em được sống vui
vầy bên nhau.”
Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới năm 1971 ước mong rằng các
hiệp hội linh mục phải được cổ vũ và phát triển để cung ứng cho
họ sự trợ giúp huynh đệ.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
QUAN HỆ VỢ CHỒNG TRONG LINH ĐẠO
HÔN NHÂN
|
Tác phẩm: Cẩm Nang Hạnh Phúc Gia Đình
Kitô - MỤC VỤ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Tác
giả: D. WAHRHEIT (Lm. Minh Anh, GP. Huế tổng hợp biên tập)
B18. QUAN HỆ VỢ CHỒNG TRONG LINH
ĐẠO HÔN NHÂN
1.
Nên thánh trong bậc vợ chồng trước tiên có nghĩa là sống một
cách sung mãn ơn gọi làm vợ, làm chồng. Nói đến ơn gọi làm vợ,
làm chồng tức là nói đến mối quan hệ giữa hai người nam nữ để
nên thánh và giúp nhau nên thánh trong bậc vợ chồng.
Hai người phối ngẫu cần phải hiểu
rõ và xây dựng mối quan hệ nam nữ ấy dựa trên ánh sáng của Lời
Chúa. Đó là điều chúng tôi xin trình bày sau đây.
Mặc khải của Chúa về mối quan hệ
nam nữ vượt lên trên quan niệm truyền thống cũng như những đòi
hỏi của xã hội hiện đại.
Theo quan niệm truyền thống trong
bất cứ xã hội và văn hóa nào, người đàn ông vẫn luôn được xem là
chủ của gia đình; xã hội ngày nay vẫn còn bám chặt vào truyền
thống ấy. Nhiều người vẫn còn ứng xử theo phương châm chồng chúa
vợ tôi, phu xướng phụ tuỳ, hoặc là “dạy vợ từ lúc ban sơ mới
về”. Hiện nay, với sự lớn mạnh của phong trào nữ quyền, người
đàn bà được coi là bình đẳng với người đàn ông trong tất cả mọi
lãnh vực, ngay cả trong nội bộ của Giáo Hội. Sự bình đẳng giữa
nam nữ cũng được hiểu như là một phủ nhận những khác biệt về
chức năng giữa hai phái. Chính vì phủ nhận sự khác biệt về chức
năng đó mà nhiều người tranh đấu cho phụ nữ được làm linh mục.
Quan niệm của Kitô giáo dựa trên
mạc khải về mối quan hệ giữa nam nữ hoàn toàn vượt lên trên nhãn
giới trên đây. Chúng ta có thể nói quan niệm ấy được tóm gọn
trong lời của thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô đoạn
5, 21 như sau: “Anh em hãy phục tùng nhau trong niềm kính sợ
Chúa”.
2.
Qua câu nói trên, chúng ta thấy trong quan hệ vợ chồng,
vấn đề đặt ra không phải ai là người chủ, ai là người cầm đầu,
mà chỉ còn là phải phục vụ nhau, giúp đỡ nhau, hy sinh cho nhau,
trao ban cho nhau mà thôi.
“Trong niềm kính sợ Chúa” có nghĩa
là tìm kiếm những gì là phải đạo và đúng đắn theo thánh ý Chúa.
Bởi vì chỉ trong ý muốn của Chúa con người mới có thể phục vụ
tha nhân một cách đúng đắn. Nói đến niềm kính sợ Chúa, thánh
Phaolô chỉ có ý nói rằng, tinh thần đích thực của sự phục tùng
nhau giữa vợ chồng không phải là sợ hãi hay nô lệ hay bất cứ một
tính toán nào khác nhưng là tự nguyện và yêu thương. Ai phục vụ
vì sợ hãi người đó là nô lệ. Ai phục vụ vì yêu thương người đó
sẽ lớn lên trong nhân cách.
Không có tình yêu thương vô vị lợi
thì phục vụ chỉ là một thứ ích kỷ trá hình. Yêu thực sự là yêu
như Chúa Giêsu yêu. Cũng chính thánh Phaolô đã giải thích: “Chúa
Giêsu là Đấng đã trao ban chính mình cho Giáo Hội để làm cho
Giáo Hội nên thánh thiện, để thanh tẩy Giáo Hội, nhờ đó Giáo Hội
trở nên không tỳ vết. Những người chồng cũng phải yêu thương vợ
mình như thế”.
3.
Một cách cụ thể khi một người chồng phục tùng vợ trong niềm kính
sợ Chúa, thì điều đó không có nghĩa là người đó trở thành một
người đàn ông nhu nhược hay một người đàn ông bị chế giễu như
một người sợ vợ. Thái độ đó chỉ đồng nghĩa với phục vụ yêu
thương quên mình mà thôi. Đó là cái nhìn mới mẻ của Tân Ước về
mối quan hệ nam nữ.
Thực ra, khi nói đến sự phục tùng
nhau giữa hai vợ chồng, Tân Ước không hề chối bỏ vai trò làm chủ
của người chồng mà bất cứ xã hội nào cũng công nhận. Đối với các
tín hữu Kitô, vấn đề không là chối bỏ vai trò làm chủ gia đình
của người chồng mà chính là giải thích vai trò ấy theo tinh thần
của Tin Mừng.
Như vậy, theo tinh thần của Tin
Mừng thì thế nào là làm chủ trong gia đình? Thưa, chính là cư xử
với vợ như Chúa Giêsu đối với Giáo Hội của Ngài, nghĩa là yêu
thương và trao ban chính mình. Chúa Giêsu đã yêu thương Giáo Hội
đến độ hy sinh chính mạng sống của Ngài. Ngài thể hiện quyền làm
chủ trên Giáo Hội không bằng quyền bính mà chỉ bằng sự phục vụ.
Ngài đã từng nói với các môn đệ: “Ai muốn làm lớn trong các con,
người đó hãy trở nên người rốt hết”.
Trong quan hệ vợ chồng cũng thế,
vai trò làm chủ của người chồng trong gia đình không có nghĩa là
sai khiến, ra lệnh, mà chính là phục vụ trong yêu thương và quên
mình.
Ngày nay, thay cho quan niệm
truyền thống về vai trò làm chủ gia đình của người chồng, nhiều
người đề cao sự bình đẳng trong quan hệ vợ chồng. Theo tinh thần
Tin Mừng, phải hiểu sự bình đẳng ấy như thế nào? Nguyên tắc mà
thánh Phaolô đưa ra vẫn còn giá trị: “Anh em hãy phục tùng nhau
trong niềm kính sợ Chúa”. Ngày nay, có thể thánh nhân sẽ viết
lại như sau: “Bình đẳng. Đồng ý, nhưng bình đẳng trong việc phục
vụ hỗ tương, chứ không trong quyền bính”.
Nếu cả hai người đều muốn làm chủ
một lúc hoặc tranh nhau xem ai làm chủ trong gia đình, thì chắc
chắn họ sẽ luôn ở trong tình trạng xung đột. Nói tóm lại, theo
tinh thần của Tin Mừng, quan hệ vợ chồng thiết yếu là một quan
hệ của tình thương, phục vụ hỗ tương và quên mình. Nên thánh
trong bậc vợ chồng chính là xây dựng mối quan hệ ấy theo tinh
thần Tin Mừng mà thánh Phaolô đã đề ra.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
THỞ
|
Hô Hấp hoặc Thở là sự trao đổi không khí
giữa cơ thể với môi trường xung quanh. Trong động tác này, dưỡng
khí oxy được đưa vào và thán khí CO2 được loại ra khỏi cơ thể.
Dưỡng khí cần thiết để chuyển hóa thực phẩm ra năng lượng, cung
cấp nhiên liệu cho các sinh hoạt của cơ thể. Không khí trong
lành chứa 20% oxy.
Thán khí là sản phẩm của sự chuyển hóa kể
trên, mà khi quá cao sẽ gây ra nhiều bất lợi cho sức khỏe.
Nơi xảy ra sự trao đổi oxy và thán khí là
hệ thống vi huyết quản bao quanh phế nang. Mỗi bên phổi có
khoảng 300 triệu phế nang mà khi trải phẳng ra, có thể phủ kín
một nửa cái sân quần vợt.
Mỗi phút ta thở trung bình 15 lần. Một ngày
ta thở ra hít vào 18.925 lít không khí. Mặc dù thở là một động
tác không chủ động, nhưng con người có thể cố tình thay đổi nhịp
thở vì nhu cầu nào đó. Chẳng hạn hít vào một hơi dài để lặn sâu
dưới nước (nín thở qua sông) hoặc sắp đi qua vùng ô nhiễm mùi
hôi. Nhưng không tự quyên sinh bằng cách ngưng thở vì những phản
xạ tự chủ bắt ta phải thở hít thở ngay, để duy trì sự sống của
con người.
Nhịp thở nhanh chậm tùy theo nhu cầu oxy
của cơ thể và cũng tùy theo sự tích tụ thán khí cao hay thấp.
Nói chung là tùy theo mức độ hoạt động cơ thể. Nhịp thở cũng
thay đổi tùy theo cảm xúc. Khi hân hoan hớn hở, tức giận cành
hông thì hơi thở dồn dập. Khi buồn rầu chán nản thì hơi thở uể
oải, kéo dài thườn thượt. Những khi đó, ta có thể tập để điều
hòa nhịp thở, thay đổi tâm trạng.
Ngoài ra, có “cơn đói không khí” (air
hunger), trong đó ta cảm thấy như ngộp thở, bèn thở rất nhanh và
sâu với hậu quả là chóng mặt quay cuồng, đổ mồ hôi, tim đập
nhanh, tay chân tê dại. Nguyên do là khi thở dồn dập như vậy,
thán khí trong máu xuống quá thấp, đưa tới mất cân bằng nồng độ
acit/kiềm. Để điều trị, nạn nhân thường được cho hít thở vào một
bao giấy kín, để lấy lại một chút thán khí, nhờ đó tình trạng
trở lại bình thường.
Những cơ quan liên quan tới sự thở
a- Mũi và các xoang của xương mặt
Không khí đựơc hít vào thở ra qua hai lỗ
mũi.
b- Khí quản
Khí quản là ống dẫn không khí, chạy từ họng
(pharynx) xuống dưới. Nằm dưới mũi và miệng, họng là một thành
phần của hệ tiêu hóa và hô hấp vì họng chuyên chở cả không khí
lẫn thực phẩm.
Ở phía dưới, họng sẽ chia ra làm hai nhánh:
thực quản để dẫn thực phẩm, khí quản dẫn không khí. Tiểu thiệt
(epiglottis) là một nắp sụn mỏng hình lá, có màng nhầy bao che
khí quản để tránh thức ăn lạc đường vào phổi khi ta nuốt. Ấy vậy
mà đôi khi ăn vội vàng hoặc cười nói huyên thuyên khi ăn, thực
phẩm cũng lạc lối rơi vào khí quản, chạy tọt xuống phổi, gây ra
sặc sụa.
Chất nhờn tiết ra từ các tế bào của khí
quản tiếp tục làm ẩm không khí và gạt bỏ vật lạ lẫn trong không
khí mà lông mũi chưa loại hết. Đó là đàm, sẽ rơi vào dạ dày hoặc
được ho bắn ra ngoài.
c- Phế quản
Là ống dẫn không khí từ khí quản xuống
phổi.
Khí quản chia làm 2 phế quản chính, rồi các
phế quản nhỏ hơn, tận cùng bằng những túi nhỏ gọi là phế nang.
Phế nang là nơi diễn ra sự trao đổi không khí: oxy từ không gian
được hấp thụ và carbon dioxit trong mao mạch phổi được đưa vào
phổi rồi thải ra ngoài.
d- Phổi là một túi xơ đàn hồi có thể nở ra
và ép vào qua sự chuyển động của xương lồng ngực và cơ hoành
trong khi hô hấp. Dung tích của phổi khoảng trên dưới 6 lít,
nhưng chỉ có khoảng 500 ml không khí tham dự vào việc hô hấp.
Ngoài ra, phổi cũng có vai trò quan trọng trong việc điều hòa
thân nhiệt qua sự bốc hơi trong hơi thở.
Sự Hô Hấp
Hô hấp có 3 động tác:
a- Hít vào có tính cách chủ động, ngắn dài
theo ý muốn để mang không phí vào phổi.
Trong khi hít vào thì cơ liên sườn thư
giãn, lồng ngực mở rộng, nâng lên cao đồng thời cơ hoành hạ
thấp khiến cho phổi có cơ hội tăng dung tích để chứa tối đa
không khí.
b- Nín thở một thời gian ngắn để trao đổi
không khí ở phế nang: oxy từ không khí chuyển sang hồng huyết
cầu theo máu về tim rồi được phân phối cho các tế bào; thán khí
từ cơ thể được phổi đưa ra ngoài.
c- Thở ra thụ động để loại thán khí. Trong
động tác này, cơ hoành đẩy lên cao, lồng ngực trở về vị trí cũ,
không khí được đẩy ra.
Nhịp thở trung bình là 15 nhịp trong một
phút. Khi cơ thể vận động nhiều thì nhịp thở tăng để đáp ứng nhu
cầu dưỡng khí và thải thán khí của cơ thể. Không như nhịp tim mà
ta không kiểm soát được, con người có thể điều chỉnh nhịp hít
thở nhanh chậm tùy theo nhu cầu.
Ở người khỏe mạnh, khi ngủ hoặc lao động
nhẹ đều thở ra hít vào bằng mũi. Khi vận động mạnh hơn thì có
thể hít vào bằng mũi và thở ra hoặc bằng mũi hoặc miệng để lấy
thêm dưỡng khí.
Các nhà chuyên môn y học luôn luôn nhắc nhở
là nên hít vào thở ra bằng mũi vì những lợi điểm sau đây:
a- Niêm mạc của mũi có chất nhờn và những
sợi lông. Xoang thông với mũi và sản xuất ra nhiều chất nhờn.
Không khí được các vi huyết quản chứa đầy máu ở mũi làm ấm nóng.
Chất nhờn làm không khí ẩm hơn trước khi vào phổi. Không khí khô
và lạnh có thể gây kích thích khó chịu cho phổi.
Lông mũi, chất nhờn chặn sự xâm nhập của
các vật lạ có hại như vi khuẩn, bụi bậm rồi loại bỏ ra khỏi cơ
thể khi ta hắt hơi. hoặc đưa xuống bao tử để được tiêu hủy.
Thành ra, không nên cắt xén quá ngắn những sợi lông này.
b- Lỗ mũi nhỏ hơn miệng cho nên không khí
ra từ từ, nhờ đó phổi có thì giờ lấy oxy và nhả CO2.
c- Với chức năng khứu giác, mũi phân biệt
được mùi của không khí nhờ đó tạm hoãn thở trong khoảnh khắc để
tránh hít vào khí có mùi độc hại gây khó chịu.
d- Với những sợi lông và chất nhờn, hô hấp
qua mũi sẽ tránh được các bệnh nhiễm virus, vi khuẩn, bụi bậm ô
nhiễm, giảm thiểu rủi ro viêm đường hô hấp như dị ứng, hen
suyễn, sưng phổi, viêm họng…
e- Thở bằng mũi tạo ra chất nitric oxide ở
các xoang mặt, là chất làm dãn huyết quản, máu tràn đầy, đưa tới
tăng sự trao đổi không khí. Chất này cũng hiện diện trong dược
phẩm nhóm nitroglycerin điều trị chứng Đau Thắt Ngực (angina) và
trong Viagra để tạo sự cương cứng của cơ quan sinh dục nam, nhờ
tác dụng dãn mạch máu.
Mũi có nhiều vai trò khá quan trọng, cho
nên cũng cần được chăm sóc bằng các phương thức như sau:
- Lâu lâu dùng ngón tay bịt một bên lỗ mũi,
hít vào thở ra mạnh dăm lần, rồi làm tương tự với mũi bên kia để
lỗ mũi thông, loại trừ vật lạ. Cũng có thể hít các chất camphor,
dầu cù là Nhị Thiên Đường cho thông mát lỗ mũi.
- Cũng lâu lâu vục mặt vào nước lạnh tinh
khiết, hít vào một chút nước để rửa mũi rồi hỉ ra hoặc cho chẩy
xuống miệng, nhổ ra ngoài. Nhớ đừng hít quá mạnh, đến nỗi sặc
sụa, nước chui vào khí quản xuống phổi, ngộp thở. Có thể dùng
nước muối sinh lý mua ở dược phòng.
Việc chăm sóc, rửa mũi này đặc biệt có lợi
cho những ai sống ở nơi ô nhiễm không khí, bụi bặm, tràn ngập
mùi săng dầu nhớt, sơn xe hoặc vào mùa dị ứng phấn hoa đồng thời
cũng giảm khô mũi vì thời tiết thay đổi, ngồi lâu trong máy điều
hòa không khí, trên máy bay..
Trong khi đó, nếu thường xuyên thở bằng
miệng sẽ mất các ích lợi kể trên, đồng thời còn làm miệng khô,
ngáy khi ngủ, ngưng thở tạm thời (apnea). Với trẻ em, thở miệng
có thể đưa tới hư răng, hàm răng lệch khớp.
Nhiều người khó tính còn gán cho những ai
thở bằng miệng là “đần”, là “ngớ ngẩn”, nhất là khi đương sự nằm
ngủ mà miệng há hốc để thở, nhớt dãi quanh mép. Đây là một gán
ghép có tích cách nhạo báng, nên tránh.
Cũng nên để ý tới khái niệm “thở bụng” và
“thở ngực”.
Bé sơ sinh thường thở bụng trong đó cơ
hoành đóng vai trò quan trọng. Khi hít vào, cơ hoành hạ thấp,
bụng phình ra, hút nhiều không khí vào phía dưới của phổi, nơi
mà sự lấy oxy-thải C02 có cường độ cao nhất. Với đà tăng trưởng,
con người bỏ thói quen này và thở qua lồng ngực trong đó hơi thở
thường nông và nhanh, đưa tới giảm trao đổi không khí. Nếu phối
hợp cả hai cách thì sự hô hấp hoàn hảo hơn.
Thở để thư giãn
Ngoài nhu cầu “hô hấp để sống còn”, thở còn
thường được dùng để xả stress, thư dãn tinh thần khi có những lo
âu buồn phiền rồi giảm huyết áp, nhịp tim, cơ bắp bớt căng.
Nhưng thở cũng phải đúng cách.
Bác sĩ Andrew Weil, Đại học Harvard phát
biểu rằng: “Nếu phải giới hạn lời góp ý của tôi đối những ai
muốn sống một cách khỏe mạnh với một mẹo thực tế duy nhất thì
lời khuyên đó chỉ giản dị là làm sao học thở cho đúng cách”.
Thở đúng cách phải là hơi thở sâu, chậm và
dài trong đó cơ hoành có vai trò chính.
Sau đây, xin gợi ý một phương thức tương
đối giản dị, dễ áp dụng có thể thực hiện bất cứ lúc nào cảm thấy
cần.
1- Tư thế có thể là nằm, ngồi hoặc đứng.
Toàn thân thư dãn, xương sống ngay thẳng.
2- Đặt một bàn tay lên bụng để có thể cảm
nhận sự phình ra thót vào của bụng.
3- Chậm rãi hít vào bằng mũi.
Tập trung vào đường đi của hơi thở từ mũi
xuống ống dẫn khí, vào phổi đồng thời hạ thấp cơ hoành để bụng
phình hút vào nhiều không khí. Sự tập trung này cũng để tránh
nhiễu ý ngoại cảnh.
4- Nhín hơi thở trong vài giây.
5- Từ từ thở ra bằng mũi. Khi không khí đã
ra gần hết thì thư dãn một vài giây rồi hít thở lại.
Kết luận
Đã có nhiều nghiên cứu cho hay, cảm xúc có
ảnh hưởng lên nhịp thở. Nhịp thở nhanh và sâu khi tức giận;
nhanh và nông khi sợ hãi; chậm-sâu khi thư dãn, hạnh phúc; chậm-
nông khi buồn chán.
Như vậy thì thở đúng cách
Tiếp tục tập thở như vậy cho tới khi nhịp
thở trở thành thói quen trong đời sống hàng ngày. Hoặc khi nào
căng thẳng tinh thần thì ngồi tĩnh lặng hít thở sâu dài mươi
phút là thấy thư dãn thảnh thơi ngay..
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Texas-Hoa Kỳ
www.bsnguyenyduc.com
|
VỀ MỤC LỤC |
Tu - Chuyện phiếm của Gã Siêu |
Theo sự diễn tả của các cụ ta ngày xưa thì
con nhà có đạo được gọi là con nhà… “hai phần”, phần hồn và phần
xác. Con nhà có đạo ấy khi lớn lên sẽ chọn cho mình một trong
hai ngả đường đời. Một là đi vào cuộc sống tu trì, như mấy cha,
mấy dì, mấy thầy…dấn thân theo đuổi lý tưởng phục vụ Chúa và
người khác. Hai là đi vào cuộc sống lứa đôi, như hầu hết bàn dân
thiên hạ đã làm, dấn thân xây dựng một mái ấm gia đình.
Nếu chọn nếp sống tu trì, thì cũng phải lựa
cho mình một hướng đi, đó là tu triều hay tu dòng. Tu triều là
dâng mình cho Chúa với mục đích làm công việc mục vụ, không bị
ràng buộc bởi lời khấn khó nghèo và đời sống chung, nhưng đoan
hứa giữ sự độc thân và vâng phục Giám mục như bề trên trực tiếp
của mình.
Còn tu dòng là dâng mình cho Chúa, bằng
cách theo đuổi sự hoàn thiện của Tin Mừng: khó nghèo, trong sạch
và vâng phục, với đời sống chung của cộng đoàn, được biểu lộ qua
việc tuyên khấn công khai vĩnh viễn hay tạm thời theo qui luật
riêng của từng dòng.
Tuy nhiên, nếu chọn tu dòng, thì cũng phải
lựa cho mình một linh đạo, hay nói một cách cụ thể hơn, phải lựa
cho mình một dòng để mà đầu tư công sức vào đó. Bởi vì trong
lòng Giáo hội, có rất nhiều dòng và mỗi dòng lại theo đuổi một
lý tưởng khác nhau, như một thửa vườn với muôn hoa khoe sắc.
Tuy cùng phục vụ Chúa và người khác, nhưng
mấy sư huynh Lasan lại chuyên về dạy học, mấy thầy Gioan Thiên
Chúa lại chuyên về chăm sóc các bệnh nhân, mấy cha Don Bosco lại
chuyên về giáo dục giới trẻ…Và cách riêng là các dòng nữ.
Thực vậy, nếu hỏi rằng:
- Trên thế gian này có bao nhiêu dòng nữ?
Một người có óc khôi hài và được liệt vào
hạng cũng thích đùa, đã trả lời như sau:
- Đức Chúa Trời là Đấng thông minh sáng
suốt vô cùng, thế mà Ngài cũng đành phải bó tay, không biết
chính xác hiện nay trên thế gian có bao nhiêu dòng nữ!
TU THÂN
Qua những gì vừa trình bày, chữ tu được
hiểu theo nghĩa hẹp của Công giáo. Còn nếu hiểu chữ tu theo
nghĩa rộng là sửa sang lại cho hoàn thiện, nhất là bằng cách uốn
nắn những sai lỗi và sửa đổi khuyết điểm, để trở thành một con
người tốt lành và thánh thiện hơn, thì đó phải là bổn phận đầu
tiên của mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Thực vậy, nhân vô thập toàn. Đã là người,
thì ai cũng có những sai lỗi và khuyết điểm, chẳng ai là người
hoàn thiện. Vì thế, việc tu thân, hay nói cách khác, việc sửa
mình phải được coi như là điểm khởi đầu cho trật tự xã hội. Sách
Đại Học có viết: “Từ vua cho đến dân, nhất thiết phải lấy việc
tu thân làm gốc”. Hay như người xưa cũng đã bảo: “Phải tu thân
trước đã, rồi sau đó mới tề gia, trị quốc và bình thiên hạ”.
Theo Nho Giáo,
muốn tu thân, thì phải: cách vật, trí tri,
thành ý và chánh tâm. Thực vậy, muốn sửa mình cho thành người
đức hạnh hoàn toàn, trước hết phải giữ cái tâm của mình cho
chánh (chánh tâm), cái ý của mình cho thành (thành ý), rồi sau
đó mới cách vật, trí tri được, nghĩa là mới hiểu rõ các sự vật
và biết đến tận cùng cái biết.
Giữ cái tâm của mình cho
chánh, có nghĩa là đừng để cho sự tức giận, sợ hãi, vui buồn…
làm cho cái tâm của mình chếch lệch, không còn hiểu rõ cái nghĩa
lý ngay thẳng. Khi đã bị những sự ấy làm rối loạn cái tâm của
mình, thì mắt trông không thấy, tai nghe không hiểu, ăn không
biết ngon, bởi thế cho nên bao giờ ta cũng phải giữ cái tâm cho
chánh.
Giữ cái ý của mình cho
thành, có nghĩa là không dối mình, đối với việc gì cũng cứ thành
thật, như ghét mùi thối, yêu vẻ đẹp, ý mình thế nào thì cứ chân
thực bày tỏ ra như thế, chớ không dối trá chút nào. Bởi thế,
người quân tử phải cẩn thận giữ tư tưởng của mình, ngay cả trong
khi ngồi một mình.
Tâm đã chánh, ý đã thành, thì tự nhiên cái
lương tri, lương năng của mình, tức là cái minh đức trở nên mẫn
huệ, xem xét điều gì cũng hiểu rõ chỗ sâu xa, làm điều gì, hay
là đối phó với cảnh huống nào, cũng trung dung, cũng điều hòa và
rất hợp đạo lý. (Theo “Nho Giáo”
của Trần Trọng Kim).
Nói như vậy xem ra có vẻ trừu tượng và xa
vời. Gã xin bàn đến một vài kinh nghiệm cụ thể trong cuộc sống
thường ngày. Thực vậy, việc tu thân hay sửa mình đòi hỏi chúng
ta cần phải kiên nhẫn và nỗ lực không ngừng.
Người ta kể lại rằng: Tamerlan là một vị
tướng đánh đâu thua đấy. Đánh lớn thua lớn, đánh nhỏ thua nhỏ và
càng đánh thì lại càng thua. Trong một cuộc bàn luận trao đổi
với bộ sậu của mình, để rút ưu khuyết điểm, ông bỗng nhìn thấy
một con kiến đang bò lên đỉnh lều. Lên gần tới đỉnh thì lại bị
tụt xuống. Cứ thế, cứ thế đến ba bốn lần con kiến mới bò lên tới
đỉnh lều. Trước hình ảnh con kiến ấy, ông đã quyết định và
truyền cho các binh lính:
- Chiến đấu, chiến đấu mãi, chiến đấu không
ngừng, cho đến khi nào chiến thắng mới thôi.
Và cuối cùng, ông đã chiến thắng.
Chúng ta cũng vậy, trong cuộc chiến chống
lại những thói hư tật xấu, chúng ta giống như người bơi ngược
giòng nước, nếu không cố gắng bơi, thì sẽ bị giòng nước, là
những đam mê sai trái, cuốn trôi.
Một người nghiện rượu đã chừa bỏ tật xấu
này bằng cách trước khi ngồi vào bàn nhậu với các “chiến hữu”,
ông bèn nhỏ một giọt nến vào chiếc ly uống rượu. Ngày qua ngày,
tháng qua tháng, cuối cùng chiếc ly đầy nến và ông không còn
nghiện rượu nữa.
Tuy nhiên, trong thực tế chúng ta thường có
hai thái độ. Thái độ thứ nhất, đó là thiếu kiên nhẫn.
Thực vậy, trong những giây phút sốt sắng,
chúng ta cảm thấy mình tội lỗi, nên đã dốc quyết uốn nắn lại
khuyết điểm này, sửa đổi lại tật xấu kia. Những ngày đầu, chúng
ta hăng hái bắt tay vào công việc đổi mới này, thế nhưng cái
quyết tâm của chúng ta chẳng kéo dài được lâu, có khi chưa đủ ba
bảy hai mươi mốt ngày, thì đã tàn lụi như một ngọn lửa rơm, để
rồi cuối cùng mèo vẫn hoàn mèo và chó đen vẫn giữ mực. Chúng ta
vẫn dậm chân tại chỗ và chỉ là một kẻ tầm thường, xoàng xĩnh mà
thôi.
Thái độ thứ hai, đó là ngại cố gắng, nên cứ
mãi sa lầy trong đám bùn nhơ, không ngoi lên được.
Chúng ta giống như chú vịt trời theo đàn
bay về phương bắc. Vào một buổi chiều, khi đáp xuống nông trại,
chú thấy bầy vịt nhà đang được ăn bắp và thế là chú bèn nhập bầy
để được ăn no. Bữa ăn quá ngon khiến chú không còn muốn bay theo
đàn nữa. Chú tự nhủ:
- Để mai mốt mình sẽ bay theo cũng chưa
muộn.
Nhưng rồi ngày này qua ngày khác, chú vẫn
cứ ở lỳ với bầy vịt nhà để được muôi ăn. Mùa thu đến, đàn vịt
trời từ phương bắc bay xuống phương nam, các bạn cũ kêu chú trở
về khi bay qua nông trại. Chú vịt trời cố gắng đập cánh bay lên,
nhưng đôi cánh bây giờ quá yếu, chú chỉ bay được lên nóc nhà,
rồi lại rơi xuống đất. Đời sống dễ dãi và hưởng thụ ở nông trại
đã làm cho chú không còn bay được như xưa nữa. Chú đành phải
đứng nhìn đàn vịt trời bay xa dần.
Từ đó, mỗi mùa xuân và mỗi mùa thu, chú vịt
trời đều thấy các bạn cũ bay lên phương bắc, rồi lại bay trở
xuống phương nam. Mới đầu chú còn thèm thuồng số phận đó, nhưng
dần dần ước vọng ấy bị mờ phai và chú bằng lòng sống dưới đất
với bầy vịt nhà trong nông trại.
Một kinh nghiệm khác cũng cho thấy: phải
quyết tâm diệt trừ tật xấu ngay từ thuở ban đầu, bởi vì càng để
lâu càng khó sửa. Trên chiếc áo trắng có một vết bẩn nhỏ, chúng
ta giặt ngay, thì có thể tẩy xoá vết bẩn một cách dễ dàng. Thế
nhưng, nếu chúng ta để cho chiếc áo ấy vàng ố, lúc bấy giờ thật
khó mà giặt cho sạch.
Ngày nọ, ông thầy cùng với cậu học trò đi
ngang qua một khu rừng. Bỗng dưng, ông thầy dừng chân và chỉ vào
ba cây mọc gần đó. Cây thứ nhất mới nhú lên khỏi đất. Cây thứ
hai lớn hơn và cây thứ ba đã thành cây to. Ông thầy bảo:
- Con hãy nhổ cây thứ nhất.
Chỉ với hai ngón tay, cậu học trò đã nhổ
lên một cách dễ dàng.
Ông thầy lại bảo:
- Hãy nhổ tiếp cây thứ hai.
Cậu học trò phải dùng cả hai cánh tay lay
tới lay lui, mãi một lúc sau mới nhổ lên được, mồ hôi mồ kê toát
ra như tắm.
Ông thầy lại bảo:
- Bây giờ con hãy cố gắng nhổ cây thứ ba.
Cậu học trò cũng phải dùng hai cánh tay ôm
lấy thân cây. Cậu ra sức lay, nhưng thân cây chẳng hề nhúc
nhích. Cuối cùng, cậu đành bó tay chịu thua, không thể nhổ lên
được. Lúc bấy giờ, Ông thầy mới cắt nghĩa:
- Đó con thấy không? Về các tính hư tật xấu
của chúng ta cũng vậy. Khi mới nhiễm thì dễ khử trừ, nhưng nếu
để chúng bén rễ sâu trong tâm hồn và trong thân xác, thì chúng
ta khó mà trừ khử.
Chẳng thế mà các cụ ta ngày xưa đã bảo:
- Uốn cây từ thuở còn non,
Dạy con từ thuở con còn đương thơ.
Hay như danh ngôn phương tây cũng đã nói:
- Bé ăn trộm một trái trứng, lớn lên sẽ ăn
trộm cả con bò!
TU NHÀ VÀ TU CHỢ
Theo “Từ Điển Bách Khoa Việt Nam”, về việc
tu thân, sửa mình, “khoa học hiện
nay có khái niệm tự giáo dục: cá nhân trau dồi năng lực hoạt
động đạo đức, hình thành ý thức đạo đức của mình, hoàn thiện
những tính tốt và khắc phục những thói xấu. Phương pháp của tự
giáo dục không chỉ là học tập để có tri thức và đạo đức, mà chủ
yếu là tích cực tham gia vào thực tiễn xã hội, bởi vì chỉ có
trong quá trình tham gia thực tiễn xã hội, con người mới cải tạo
và hoàn thiện bản thân”.
Câu trích dẫn trên đây mang nặng tính cách
lý thuyết và trừu tượng, riêng gã thì thích kiểu nói cụ thể hơn,
đó là môi trường bên ngoài, như gia đình và xã hội, sẽ giúp
chúng ta dễ dàng tu thân, sửa mình, đồng thời việc tu thân, sửa
mình của chúng ta sẽ là một góp phần làm cho gia đình và xã hội
được tốt đẹp hơn. Chẳng thế mà các cụ ta ngày xưa vốn thường chủ
trương chữ tu kia cũng có ba bảy đường.
- Thứ nhất thì tu tại gia,
Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa.
Vì là con nhà có đạo, nên gã xin sửa lại
của câu ca dao này thành:
- Thứ nhất thì tu tại gia,
Thứ hai tu chợ, thứ ba tu…dòng.
Trước hết là việc tu tại gia, các cụ ta
ngày xưa đã xác định một cách rõ ràng và minh bạch:
- Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha, kính mẹ mới là chân tu.
Chuyện xưa kể lại rằng: Dương Phủ, người
đời nhà Minh, đỗ tiến sĩ và nổi tiếng là một vị quan thanh liêm.
Lúc nhỏ nhà nghèo, nhưng hết sức cày cấy để phụng dưỡng song
thân.
Một hôm nghe bên đất Thục có một vị Vô tế
đại sĩ, tức là một nhà tu hành vô cùng đắc đạo, ông bèn thưa với
song thân xin từ biệt ít lâu để theo hầu bậc Vô tế.
Đi được nửa đường, gặp một lão tăng, vị này
bảo ông rằng:
- Gặp được bậc Vô tế không bằng gặp được
Phật.
Ông hỏi:
- Phật ở đâu?
Vị lão tăng nói:
- Nhà ngươi cứ quay trở về, gặp người nào
mặc cái áo như thế này, đi đôi dép như thế kia, thì đó chính là
Phật đấy.
Dương Phủ háo hức quay trở về, dọc đường
không gặp một ai như thế. Đến khuya mới tới nhà, ông gọi cửa, mẹ
ông nghe tiếng mừng quá vội vàng xỏ ngược cả đôi dép, áo sống
xộc xệch ra đón. Dương Phủ ngẩn người nhìn, thì ra đấy chính là
hình dáng Phật mà vị lão tăng đã chỉ dạy. Ông chợt ngộ ra thâm ý
trong lời dạy của vị lão tăng. Từ đấy ông ở nhà, hết lòng thờ
kính cha mẹ, không phải cầu kỳ đi mộ Phật ở đâu xa nữa.
Chính Đức Phật cũng đã từng dạy các đệ tử:
- Sinh thời không gặp Phật, khéo phụng
dưỡng cha mẹ, tức là thờ Phật vậy (Kinh Pháp cú).
Trong truyền thống đạo đức của người Việt
Nam, hiếu với cha mẹ là một trong những đạo lý hàng đầu, thiêng
liêng và cao cả. Có sự thành công nào của những đứa con, mà đằng
sau không có bóng dáng của những người cha, những người mẹ tuyệt
vời?
Và như vậy, tu tại gia hay tu nhà có nghĩa
là cứ ở tại nhà, tại gia đình của mình mà tu bằng cách sống đúng
với đấng bậc của mình: Là con cái thì phải thảo kính và vâng lời
cha mẹ; là vợ chồng thì phải yêu thương và trung thành với nhau;
là anh chị em thì phải hoà thuận và giúp đỡ lẫn nhau.
Trong giờ giáo lý, chị giảng viên kể cho
các em nghe mẩu chuyện về thánh Simon Cột. Ngài sống vào thế kỷ
thứ năm tại Syrie, nổi tiếng là một người thánh thiện và khổ
hạnh. Ngài làm một cái chòi nhỏ trên đầu một cây cột và sống ở
đó suốt 35 năm trời. Sau khi ngài chết, để nêu cao mẫu gương
thánh thiện và khổ hạnh của ngài, Giáo Hội đã tôn phong ngài, và
người ta thường gọi ngài với biệt danh là Simon Cột.
Nghe xong câu chuyện này, một em nhỏ như
được thôi thúc muốn bắt chước sự thánh thiện và lối sống khắc
khổ của ngài. Thế là khi về đến nhà, em chồng những chiếc ghế
đẩu trên một cái bàn để leo lên. Giữa lúc đang loay hoay như
thế, thì mẹ em nhìn thấy, bà đã la mắng và cấm không cho em được
leo lên và bà nói tiếp:
- Con ơi, làm thánh ở trong nhà cũng khó
lắm con à.
Đây là một lời nói đơn sơ, nhưng quả thực
có một ý nghĩa sâu xa khiến chúng ta phải suy nghĩ. Làm thánh ở
trong nhà cũng khó lắm.
Tuy nhiên, chúng ta không phải chỉ sống với
những người thân yêu trong cùng một mái ấm, mà hơn thế nữa chúng
ta còn phải sống với những người khác, mỗi khi bước chân vào xã
hội, vì thế mới nảy sinh ra một thứ tu khác, được gọi là…tu chợ.
Tu chợ có nghĩa là tu tại chợ cũng như tại
phố xá, tu giữa tiếng ồn ào của xe cộ cũng như giữa những sinh
hoạt tấp nập của cuộc sống, tu giữa những vất vả của nghề nghiệp
cũng như giữa những bươn chải kiếm tìm cơm áo gạo tiền. Tóm lại,
tu chợ là tu giữa giòng đời, hay nói một cách chuyên môn hơn, là
tu giữa đời, tu tại thế, tu ngay trong trần gian.
Viết tới đây gã bỗng nhớ tới lời kinh Hoà
Bình của thánh Phanxicô Assie và tìm thấy trong đó cả một chương
trình cho việc tu chợ: “Để con
đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục,
đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Để
con đem tin kính vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất
vọng. Để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui đến chốn
u sầu”.
Cũng trong chiều hướng ấy, Công Đồng
Vaticanô II đã kêu gọi chúng ta, là những người sống giữa đời và
làm việc với đời, hãy trở nên như men trong bột, như ánh sáng
trong đêm tối, nghĩa là trở nên chứng nhân cho đức tin giữa lòng
cuộc đời.
Việc tu chợ như thế sẽ biến chúng ta thành
một bông sen như ca dao Việt Nam đã diễn tả:
- Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh, bông trắng, lại chen nhị vàng.
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Thảo nào mà trong lòng Giáo Hội hôm nay,
các thứ dòng ba, các thứ tu hội đời, các thứ phong trào tại
thế…đua nhau mọc lên như nấm sau cơn mưa, hay như trăm hoa đua
nở, báo hiệu một mùa xuân mới!!!
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến,
bài vở..., xin gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quy vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã
sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác
nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|