Tiến
Sĩ NGUYỄN HỌC TẬP
NGƯỜI
TÍN HỮU GIÁO DÂN TRONG HIẾN CHẾ LUMEN
GENTIUM, CHƯƠNG IV.
1
- Người tín hữu giáo dân trong Giáo Hội (
LG, 30).
Các Vị Chủ Chăn biết:
- người tín hữu giáo dân
cộng tác lợi ích bao nhiêu cho cả Giáo Hội,
- rằng tự ḿnh các ngài
không thể đảm nhận được hết trọng trách cứu
độ của Giáo Hội,
- rằng các vị phải nhận
biết chức vụ và ân sủng của người tín hữu
giáo dân; như vậy, tất cả cùng cộng tác với
nhau, mỗi người trong lănh vực và khả năng
của ḿnh, cho công ích.
2 - Bản tính và sứ mạng của người tín hữu
giáo dân ( LG, 31).
Người tín hữu giáo dân là ai
?
Là tất cả các tín hữu Chúa Ki
Tô, ngoại trừ các thành phần có chức thánh
và các bậc tu sĩ được Giáo Hội chứng nhận.
Người tín hữu giáo dân là
-
các tín hữu được hội nhập vào
Chúa Ki Tô qua Phép Rửa,
- thành phần kiến tạo nên
Cộng Đồng Dân Chúa,
- những người được làm cho
trở thành tham dự vào chức năng tư tế, ngôn
sứ và vương giả của Chúa Ki Tô,
- những người thực hiện,
trong Giáo Hội và giữa trần thế, sứ mạng của
cả Cộng Đồng Dân Chúa.
Sứ mạng chính yếu của thành
phần có chức thánh: Thánh Vụ Thừa Tác
Viên.
Sứ mạng chính yếu của các tu
sĩ: chứng nhân
giữa trần thế tinh thần của các Mối Phước
Thật.
Sứ mạng của người tín hữu
giáo dân là:
- T́m kiếm Nước
Chúa,
*
hành xử các sự việc và sự vật
trần thế, xếp đặt chúng theo thánh ư Chúa,
* đương đầu với các bổn
phận và việc làm trần thế mỗi ngày, trong
gia đ́nh, ngoài xă hội.
-
Góp phần từ trong nội tại
trần thế để thánh hoá thế gian, bằng những
động tác theo sự hướng dẫn của tinh thần
Phúc Âm.
- Bày tỏ Chúa Ki Tô cho
người khác, qua nhân chứng bằng đời sống
nhứt là với ánh sáng của đức tin, niềm hy
vọng và đức bác ái.
- Nh́n sự việc trần thế,
làm thế nào để:
* chúng đươc thực hiện và
tăng trưởng lên theo Chúa Ki Tô,
* chúng làm vinh danh
Chúa là Đấng Tạo Hoá và là Đấng Cứu Độ.
3 - Phẩm giá người tín hữu giáo dân trong
Cộng Đồng Dân Chúa ( LG, 32 )
Giáo Hội được cấu trúc và
hướng dẫn bởi nhiều chức năng khác nhau một
cách tuyệt diệu.
"
Cũng như trong một thân thể,
chúng ta có nhiều bộ phận, mà các bộ phận
không có cùng một chức năng, th́ chúng ta
cũng vậy: tuy nhiều, nhưng chỉ là một thân
thể trong Chúa Ki tô, mỗi người liên đới với
những người khác như những bộ phận của một
thân thể " ( Rom 12, 4-5).
* địa vị như nhau của các
phận bộ, bởi lẽ tất cả đều được tái sinh
trong Chúa Ki Tô,
* ân sủng được trở thành
con của Chúa như nhau,
* được ơn gọi trở nên
thánh thiện như nhau.
Mặc dầu có những chức năng
khác nhau, giữa tất cả anh em với nhau đều
có phẩm giá như nhau và cùng cộng tác kiến
tạo Thân Thể Chúa Ki Tô như nhau.
Sự khác biệt được Chúa đặt
giữa các vị thừa tác viên và giáo dân, tự
ḿnh cho thấy sự hiệp nhứt với nhau, bởi lẽ
giữa chủ chăn và các tín hữu được liên kết
với nhau bởi một cộng đồng liên hệ nhau.
* các vị chủ chăn, theo
gương Chúa Ki Tô, là để cho người nầy phục
vụ người khác và phục vụ các tín hữu giáo
dân.
* đến phiên ḿnh, các tín
hữu giáo dân cung cấp sự cộng tác của ḿnh
với các vị chủ chăn và với các vị có chức
năng huấn dạy.
Như vậy, tất cả là đều nhân
chứng cho sự hiệp nhứt huy hoàng của Thân
Thể Chúa Ki Tô.
4
- Phận vụ tông đồ của người tín hữu giáo dân
( LG, 33).
Người tín hữu giáo dân
* quy tựu nhau trong Cộng
Đồng Dân Chúa,
* cấu trúc thành một Thân
Thể Duy Nhứt của Chúa Ki Tô, dưới một vị
lănh đạo duy nhứt.
Ngựi tín hữu giáo dân được
mời gọi góp phần như là những phần thân thể
sống động với tất cả năng lực mà ḿnh nhận
được từ Đấng Tạo Hoá và từ ơn của Đấng Cứu
độ,
"
để phát triển Giáo Hội và
triển nở việc thánh hoá không ngừng của Giáo
Hội".
" Phân vụ tông đồ của người
tín hữu giáo dân là tham dự vào sứ mạng cứu
rổi của Giáo Hội ".
Phận vụ tống dồ đó được Chúa
ủy thác cho tất cả qua Phép Rửa và Phép
Thêm Sức.
Từ các Phép Bí Tích, nhứt là
Phép Thánh Thể, mọi tín hữu Chúa Ki Tô đều
được ban cho t́nh yêu thương đối với Chúa và
đức bác ái đối với anh em.
Đó là linh hồn của mọi động
tác tông đồ.
Người
tín hữu giáo dân, nhứt là họ, là những người
được Chúa gọi hăy làm cho Giáo Hội hiện diện
và tác động được ở những nơi và những trường
họp, mà trong đó Giáo Hội không thể trở
thành muối đất nếu không nhờ những anh em đó.
- "
Mỗi tín hữu giáo dân, v́
những ơn đă được ban cho ḿnh, là chứng nhân
và là dụng cụ sống động của chính sứ mạng
Giáo Hội, bởi lẽ họ là mức đo lường ân sủng
của Chúa Ki Tô ".
Người tín hữu giáo dân có thể
được mời gọi để
* cộng tác với việc tông
đồ của hàng giáo phẩm,
* hành xử một vài chức
năng trong Giáo Hội.
Hiểu như vậy, chúng ta hiểu
được mọi người tín hữu giáo dân đều ra tay
tác động, mỗi người tùy theo hoàn cảnh và
khả năng của ḿnh, để cho đồ án cứu rổi của
Chúa mọi ngày đều đến được với tất cả mọi
người, ở mọi thời gian và không gian.
5 - Người tín hữu giáo dân tham dự vào
chức vụ tư tế chung ( LG, 34).
Chúa Ki Tô, Vị Tư Tế tối
thượng và vĩnh cửu, v́ muốn tiếp tục là nhân
chứng và chức năng tư tế của ḿnh qua các
tín hữu giáo dân,
nên Người làm cho họ trở nên sống động bằng
Thánh Thần của Người.
Thật vậy, mọi động tác của
họ, động tác cầu nguyện và sáng kiến tông
đồ, đời sống hôn nhân và gia đ́nh, công việc
hằng ngày, lúc tinh thần cũng như thể xác
được an ủi, nếu họ tác động thực hiện trong
Chúa Thánh Thần, và cả ngay khi đời sống bị
quấy nhiểu, nếu họ chịu đựng với ḷng kiên
nhẫn, tất cả những điều đó đều trở thành của
lễ thiêng liêng dâng lên đẹp ḷng Chúa, nhờ
Chúa Ki Tô ( cfr.
Pt 2,5).
Và qua đó họ dâng thế giới
lên cho Chúa.
6 - Người tín hữu giáo dân tham dự vào
chức vụ ngôn sứ của Chúa ki Tô ( LG, 35).
Chúa Ki Tô, vị đại ngôn sứ,
thiết lập các tín hữu giáo dân thành các
nhân chứng của Người bằng cách ban cho họ ư
nghĩa của đức tin và ân sủng lời dạy bảo của
Người, để cho sức mạnh của Phúc Âm được
chiếu sáng lên trong đời sống hằng ngày,
trong gia đ́nh cũng như ngoài xă hội.
Người tín hữu giáo dân tỏ ra
ḿnh là con cái của lời Chúa hứa, khi họ,
vững mạnh trong đức tin và trong niềm hy
vọng, làm cho thời gian hiện tại đâm hoa kết
quả và kiên nhẫn chờ đợi vinh quang trong
tương lai.
Niềm hy vọng đó, người tín
hữu giáo dân không ẩn giấu trong bí ẩn
nội tâm của ḿnh, mà phải diễn tả ra cả qua
các cấu trúc của cuộc sống trần thế.
Người tín hữu giáo dân trở
thành người anh hùng đích thực của đức tin,
nếu họ biết kết hợp đời sống chức nghiệp của
họ với chính cuộc sống đức tin, nhứt là
trong các trường hợp cá biệt của đời sống.
Đời sống hôn nhân và gia đ́nh
có giá trị cao cả.
Chính trong cuộc sống đó là
nơi mà hai vợ chồng được Chúa kêu gọi: trở
thành nhân chứng, người nầy cho người kia và
cho con cái, về đức tin và t́nh thương của
Chúa Ki Tô.
Người tín hữu giáo dân, ngay
cả khi phải chăm lo những việc trần thế, họ
cũng có thể và phải hành xử một động tác qúy
báu để loan báo Phúc Âm cho trần thế.
- Một vài người trong ho,
khi thiếu các vị có chức thánh hoặc khi
các vị bị cản trở, họ có thể thay thế
các vị trong một vài phận vụ thánh, tùy theo
khả năng của mỗi người.
- Những người khác tiêu
hao sức lực của ḿnh trong công việc tông
đồ.
Như vậy, tất cả các tín hữu
giáo dân
- cùng cộng tác cho việc
rộng mở và phát triển Nước Chúa Ki Tô giữa
trần thế,
- phải chuyên cần học hỏi
sâu rộng về các chân lư được mặc khải
- hăy biết không ngừng cầu
xin Chúa ban cho ḿnh có được ơn khôn ngoan.
7 - Người tín hữu giáo dân tham dự vào
tước vị vương giả của Chúa Ki Tô ( LG, 36).
Chúa muốn trải rộng
- vương quốc chân lư và
đời sống của ḿnh,
- vương quốc thánh thiên
và ân sủng,
- vương quốc công lư, t́nh
yêu thương và hoà b́nh
bằng cả qua trung gian người
tín hữu giáo dân.
Bởi đó người tín hữu giáo dân
cần
- nhận biết bản thể sâu
đậm của tất cả mọi tạo vật, giá trị của
chúng và mục đích của chúng làm vinh
danh Chúa.
- giúp đỡ lẫn nhau để có
được một đời sống thánh thiện hơn, ngay cả
bằng những động tác trần thế của ḿnh,
làm thế nào để cho thể gian được thấm nhuần
Thánh Thần của Chúa Ki Tô và đạt được
hữu hiệu cùng đích của ḿnh trong công bằng,
bác ái và hoà b́nh.
Người tín hữu giáo dân với
thẩm quyền của ḿnh công tác để cho tạo vật
được dựng nên
- được làm cho phát triển
để tạo lợi ích cho tất cả mọi người,
* nhờ vào việc làm của
con người,
* nhờ kỷ thuật,
* qua văn hoá dân sự.
- để cho các vật thể đó
được phân phối một
cách thích hợp giữa các con người với nhau
- và đem lại
lợi ích tổng thể phổ quát
trong tự do của con người và tự do Ki Tô
giáo.
Như vậy, Chúa Ki Tô qua các
phần tử của Giáo Hội càng ngày càng sẽ soi
sáng rơ rệt hơn cho cả xă hội con người bằng
Ánh Sáng Cứu Độ của ḿnh.
Người tín hữu giáo dân, bằng
cách cùng hợp lực với nhau, hăy thay đổi
, sửa chữa các cơ chế và các điều kiện sống
trần thế, để cho các hoàn cảnh sống đó
- được làm cho trở nên phù
hợp với lề luật công lư,
- tạo điều kiện thuận lợi
để tập tành và hành xử các đức tính,
- văn hoá và các động tác
con người được thấm nhuần giá trị luân lư.
Nhờ vào sự hiện diện và tác
động giữa các thực tại trần thế, người tín
hữu giáo dân có thể dọn sẵn môi trường đất
đai, để cho hạt giống lời Chúa và lời loan
báo hoà b́nh có thể đâm rễ vào được và đâm
hoa kết quả trở thành mẫu gương cuộc sống
con người.
Người tín hữu giáo dân phải
biết phân biệt giữa quyền và bổn phận của
ḿnh,
- với tư cách là thành
phần Giáo Hội,
- và với tư cách là thành
phần cộng đồng xă hội.
Họ hăy t́m cách sắp xếp đồng
thuận với mọi người, trong khi nhận thức
rằng mọi việc trần thế đều phải được hướng
dẫn bởi lương tâm Ki Tô giáo, bởi v́ không
có một động tác nào của con người, kể cả
những động tác thuộc lănh vực trần thế có
thể hành xử ngược lại với giới răn Chúa.
8 - Người tín hữu giáo dân và hàng
giáo phẩm ( LG, 37).
Người tín hữu giáo dân có
quyền được đón nhận từ nơi các vị mục tử các
của cải thiêng liêng của Giáo Hội, nhứt là
các trợ lực của lời Chúa và các Phép Bí
Tích.
Tùy theo thẩm quyền chuyên
môn và uy tín mà mỗi người có được,
người tín hữu giáo dân có quyền và đôi
khi cũng có cả bổn phận, nói lên ư kiến của
ḿnh về những ǵ có lợi ích cho Giáo Hội,
luôn với
- sự thật, sức mạnh và sự
khôn ngoan,
- ḷng kính trọng và đức
bác ái đối với những đấng bậc, v́ chức vụ
của ḿnh, đại diện cho Giáo Hội.
Người tín hữu giáo dân
-
hăy biết lắng nghe những ǵ
được các vị mục tử dạy bảo cho, nhân danh
quyền giảng dạy và uy quyền trong Giáo Hội,
- cũng như phó thác các vị
cho Chúa bằng lời cầu nguyện của ḿnh.
Các vị mục tử:
-
phải nhận biết và phát huy
phẩm giá và trách nhiệm của người tín hữu
giáo dân trong Giáo Hội.
-
phải biết sẵn sàng xử dụng ư
kiến khôn ngoan của họ.
- với ḷng tin cậy, phải
biết ủy thác cho họ phận vụ phục vụ trong
Giáo Hội.
- phải biết để cho họ có
thẩm quyền và trương độ thoả đáng để hoạt
động chu toàn trách nhiệm.
- phải biết khuyến khích
người tín hữu giáo dân, để họ có sáng kiến
bắt tay vào những việc ḿnh thấy phải làm
cho Giáo Hội và xă hôi.
- phải biết chú tâm suy
nghĩ và với t́nh yêu thương cha con trong
Chúa Ki Tô đối với những sáng kiến, các lời
đ̣i hỏi và mong muốn của người tín hữu giáo
dân.
- phải kính trọng và nhận
biết quyền tự do chính đáng, mà mọi người
đều phải có trong cuộc sống trần thế.
Qua những ǵ vừa đề cập về
các mối tương quan giữa người tín hữu giáo
dân và hàng giáo phẩm, chúng ta có thể mong
mỏi được nhiều lợi ích cho Giáo Hội.
Với phương thức đó
- người tín hữu giáo dân
cảm nhận được ư nghĩa trách nhệm của ḿnh.
- nguời tín hữu giáo dân
cảm thấy hăng hái, đầy nghị lực và mọi năng
lực của ḿnh
* được dễ dàng hội nhập
vào với các động tác của các vị chủ chăn,
* được trợ lực bởi kinh
nghiệm của các tín hữu giáo dân, các vị có
thể phán đoán một cách rơ ràng và thích hợp
đối với các sự việc trong lănh vực thiêng
liêng cũng như trần thế.
Với viễn ảnh đó, Giáo Hội đầy
năng lực trong mọi thành phần của ḿnh, có
thể thực hiện một cách hiệu quả hơn sứ mạng
của ḿnh đem đời sống đến cho thế giới.
9 - Kết luận ( LG, 38).
Mỗi người tín hữu giáo dân
phải là
- nhân chứng trước thế
giới về sự phục sinh và đời sống của Chúa
Giêsu
- và là dấu chứng của
Thiên Chúa đang sống giữa các con người.
Tất cả cùng nhau, mỗi người
tùy theo phần của ḿnh, phải biết nuôi dưỡng
thế giới bằng các hoa trái thiêng liêng và
phổ biến tinh thần làm cho người nghèo
khó, người hiền hậu và yêu chuộng hoà b́nh
đều có được tinh thần hăng say để sống, như
những ǵ Chúa Giêsu đă tuyên bố trong Tám
Mối Phước Thật.
"NHƯ LINH HỒN Ở TRONG THÂN XÁC, CŨNG VẬY
NGƯỜI TÍN HỮU CHÚA KITÔ Ở GIỮA TRẦN THẾ".