Lịch sử nhà thờ Đức Bà Sàig̣n
Giáo Đường
Tên chính
Vương cung thánh đường Chính ṭa Đức Mẹ Vô nhiễm
Nguyên tội.
- Tôn giáo Công giáo Rôma
- Chức năng Nhà thờ chính ṭa
- Quốc gia Việt Nam
- Vùng Tổng Giáo phận Saigon
- Thành phố Saigon
- Địa chỉ Công trường Công xă Paris
- Kiến trúc
-Thiết kế J. Bourad
- Phong cách Kiến trúc Roman
Cao 57 mét (đỉnh thánh giá)
Nhà thờ Đức Bà Saigon, tên chính thức là Vương
cung thánh đường Chính ṭa Đức Mẹ Vô nhiễm
Nguyên tội (Immaculate Conception Cathedral
Basilica), là nhà thờ lớn nhất và đặc sắc nhất
tại Saigon với 2 tháp chuông cao 60 m, tọa lạc
tại trung tâm thành phố (Số 1 Công trường Công
xă Paris, Quận 1). Đây là một trong những công
tŕnh kiến trúc tôn giáo đặc sắc thu hút nhiều
khách tham quan nhất tại thành phố.
Lịch sử
Ngay sau khi
chiếm Saigon, Pháp đă cho lập nhà thờ để làm nơi
hành lễ cho tín đồ Công giáo trong đoàn quân
viễn chinh. Ngôi nhà thờ đầu tiên được lập ở
đường số 5 (nay là đường Ngô Đức Kế).
Nhà thờ đầu tiên đó quá nhỏ nên vào năm 1863, Đô
đốc Bonard đă quyết định cho khởi công xây dựng
ở nơi khác một thánh đường bằng gỗ bên bờ "Kinh
Lớn" (c̣n gọi là kinh Charner, thời Việt Nam
Cộng ḥa là trụ sở Ṭa Tạp tụng). Cố đạo
Lefebvre tổ chức "Lễ đặt viên đá đầu tiên" xây
dựng nhà thờ vào ngày 28 tháng 3 năm 1863. Nhà
thờ xây cất bằng gỗ, hoàn thành năm 1865, ban
đầu gọi là Nhà thờ Saigon. Về sau, do nhà thờ gỗ
này bị hư hại nhiều v́ mối mọt, các buổi lễ được
tổ chức trong pḥng khánh tiết của "dinh Thống
Đốc" cũ, về sau cải thành chủng viện Taberd, cho
đến khi nhà thờ lớn xây xong.
Tháng 8 năm 1876, Thống đốc Nam kỳ Duperré đă tổ
chức một kỳ thi vẽ đồ án kiến trúc nhà thờ mới.
Ngoài mục tiêu có chỗ thờ phụng, hành lễ cho tín
đồ, việc xây dựng nhà thờ lớn cũng nằm trong mục
đích phô trương đạo Công giáo và sự vĩ đại của
nền văn minh Pháp trước người dân thuộc địa.
Vượt qua 17 đồ án thiết kế khác, đồ án của kiến
trúc sư J. Bourad với kiến trúc theo kiểu Roman
cải biên pha trộn nét Gotich đă được chọn.
Nhà thờ Đức Bà
Sàig̣n, mặt sau
Nhà thờ Đức Bà
Sài G̣n, mặt bên
Ban đầu, địa điểm xây cất được đề nghị ở 3nơi:
• Trên nền Trường thi cũ (nay là góc đường Lê
Duẩn và Hai Bà Trưng, tức vị trí ṭa Lănh sự
Pháp).
• Ở khu Kinh Lớn (tại vị trí nhà thờ cũ, nay
thuộc đường Nguyễn Huệ).
• Vị trí hiện nay.
Ngay tại vị trí hiện nay, vẫn từng có dư luận về
sự tranh chấp của ba phía: nhà cầm quyền Pháp
muốn xây cất một nhà hát ở đây, phía Tin Lành
muốn cất nhà thờ Tin Lành và phía Công giáo muốn
xây nhà thờ Công giáo. Sau một thời gian tranh
chấp, ba bên đành phải bắt thăm.
Riêng phía Công giáo, giám mục Colombert yêu cầu
giáo dân toàn giáo phận ăn chay cầu nguyện và
xin dâng cho Đức Trinh Nữ Maria lo liệu.
Đến ngày bắt thăm, phía Công giáo bắt thăm trước
và trúng thăm, hai phía kia bất b́nh và yêu cầu
bắt thăm lại. Lần này, nhà cầm quyền Pháp dành
bắt thăm trước, kế đến phía Tin Lành, nhưng phía
Công giáo lại trúng thăm [1].
Sau khi đề án thiết kế được chọn, Đô đốc Duperré
cho đấu thầu việc xây dựng thánh đường và cũng
chính kiến trúc sư J. Bourad là người trúng thầu
và trực tiếp giám sát công tŕnh này. Mọi vật
liệu từ xi măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ
Pháp sang. Đặc biệt mặt ngoài của công tŕnh xây
bằng loại gạch đặt làm tại Marseille (Pháp) để
trần, không tô trát, (đến nay vẫn c̣n màu sắc
hồng tươi), không bám bụi rêu.
Ngày 7 tháng
10 năm 1877, Giám mục Isidore Colombert đặt viên
đá đầu tiên trước mặt Phó soái Nam Kỳ và đông đủ
nhân vật tai mắt thời ấy. Thánh đường được xây
dựng trong 3 năm.
Lễ Phục sinh, ngày 11 tháng 4 năm 1880, lễ cung
hiến và khánh thành được cố đạo Colombert tổ
chức trọng thể với sự có mặt của Thống đốc Nam
Kỳ Le Myre de Vilers.
Hiện nay, trên bệ phía trên, bên trong cửa ra
vào nhà thờ, có chiếc bảng cẩm thạch gắn trong
hành lang (transept) ghi ngày khởi công, ngày
khánh thành và tên vị công tŕnh sư.
Tất cả mọi chi phí xây dựng, trang trí nội thất
đều do Soái phủ Nam Kỳ đài thọ, với số tiền
2.500.000 franc Pháp theo tỷ giá thời bấy giờ.
Ban đầu, thánh đường có tên gọi là Nhà thờ Nhà
nước v́ thánh đường do nhà nước Pháp bỏ tiền xây
dựng và quản lư.
Năm 1895, nhà thờ xây thêm hai tháp chuông, mỗi
tháp cao 57,6 m và hai tháp có 6 chuông đồng lớn
nặng 28,85 tấn. Trên đỉnh tháp có đính một cây
thánh giá cao 3,50 m, ngang 2 m, nặng 600 kg.
Tổng thể chiều cao từ mặt đất lên đỉnh thánh giá
là 60,50 m.
Tượng đồng
Giám mục Adran và Hoàng tử Cảnh
Trên vườn hoa trước nhà thờ, năm 1903, người
Pháp cho dựng tượng đồng Pigneau de Béhaine (c̣n
gọi là Giám mục Adran v́ vị này làm Giám mục
hiệu ṭa Adran) dẫn hoàng tử Cảnh (con vua Gia
Long) để ca ngợi công lao của nước Pháp "bảo
hộ", "khai hóa" cho Việt Nam. Tượng đài này bao
gồm một bệ bằng đá hoa cương đỏ h́nh trụ tṛn và
bên trên là bức tượng tạc h́nh đức cha Adran với
phẩm phục giám mục, tay trái dẫn hoàng tử Cảnh.
Tượng làm bằng đồng, được đúc tại Pháp, giới
b́nh dân thời đó thường gọi là tượng "Hai h́nh"
để phân biệt với tượng "Một h́nh", là bức tượng
của Đô đốc Hải quân Pháp Genouilly ở phía công
trường Mê Linh (cuối đường Hai Bà Trưng, gần bờ
sông Saigon). Năm 1945, tượng này bị phá bỏ,
nhưng cái bệ đài bằng đá hoa cương đỏ th́ vẫn
c̣n tồn tại ở đó mà không có bất cứ một bức
tượng nào ở trên.
Năm 1959, Linh mục Giuse Phạm Văn Thiên (sau làm
Giám mục giáo phận Phú Cường, nay đă qua đời),
cai quản Giáo xứ Saigon bấy giờ, đi dự đại hội
Thánh Mẫu ở Vatican, đă đặt tạc một tượng Đức Mẹ
Ḥa B́nh bằng loại đá cẩm thạch quư hiếm.
Khi tượng từ
Roma gửi sang Saigon bằng đường thủy, Linh mục
Giuse Phạm Văn Thiên đă làm lễ dựng tượng trên
cái bệ đài vẫn c̣n để trống kể từ năm 1945 vào
ngày 16 tháng 2 năm 1959 và dâng tước hiệu Nữ
Vương Ḥa B́nh. Tự tay linh mục viết câu kinh
cầu nguyện "Xin Đức Mẹ cho Việt Nam được ḥa
b́nh" rồi đọc trước đông đảo quan khách có mặt
hôm ấy.
Ngày hôm sau, Hồng y Aganianian từ Roma qua
Saigon để chủ toạ lễ bế mạc Đại hội Thánh Mẫu,
đă làm phép bức tượng này vào buổi chiều ngày 17
tháng 2 năm 1959. Do bức tượng này mà từ đó Nhà
thờ có tên gọi là Nhà thờ Đức Bà.
Ngày 05/12/1959, Ṭa Thánh đă cho phép làm lễ
"xức dầu", tôn phong Nhà thờ Chánh ṭa Saigon
lên hàng Vương Cung Thánh Đường (basilique). Từ
đó, tên gọi chính thức của thánh đường là Vương
cung thánh đường Đức Bà Saigon.
Năm 1960, Ṭa Thánh thành lập hàng giáo phẩm
Việt Nam với ba ṭa Tổng Giám mục tại Hà Nội,
Huế và Saigon. Nhà thờ trở thành nhà thờ chinh
ṭa của vị Tổng giám mục Saigon cho đến ngày
nay.
Những nét đặc sắc
Trong quá
tŕnh xây dựng, toàn bộ vật liệu xây dựng từ xi
măng, sắt thép đến ốc vít đều mang từ Pháp sang.
Mặt ngoài của công tŕnh xây bằng loại gạch đặt
làm tại Marseille để trần, không tô trát, (đến
nay vẫn c̣n màu sắc hồng tươi), không bám bụi
rêu.
Một số ngói vỡ trong nhà thờ có in hàng chữ
Guichard Carvin,
Marseille St André France
(có lẽ là nơi sản xuất loại ngói này), mảnh ngói
khác lại có hàng chữ Wang-Tai Saigon. Có thể đây
là mảnh ngói được sản xuất sau tại Saigon dùng
để thay thế những mảnh ngói vỡ trong thời gian
Thế chiến thứ hai do những cuộc không kích của
quân Đồng Minh.
Toàn bộ thánh đường có 56 ô cửa kính màu do hăng
Lorin của tỉnh Chartres (Pháp) sản xuất.
Móng của thánh đường được thiết kế đặc biệt,
chịu được tải trọng gấp 10 lần toàn bộ kiến trúc
ngôi nhà thờ nằm bên trên. Và một điều rất đặc
biệt là nhà thờ không có ṿng rào hoặc bờ tường
bao quanh như các nhà thờ quanh vùng Saigon -
Gia Định lúc ấy và bây giờ.
Nội thất thánh đường được thiết kế thành một
ḷng chính, hai ḷng phụ tiếp đến là hai dăy nhà
nguyện. Toàn bộ chiều dài thánh đường là 133 m,
tính từ cửa ngăn đến mút chót của pḥng đọc
kinh. Chiều ngang của hành lang là 35 m. Chiều
cao của thánh đường là 21 m. Sức chứa của thánh
đường có thể đạt tới 1.200 người.
Nội thất thánh đường có hai hàng cột chính h́nh
chữ nhật, mỗi bên sáu chiếc tượng trưng cho 12
vị thánh tông đồ.
Ngay sau hàng
cột chính là một hành lang với khá nhiều khoang
có những bàn thờ nhỏ (hơn 20 bàn thờ) cùng các
bệ thờ và tượng thánh nhỏ làm bằng đá trắng khá
tinh xảo. Bàn thờ nơi Cung Thánh làm bằng đá cẩm
thạch nguyên khối có h́nh sáu vị thiên thần khắc
thẳng vào khối đá đỡ lấy mặt bàn thờ, bệ chia
làm ba ô, mỗi ô là một tác phẩm điêu khắc diễn
tả thánh tích.
Trên tường được trang trí nổi bật 56 cửa kính mô
tả các nhân vật hoặc sự kiện trong Thánh Kinh,
31 h́nh bông hồng tṛn, 25 cửa sổ mắt ḅ bằng
kính nhiều màu ghép lại với những h́nh ảnh rất
đẹp. Tất cả các đường nét, gờ chỉ, hoa văn đều
tuân thủ theo thức Roman và Gôtich, tôn nghiêm
và trang nhă. Tuy nhiên, trong số 56 cửa kính
này hiện chỉ c̣n hai cửa là nguyên vẹn như xưa.
Nội thất thánh
đường ban đêm được chiếu sáng bằng điện (không
dùng đèn cầy) ngay từ khi khánh thành. Vào ban
ngày, với thiết kế phối sáng tuyệt hảo, hài ḥa
với nội thất tạo nên trong nội thất thánh đường
một ánh sáng êm dịu, tạo ra một cảm giác an lành
và thánh thiện.
Ngay phía trên
cao phía cửa chính là "gác đàn" với cây đàn
organ ống, một trong hai cây đàn cổ nhất Việt
Nam hiện nay. Đàn này được các chuyên gia nước
ngoài làm bằng tay, thiết kế riêng, để khi đàn
âm thanh đủ cho cả nhà thờ nghe, không nhỏ mà
cũng không ồn. Phần thân đàn cao khoảng 3 m,
ngang 4 m, dài khoảng 2 m, chứa những ống hơi
bằng nhôm đường kính khoảng một inch. Phần điều
khiển đàn nằm riêng nối với thân đàn bằng những
trục, có những phím đàn như đàn organ b́nh
thường và những phím to đặt dưới sàn nhà (dài
chừng 3 m, ngang khoảng 1m) để người điều khiển
đàn đạp lên khi dùng nốt trầm. Đàn c̣n có những
thanh gơ lớn để đập vào phần dưới các ống hơi
phát ra âm thanh.
Hiện nay, cây đàn này đă hoàn toàn hỏng do bị
mối ăn phần gỗ bàn phím điều khiển bằng tay.
Ban đầu, hai
tháp chuông cao 36,6 m, không có mái và chỉ có
độc một chiếc cầu thang hẹp chừng 40 cm bề
ngang. Nội thất gác chuông rất tối và sàn được
lót sơ sài bằng những miếng gỗ nhỏ cách khoảng,
nh́n xuống thấy sâu hút. Vào năm 1895, thánh
đường xây thêm hai mái chóp để che gác chuông
cao 21 m, theo thiết kế của kiến trúc sư Gardes,
tổng cộng tháp chuông cao 57 m. Có tất cả 6
chuông lớn (sol, la, si, đô, rê, mi), gồm sáu
âm, nặng tổng cộng 28,85 tấn, đặt dưới hai lầu
chuông. Bộ chuông này được chế tạo tại Pháp và
mang qua Saigon năm 1879. Trên tháp bên phải
treo 4 quả chuông (sol, si, rê, mi); tháp bên
trái treo 2 chuông (la, đô). Trên mặt mỗi quả
chuông đều có các họa tiết rất tinh xảo.
Ba quả chuông to nhất là chuông si nặng 3.150
kg, chuông re nặng 2.194 kg và đặc biệt là
chuông sol là một trong những quả chuông lớn
nhất thế giới: nặng 8.785 kg, đường kính miệng
chuông 2,25 m, cao 3,5 m (tính đến núm treo).
Chuông này chỉ ngân lên mỗi năm một lần vào đêm
Giáng Sinh.
Các chuông đều
được điều khiển bằng điện từ bên dưới. Riêng ba
chiếc chuông lớn trước khi đánh đều được khởi
động bằng cách đạp (v́ quá nặng) cho lắc trước
khi bật công tắc điện.
Vào ngày thường, thánh đường chỉ cho đổ một
chuông mi hoặc rê vào lúc 5 giờ và 17g30.
Vào ngày lễ và Chủ nhật, nhà thờ thường cho đổ
ba chuông.
Vào đêm Giáng Sinh th́ mới đổ cả 6 chuông. Tiếng
chuông ngân xa tới 10 km theo đường chim bay.
Bộ máy đồng hồ
trước ṿm mái cách mặt đất chừng 15 m, giữa hai
tháp chuông được chế tạo tại Thụy Sĩ năm 1887,
hiệu R.A, cao khoảng 2,5 m, dài khoảng 3 m và
ngang độ hơn 1 m, nặng hơn 1 tấn, đặt nằm trên
bệ gạch. Dù thô sơ, cũ kỹ nhưng hoạt động khá
chính xác. Để điều chỉnh đồng hồ, phía sau máy
có một chiếc đồng hồ to cỡ đồng hồ reo trong gia
đ́nh. Chỉ cần theo dơi chiếc đồng hồ con này, có
thể biết đồng hồ lớn chạy chậm, nhanh, đúng hay
sai giờ. Mỗi tuần phải lên giây đồng hồ một lần
và chiếc cần để lên giây đồng hồ giống như tay
quay máy xe. Đồng hồ c̣n có hệ thống chuông
riêng, tuy nhiên đă không c̣n hoạt động do dây
cót quá cũ.
Mặt trước thánh đường là một công viên với bốn
con đường giao nhau tạo thành h́nh thánh giá.
Trung tâm của công viên là bức tượng Đức Mẹ Ḥa
b́nh (hay Nữ vương Ḥa b́nh). Tượng do nhà điêu
khắc G. Ciocchetti thực hiện năm 1959. Tên của
tác giả được khắc ở trên tà áo dưới chân, phía
bên trái của bức tượng. Bức tượng cao 4,6 m,
nặng 5,8 tấn, bằng đá cẩm thạch trắng của Ư,
được tạc với chủ đích để nh́n từ xa nên không
đánh bóng, v́ vậy mà toàn thân tượng, kể cả vùng
mặt vẫn c̣n những vết điêu khắc thô. Tượng Đức
Mẹ trong tư thế đứng thẳng, tay cầm trái địa cầu,
trên trái địa cầu có đính cây thánh giá, mắt Đức
Mẹ đăm chiêu nh́n lên trời như đang cầu nguyện
cho Việt Nam và cho thế giới được hoà b́nh. Chân
Đức Mẹ đạp đầu con rắn (mà hiện nay, đầu con rắn
đă bị bể mất cái hàm trên).
Trên bệ đá,
phía trước bức tượng, người ta có gắn một tấm
bảng đồng với hàng chữ Latinh:
REGINA PACIS - OPRA PRONOBIS - XVII. II. MCMLIX
Nghĩa là: NỮ VƯƠNG H̉A B̀NH - CẦU CHO CHÚNG TÔI
- 17.02.1959
Phía dưới bệ đá, người ta đă khoét một cái hốc
chỗ giáp với chân tượng Đức Mẹ, trong đó có một
chiếc hộp bằng bạc, chứa những lời kinh cầu
nguyện cho hoà b́nh của Việt Nam và thế giới.
Những lời cầu nguyện đó được viết lên trên những
lá mỏng bằng những chất liệu khác nhau như bằng
vàng, bạc, thiếc, nhôm, giấy, da và đồng, được
gởi tới từ nhiều miền của Việt Nam, kể cả từ một
số vùng ngoài miền Bắc.