Written by Trúc Giang MN 
						
						
						(Mô h́nh nhà tù Sơn Tây. Nguồn: Air and Space Power 
						Journal)
						
						Các chính khách Hoa Kỳ hiện nay, nhiều người đă tham dự 
						cuộc chiến tranh bảo vệ miền Nam, chống lại sự bành 
						trướng của Chủ Nghĩa Cộng Sản, cụ thể là bảo vệ tự do, 
						dân chủ cho người dân của Việt Nam Công Hoà.
						Trong số đó, nổi bật các Thượng Nghị Sĩ McCain, Jim Webb 
						và cựu TNS, cựu Đại sứ Hoa Kỳ ở VN là ông Peter 
						Peterson. Nhiều công dân ưu tú của Hoa Kỳ đă bị cầm tù, 
						hành hại trong các trại tù Cộng Sản ở miền Bắc.
						
						Cuộc hành quân của Biệt kích Hải quân Hoa Kỳ vào 
						Abbottabad, Pakistan để xử tội tên trùm khủng bố Bin 
						Laden, là một cuộc hành quân táo bạo và phi thường, 
						khiến cho người ta nhớ đến cuộc đột kích vào Sơn Tây, 
						Bắc Việt Nam, để giải cứu tù binh Hoa Kỳ năm 1970.
						Đột kích vào Sơn Tây là một kế hoạch đuợc tổ chức hết 
						sức công phu và tốn kém, với sự tham gia của nhiều viên 
						chức cao cấp trong bộ máy chiến tranh Hoa Kỳ. Bộ trưởng 
						Quốc pḥng Melvin Laird, Bộ trưởng Ngoại giao William 
						Rogers, cố vấn an ninh quốc gia Henry Kissinger, giám 
						đốc CIA Richard Helms.
						
						
Đích thân Tổng thống Richard Nixon phê chuẩn kế hoạch 
						nầy.
						Đột kích Sơn Tây vô cùng táo bạo, liều lĩnh và nguy hiểm 
						nhất, bởi v́ địch đă cảnh giác cao độ trong t́nh trạng 
						thường xuyên bị không tập từ năm 1965 đến 1968 và v́ 
						mạng lưới hỏa tiễn pḥng không dày đặc của Hà Nội.
						
						
1* Cuộc đột kích
						Vào lúc 2 giờ 18 phút rạng ngày 21-11-1970, lực lượng 
						Đặc nhiệm Hoa Kỳ do Đại tá Arthur Simons chỉ huy, đă có 
						mặt tại trại giam tù binh HK ở Sơn Tây.
						Trước hết Trung tá phi công Herb Zehnder, chở toán xung 
						kích do Đại úy Richard J. Dick Meadows chỉ huy, đă đáp 
						xuống sân trại tù, nhưng chiếc trực thăng vướng vào sợi 
						dây phơi quần áo, cánh quạt chặt đứt một thân cây rồi 
						rớt mạnh xuống đất.
						Đại úy Meadows cho biết, viên kỹ sư cơ khí Leroy Wright 
						bị b́nh chữa lửa trên trực thăng đập vào chân làm bể mắt 
						cá. Trung úy George Petrie, 31 tuổi thuộc Mủ nồi xanh, 
						bị hất tung ra khỏi trực thăng. Ngoài ra, không có ai bị 
						thương cả.
						Lập tức, cả nhóm nhảy ra khỏi trực thăng và bắn hạ những 
						tên lính gác. Đại úy Meadows chạy vào khu nhà, vừa nói 
						qua loa phóng thanh cầm tay “Chúng tôi là quân nhân Mỹ 
						đến cứu các bạn đây. Tất cả nằm xuống tránh đạn. Chúng 
						tôi sẽ vào ngay”.
						Thế nhưng không nghe được một tiếng trả lời nào cả. Trại 
						vắng tanh.
						
						Trong khi đó, Trung tá phi công John A. Allison cho trực 
						thăng chở toán yểm trợ do Trung tá Elliott P. Sudnor chỉ 
						huy, đáp xuống bên ngoài ṿng tường, vỉ sân bên trong 
						rất hẹp, không đủ chỗ cho hai chiếc trực thăng. Thượng 
						sĩ Herman Spencer dùng chất nổ phá thủng bức tường, nhóm 
						yểm trợ chạy vào tiếp tay với nhóm xung kích đang tiến 
						vào lục soát các căn nhà.
						Trung sĩ Tyrone J. Adderly dùng súng M-79 khoá miệng một 
						ổ súng máy ở vị trí nguy hiểm nhất.
						Cũng vào thời gian nầy, Trung tá phi công Warren A. 
						Britton, chở toán quân do Đại tá Arthur Simons chỉ huy, 
						cho trực thăng đáp xuống vị trí ấn định, rồi liền cất 
						cánh lên cao. Thế nhưng cả toán bị thả lộn vào trường 
						trung học được lấy làm bộ chỉ huy sư đoàn 12 với 12,000 
						quân trú đóng gần đó.
						Thấy cảnh trí lạ hoắc, Đại tá Simons biết là đă sai địa 
						điểm, nhưng trực thăng đă bay lên rồi, cho nên phải 
						quyết tử chiến thôi.
						
						Nghe tiếng động, bộ đội CS túa ra trong t́nh trạng hoảng 
						hốt, đang mặc quần xà lỏn, áo thun và tay không.
						Đại úy Wather bắn gục 3 tên. Đại tá Simons nhảy xuống 
						giao thông hào, đụng phải một bộ đội đang ngơ ngác kinh 
						ngạc, trong tíc tắc, tên nầy bị hạ tại chỗ. Trong khoảng 
						10 phút, cả toán hạ khoảng 100 bộ đội.
						Phi công biết đổ quân sai vị trí, bèn trở lại đón và đưa 
						cả toán về trại tù Sơn Tây.
						Có khoảng 50 bộ đội bị hạ ở trại tù Sơn Tây. Toán đặc 
						nhiệm lục soát, t́m các đường hầm, không thấy tù binh 
						nào cả.
						
						Toán quân cảm tử rút lui sau 29 phút đáp xuống mặt đất. 
						Đại úy Meadows dùng chất nổ phá hủy chiếc trực thăng bị 
						nạn rồi rút.
						Sau cuộc hành quân, toán đặc nhiệm mới biết là tù binh 
						đă được di chuyển ra khỏi Sơn Tây hồi đầu tháng 7 năm 
						1970 v́ vùng nầy bị cơn ngập lụt đe dọa.
						Tuy không cứu được tù binh, nhưng cuộc đột kích được 
						đánh giá là không hoàn toàn vô ích. V́ Hà Nội biết được 
						rằng HK rất quan tâm đến tù binh Mỹ, cho nên đă thay đổi 
						cách đối xử, dùng tù binh làm lợi khí trên bàn hội nghị 
						ở Paris. Và tù binh sau đó được dễ chịu hơn.
						Khi được biết vụ đột kích Sơn Tây, tinh thần các tù binh 
						phấn khởi hơn v́ biết rằng đất nước HK không quên họ. Và 
						họ an ḷng, “học tập tốt, lao động tốt” với hy vọng là 
						sẽ được sớm về đoàn tụ với gia đ́nh.
						
						
2* Trại tù Sơn Tây
						
						Năm 1967, Ủy Ban Tù Binh Liên Cơ Quan được thành lập, do 
						cục T́nh báo Bộ Quốc Pḥng (DIA) quản lư. Đă tiến hành 
						điều tra, thu thập tin tức về tù binh Mỹ ở Việt Nam.
						Vào mùa Xuân năm 1970, được biết có khoảng 450 tù binh 
						HK bị giam giữ ở miền Bắc VN và có 970 quân nhân bị mất 
						tích trong các cuộc hành quân.
						Tin tức t́nh báo cho biết, có khoảng 55 đến 70 tù binh 
						Mỹ ở nhà tù Sơn Tây.
						Trại giam Sơn Tây là một địa điểm rất nhỏ, nằm dưới 
						những tàng cây cao 40 ft (12m), che khuất tầm nh́n. Chỉ 
						có một trụ điển và đường dây điện thoại chạy vào trại 
						giam. Những tù binh bị giữ trong 4 căn nhà. Có 3 vọng 
						gác cao để quan sát. Bức tường bao bọc chung quanh cao 7 
						ft (2m).
						
						Khu nhà rất hẹp, chỉ đủ chỗ cho một trực thăng đáp xuống 
						mà thôi. Không ảnh cho thấy, có một trường huấn luyện 
						pháo binh trong khu vực. Sư đ̣a 12 với trên 10,000 quân 
						đồn trú ở đó. Một trường trung học được xử dụng làm bộ 
						chỉ huy sư đoàn. Cách nhà tù Sơn Tây 32 km là một căn cứ 
						không quân.
						Trong t́nh trạng hỏa lực như thế, cuộc đột kích cứu tù 
						binh phải được thực hiện chớp nhoáng.
						
						
3* Kế hoạch hành quân
						3.1. Dự thảo kế hoạch
						
						Năm 1970, Thiếu tướng Donald Blackburn, cựu Chỉ huy 
						trưởng MACV-SOG (Military Assistance Command Vietnam – 
						Studies Oservations Group), là người đưa ra ư kiến, tổ 
						chức một cuộc đột kích để cứu tù binh bị giam ở nhà tù 
						Sơn Tây. Kế hoạch tổng quát được tŕnh lên Tổng Tham 
						Trưởng Liên Quân là Đại tướng Earle Wheeler.
						Tháng 6 năm 1970, kế hoạch được chấp thuận, và một toán 
						gồm 15 chuyên viên t́nh báo được cử vào để soạn thảo chi 
						tiết của kế hoạch. Ngày 8-8-1970, một lực lượng chính 
						thức được thành lập, mang tên là Chiến dịch “Bờ biển Ngà 
						(Operation Ivory Coast), dưới quyền chỉ huy của Tướng D. 
						Blackburn.
						
						Những không ảnh cho thấy một chữ “K” thật to được vẽ 
						trên mặt đất của trại Sơn Tây. Có nghĩa là “Come get 
						us”, hăy đến cứu chúng tôi. Ở trại tù Ấp Lỡ, cách Sơn 
						Tây không xa, không ảnh chụp được chữ SAR (Search and 
						Rescue), với mũi tên chỉ số 8, cho biết khoảng cách từ 
						nhà tù đến chỗ “lao động”.
						
						
3.2. Tổ chức và huấn luyện 
						Thiếu tướng Donald D. Blackburn chọn Đại tá Arthur D. 
						“Bull” Simons làm trưởng toán. Đại tá Simons đến căn cứ 
						Lực Lượng Đặc Biệt Fort Brag để chọn 100 người trong số 
						500 t́nh nguyện. Đại úy Richard J. Dick Meadows được 
						chọn chỉ huy toán tấn công vào trại tù Sơn Tây để cứu tù 
						binh.
						
						3.3. Giờ hành động
						Đêm 18-11-1970, đội Đặc nhiệm được đưa lên phi cơ vận 
						tải C-141. 56 cảm tử quân đă không c̣n mặc quân phục hay 
						mang phù hiệu của đơn vị nữa. Họ được đưa đến phi trường 
						Thakhi, Thái Lan. Trước khi xuất phát, họ mới được cho 
						biết cuộc đột kích bí mật nầy là để giải cứu các tù binh 
						Mỹ trong trại tù Sơn Tây.
						Theo kế hoạch, nhóm biệt kích lên các trực thăng HH-53 
						tại căn cứ Không quân Udorn, Thái Lan, bay qua Lào rồi 
						vào Sơn Tây.
						
						3.4. Mở cuộc không tập đánh lạc hướng
						Để đánh lạc hướng, một cuộc không tập vào cảng Hải Pḥng 
						miền Bắc VN được tổ chức đồng thời với cuộc đột kích.
						
						10 chiếc F-4 Phantom ra nghênh chiến với mấy chiếc MiG 
						đang bay tuần tiểu. Trong khi đó, một chiếc F-5 Wild 
						Weasel tấn công các vị trí hỏa tiễn pḥng không. 5 chiếc 
						A-1 Skyraider tấn công các căn cứ quân sự.
						4* Các chiến dịch không tập miền Bắc Việt Nam
						
						Các tù binh binh Mỹ hầu hết là những sĩ quan, phi công 
						của những chiến đấu cơ bị bắn hạ trong những cuộc không 
						tập Bắc Việt trải qua 5 chiến dịch trong suốt cuộc chiến 
						ở Việt Nam.
						
						
4.1. Chiến dịch Mũi tên xuyên (Operation Pierce 
						Arrow)
						
						Là chiến dịch không kích Bắc Việt, bắt đầu ngày 
						5-8-1964, mục đích trả đủa vụ “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ”. 
						Chiến dịch do KQ và HQ Hoa Kỳ thực hiện với những chiếc 
						phi cơ F-8 Crusade, A-1 Skyraider, A-4 Skyhawk, từ 2 
						Hàng không mẫu hạm USS Ticonderoga và USS Constellation, 
						từ biển Đông bay vào, thực hiện 64 lượt đánh phá Nghệ 
						An, Quảng Ninh, Thanh Hoá, Quảng B́nh.
						Phá hủy 25 tàu tuần tiểu, 7 hệ thống pḥng không, tiêu 
						hủy kho xăng dầu ở Vinh.
						2 phi cơ Mỹ bị bắn rơi. 1 phi công thiệt mạng, 1 bị bắt 
						là Trung úy HQ Everett Alvarez. Bị bắt ngày 5-8-1964, đă 
						sống 2,120 ngày trong tù, tính đến ngày 20-5-1970.
						
						
4.2. Chiến dịch Flaming Dart
						Bắt đầu ngày 7-12-1965. Mục đích trả đủa việc tấn công 
						của VC vào căn cứ Không quân HK ở Pleiku. Các phi cơ 
						oanh kích Đồng Hới (Quảng B́nh), Cồn Cỏ (Vinh)
						
						
4.3. Chiến dịch Sấm Rền (Operation Rolling Thunder)
						Chiến dịch kéo dài từ ngày 2-3-1965 đến 1-11-1968. Mục 
						đích:
						- Ép Hà Nội ngừng xâm nhập miền Nam VN
						- Phá hủy hệ thống giao thông, các cơ sở công nghiệp, 
						các lực lượng pḥng không
						- Ngăn chặn nguồn tiếp tế vũ khí của CSBV đưa vào miền 
						Nam.
						
						Kết quả
						
						Tổn thất phía CSBV:
						20,000 quân bị tiêu diệt
						139 phi cơ
						38 dàn hỏa tiễn
						2,418 pháo pḥng không
						
						
Tổn thất phía Hoa Kỳ:
						
						835 quân nhân bị bắt, mất tích và chết. (222 bị bắt làm 
						tù binh)
						2,251 chiến đấu cơ bị bắn hạ
						
						
4.4. Chiến dịch Linebacker 1
						Bắt đầu ngày 16-4-1972.
						- Ném bom miền Bắc
						- Thả thủy lôi phong tỏa cảng Hải Pḥng
						- Ngăn chận sự “chi viện” từ Trung Cộng và Liên Xô.
						
						Hà Nội bị tấn công bất ngờ. Hạ tầng cơ sở bị tàn phá 
						nặng nề.
						Hoa Kỳ có 34 chiếc B-52 và 4 chiếc F-111 bị bắn hạ.
						Nhiều phi cơ các loại bị hạ. Nhiều phi công bị bắt làm 
						tù binh.
						Chiến dịch nổi bật nhất là chiến dịch Linebacker II.
						
						4.5. Chiến dịch Linebacker II
						Ngày 15-12-1972, đàm phán Paris bế tắc do Lê Đức Thọ rời 
						bỏ pḥng họp. Tổng thống Nixon buộc Bắc Việt phải trở 
						lại bàn hội nghị và đàm phán nghiêm chỉnh, bằng chiến 
						dịch ném bom 12 ngày đêm trong dịp Giáng Sinh năm 1972.
						Chiến dịch bắt đầu từ ngày 18-12-1972 đến 30-12-1972. Đó 
						là chiến dịch mang tên
						Linebacker II. Và sau đó, Lê Đức Thọ trở lại bàn hội 
						nghị Paris.
						
						
4.5.1. Lực lượng Hoa Kỳ
						- 197 B-52 trên tổng số 400 chiếc của HK
						- 1,077 phi cơ chiến thuật, trên tổng số 3,041 chiếc
						-6 Hàng không mẫu hạm, trên tổng số 24 chiếc.
						741 phi vụ B-52 rải thảm
						
						3,920 lượt ném bom chiến thuật.
						Tổng cộng 15,000 tấn bom thả xuống 18 địa điểm, là các 
						mục tiêu công nghệ, quân sự, các ổ pḥng không, các dàn 
						hỏa tiễn SAM, nhà ga, bến cảng, cầu cống, phi trường, 
						trạm phát điện, đài phát thanh…
						Thả bom liên tục suốt ngày đêm, trừ ngày Lễ Giáng Sinh 
						năm 1972.
						Mỗi chiếc B-52 trang bị 66 quả bom 750 pounds hoặc 108 
						quả 500 lbs, chủ yếu là tấn công Hà Nội, Hải Pḥng.
						
						
						
						Không Lực HK dùng phi cơ tác chiến điện tử, gây nhiễu để 
						vô hiệu hoá Radar điều khiển là SAM SA-2 của Liên Xô. 
						(SAM=Surface-to-Air-Missile)
						Hoa Kỳ quyết đưa Hà Nội trở lại “Thời kỳ đồ đá”. HK tấn 
						công vào các ga, bến cảng, đuờng sắt, đường bộ, kể cả 
						việc thả ḿn ở cảng Hải Pḥng, mục đích ngăn chận việc 
						tiếp tế vũ khí từ Trung Cộng và Liên Xô chuyển sang.
						
						
4.5.2. Lực lượng của Cộng Sản Bắc Việt
						- 334 hỏa tiễn SA-2 được phóng đi.
						- 2,036 đạn pháo 100 ly
						- 15,669 viên đạn 57 ly
						- 19,450 viên đạn 37 ly
						- 1,147 viên đạn 14.5 ly.
						
						
Kết quả
						· Cộng Sản tuyên bố:
						
						Trong 12 ngày đêm đă bắn hạ:
						34 chiếc B-52
						47 phi cơ các loại.
						49 quân nhân HK bị bắt làm tù binh.
						· Hoa Kỳ tuyên bố:
						
						20 chiếc B-52 bị bắn rơi ở VN, Lào.
						5 chiếc B-52 bị hư hại trung b́nh
						103 phi cơ chiến thuật bị bắn hạ
						76 phi công bị bắt làm tù binh, trong đó có 59 phi công 
						lái B-52.
						4.5.3. Diễn tiến từng ngày đêm của cuộc không tập
						Thông thường, Hoa Kỳ đánh bom 3 đợt trong 24 giờ.
						
						Đêm 18 rạng 19-12-1972.
						19 giờ 44 phút
						Các tốp B-52 đầu tiên oanh kích các sân bay Nội Bài, Hoà 
						Lạc và các nhà ga Yên Viên, Đông Anh, Cổ Loa. Sân bay 
						Nội Bài bị phá hỏng đường băng, phi cơ không cất cánh 
						được.
						Lực lượng CSBV phóng 15 hoả tiển SAM, nhưng không hạ 
						được chiếc B-52 nào cả.
						20 giờ 13 phút
						
						Tiểu đoàn Hỏa Tiễn 59, bắn hạ 1 B-52. 3 phi công nhảy dù 
						ra bị bắt. 3 chết.
						20 giờ 16 phút
						Một B-52 bị trúng đạn ở Nghệ An. Phía HK xác nhận phi cơ 
						nầy không bị bắn rơi.
						Ngày 19-12-1972
						
						Hoa Kỳ tấn công Hà Nội 3 đợt.
						B-52 xuất kích bỏ bom 129 lần
						Phi cơ chiến thuật xuất kích 163 lần, không kích Hà Nội, 
						Hải Pḥng, Hà Tây.
						
						Phía CSBV tuyên bố bắn hạ:
						- 3 chiếc B-52.
						- 4 chiếc phi cơ chiến thuật các loại: A-7, F-111, F-4J
						- 5 phi công nhảy dù ra bị bắt, trong đó có Đại úy James 
						Carne, lái chiếc A-7C. Một số tử thương.
						
						Ngày 20-12-1972
						- 99 phi vụ B-52
						- 100 phi vụ phi cơ cường kích (tấn công mặt đất) đánh 
						vào Hà Nội, Hải Pḥng tại các vị trí hỏa tiễn pḥng 
						không. Chỗ yếu của hỏa tiển SA-2 là phải có bệ phóng cố 
						định, cho nên không chạy khỏi bị ăn bom.
						
						23 giờ ngày 20-12-1972, HK hủy bỏ đánh Hà Nội. 9 chiếc 
						B-52 từ phi trường U-Tapao, Thái Lan, chuyển hướng, oanh 
						kích Bắc Giang. 6 B-52 từ căn cứ Anderson, Guam, được 
						lịnh bay về căn cứ.
						
						Hà Nội tuyên bố đă bắn hạ 1 B-52 và bắn trúng 2 B-52 
						khác.
						Đến nửa đêm 20-12-1972, 9 tiểu đoàn tên lửa quanh Hà Nội 
						chỉ c̣n có 12 quả SA-2. Nhiều nơi “trắng bệ”, tức là 
						không c̣n trái hỏa tiễn nào cả.
						Ngày 21-12-1972
						
						HK vẫn tấn công 3 đợt.
						- 36 phi vụ B-52
						- 92 phi vụ cường kích yểm trợ cho B-52 đánh bom vào 9 
						mục tiêu ở HN, Bắc Giang, Yên Bái, Hà Tây, Vĩnh Phú.
						
						Phía CSBV tuyên bố đă bắn rơi:
						- 1 chiếc B-52
						- 1 chiếc F-111
						
						Đêm 22 rạng 23-12-1972
						- 24 phi vụ A-7
						- 34 phi vụ F-4
						- 65 phi vụ F-4, F-105
						- 30 phi vụ B-52
						
						Đánh vào nhà máy điện Việt Tŕ, ga Bắc Giang, ga Kép, 
						không kích Hải Pḥng.
						Phía CSBV tuyên bố đă bắn trúng:
						
						2 chiếc B-52.
						Hoa Kỳ xác nhận chỉ có một B-52 bị thương, về đến phi 
						trường U-Tapao với 19 lỗ thủng trên toàn thân. 70 giờ 
						sửa chữa.
						Đêm 23 rạng 24-12-1972
						
						Sau 5 đêm liên tục oanh kích HN, HP và các vùng phụ cận, 
						đêm nầy HK đổi hướng bay.
						- 36 chiếc F-4
						- 24 chiếc A-7
						- 30 B-52
						Các phi cơ nầy từ phi trường U-Tapao bay ṿng ra biển, 
						rồi bay sát biên giới VN-TQ, vào oanh kích các vị trí 
						hoả tiễn pḥng không SA-2 đặt ở HN.
						Hoa Kỳ thừa nhận, mất 1 chiếc EB-66 do tai nạn và 1 
						chiếc F-4J bị cao xạ bắn rơi.
						
						Ngày 24-12-1972
						- 30 chiếc B-52
						69 chiếc phi cơ cường kích và tiêm kích, cùng các phi cơ 
						tác chiến điện tử (Tiêm kích: tấn công trên không, không 
						chiến), vẫn dùng chiến thuật “ṿng tránh” bay vào đánh 
						phá các mục tiêu đă định.
						Không có phi cơ nào bị bắn rơi cả. HK xác nhận, 1 B-52 
						hạ cánh xuống phi trường U-Tapao với 12 lỗ thủng trên 
						thân. Mất 226 giờ sửa chữa.
						
						Ngày 25-12-1972.
						Tổng thống Nixon tuyên bố tạm ngừng ném bom một ngày 
						nhân dịp lễ Giáng Sinh.
						Ngày 26-12-1972
						
						Là đột tấn công quy mô lớn nhất, cường độ mạnh nhất.
						- 120 phi vụ B-52
						- 32 phi vụ A-7
						- 8 phi vụ F-4
						Trước khi B-52 ném bom, 10 chiếc F-111A đánh phá các phi 
						trường, nhà ga, đường sắt.
						Để yểm trợ và bảo vệ B-52, 113 chiếc F-4, F-5 và phi cơ 
						tác chiến điện tử, phá nhiễu Radar, để vô hiệu hoá hỏa 
						tiển điều khiển bằng Radar.
						
						Hướng bay cũng thay đổi, là từ 4 hướng đột nhập vào Hà 
						Nội, làm rối loạn các hướng hỏa tiễn.
						Tại Hà Nội, lúc 20 giờ 53 phút, 56 chiếc F-105, F-4 rải 
						một bức tường nhiễu, dầy từ 5 đến 7 km, rộng hàng chục 
						km, bao phủ cả bầu trời HN, làm vô hiệu Radar và hỏa 
						tiễn điều khiển, đánh phá vào các mục tiêu đă định.
						
						Kế đó, 27 tốp B-52 từ Lào, 13 tốp từ Biển Đông bay vào 
						đánh phá Hà Nội.
						Phía CSBV tuyên bố đă bắn rơi 8 chiếc B-52.
						Phía HK xác nhận chỉ có 1 chiếc bị rơi.
						
						Ngày và đêm 27-12-1972
						- 26 phi vụ A-7
						- 29 phi vụ F-4
						
						Đánh phá ban ngày, dọn đường cho B-52 ném bom ban đêm. 
						Trên đường bay ra, toán MiG-21 chận đánh, bắn rơi 2 
						chiếc F-4E và 1 chiếc F-4 trong trận không chiến.
						Từ 22 giờ 59 phút, 60 chiếc B-52 được 101 chiếc phi cơ 
						chiến thuật yểm trợ, đă oanh tạc tiêu diệt 3 trận địa 
						hỏa tiễn SA-2.
						Tiểu đoàn tên lửa 72 bắn rơi 1 chiếc B-52.
						
						Lúc 23 giờ 05 phút, phi công Phạm Tuân điều khiển MiG-21 
						MF, bắn rơi 1 chiếc B-52 ở Sơn La. Phạm Tuân là Trung 
						tướng CSBV từ năm 1999.
						Hoa Kỳ xác nhận có 2 B-52 bị bắn hạ, 1 rơi tại chỗ, 1 
						rơi tại Lào.
						
						Ngày và đêm 28-12-1972
						- 32 chiếc A-37
						- 8 chiếc F-4
						- 60 chiếc B-52
						
						Tấn công diệt cả tiểu đoàn tên lửa 94
						2 tiểu đoàn tên lửa 57 và 77 bị phi cơ HK phá hỏng khí 
						tài. Các phi cơ Mỹ oanh tạc ga Đồng Mỏ, Cổ Loa và các 
						trận địa hỏa tiển SAM ở Phúc Yên.
						Lúc 21 giờ 44 phút, phi công Vũ Xuân Thiều điều khiển 
						MiG-21 bắn rơi chiếc B-52 trên bầu trời Sơn La. Liền 
						ngay sau đó, Vũ Xuân Thiều bị tử thương v́ chiếc MiG bị 
						tiêu diệt.
						Hoa Kỳ xác nhận không có chiếc B-52 nào bị bắn hạ, mà 
						chỉ có chiếc trinh sát RA-5C do MiG bắn rơi.
						
						Ngày và đêm 29-12-1972
						- 55 chiếc B-52
						- 102 phi cơ cường kích và tiêm kích, loại tấn công mặt 
						đất và không chiến, A-7, F-4, F-111 ném bom hủy diệt ga 
						Đồng Mỏ, cơ sở lắp ráp hỏa tiển SAM ở Phúc Yên, Trại Cá, 
						sân bay Kép…
						Phía CSBV tuyên bố đă bắn rơi:
						
						- 1 chiếc B-52
						Nhưng phía Hoa Kỳ xác nhận là không có phi cơ nào bị rơi 
						cả.
						
						Ngày 30-12-1972
						
						Lúc 7 giờ sáng ngày 30-12-1972 (tức 7 giờ tối ngày 
						29-12-1972 giờ Washington)
						Tổng thống Richard Nixon tuyên bố ngưng ném bom phía Bắc 
						vĩ tuyến 20.
						Chiến dịch Linebacker II chấm dứt. Hai bên tuyên bố 
						thiệt hại với những con số khác nhau, khó kiểm chứng.
						
						Phía CSBV tuyên bố đă bắn hạ:
						- 61 chiếc B-52
						- 693 phi cơ các loại
						
						
Phía Hoa Kỳ xác nhận con số phi cơ bị bắn rơi như 
						sau:
						- 19 chiếc B-52
						- 106 phi cơ chiến thuật các loại
						Trong chiến dịch nầy, CSBV tuyên bố rầm rộ là lần đầu 
						tiên, phi cơ B-52 đă bị bắn rơi bởi MiG-21 do Phạm Tuân 
						điều khiển.
						HK tuyên bố đă đưa Hà Nội trở lại “Thời kỳ đồ đá”. Hà 
						Nội tuyên bố chiến thắng vinh quang, lừng lẫy, là đă tạo 
						ra một “Điện Biên Phủ trên không” năm 1972.
						
						Lê Đức Thọ phải trở lại bàn hộị nghị Paris.
						Trong những tù binh HK do CSBV bắt giữ có 2 người nổi 
						tiếng là Thiếu tá McCain, con trai của Đô đốc John S. 
						“Jack” McCain, Jr. Tư lệnh Lực lượng HK ở Thái B́nh 
						Dương. Chiếc A-4E Skyhawk của ông, bị bắn rơi ngày 
						26-10-1967, ông rớt xuống hồ Trúc Bạch, HN. Bị giam ở 
						Hanoi Hilton (Nhà tù Hỏa Ḷ) trong thời gian hơn 5 năm 
						rưởi, được thả ngày 14-3-1073. Người thứ hai là ông 
						Peter Peterson, cựu Thượng Nghị Sĩ HK, và là Đại sứ Mỹ 
						đầu tiên ở Hà Nội.
						Người tù binh đầu tiên và bị tù lâu nhất là Trung úy Hải 
						quân Everett Alvarez, bị bắn rơi ngày 5-8-1964 trong phi 
						vụ ném bom cảng Hải Pḥng. Đa số tù binh Mỹ bị giam ở 
						nhà tù Hỏa Ḷ, mà các tù binh đặt cho cái tên là Hanoi 
						Hilton. Hilton là tên một khách sạn sang trọng ở HN.
						
						
5* Sự “thành công” của cuộc đột kích Sơn Tây
						Sau năm 1975, ông Ross Perot tổ chức một cuộc họp mặt 
						các quân nhân đă tham dự cuộc đột kích Sơn Tây hồi năm 
						1970, tại San Francisco, các quân nhân cảm thấy buồn v́ 
						không cứu được ai cả, nhưng đối với các tù binh, th́ họ 
						được xem là những anh hùng.
						Thành công về mặt tinh thần, là các tù binh trở nên tích 
						cực hơn, hăng hái hơn, v́ biết rằng họ không bị bỏ quên.
						
						Sau vụ tấn công, việc cư xử đối với tù binh thay đổi, 
						trước kia, họ bị xem là những tội phạm, bị tra tấn, hành 
						hạ và khủng bố tinh thần.
						Về chiến thuật, cuộc hành quân đột kích xem như đă thành 
						công. Các quân nhân HK đă vượt một đoạn đường 400 dặm 
						trên lănh thổ địch, vào Sơn Tây để cứu khỏang 65 tù binh 
						ở đó.
						Đại tá Arthur D. Simons cho biết “Trên toàn miền Bắc lúc 
						đó có khoảng 450 sĩ quan và binh sĩ bị cầm tù, chúng tôi 
						dự định mang về một số, nhưng điều quan trọng là chúng 
						tôi truyền đến họ một thông điệp là Tổ quốc không quên 
						họ”.
						
						
6* Kết
						
						Hoa kỳ rất quư trọng tính mạng của người dân, và chính 
						quyền luôn có nhiệm vụ bảo vệ công dân của ḿnh. Biết 
						thế, các tổ chức khủng bố thường nhắm vào việc bắt cóc 
						các thường dân mang quốc tịch HK.
						Trái lại, đối với Cộng Sản Bắc Việt th́ khác. Thái độ họ 
						không nhận lại những cán binh miền Bắc của ḿnh, mà Việt 
						Nam Cộng Ḥa trả tự do ở Sông Bến Hải hồi trước năm 
						1975. Họ đă lừa bịp thế giới, cho rằng chỉ có người dân 
						miền Nam nổi dậy chống chế độ VNCH mà thôi. Sự trơ trẻn 
						ngay giữa lúc, mà trên đường ṃn HCM, hàng chục sư đoàn 
						CSBV xâm nhập, để giết hại con em miền Nam đă tập họp 
						trong những đơn vị quân đội hy sinh tánh mạng, bảo vệ tự 
						do cho đồng bào.
						
						
Trúc Giang
						Minnesota ngày 10-10-2011