Nhận định về t́nh h́nh 
										đất nước hiện nay 
										
											
												
												
												
 
											
											
											
											
 
										
										
										
 
										
										
										Vấn đề Việt Nam vốn phức tạp. T́nh h́nh 
										Việt Nam có thể được nh́n từ nhiều khiá 
										cạnh với những lập trường khác nhau. 
										Người th́ cho rằng Việt Nam đă đạt nhiều 
										tiến bộ về kinh tế từ 1986 đến nay, đồng 
										thời cũng cởi mở cách cai trị khiến 
										người dân được dễ thở hơn. Người khác 
										lại nhận định rằng những tiến bộ tương 
										đối về kinh tế và chính trị ở Việt Nam 
										không thể đắp bù những tụt hậu trong tất 
										cả mọi lănh vực. Tuy nhiên, có một sự 
										thật không thể chối căi, đa số người 
										Việt ở trong và ngoài nước cũng như 
										những nhà quan sát chính trị quốc tế, 
										hay cả những du khách, thấy Việt Nam c̣n 
										qúa nhiều thiếu sót cần phải cải thiện, 
										thấy đất nước và dân tộc Việt Nam c̣n có 
										nhiều tiềm năng để phát triển hơn t́nh 
										trạng hiện tại, nếu những người cai trị 
										dám trực diện với những vấn đề, có thiện 
										chí và quyết tâm giải quyết. Chúng ta 
										không có thiên kiến cho rằng cái ǵ của 
										Việt Nam cộng sản cũng xấu. Nhưng chúng 
										ta cũng không mờ mắt v́ những h́nh ảnh 
										hào nhoáng và những lời lẽ nặng tính 
										tuyên truyền và tâng bốc. Người viết cố 
										gắng khách quan khi thực hiện bài nhận 
										định này. Bài nhận định sẽ gồm có ba 
										phần:
 
										
										
										
										      1 – Thực trạng của đất nước
										
										
										
										      2 – Những hậu qủa ảnh hưởng tới xă 
										hội và tâm thức của cộng đồng dân tộc
										
										
										
										      3 – Những điểm hẹn không thể vắng 
										mặt trong một tương lai gần.
										
										
										
										 
										
										
										
										I – THỰC TRẠNG CỦA ĐẤT NƯỚC
										
										
										
										Nếu kể những điều tích cực đang xảy ra 
										tại Việt Nam, chúng ta có thể kể trong 
										vài phút. Nhưng nếu nói tới những điều 
										tiêu cực, chúng ta có thể nói cả ngày 
										vẫn chưa hết và sẽ làm người nghe phải 
										than: “Biết rồi, khổ lắm, nói măi!”.
										V́ vậy chúng tôi chỉ tŕnh bầy 
										những ǵ chúng tôi nghĩ là cần phải nói.
										
										
										
										      1/ Một nền kinh tế vô 
										định hướng
										
										
										
										
										
										
Chúng 
										ta nh́n nhận Việt Nam đă đạt một số tiến 
										bộ về kinh tế từ năm 1986, khi Đại Hội 6 
										của đảng Cộng Sản Việt Nam chọn Tổng Bí 
										Thư Nguyễn Văn Linh và quyết định áp 
										dụng kinh tế thị trường, mở cửa cho tư 
										bản ngoại quốc đến đầu tư. Để thực hiện 
										điều này, nhà nước Việt Nam đă phải ban 
										hành một số luật lệ và áp dụng một số 
										biện pháp mới khả dĩ đáp ứng nhu cầu 
										giao lưu quốc tế và tạo một bộ mặt coi 
										được cho “quan trên trông xuống, 
										người ta trông vào”. Từ đó, đời 
										sống của dân chúng cũng đỡ bị bóp nghẹt, 
										không c̣n nạn tem phiếu, xếp hàng cả 
										ngày, ngăn sông cấm chợ. Kinh tế tự do 
										như một gịng nước t́m chỗ chảy, chỗ nào 
										không bị be bờ là nước sẽ tràn tới. V́ 
										vậy, sự tiến bộ tương đối về kinh tế 
										trong gần ba thập niên qua là điều tất 
										nhiên. Lợi tức thường niên tính theo đầu 
										người từ 300 Mỹ kim cách đây 25 năm đă 
										tăng lên 1,200 Mỹ kim trong năm nay 
										(theo Phó Thủ Tướng Nguyễn Sinh Hùng), 
										dù c̣n thua rất xa những nước lân bang 
										như Thái Lan, Mă Lai, Singapore (1). Một 
										số chính phủ và nhân vật chính trị cổ vơ 
										quan điểm nên giúp các chế độ độc tài 
										phát triển kinh tế. Một khi kinh tế khá 
										lên, tự do và dân chủ cũng sẽ triển nở, 
										v́ lúc đó dân chúng sẽ đ̣i thỏa măn 
										những nhu cầu khác ngoài nhu cầu cơm áo. 
										Luận điểm này đă được chứng minh ngược 
										lại với các trường hợp Trung Hoa và Việt 
										Nam. Nó chỉ c̣n giá trị biện minh cho sự 
										cộng tác với những chế độ đàn áp con 
										người.
										
										
										
										Áp dụng kinh tế thị trường là đi ngược 
										điểm cốt lơi của chủ thuyết cộng sản, 
										theo đó quyền tư hữu không được công 
										nhận, tài sản do mọi người làm ra phải 
										được tập trung trong sự quản trị của nhà 
										nước vô sản chuyên chính và sẽ được phân 
										phối theo nhu cầu. V́ vậy, để khỏi mang 
										tiếng hoàn toàn đánh mất lập trường cơ 
										bản, kinh tế thị trường được gắn thêm 
										cái đuôi “theo định hướng xă hội chủ 
										nghiă”. Nếu xă hội chủ nghiă được 
										hiểu là thực thi t́nh đoàn kết liên đới 
										(solidarity) theo chế độ dân chủ xă hội 
										(social democracy) như ở các nước Bắc 
										Âu: người giầu giúp người nghèo, người 
										khỏe mạnh giúp người đau ốm, người trẻ 
										nuôi người già, người có việc nuôi người 
										thất nghiệp, nhà nước chỉ đóng vai tṛ 
										điều hành và phân phối một cách trong 
										sáng, th́ đó là điều vạn phúc cho dân. 
										Thế nhưng định hướng xă hội chủ nghiă 
										trong ư nghĩ và hành động của cộng sản 
										Việt Nam chỉ là “quốc doanh chủ 
										đạo”. Những công ty nhà nước nắm 
										hết những ngành sản xuất và doanh thương 
										quan trọng. Tại những quốc gia dân chủ 
										b́nh thường, những công ty quốc doanh 
										chỉ được duy tŕ một cách hạn chế để làm 
										đầu tầu kéo chính sách kinh tế vĩ mô và 
										bảo đảm an toàn cho việc cung cấp những 
										dịch vụ có lợi ích công cộng hay thiết 
										yếu cho an ninh quốc pḥng (bưu điện, 
										giao thông, dầu khí, điện nước …). Nhà 
										nước cộng sản Việt Nam có giảm bớt một 
										số công ty quốc doanh qua biện pháp cổ 
										phần hóa, nhưng vẫn giữ lại nhiều công 
										ty không thuộc lănh vực phục vụ công ích 
										và an ninh quốc gia. Thêm vào đó, dưới 
										trào Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, những 
										tập đoàn doanh thương nhà nước có tầm 
										vóc bao trùm với số vốn khổng lồ được 
										thành lập, như Vinashin (kỹ nghệ tầu 
										thủy), công ty tài chánh ALC II (lease 
										financing, cho vay tài khoản tạo măi 
										thiết bị sản xuất). Các tập đoàn này 
										được đặt trực thuộc thủ tướng. Việc giữ 
										lại cái đuôi định hướng xă hội chủ nghiă 
										với những đại công ty và tập đoàn kinh 
										tế c̣n có những tính toán không thể nói 
										ra:
										
										
										
										-         Rút tiền từ các công ty để tài 
										trợ cho đảng cộng sản,
										
										
										
										-         Làm giầu cá nhân qua những món 
										tiền đi đêm khi kư hợp đồng và chia chác 
										hoa hồng,
										
										
										
										-         Gài người thân tín vào các 
										chức vụ chỉ huy các công ty để nắm luôn 
										quyền lực kinh tế.
										
										
										
										Tư lợi th́ như thế, nhưng trách nhiệm 
										th́ vô can. Công ty nào lỗ vốn đă có 
										tiền của quốc gia đắp bù. Vinashin nợ 
										80,000 tỷ đồng VN trước khi tái cơ cấu, 
										trong số nợ này 750 triệu Mỹ kim là trái 
										phiếu chính phủ (VNExpress 24-5-2011). 
										Vinashin không có tiền trả nợ và lăi 
										định kỳ cho các ngân hàng quốc tế khiến 
										nhà nước phải ứng thêm 500 triệu Mỹ kim. 
										ALC II lỗ 3,004 tỷ đồng VN trong năm 
										2009, và đến cuối năm 2010 công ty này 
										vừa lỗ vừa làm thất thoát tới 4,000 tỷ 
										đồng (theo Ban Kiểm Toán công ty ALC 
										tháng 10, 2010). Tổng công ty xăng dầu 
										lỗ 3,600 tỷ trong 3 tháng (2). Lối làm 
										ăn phản kinh tế này chứng tỏ những người 
										cầm quyền không dám tiến thẳng tới nền 
										kinh tế thị trường tự do, v́ chưa dám 
										lột bỏ nhăn hiệu xă hội chủ nghiă (dù 
										nội dung đă khác hết rồi), sợ “diễn biến 
										ḥa b́nh” xảy ra và v́ c̣n muốn tiếp tục 
										thủ lợi qua chính sách kinh tế nhập 
										nhằng này, đúng như Hà Sĩ Phu nhận định:
										“Đổi mới là lọc lấy cái béo bở, c̣n 
										tự do dân chủ th́ vứt bỏ…Làm kinh tế thị 
										trường theo định hướng xă hội chủ nghiă 
										chính là đứa con lai láu cá đó. Trong 
										cách tính toán ấy làm ǵ có dân?” 
										(Chia Tay Ư Thức Hệ).
										
										
										
										
										
										
Trong 
										khi đó việc để cho hàng lậu tràn ngập 
										thị trường nội địa, đặc biệt xuất phát 
										từ Trung Quốc, gây thất thâu cho ngân 
										sách quốc gia và giết chết nhiều ngành 
										công nghệ bản xứ. Nạn nhân viên thuế vụ 
										kiếm tiền riêng trong việc thỏa hiệp với 
										người đóng thuế cũng gây thiệt hại cho 
										công qũy những số tiền khổng lồ không ai 
										ước lượng nổi.
										
										
										
										Làm kinh tế như thế th́ sớm muộn cũng 
										dẫn đến phá sản. Hậu qủa trông thấy là 
										đồng bạc VN mất giá 20% trong ṿng ba 
										năm nay, chính phủ VN nợ ngoại quốc 29 
										tỷ Mỹ kim, mỗi năm phải trả tiền lời 4 
										tỷ Mỹ kim. Chỉ trong tháng 5-2011, nhập 
										cảng nhiều hơn xuất cảng 1.7 tỷ Mỹ kim, 
										ngoại tệ dự trữ chỉ c̣n 12,2 tỷ (theo 
										Tổng Cục Thống Kê), không đủ trả tiền 
										lời và mua hàng nhập cảng cho năm nay, 
										trong đó có những nguyên liệu cần thiết 
										cho các nhà máy. Chắc chắn nhà nước sẽ 
										phải đi vay nợ thêm, dù số nợ công đă 
										tăng tương đương 52,6% tổng sản lượng 
										nội địa (GDP). Hệ thống ngân hàng rối 
										loạn. Ngân hàng nhỏ vay tiền ngân hàng 
										lớn của nhà nước với lăi xuất 20% để chi 
										phí cấp thời và cho vay lại với lăi xuất 
										14% theo luật định (đài BBC 23-5-2011, 
										theo hăng tin tài chánh Bloomberg). Nợ 
										xấu không có khả năng trả lên tới 60% 
										(3). Lối làm kinh tế giật gấu vá vai và 
										“ḿ ăn liền” kiểu này sẽ tạo nguy cơ phá 
										sập nền kinh tế c̣n non nớt. Tệ hại hơn 
										cả là nạn vật giá leo thang. Giá tiêu 
										thụ tăng 17,51% trong tháng 4 và 19,78% 
										trong tháng 5-2011 so với cùng thời gian 
										hai tháng này năm trước (theo 
										Bloomberg), khiến đời sống của những 
										người có lợi tức thấp càng thêm cơ cực. 
										Nhà nước t́m cách giảm lạm phát bằng 
										việc tăng lăi xuất cho vay để hạn chế 
										khối tiền tệ lưu hành. Giải pháp này 
										chẳng những không hữu hiệu với hoàn cảnh 
										Việt Nam hiện tại mà c̣n gây khó khăn 
										cho các cơ sở doanh thương ít vốn, khiến 
										các cơ sở này phải thu hẹp hoạt động, sa 
										thải nhân công, làm cho kinh tế tŕ trệ 
										thêm. Kinh tế Việt Nam đang đi theo 
										đường nào và sẽ đi về đâu?
										
										
										
										      2/ Một đất nước bị bán 
										rẻ, bị khai thác và tàn phá
										
										
										
										Bổn phận đầu tiên của những người có 
										trách nhiệm quản trị đất nước là bảo vệ 
										sự vẹn toàn lănh thổ quốc gia và bảo vệ 
										tính mạng và tài sản của nhân dân. Những 
										người cầm quyền cộng sản VN đă làm ǵ?
										
										
										
										
										
										
Họ 
										đă nhượng một phần lănh thổ và lănh hải 
										cho cộng sản Trung Hoa để đổi lấy sự ủng 
										hộ chính trị cho riêng đảng cộng sản của 
										họ. Được đà, cộng sản Trung Hoa đă leo 
										thang đ̣i chủ quyền đảo và biển từ Hoàng 
										Sa cho tới hết Trường Sa theo h́nh lưỡi 
										ḅ do họ tự vẽ. Ngoài những lời phản đối 
										lấy lệ, cộng sản VN không có một hành 
										động cụ thể nào, kể cả hành động pháp lư 
										ḥa b́nh nhất, để bảo vệ những ǵ đă mất 
										hay đe dọa bị mất. Ngay khi những chiếc 
										tầu của Trung Quốc xâm nhập hải phận VN 
										để vét cá hay kéo tầu, bắt giết ngư dân 
										VN, nhà cầm quyền VN chẳng những không 
										có biện pháp bảo vệ lănh hải và công dân 
										của ḿnh mà c̣n không dám gọi đích danh 
										đó là tầu của Trung Quốc, chỉ dám nói 
										“những tầu lạ”. Thái độ nhu nhược này 
										phải được coi như hành động đồng lơa, 
										đầu hàng và bán nước, một tội mà nhân 
										dân Việt Nam, dù thuộc bất cứ lập trường 
										chính trị nào, không thể tha thứ.
										
										
										
										Họ đă cho Trung Quốc băm vằm lănh thổ, 
										khai thác bauxite tại cao nguyên Trung 
										phần, gây ô nhiễm môi trường, cho chuyên 
										viên và thợ thuyền người Hoa đến đóng 
										chốt tại những địa điểm có tính cách 
										chiến lược và an ninh quốc pḥng. Họ c̣n 
										cho người nước ngoài thuê dài hạn 50 năm 
										những khu rừng đầu nguồn thuộc 18 tỉnh 
										trải dài từ Bắc xuống Nam, chiếm 1% diện 
										tích lănh thổ. Rừng cho thuê bị đốn cây 
										có sẵn để trồng những loại cây khác theo 
										ư muốn của người thuê. Các chính quyền 
										địa phương tại những tỉnh ven biển cũng 
										bắt chước trung ương khoanh biển và bờ 
										biển cho các công ty ngoại quốc thuê để 
										xây khách sạn, lập băi tắm riêng, nuôi 
										cấy thủy sản trong những vùng biển rộng 
										hàng ngàn mẫu tây, đe dọa thay đổi sinh 
										thái của toàn thể vùng biển Việt Nam 
										(4).
										
										
										
										Họ đă rút ruột những công tŕnh xây cất 
										khiến giá thành cao và phẩm chất kém. Cụ 
										thể là những công tŕnh mới được xây 
										nhân dịp đại lễ 1000 năm Thăng Long, như 
										công viên Ḥa B́nh và đại lộ Thăng Long, 
										tốn kém hàng tỷ Mỹ kim nhưng đă lún lở, 
										bong nứt, đọng nước ngay khi lễ hội vừa 
										xong. Nguyên nhân là những người có 
										quyền đă ăn chịu với nhà thầu, mọi công 
										đoạn đều có đút lót, chia chác, khiến số 
										tiền thực sự dành cho công tŕnh c̣n lại 
										không bao nhiêu. Hậu qủa tự nhiên là 
										những công tŕnh được thực hiện bôi bác 
										bằng những vật liệu kém, thiếu tiêu 
										chuẩn, sẽ chóng hư hỏng.
										
										
										
										Họ để mặc cho các công ty kỹ nghệ tự do 
										tháo nước thải đầy hóa chất độc hại 
										xuống các gịng nước, tự do xả khói độc 
										lên bầu trời, gây ô nhiễm môi trường và 
										tàn phá sức khỏe của người dân. Công ty 
										Vedan đă biến sông Thị Vải thành một 
										gịng nước độc. Có những làng ở miền Bắc 
										ch́m trong tang thương v́ có rất nhiều 
										dân làng đă chết v́ bệnh ung thư do khói 
										độc và nước thải của những xưởng kỹ nghệ 
										gần đó gây ra. Nếu t́nh trạng này tiếp 
										tục, chỉ trong một thời gian ngắn nữa, 
										đất nước Việt Nam sẽ biến thành đất 
										chết.
										
										
										
										Đất nước bị bán rẻ, bị khai thác, bị ḅn 
										rút, bị bỏ mặc cho bọn con buôn vô lương 
										tâm tàn phá, chỉ v́ lợi riêng của những 
										người cầm quyền cộng sản.
										
										
										
										      3/ Một dân tộc bị bóc 
										lột và trấn áp
										
										
										
										
										
										
Dân 
										tộc VN đă trở thành công cụ cho đảng 
										cộng sản thực hiện giấc mơ quyền lực, 
										không đếm xỉa tới xương máu của nhân dân 
										và tài nguyên của quốc gia. Họ cũng dùng 
										dân Việt để thử nghiệm việc áp dụng chủ 
										thuyết cộng sản: hận thù giai cấp, cải 
										cách ruộng đất, quản lư bao tử, kiểm 
										soát ư nghĩ và kiểm soát cả niềm tin. 
										Khi thất bại và t́nh thế đ̣i hỏi, họ đổi 
										sang đường lối gọi là cởi mở với chiêu 
										bài kinh tế thị trường theo định hướng 
										xă hội chủ nghiă, vừa để giải quyết vấn 
										đề kinh tế, vừa để bọn họ có cơ hội làm 
										ăn, vơ vét theo kiểu mới. V́ thế, nhiều 
										tệ nạn phát sinh và được tự do phát 
										triển
										
										
										
										Nạn tham nhũng đă lan tràn và luồn lách 
										vào mọi tế bào xă hội, không chỉ riêng 
										trong guồng máy công quyền. Lớn tham 
										nhũng lớn, nhỏ tham nhũng nhỏ, dân cũng 
										tham nhũng với nhau. Muốn được việc phải 
										có qùa cáp hay phong b́ lót tay. Xin 
										việc, xin học đều phải hối lộ. Muốn con 
										được điểm tốt th́ phải biếu xén thầy cô, 
										cho con học thêm tại nhà thầy cô. Người 
										lớn bị cướp tiền. Trẻ con bị cướp tuổi 
										thơ, không c̣n giờ vui chơi, mơ mộng. Tệ 
										nạn tham nhũng không thể chữa nếu không 
										thay đổi cơ chế chính trị và không có 
										quyết tâm diệt tham nhũng và làm gương 
										từ cấp cầm quyền thượng tầng.
										
										
										
										Thiếu vắng những biện pháp giáo dục, y 
										tế và xă hội nhằm phục vụ đại đa số nhân 
										dân. Giáo dục công nhưng không miễn phí, 
										mỗi trường tự ư đặt ra những lệ phí bắt 
										phụ huynh phải trả. Học sinh khi thi tốt 
										nghiệp trung học phổ thông cũng phải 
										đóng tiền ủng hộ nhà trường trước khi 
										rời trường. Nhiều gia đ́nh không kham 
										nổi đành cho con nghỉ học. Con số trẻ em 
										bỏ học và thất học gia tăng. Dịch vụ y 
										tế đă biến thành dịch vụ làm tiền. Bệnh 
										nặng hay nhẹ đều phải có tiền mới được 
										chữa trị. Nhà nước mới gia tăng lệ phí 
										trên 350 dịch vụ y tế. Người bệnh không 
										có tiền mà lết đến nhà thương sẽ bị chửi 
										bới và xua đuổi như ăn mày, chỉ c̣n nước 
										về nhà chờ chết. Những gia đ́nh nghèo, 
										những người góa bụa, những trẻ em không 
										người nuôi dậy, những người già cả không 
										ai phụng dưỡng sống lây lất, nhà nước 
										không nḥm ngó tới. Nhiều tổ chức từ 
										thiện trong và ngoài nước đă phải làm 
										thay những việc đáng lẽ nhà nước phải 
										làm.
										
										
										
										Tước đoạt quyền công dân và những tự do 
										căn bản trong đó có tự do ngôn luận, tự 
										do lập hội, tự do bầu những người đại 
										diện để điều khiển đất nước được ghi rơ 
										trong Hiến Pháp nhưng trên thực tế bị 
										cấm đoán triệt để. Ai xử dụng quyền 
										chính đáng của ḿnh sẽ bị vu oan, bị 
										khép vào tội vi phạm an ninh quốc gia và 
										bị xử theo điều 88 Luật H́nh Sự. Một thứ 
										quyền cao trọng nhất thuộc phần tâm linh 
										của con người, tự do tôn giáo, cũng bị 
										cấm đoán dưới nhiều h́nh thức tinh vi. 
										Dẹp được giáo hội nào th́ dẹp luôn. 
										Không dẹp được th́ dùng biện pháp chia 
										để trị bằng cách lập ra giáo hội mới, 
										xúi bẩy phân chia giáo hội chính truyền 
										thành nhiều phe phái (Phật Giáo), lập 
										những ban trị sự giáo hội gồm những tay 
										sai cộng sản (Phật Giáo Ḥa Hảo, Cao 
										Đài), t́m thỏa hiệp với các vị lănh đạo 
										tinh thần bằng chính sách cây gậy và củ 
										cà rốt (Công Giáo). Cộng sản và tôn giáo 
										là hai đối thủ không đội trời chung. 
										Ngay lúc trời yên gió lặng, hai bên cũng 
										chỉ đối xử với nhau bằng mặt, không bằng 
										ḷng. Tín đồ các tôn giáo là những khối 
										quần chúng có một niềm tin khó lay 
										chuyển và dễ nghe lời các vị lănh đạo 
										tinh thần. V́ vậy, muốn làm suy yếu khối 
										quần chúng tín đồ th́ phải xé nát khối 
										này thành nhiều mảnh và phải nắm được 
										các chức sắc của các giáo hội. Mỗi giáo 
										hội được cư xử và đàn áp một cách khác 
										nhau, tất cả đều nhắm mục tiêu vô hiệu 
										hóa sức mạnh của khối quần chúng các tôn 
										giáo.
										
										
										
										Đối xử tàn ác với dân: tệ nạn cướp đất, 
										cướp ruộng, đuổi nhà, bồi thường với giá 
										rẻ và bán lại với giá gấp trăm đă tạo ra 
										từng đoàn lũ dân oan, bỏ công ăn việc 
										làm, dẫn nhau đi khiếu kiện từ Sài G̣n 
										ra Hà Nội mà không được ai tiếp xúc và 
										giải quyết. Những người lên tiếng một 
										cách ḥa b́nh đ̣i tự do, dân chủ, nhân 
										quyền bị đánh đập, vu oan, bắt nhốt, đưa 
										ra ṭa và bỏ tù. Những vụ đàn áp trắng 
										trợn nhất mới xảy ra cho Luật sư Lê Quốc 
										Quân, Bác sĩ Phạm Hồng Sơn, Luật sư Cù 
										Huy Hà Vũ. Cộng sản c̣n có thói quen “ăn 
										thịt” chính những đứa con của ḿnh: 
										Nguyễn Hộ, Trần Độ, Hoàng Minh Chính và 
										mới đây Vi Đức Hồi. Những vụ đánh đập 
										giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân ḷi mắt, bể 
										đầu, gẫy tay tại Tam Ṭa, Đồng Chiêm, 
										Loan Lư, Cồn Dầu cho thấy cách đối xử 
										tàn ác, thiếu t́nh người, chưa nói tới 
										t́nh đồng bào, của một nhà nước vẫn tự 
										khoe phục vụ nhân dân. Chỉ trong bốn 
										tháng đầu năm 2011, đă có 5 người dân vô 
										tội bị công an đánh chết. Tổng số dân 
										lành bị công an đánh chết hay chết tại 
										đồn công an đă lên tới 25 người trong 
										mấy năm qua. Vào tháng 4 vừa qua, chị 
										Nguyễn Thị Thanh Tuyền, vợ nạn nhân 
										Nguyễn Công Nhật ở B́nh Dương c̣n bị một 
										sĩ quan công an gọi điện thoại tống 
										t́nh, đ̣i chị dâng hiến thân xác để đánh 
										đổi sự an toàn cho chồng, trong khi anh 
										Nhật đă chết một cách mờ ám ở đồn công 
										an. Thật không c̣n hành động nào tàn ác 
										và đê tiện hơn! Tội nghiệp cho dân Việt 
										Nam! Họ được những người mệnh danh là 
										đầy tớ nhân dân đối xử như quân thù, 
										muốn bắt, muốn đánh, muốn giết lúc nào 
										tùy ư. Dân Việt Nam đang bị cai trị bởi 
										những người cùng gịng máu nhưng hung ác 
										và nhẫn tâm hơn những tên thực dân ngoại 
										chủng cướp nước ngày xưa.
										
										
										
										 
										
										
										
										II – NHỮNG HẬU QỦA ẢNH HƯỞNG TỚI XĂ HỘI 
										VÀ TÂM THỨC CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC
										
										
										
										T́nh trạng đất nước như tŕnh bầy ở trên 
										đă gây ra những hậu qủa tai hại cho xă 
										hội và cho tâm thức của con người Việt 
										Nam.
										
										
										
										      1/ Mất ư niệm công ích 
										và liên đới xă hội
										
										
										
										Đa số (chúng tôi không dám nói tất cả) 
										dân Việt Nam ở trong nước hiện nay đă 
										mất ư niệm công ích, thí dụ tự ư làm 
										những việc nhỏ nhặt như lượm một cọng 
										rác, không vứt tàn thuốc lá bừa băi, 
										không bứt hoa đạp cỏ tại công viên, cho 
										tới những việc lớn hơn một chút như tôn 
										trọng luật lệ giao thông, nhường đường 
										cho người khác. Họ không c̣n nghĩ rằng 
										giữ một không gian sống sạch đẹp sẽ có 
										ích lợi cho mọi người, trong đó có họ; 
										giúp giao thông điều ḥa, tránh ùn tắc, 
										sẽ tiết kiệm được thời giờ của mọi 
										người, kể cả họ. Họ chỉ muốn được việc 
										cho riêng ḿnh, thỏa măn ư thích của 
										riêng ḿnh, không cần nghĩ tới ai khác. 
										Ở b́nh diện cao hơn, những lợi ích chung 
										của đất nước và xă hội như kỷ cương, 
										luật lệ, danh dự của đất nước, uy tín 
										của dân tộc cũng bị coi thường. Biết 
										cách vi phạm luật lệ mà không bị phát 
										giác được coi là khôn ngoan. Lừa đảo, 
										gian tham, buôn bán ma túy làm giầu mau 
										lẹ được coi là khéo xoay sở. Sang Anh, 
										Úc trồng cần sa để kiếm tiền bất chánh, 
										không quan tâm tới luật lệ xứ người, 
										không sợ bị truy tố và chỉ đích danh là 
										người Việt Nam, được coi là tài giỏi. 
										Những ai tôn trọng luật pháp, làm ăn 
										lương thiện bị chê là khờ dại, đôi khi 
										c̣n bị chửi là đồ ngu, làm rách việc.
										
										
										
										
										
										
T́nh 
										liên đới xă hội cũng không c̣n. Giúp đỡ 
										người tàn tật, nghèo đói, ốm đau, gặp 
										tai nạn… là việc của người khác, không 
										phải của “tôi”. Thấy người bị hành hung, 
										kể cả nữ sinh bị lột trần và đánh hội 
										đồng giữa đường phố, cũng chỉ đứng xem, 
										không can ngăn. Thái độ dửng dưng là 
										thái độ của con người vô cảm, không c̣n 
										xúc động trước bất cứ điều ǵ. 
										Trên b́nh diện quốc gia, thiếu vắng 
										những biện pháp giảm bớt sự chênh lệch 
										giầu nghèo, không thực hiện t́nh liên 
										đới và công bằng xă hội bằng việc chữa 
										trị người đau ốm, săn sóc người già, trợ 
										cấp người thất nghiệp, nuôi nấng cô nhi 
										qủa phụ và người khuyết tật. Tự nhận 
										theo xă hội chủ nghiă mà không làm những 
										việc này là nói láo.
										
										
										
										      2/ Mất ư niệm dân tộc 
										và ư chí đấu tranh
										
										
										
										Một dân tộc là một tập hợp của những con 
										người có cùng nguồn gốc, cùng tiếng nói, 
										cùng lịch sử, cùng phong tục. Yếu tố 
										nguồn gốc chỉ tính theo đa số. Chẳng có 
										dân tộc nào thuần nhất về nguồn gốc một 
										trăm phần trăm. Nhiều dân tộc hiện nay 
										mang tính tạp chủng nhưng người dân vẫn 
										gắn bó với nhau v́ những thụ đắc chung 
										trong qúa khứ, v́ nhu cầu sống chung 
										trong hiện tại và những ước vọng chung 
										cho tương lai. Tinh thần dân tộc của 
										người Việt hiện nay ra sao? Từ trên 
										xuống dưới đều sống theo kiểu “Sống 
										chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. 
										Đảng cộng sản th́ chỉ lo cho đảng trụ 
										càng lâu càng tốt để tiếp tục vơ vét và 
										cưỡi cổ dân tộc. Nhân viên công lực có 
										nhiệm vụ bảo vệ dân th́ chỉ biết 
										“c̣n đảng, c̣n ḿnh”. Dân th́ lo 
										kiếm sống cho bản thân và gia đ́nh đă 
										hụt hơi. Khi khá giả hơn th́ t́m cách ăn 
										chơi hưởng thụ. Hỏi c̣n lại bao nhiêu 
										người nghĩ đến đất nước, đến dân tộc, 
										đến tương lai của những thế hệ sau? Đất 
										nước bị bán rẻ, bị khai thác cũng mặc. 
										Đồng bào sống ngay cạnh ḿnh bị đối xử 
										tàn ác, bất công, bị cướp đất, bị tống 
										tiền cũng dửng dưng. Ư niệm dân tộc đă 
										mất. Tinh thần dân tộc đă phai mờ.
										
										
										
										Một quốc gia mà tuổi trẻ không biết phản 
										đối, đôi khi nổi loạn để đ̣i hỏi những 
										cải cách xă hội là một quốc gia không có 
										tương lai. Tuổi trẻ vốn nhiều lư tưởng, 
										luôn đ̣i hỏi những ǵ tốt hơn, luôn mong 
										ước một xă hội hoàn hảo hơn. Có thể một 
										số đ̣i hỏi của họ không hợp lư và không 
										tưởng, nhưng hăy để cho họ lên tiếng 
										nói. Đừng dập tắt lư tưởng,  ḷng hăng 
										hái và những mộng mơ của tuổi trẻ. Với 
										thời gian, họ sẽ trở nên khôn ngoan chín 
										chắn hơn. Nếu bắt họ vào khuôn phép, chỉ 
										thờ một thần tượng, chỉ tùng phục một 
										tập đoàn toàn trị, có thể họ sẽ trở nên 
										ngoan ngoăn, nhưng sẽ mất hết ư chí phấn 
										đấu, kể cả phấn đấu cho điều thiện, cho 
										đất nước, cho dân tộc. Phải chăng đảng 
										cộng sản VN muốn một tuổi trẻ như thế? 
										Tuổi trẻ vốn ít sợ hăi, ít tính toán mà 
										đă bị làm tê liệt như vậy, thử hỏi những 
										lớp người lớn hơn sẽ c̣n dè dặt và thụ 
										động tới đâu? Một cuộc thay đổi toàn 
										diện là điều đa số người Việt Nam mong 
										muốn. Mong muốn nhưng để người khác làm. 
										Ḿnh chỉ muốn đứng coi và hưởng thành 
										qủa. May thay vẫn c̣n nhiều người, kể cả 
										những người trẻ, đă được miễn nhiễm loại 
										vi trùng “liệt kháng” này. Đó là hy vọng 
										của dân tộc và cũng là mối lo của những 
										người đang cầm quyền.
										
										
										
										      3/ Mất ư niệm đạo lư 
										và truyền thống
										
										
										
										Sống giữa một xă hội băng ră như vậy, 
										được đào tạo trong một nền giáo dục lạc 
										hậu, dối trá, vụ thành tích với những 
										tấm gương không đẹp của thầy cô; được 
										hướng dẫn tinh thần bởi những chức sắc 
										tôn giáo sẵn sàng thỏa hiệp với kẻ ác có 
										quyền để đổi lấy mũ áo xênh xang, cơ sở 
										“hoành tráng”, cờ xí rước xách linh 
										đ́nh, dù sứ mạng được trao là bênh vực 
										người nghèo, kiếm t́m công lư cho người 
										bị áp bức; được cai trị bởi những quan 
										tham từ thượng tầng tới hạ tầng chỉ lo 
										kiếm tiền và hành dân, coi đất nước và 
										dân tộc không quan trọng bằng ghế ngồi 
										và hầu bao của ḿnh, như thế người dân 
										làm sao tránh khỏi phải phản ứng theo 
										t́nh thế, điều chỉnh lối sống theo hoàn 
										cảnh để sống c̣n. Luân lư, đạo nghiă trở 
										nên vô dụng, không c̣n giúp được ǵ cho 
										đời sống cá nhân và xă hội. Từ đó người 
										ta nhiễm thói quen mới: sống theo bản 
										năng, theo tâm lư thực dụng, tất cả để 
										t́m kiếm quyền và lợi. Tương quan giữa 
										người với người chỉ c̣n là tương quan 
										quyền lợi, t́m cách lợi dụng và bóc lột 
										lẫn nhau. Trên báo chí Việt Nam, chúng 
										ta thấy  đầy dẫy những bản tin cha mẹ, 
										con cái, vợ chồng, bạn bè giết nhau, đốt 
										nhau v́ tiền và t́nh, thậm chí thầy hiệu 
										trưởng Sầm Đức Xương c̣n hiếp dâm nữ 
										sinh và lôi học tṛ vào đường bán dâm. 
										Trộm cướp, lừa gạt là chuyện cơm bữa. 
										Nhà cầm quyền không có biện pháp giáo 
										dục, ngăn ngừa, ngoài việc bắt nhốt và 
										xử bắn. Thật ra, những người cầm quyền 
										không thể làm hơn v́ chính họ cũng là 
										một phường trộm cướp, chỉ khác “cướp
										đêm là giặc, cướp ngày là quan”.
										
										
										
										Những truyền thống hiếu thảo với cha mẹ, 
										anh em, “tôn sư trọng đạo”, “bằng hữu 
										thâm giao”, bán anh em xa mua láng giềng 
										gần, “thấy người hoạn nạn th́ thương”, 
										“bầu ơi thương lấy bí cùng”… mà dân tộc 
										Việt Nam đă trân trọng ǵn giữ từ ngàn 
										xưa nay trở thành tṛ cười cho những con 
										người của thời đại cộng sản. Điều nguy 
										hiểm là người ta không c̣n phân biệt xấu 
										tốt, thiện ác, phải trái. Nhất điểm 
										lương tâm đă lu mờ. Quan niệm tội trở 
										thành chủ quan, v́ ḿnh tự cho phép ḿnh 
										phạm tội và chính ḿnh làm quan ṭa xét 
										xử ḿnh với những lư lẽ tự bào chữa. Lối 
										suy nghĩ và hành động này đă được những 
										người cộng sản phát huy tối đa và lây 
										lan ra cả xă hội. Ông Hồ Chí Minh đă 
										“chôm” lời của Quản Trọng để dậy đời:
										“Kế hoạch một năm không ǵ bằng 
										trồng lúa. Kế hoạch mười năm 
										không ǵ bằng trồng cây. Kế hoạch trăm 
										năm không ǵ bằng trồng người” 
										(Nhất niên chi kế mạc như thụ cốc. Thập 
										nhiên chi kế mạc như thụ mộc. Bách niên 
										chi kế mạc như thụ nhân) để nói lên cái 
										hại của sự tàn phá và cái khó của việc 
										xây dựng con người. Ông “quên” nói tên 
										tác giả và cũng quên rằng chính ông và 
										bọn đàn em theo ông đă tàn phá con người 
										Việt Nam từ nhiều thế hệ qua. Bao giờ 
										mới tới lúc trồng người lại được đây? Và 
										đến bao giờ mới có thể gặt hái thành 
										qủa?
										
										
										
										 
										
										
										
										III – NHỮNG ĐIỂM HẸN KHÔNG THỂ VẮNG MẶT 
										TRONG TƯƠNG LAI 
										
										
										
										
										Những người có trách nhiệm quản trị đất 
										nước, ngoài việc giải quyết những vấn đề 
										hiện tại, c̣n phải biết sửa soạn cho đất 
										nước có khả năng đối phó với những vấn 
										đề tương lai, ít ra là tương lai gần. 
										Một số vấn đề quan trọng của địa cầu và 
										của con người sống trên đó đang được 
										quan tâm và bàn căi một cách khẩn 
										trương. Việt Nam không thể đứng ngoài 
										mối quan tâm này.
										
										
										
										Trong cuốn The World in 2050 
										(Thế Giới Vào Năm 2050) được nhà xuất 
										bản Dutton phát hành tại Hoa Kỳ năm 
										2010, tác giả Laurence C. Smith đă nêu 
										lên một số vấn đề lớn mà nhân loại phải 
										lo giải quyết ngay từ bây giờ. Đó là
										
										
										
										-         Gia tăng dân số kèm theo đ̣i 
										hỏi gia tăng thực phẩm và nguyên liệu,
										
										
										
										-         Đô thị hóa và những vấn đề đặt 
										ra,
										
										
										
										-         Toàn cầu hóa với những ưu điểm 
										và khuyết điểm,
										
										
										
										-         Thay đổi khí hậu với những hậu 
										qủa của nó.
										
										
										
										      1/ Việc 
										gia tăng dân số địa cầu đă diễn 
										ra với một tốc độ càng lúc càng nhanh. 
										Cách đây khoảng 12,000 năm, chỉ có 1 
										triệu người sống trên trái đất. Măi đến 
										năm 1800, dân số địa cầu mới tăng lên 1 
										tỷ, rồi tỷ thừ hai đạt được chỉ sau đó 
										230 năm, tức năm 1930. Tỷ thứ ba chỉ cần 
										30 năm, 1960. Hiện nay trái đất có 6 tỷ 
										người. Dự trù năm 2050 sẽ có 9.2 tỷ. 
										Việt Nam năm 1975 chỉ có khoảng trên 
										dưới 40 triệu dân cả Bắc lẫn Nam. Đến 
										nay, sau 36 năm, dân số đă lên tới 86 
										triệu, tức qúa gấp đôi.
										
										
										
										Thêm người th́ phải thêm thực phẩm, nước 
										uống và các thứ nhiên liệu. Dù kỹ thuật 
										canh tác và khai thác tài nguyên thiên 
										nhiên có tiến bộ tới đâu, chúng ta vẫn 
										phải tự hỏi trái đất có khả năng thỏa 
										măn những nhu cầu ngày càng gia tăng của 
										con người măi măi được không? V́ vậy 
										việc bảo đảm một môi trường sạch, nhất 
										là nguồn nước sạch là vấn đề thiết yếu 
										hàng đầu. Việt Nam đang làm ǵ với tài 
										nguyên thiên nhiên và môi trường của 
										ḿnh? Nước thải khai quặng bauxite và từ 
										các xưởng kỹ nghệ, đốn cây phá rừng, xử 
										dụng bừa băi hóa chất mua rẻ từ Trung 
										Hoa có góp phần giải quyết vấn đề này 
										không?
										
										
										
										      2/ Hiện tượng đô thị hóa 
										làm cho số người sống ở thành thị ngày 
										càng gia tăng. Năm 2007 có 3.3 tỷ người 
										sống ở các đô thị trên toàn thế giới. 
										Con số này sẽ gia tăng tới 6.4 tỷ vào 
										năm 2050. Dân bỏ nông thôn kéo nhau đi 
										sinh sống làm ăn ở đô thị v́ mức sống ở 
										nông thôn qúa thấp, đời sống buồn tẻ, 
										thiếu tiện nghi, chưa kể nhiều nhà máy, 
										nhiều công tŕnh mọc lên trên đất nông 
										thôn, khiến đất canh tác ngày càng thu 
										nhỏ. Những người quyết định kế hoạch mở 
										rộng thành phố Hà Nội lên tận chân núi 
										Ba V́ và sang tận tỉnh Ḥa B́nh có hiểu 
										việc cắt đất canh tác, giảm khả năng 
										cung cấp thực phẩm và đẩy nhanh việc đô 
										thị hóa sẽ gây những hậu qủa ǵ cho toàn 
										khu vực quanh Hà Nội trong mười hoặc hai 
										mươi năm nữa? Đô thị mở rộng và tăng dân 
										cư trú đặt ra nhiều vấn đề cho những nhà 
										cai trị và quản trị: công ăn việc làm, 
										cung cấp thực phẩm, nước uống, giáo dục, 
										vệ sinh và y tế, giao thông… Cứ nh́n các 
										thành phố Hà Nội và Sài G̣n, với dân số 
										tăng gấp 3 gấp 4 trong 36 năm qua, với 
										nạn ùn tắc xe cộ, với t́nh trạng đường 
										phố biến thành sông khi có mưa lớn, với 
										nạn cúp điện giữa ngày hè nóng nực…, 
										chúng ta đă đoán biết đời sống của thị 
										dân hai thành phố này trong những thập 
										niên sắp tới sẽ khốn khổ ra sao, nếu 
										không có những cải thiện căn bản.
										
										
										
										      3/ Toàn cầu hóa 
										là một nhu cầu của thời hiện tại. Nó cổ 
										vơ giao lưu hàng hóa và sự hiểu biết. Nó 
										kéo các dân tộc lại gần nhau và làm cho 
										tŕnh độ dân trí không qúa cách biệt 
										giữa các sắc dân trên địa cầu. Nhưng khi 
										nói đến toàn cầu hóa là nói đến tự do 
										doanh thương. Thomas Friedman trong cuốn
										The World is flat, xuất bản năm 
										2006 tại Hoa Kỳ, nhận định tự do doanh 
										thương đ̣i hỏi tối đa tính hiệu qủa 
										(efficiency) và lợi nhuận 
										(profitability). Những ǵ rẻ nhất, kể cả 
										sức lao động, được săn lùng đến khắp mọi 
										ngơ ngách của trái đất. Điều này khiến 
										cho hố cách biệt giầu nghèo ngày càng mở 
										rộng. Những nước có kỹ thuật cao mua rẻ 
										nguyên liệu và thuê rẻ lao động của các 
										nước nghèo. Họ không chuyển giao kỹ 
										thuật. Dân nghèo có việc làm tạm bằng 
										ḷng với đồng lương vừa đủ sống qua 
										ngày, c̣n hơn thất nghiệp và đói rách. 
										Trong khi giới đầu tư thu hoạch “một vốn 
										bốn lời”.
										
										
										
										Phát triển kinh tế ở Việt Nam đang đi 
										theo con đường này. Lẽ ra việc dùng nhân 
										công rẻ để thu hút đầu tư chỉ là giai 
										đoạn đầu. Ngay sau đó phải học hỏi và 
										đ̣i hỏi chuyển giao kỹ thuật. Với lối 
										đào tạo nặng lư thuyết và lạc hậu tại 
										các đại học như hiện nay, với việc cấp 
										bằng tiến sĩ như bán rau muống, với việc 
										gửi hàng vạn sinh viên đi du học mà ít 
										có người chịu về, nhất là với t́nh trạng 
										móc ngéo để hỗ tương thủ lợi giữa những 
										người có quyền và những nhà đầu tư, toàn 
										cầu hóa đối với Việt Nam là tiếp tục 
										cung cấp lao động rẻ, tiếp tục giúp một 
										thiểu số làm giầu và tiếp tục bán rẻ tài 
										nguyên của đất nước.
										
										
										
										      4/ Khí hậu thay đổi 
										sẽ gây những hậu qủa trầm trọng.Trái đất 
										sẽ nóng lên v́ hiện tượng nhà kính 
										(green house), nhưng quan trọng hơn là 
										khí thải CO2 (carbon dioxide) của các 
										xưởng kỹ nghệ, của khói xe đủ loại. Các 
										nhà khoa học ước tính khi nhiệt độ địa 
										cầu tăng từ 3 đến 6 độ bách phân, các 
										băng sơn ở hai cực sẽ tan, mực nước biển 
										sẽ dâng cao từ 40 tới 60 mét, nhiều vùng 
										đất ven biển sẽ bị ngập. Trong số 20 
										thành phố hải cảng có nguy cơ bị ngập 
										lớn nhất, Sài G̣n đứng thứ 5, Hải Pḥng 
										thứ 16. T́nh trạng xả khói xe, khói nhà 
										máy ở Việt Nam rất trầm trọng. Việc phải 
										làm ngay là bắt buộc các công ty kỹ nghệ 
										phải lọc khói và lọc nước trước khi trả 
										lại thiên nhiên, bắt các nhà sản xuất xe 
										hơi, xe gắn máy phải t́m cách giảm thiểu 
										khí thải CO2, buộc xe cộ phải dùng xăng 
										không pha ch́ (unleaded).
										
										
										
										Những điều trên không liên quan trực 
										tiếp đến đề tài t́nh h́nh Việt Nam, 
										nhưng liên quan đến số phận của đất nước 
										và dân tộc trong một tương lai không xa. 
										Chúng là những điểm hẹn với thế giới 
										nhằm giải quyết những vấn đề của địa 
										cầu, trong đó có Việt Nam. C̣n một điểm 
										hẹn khác tối ư quan trọng mà chúng ta 
										không có quyền để lỡ, đó là điểm hẹn với 
										lịch sử để chấm dứt trang sử đau thương 
										của dân tộc sau 60 năm dưới chế độ cộng 
										sản, và giải quyết mọi vấn đề c̣n chồng 
										chất do qúa khứ để lại.
										
										
										
										Đó là những vấn đề của Việt Nam. Đó là 
										t́nh h́nh đất nước hiện nay. Chúng ta 
										không bôi đen toàn cảnh nhưng thực sự 
										không thể lạc quan. Nghĩ cho cùng dân 
										Việt Nam chỉ là nạn nhân. Những thờ ơ 
										của họ đối với đất nước, những giành 
										giật mánh mung đối với đồng bào, những 
										khiếp nhược đối với người cầm quyền, tất 
										cả là nhu cầu phải thích ứng với hoàn 
										cảnh để t́m sự sống trong cái chết. 
										Chính những người cộng sản muốn tạo ra 
										một khối dân như vậy để dễ dàng cai trị 
										và bóc lột. Đừng đặt những vấn đề lư 
										tưởng cao siêu, kể cả lư tưởng cộng sản, 
										với những người cộng sản Việt Nam. Họ 
										không c̣n tin ǵ hết. Họ chỉ lọc lựa 
										những ǵ c̣n có lợi cho họ để làm nhăn 
										hiệu dán trên lưng hầu tiếp tục ra 
										tuồng. Xă hội chủ nghiă, quyền lợi giai 
										cấp công nông, trung với đảng hiếu với 
										dân… chỉ là những chiêu bài cửa miệng 
										cực kỳ gian dối. Họ cố bám lấy quyền 
										hành nhưng không biết và không muốn làm 
										chức năng của người cầm quyền. Lư do dễ 
										hiểu: họ chỉ coi đất nước như một chiến 
										lợi phẩm để vơ vét, coi dân tộc như một 
										bầy nô lệ để khai thác và bóc lột. V́ 
										vậy, đối với những ai c̣n nghĩ tới đất 
										nước và dân tộc, việc cấp thời phải làm 
										ngay là đánh thức dân Việt về quyền lợi 
										của họ bị cướp đoạt, nhắc nhở giới trí 
										thức, sinh viên đừng quên vai tṛ dẫn 
										đầu quần chúng của họ trong việc bảo vệ 
										tổ quốc và xây dựng một xă hội tốt đẹp. 
										Phải có ư thức mới dẫn tới hành động. 
										Một tia lạc quan như ánh sáng le lói 
										cuối đường hầm đă xuất hiện khi chúng ta 
										thấy ư thức của dân Việt đă chuyển động, 
										thấy dân đă hành động, dù chưa toàn bộ, 
										thấy nhiều trí thức đă nhập cuộc, thêm 
										vào đó là sự lúng túng, bất lực của 
										những người cầm quyền tại Việt Nam trong 
										việc giải quyết những vấn đề kinh tế. Họ 
										cũng không dấu nổi những lo sợ, hoảng 
										hốt qua việc gia tăng những đàn áp thô 
										bạo nhắm vào dân, khiến dân càng thêm 
										căm phẫn. Dân Việt Nam c̣n được khích lệ 
										khi thấy cao trào đ̣i tự do dân chủ của 
										nhân dân các nước châu Phi và Trung Đông 
										đă đánh đổ nhiều chế độ độc tài tàn ác 
										và vững mạnh, thấy thế giới đă đổi 
										chiều, công khai yểm trợ những dân tộc 
										biết đấu tranh cho quyền sống của ḿnh. 
										Chúng ta có những lư do để hy vọng một 
										ngày tươi sáng của đất nước sẽ đến gần, 
										để toàn dân cùng chung tay xây dựng 
										tương lai, xóa đi những u ám của qúa 
										khứ.
										
										
										
										Những cuộc thảo luận như chúng ta đang 
										làm hôm nay cũng là góp phần làm cho 
										niềm hy vọng đó sớm trở thành hiện thực.
										
										
										
										Mặc Giao
										
										
										
										………………………………………………………………………………… 
										
										
										
										(1) Theo Wikipedia, lợi tức thường niên 
										tính theo đầu người (GDP per capita): 
										Singapore: US$ 49,754. Malaysia: 13,385. 
										Thailand: 7,907
										
										
										
										(2) Thêm một số công ty nhà nước lỗ nặng 
										trong năm 2010: Tổng Công Ty Cơ Khí Xây 
										Dựng lỗ 39 tỷ đồng VN, Tổng Công Ty Công 
										Tŕnh Giao Thông lỗ 149 tỷ , Tổng Công 
										Ty Cà Phê lỗ tích lũy từ trước đến nay 
										525 tỷ…
										
										
										
										(3) Cũng trong năm 2010, Tổng Công Ty 
										Lương Thực Miền Nam nợ 56 tỷ đồng VN, 
										Tổng Công Ty Xây Dựng Hà Nội nợ 51,2 tỷ, 
										Công ty Thương Mại và Xuất Khẩu Viettel 
										nợ 79 tỷ… 
										
										
										
										(4) Một số trường hợp điển h́nh: Tỉnh 
										Quảng Ninh có 19 dự án cho thuê biển để 
										trồng cấy thủy sản: công ty Việt Mỹ được 
										thuê 506 ha (1 ha = 1 mẫu tây = 10,000 
										mét vuông. 506 ha = 5,060,000 m2), công 
										ty ToDi thuê 569 ha, công ty ngọc trai 
										Taiheyo Shinju 30 ha… Tại Nha Trang, 
										công ty ngọc trai của Đài Loan được thuê 
										442 ha, công ty ngọc trai Nhật Bản 300 
										ha, công ty Marifarm của Na Uy 136 ha… 
										Các băi tắm đẹp nhất ven biển ở Đà Nẵng, 
										Quảng Nam, Nha Trang, Ninh Thuận, Phú 
										Quốc cũng đă và đang được giao cho các 
										nhà đầu tư, đa số ngoại quốc, thuê dài 
										hạn để họ tự do khoanh vùng, biến nhiều 
										đoạn bờ biển thành bất khả xâm phạm.
										
										
										
										GS Nguyễn Tác An, Chủ Tịch Ủy Ban Quốc 
										Gia Chương Tŕnh Hải Dương Học, phát 
										biểu: “Việc cho nước ngoài vào thuê 
										mặt biển sẽ càng gây căng thẳng, mất an 
										ninh. Rơ ràng, khi thuê được rồi, các 
										ông chủ nước ngoài sẽ ngăn lại, làm mất 
										quyền giao thông, mất quyền khai thác 
										tại vùng biển quê hương của người dân. 
										Bên cạnh đó, việc thuê mặt biển để kinh 
										doanh quy mô lớn có thể gây những tác 
										động khôn lường về môi trường… Nếu không 
										suy xét cẩn trọng, chúng ta sẽ phải trả 
										giá đắt trong hiện tại và tương lai”.
										
										
										
										Ông Nguyễn Chu Hồi, Phó Tổng Cục Trưởng 
										Cục Biển và Hải Đảo thuộc Bộ Tài Nguyên 
										Môi Trường (Bộ liên quan trực tiếp tới 
										biển và rừng), tuyên bố: “Biển c̣n 
										là câu chuyện dài, câu chuyện không của 
										riêng ai, một công việc đại sự của cả 
										dân tộc. Đừng để một kẻ chặt mấy cây gỗ 
										rừng có thể bị xử tù, c̣n đang tâm phá 
										tan ḷng biển lại không ai thấy!” 
										(theo vietnamnet.vn ngày 17-08-2010)