Ngày 25 Tháng Năm

Thánh Bêđa Vênêrabilê, linh mục tiến sĩ Hội Thánh

(673–735)

Thánh Bêđa sinh năm 673 tại Jarron vùng biên giới Anh Quốc và Ecosse. Ngài mồ côi cha khi lên bảy, nhưng bù lại người thụ hưởng nơi người mẹ một trí khôn sắc sảo và nhiều đức tính cao đẹp. Năm 682, ngài vào ḍng Biển Đức, sống một cuộc đời khiêm nhường, vâng lời và đơn sơ. Năm 29 tuổi, ngài lănh chức linh mục và được cử làm giáo sư. Nhiệt thành với sứ mạng, ngài đă áp dụng những phương pháp mới, thích hợp với tâm lư. Ngoài việc dạy học, ngài c̣n viết nhiều sách có giá trị thuộc đủ mọi bộ môn như triết lư, toán học, và thường đảm nhiệm công tác đối chất với các lạc giáo. Nhưng điểm nổi bật hơn cả nơi ngài chính là đời sống nội tâm dồi dào, kết hiệp mật thiết với Chúa, hăng say cầu nguyện và trung thành với việc bổn mạng. Khi nằm trên giường bệnh với hai mắt mù ḷa, ngài c̣n cố gắng đọc cho học tṛ chép bản dịch Phúc Âm Thánh Gioan. Đến năm 735, ngài qua đời trong khi miệng vẫn c̣n đọc kinh “Sáng Danh” ca tụng Chúa. 

Ngày 13-11-1899, ngài được Đức Giáo Hoàng Lêô XIII truy phong lên bậc Tiến Sĩ Giáo Hội.

Thánh Grêgôriô VII, giáo hoàng

(1015–1085)

Thánh Grêgôriô VII tên thật là Hildebrand, sinh năm 1015 tại Sovana miền Toscane trong một gia đ́nh trung lưu nước Ư. Ngài đă có công phục hưng tinh thần đạo đức của hàng giáo sĩ và tranh đấu cho tự do của Giáo Hội. Từ thời niên thiếu, ngài đă được sống trong bầu khí tu viện; và nhờ trí thông minh và ḷng đạo đức, ngài đă thu lượm nhiều kết quả tốt đẹp. Khi Đức Lêô IX lên ngôi, ngài được cử giữ những chức vụ quan trọng, và nhân dịp này, ngài đă đem hết tài lực ra ngăn chặn làn sóng sa đọa đang bành trướng trong Giáo Hội, bênh vực đức tin chống lại những giáo thuyết sai lầm của các bè rối. Được chọn làm Hồng y, ngài giữ nhiều chức vụ và sứ mạng quan trọng dưới thời Lêô IX, Victo II, Stêphanô IX, Nicolao II và Alexandre II. Sau khi đức Alexandre mất (1073), ngài được bầu lên kế vị. Dù ở địa vị Giáo Hoàng, ngài vẫn tiếp tục sống một cuộc đời khắc khổ như cũ.

Dưới triều đại của ngài, Giáo Hội phải trải qua những giây phút đen tối nhất: tinh thần đạo đức bị sa sút, các đế quốc xâm lăng thánh địa và quyền hành của Hội Thánh bị chi phối. Bằng cầu nguyện, hy sinh và ḷng nhiệt thành hăng hái, ngài cương quyết bảo vệ tự do, uy quyền và tài sản Giáo Hội. Chính v́ thế, ngài đă gặp phải nhiều đau khổ. Bị ép buộc rời khỏi Rôma, và sau đó, ngày 25-5-1805, ngài qua đời tại Salec. Lời vàng ngọc của ngài trối lại khi sắp chết: “Tôi yêu sự công chính và ghét điều bất công. Đó là lư do tôi phải chết trong cảnh lưu đày này”. 

Tuy không đổ máu, nhưng đời sống tranh đấu của ngài xứng đáng được Đức Grêgôriô VIII liệt vào hàng các vị tử đạo và được Đức Phaolô V phong lên bậc Hiển Thánh.

Thánh MARIA MAĐALÊNA đệ Pazzi đồng trinh

(1566–1607)

Thánh nữ sinh ngày 2-4-1566 tại Florence nước Ư, thuộc gia đ́nh Pazzi giàu sang và thế giá. Nhờ sự hướng dẫn của bà mẹ, Maria Mađalêna càng lớn càng thêm đức hạnh, nhất là ḷng thương người và sự yêu thích cầu nguyện. Năm 16 tuổi, ngài từ hôn với một vị lănh chúa và ngày 14-8-1582, ngài từ giă cha mẹ để hiến thân trong Ḍng Kín, sống cuộc đời hoàn toàn khiêm nhượng, không làm mất ḷng ai và luôn chu toàn những công tác theo luật Ḍng. Thêm vào đó, ngài thường giúp đỡ các chị em khác chu toàn công tác và săn sóc các chị em đau yếu. Về cuối đời, thánh nữ đă phải chịu cơn bệnh ung thư kéo dài lâu năm. Ngài luôn luôn lặp đi lặp lại câu: “Thà đau khổ hơn là chết”. Sau cùng, v́ cơn bệnh quá đau và kéo dài lâu ngày, ngài kiệt sức và trút hơi thở cuối cùng ngày 25-5-1607. 

Đức Giáo Hoàng Lêô IX đă tuyên phong ngài lên bậc Hiển Thánh ngày 28-4-1669.

 

Châu-Kiên-Long