|

Giáo Hội Việt Nam
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL,
Biên soạn cho Chương Trình Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 539 Thứ Sáu
7/1/2011
Thế là
Năm Thánh của Giáo Hội Việt Nam, bắt đầu từ Lễ Các Thánh Tử Đạo trên Đất
Việt ngày 24/11/2009, vừa được kết thúc vào ngày hôm qua, mùng 6 tháng
Giêng năm 2011, Lễ Hiển Linh. Chiều 28-12,
Tòa Thánh Vatican đã công bố Thư của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, được
viết bằng tiếng La tinh, đề ngày 21-12-2010. Trong Thư, ĐTC bổ nhiệm Đức
Hồng y Ivan Dias, Bộ trưởng Bộ Phúc âm hóa các dân tộc, làm Đặc sứ của
ngài tại lễ bế mạc Năm Thánh của Giáo Hội tại Việt Nam, nhân kỷ niệm 350
năm thiết lập hai giáo phận tông tòa đầu tiên và 50 năm thành lập hàng
giáo phẩm. Lễ bế mạc sẽ diễn ra tại Đền Thánh Đức Mẹ La Vang từ ngày 4
đến ngày 6 tháng Giêng 2011. Phái đoàn tháp tùng ĐHY Đặc sứ gồm: Linh
mục Antôn Dương Quỳnh, Chưởng ấn Tổng Giáo phận Huế, kiêm chính xứ Nhà
thờ Chánh tòa Phủ Cam, Huế, và Linh mục Phanxicô Xaviê Vũ Phan Long, OFM,
Tổng Thư ký Ủy ban Kinh Thánh trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam.
Chúng ta đã theo dõi Đại Hội Dân Chúa để đi sâu vào các chiều kích về
Giáo Hội, như Giáo Hội Mầu Nhiệm, Giáo Hội Hiệp Thông, Giáo Hội Sứ Vụ,
để tiến tới Giáo Hội Canh Tân. Giờ đây,
để tạ ơn Chúa và cầu cho tương lai Giáo Hội Việt Nam của
mình, chúng ta hãy cùng nhau kết thúc loạt bài Năm Thánh 2010 bằng việc
Nhìn lại chặng đường
Lịch sử Giáo Hội tại Việt Nam
qua các giai đoạn: Hình Thành, Phát Triển
và Trưởng Thành,
một bài viết tổng lược được
phổ biến trên mạng điện toán toàn cầu của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.
Nhìn lại chặng đường Lịch sử Giáo Hội Hình Thành tại Việt Nam
“Cây có cội, nước có nguồn.” Sức sống của Hội Thánh hôm nay là thành quả
của hơn 400 năm hạt giống Tin Mừng được gieo trồng. Cũng là thành quả
của hơn 400 năm cây đức tin được vun xới và phát triển, hơn bốn trăm năm
Hội Thánh chia sẻ muôn nỗi thăng trầm của quê hương, và cũng là hơn 400
năm chan hòa hồng ân Thiên Chúa. Trong Thư Chung 1980, HĐGMVN viết:
“Nhìn về quá khứ, chúng tôi cảm mến sâu sắc bàn tay nhân lành của Thiên
Chúa, đã êm ái và mạnh mẽ hướng dẫn Hội Thánh Người trên đất nước Việt
Nam của chúng ta. Chúng tôi biết ơn công lao của vô vàn tín hữu đã làm
sáng tỏ đức tin và lòng yêu nước của mình...” (số 17).
1. Hạt giống Tin Mừng được gieo vãi (Thế kỷ XVI)
Những tiến bộ của ngành hàng hải giúp Christophe Colomb đến được Mỹ Châu
năm 1492, cũng đã nối dài những bước chân truyền giáo của các thừa sai
vượt đại dương, đến quê hương Việt Nam. Năm 1533, theo Khâm Định Việt Sử
(33,6b), chỉ dụ cấm đạo của vua Lê Trang Tôn đã nói đến một thừa sai tây
phương tên I-Nê-Khu, men theo đường biển vào truyền đạo tại làng Ninh
Cường, và làng Trà Lũ. Tiếp theo là dấu chân rao giảng của các linh mục
dòng Đa Minh: Năm 1550, cha Gaspar De Santa Cruz đến giảng đạo tại Hà
Tiên; Năm 1588, hai cha Luis de Fonseca và Grégoire de la Motte bị vua
Chiêm Thành hãm hại tại Quảng Nam. Trước đó, năm 1583, do lời mời của
nhà Mạc, các linh mục dòng Phaxicô đã đến Bắc Hà. Cha Bartôlômêô Ruiz đã
giảng đạo bằng tranh ảnh tôn giáo. Sự kiện nổi bật cuối thế kỷ XVI
(1591) là việc trở lại của công chúa Mai Hoa (Maria Flora) tại Thanh
Hóa, do linh mục Ordonez. Hiện nay tại An Trường (Thanh Hóa) vẫn còn một
nền nhà thờ và một giếng Da-tô do công chúa cho đào.
Người tín hữu đầu tiên. Dựa vào gia phả nhà họ Đỗ, cụ Đỗ Hưng Viễn,
người làng Bồng Trung tỉnh Thanh Hóa, được coi là tín hữu Việt Nam tiên
khởi. Cụ đi sứ và được rửa tội tại Macao thời vua Lê Anh Tôn (1573),
nhưng con cái không ai theo đạo.
2. Và những người đầu tiên
Việc các cha dòng Tên, dưới sự điều hành của cha Buzomi đến Cửa Hàn,
Quảng Nam, năm 1615, đã khai mở một giai đoạn mới trong lịch sử truyền
giáo. Thừa hưởng kinh nghiệm “hội nhập văn hóa” của cha Matteo Ricci tại
Trung Hoa và Valignanô tại Nhật Bản, các vị quan tâm đặc biệt đến việc
học ngôn ngữ, phong tục dân Việt, và giảng đạo bằng tiếng Việt. Thế là
chỉ trong vài chục năm, Tin Mừng đã đi vào văn hóa Việt Nam.
Các tín hữu Việt Nam tiên khởi đã đóng góp vai trò rất lớn lao trong
công trình ấy. Ngoài việc giúp các thừa sai học tiếng, các vị còn phiên
dịch kinh sách và giáo lý ra chữ Nôm để phổ biến. Sử sách còn nhắc đến
cụ nghè Giuse, sư cụ Manuel giúp cha Pina ở Quảng Nam, đến cụ Gioan Kim
giúp cha Đắc Lộ ở An Vực (Thanh Hóa) và những vần thơ văn của công chúa
Catarina: “lịch sử đạo Thiên Chúa từ tạo thiên lập địa đến khi Chúa
xuống thế... ”. “... Thơ văn đó được các người có đạo truyền tụng nhau,
họ ngâm lên lúc làm việc ở nhà, ở ngoài đồng hay lúc đi đường”. Phần lớn
những bài vãn dâng hoa cổ và cung giọng ngắm “15 sự thương khó” hiện
nay, cũng đã xuất phát từ giai đoạn này.
Nếu người ta quan tâm nhiều hơn đến việc hình thành chữ quốc ngữ trong
giai đoạn này, được ổn định năm 1651, khi cha Đắc Lộ cho xuất bản tại
Rôma tự điển Việt-Bồ-La, sách văn phạm An Nam và cuốn song ngữ “Phép
giảng tám ngày”; thì cũng đừng quên những tác phẩm tôn giáo bằng chữ
Nôm; thừa sai Majorica với 48 tác phẩm về suy niệm và hạnh các Thánh;
một giáo hữu Quảng Ngãi là Gioan Thanh Minh với 15 thi phẩm về tiểu sử
các Thánh; và nhất là linh mục Lu-y-Đoan với tập thơ lục bát “Sấm truyền
ca” (1670) viết lại truyện Cựu Ước, với nhiều điển tích và thành ngữ Á
Đông.
Cộng tác với thừa sai, còn có một đội ngũ đông đảo các tín hữu Việt Nam,
hiến toàn thân cho việc tông đồ, đó là các thầy giảng. Các thầy tuyên
khấn độc thân, để tài sản chung và vâng lời thầy bề trên (lớp đầu tại Kẻ
Chợ, Hà Nội năm 1630); (tại Cửa Hàn Quảng Nam năm 1643). Các thầy giảng
hỗ trợ các thừa sai trong việc giảng dạy giáo lý, điều hành và duy trì
các cộng đoàn Dân Chúa, khi các ngài bị trục xuất hoặc vắng mặt.
Những chứng nhân đức tin đầu tiên:
– Tại Đàng Ngoài: Năm 1630, anh Phanxicô, dù bị chủ là một hoàng thân
cấm đoán, vẫn tiếp tục chôn xác người chết, nên bị giam, tra tấn và bị
giết.
– Tại Đàng Trong: Năm 1644, Thầy Anrê Phú Yên bị bắt tại nhà cha Đắc Lộ.
Dù bị quan quân đe dọa, thầy không bỏ đạo, nên bị chém đầu, trên môi còn
mấp máy Danh Đức Giêsu.
Nói về tín hữu Việt Nam thời này, cha Đắc Lộ viết: “... Điều làm tôi cảm
động hơn hết là thấy ở xứ đó, bao nhiêu người Công Giáo là bấy nhiêu
Thiên Thần, và ơn Phép Rửa đã ban cho họ một tinh thần mà chúng ta gặp
thấy ở các Tông Đồ và các Thánh Tử Đạo tiên khởi...”
Nhìn lại chặng đường
lịch sử Giáo Hội Phát Triển tại Việt Nam
Năm 1622 là khúc ngoặc quan trọng trong lịch sử truyền giáo của Hội
Thánh. Trước những lạm dụng của các vị vua Bảo Trợ, Tòa Thánh lấy lại
quyền điều hành việc truyền giáo, và thiết lập Thánh Bộ Truyền Bá Đức
Tin (1622), Thánh Bộ đã kiểm tra lại toàn bộ sinh hoạt truyền giáo trên
thế giới, và cung cấp nhiều phương tiện truyền giáo như: mở nhà in đa
ngữ, hỗ trợ tài chính, gửi các sách phụng vụ và giáo lý, lập chủng viện
Urbano 1627, để đào tạo các chủng sinh ở các miền truyền giáo gửi về,
lập ra chức Giám quản Tông Tòa cho các giám mục miền truyền giáo, trực
thuộc Tòa Thánh. Phương pháp truyền giáo ở các nơi đều phải tuân theo sự
hướng dẫn của Thánh Bộ, dựa trên bản Huấn Thị 1659, với những chỉ thị
tích cực: “Các thừa sai phải được huấn luyện theo luật bác ái Tin Mừng,
biết thích nghi với phong tục và tính tình người khác... Công việc trước
mắt của chư huynh là đưa những người địa phương, xứng đáng lên chức linh
mục và cả giám mục nữa... Hãy rao giảng cho tín hữu bổn phận trung thành
với chính quyền... Đừng đưa vào nước họ đất nước của mình, mà là Đức
Tin, Đức Tin này không hề khai trừ hay làm tổn thương những nghi lễ tập
tục của bất cứ dân tộc nào cả...”
Cũng năm đó, ngày 9-9-1659. Tòa Thánh thiết lập hai giáo phận trên đất
Việt, và đặt hai Giám Quản Tông Tòa đầu tiên:
– Giáo phận Đàng Trong: từ sông Gianh trở vào, với Đức cha Lambert de la
Motte.
– Giáo phận Đàng Ngoài: từ sông Gianh trở ra, với Đức cha Francois
Pallu.
Trải qua ba trăm năm (từ 1659-1960). Hội Thánh Việt Nam đã phát triển
trong sự chăm sóc của nhiều đơn vị thừa sai; với sự đóng góp rất lớn lao
của các linh mục và tu sĩ Việt Nam; đã đồng hành cùng dân tộc trong mọi
biến cố, và đã tích cực làm chứng cho niềm Tin bằng nhiều hoạt động bác
ái phục vụ, cũng như bằng chính cả mạng sống mình.
1. Những vòng tay thân ái
Nằm trong sự điều hành chung của Thánh Bộ Truyền Giáo, tuổi thơ của Hội
Thánh Việt Nam đã được biết bao trái tim và bàn tay các tín hữu khắp bốn
phương săn sóc và dưỡng nuôi: Các nhà truyền giáo tại Việt Nam, linh mục
hoặc tu sĩ nam nữ, thuộc nhiều quốc tịch như Pháp, Tây Ban Nha, Ý, Đức,
Bỉ, Ái Nhĩ Lan, Gia Nã Đại, Hoa Kỳ, Trung Hoa... Các ngài đã sẵn sàng từ
bỏ quê cha đất tổ, để đến hoạt động tại Việt Nam, và ước nguyện được
phục vụ Tin Mừng trên giải đất này. Các ngài đã chấp nhận nếp sống thiếu
thốn tiện nghi, cư ngụ trong các mái nhà tranh vách đất, chịu đựng khí
hậu nóng bỏng của vùng nhiệt đới, chấp nhận cả những ngược đãi, hiểu
lầm. Trong những tập thể đóng góp nhiều công sức nhất cho chúng ta có
ngày hôm nay, phải kể đến Hội Thừa Sai Paris, Dòng Đaminh, Dòng Tên, và
Dòng Phanxicô.
Hàng ngàn thành viên Hội Thừa Sai Paris đã đảm nhiệm toàn bộ khu vực địa
phận Tây Đàng Ngoài (nay là các địa phận Hà Nội, Vinh, Hưng Hóa, Phát
Diệm và Thanh Hóa), và khu vực địa phận Đàng Trong (nay là 15 địa phận
thuộc giáo tỉnh Huế và Sài Gòn) suốt 300 năm, trước khi giao lại cho
hàng Giáo phẩm Việt Nam.
Tương tự như thế là dòng Đa Minh với địa phận Đông Đàng Ngoài (nay là
các địa phận Hải Phòng, Bùi Chu, Bắc Ninh, Thái Bình và Lạng Sơn), với
243 thừa sai Tây Ban Nha và 134 linh mục Dòng người Việt.
Ngoài ra Dòng Tên, sau 1659 vẫn còn một số thừa sai hoạt động tại Đàng
Trong đến năm 1783, và Đàng Ngoài đến 1802. Riêng Dòng Phanxicô, với hơn
một thế kỷ (từ 1719-1834), đã thiết lập thêm hàng trăm giáo xứ mới tại
miền Trung và miền Nam. Từ năm 1862, khi vua Tự Đức chấp thuận cho việc
giảng đạo, số các Dòng Tu đến trên giải đất hình chữ “S” này ngày càng
nhiều, và đảm nhiệm những sinh hoạt ngày càng đa dạng.
– Dòng Nữ có các Dòng: Phaolô thành Chartres (1860), Dòng kín Cát minh
(1862), Chúa Quan Phòng (1876), Đức Bà Truyền Giáo (1924), Vinh Sơn Phaolô
(1925), Nữ Tá Quốc Tế, Biển Đức và Tiểu Muội (1954), Nữ tu Đấng Chăn
Chiên Lành (1958), Con Đức Mẹ Phù Hộ Salêsian và Nữ Tỳ Đức Giêsu - Mẹ
Maria (1961), tu hội Dâng Truyền (1964) và dòng Phaolô
Thiện Bản (1974).
– Dòng Nam có các Dòng: Lasan (1866), Đaminh Lyon (1902), Chúa Cứu Thế
(1925), Phanxicô (1928), Tu hội Xuân Bích (1933), Đan viện Xi-tô Mỹ Ca
(1933), Biển Đức (1935), Gioan Thiên Chúa (1952), Don Bosco (1952), Tiểu
Đệ Đức Giêsu (1953), Lagiariste (1954), Dòng Tên (1957), Đức Mẹ Người
nghèo (1970) và Dòng Thánh Thể (1971).
Ngoài ra chúng ta không thể quên những “đồng xu mỗi tuần” của hàng triệu
tín hữu khắp nơi, tham gia vào các Hội Truyền Bá Đức Tin ở Lyon (1822),
Hội Thánh Nhi (1843) nhằm giúp trẻ em miền truyền giáo, và Hội Thánh
Phêrô (1893) giúp các chủng viện truyền giáo. Cũng không thể quên, đàng
sau các nhà truyền giáo là tập thể các Dòng tu quốc tế, sẵn sàng yểm trợ
các chương trình từ thiện, tặng học bổng... Và cũng thế, làm sao quên
được hàng triệu các thân hữu, và ân nhân khắp hoàn cầu, mỗi ngày dâng
lời cầu nguyện cho Hội Thánh Việt Nam.
2. Đảm nhận vận mệnh chính mình
Đọc lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, người ta thấy ngoài vai trò của các
thừa sai nước ngoài, việc phát triển của Hội Thánh đã nhờ vào chính
những người Việt thiện chí và hăng say, dâng hiến trọn cuộc sống cho
Nước Trời, đưa Tin Mừng đến khắp các hang cùng ngõ hẻm, và nuôi dưỡng
đời sống đức tin cho anh em mình, đó là các linh mục và tu sĩ Việt Nam.
a. Hàng giáo sĩ Việt Nam. Năm 1668, Đức cha Lambert đã đặt tay truyền
chức cho bốn linh mục tiên khởi tại Juthia, Thái Lan là: Cha Giuse
Trang, cha Luca Bền, (thuộc Đàng Trong) cha Bênêđictô Hiền, Gioan Huệ
(thuộc Đàng Ngoài) và năm sau, thêm bảy tân linh mục khác thuộc Đàng
Ngoài. Chín linh mục Đàng Ngoài đã cùng với Đức Cha Lambert và ba thừa
sai, họp Công Đồng đầu tiên của Hội Thánh Việt Nam tại phố Hiến, tháng
2-1670. Các vị đã cùng nhau đưa ra một chương trình hoạt động, chia giáo
xứ, chọn thánh Giuse làm bổn mạng, và ấn định việc đào tạo chủng sinh
qua tổ chức nhà Đức Chúa Trời. Với tổ chức Nhà Đức Chúa Trời, từ nay,
mỗi giáo xứ ổn định đều trở thành một “tiểu chủng viện” ươm trồng ơn
gọi. Những người có khả năng sẽ được chọn gởi vào chủng viện, hoặc vào
trường Kẻ Giảng để trở thành linh mục hoặc thầy giảng. Chính nhờ đó, Hội
Thánh Việt Nam không bao giờ thiếu linh mục, kể cả trong những giai đoạn
bách hại gay go nhất, khi toàn bộ các thừa sai bị trục xuất. Không kể
các chủng viện liên địa phận tại Juthia (1665), Pondichéry, Ấn Độ
(1769-1782), và Pénang, Mã Lai Á (từ 1807), đã có biết bao linh mục xuất
thân từ các chủng viện:
– Miền Nam tại Hà Tiên (1776) dời lên Tân Triều, Biên Hòa (1778), rồi Mỹ
Tho (1783), và Lái Thiêu (1789-1832).
– Miền Trung tại Thợ Đúc, Huế (1739-1750), rồi Bình Định, mới đầu ở Dinh
Cát (1782), sau ở Hòa Ninh (1784) và An Ninh (1801-1820).
– Miền Bắc có chủng viện Nghệ An (1685). Kẻ Lô (1697). Kiên Lao (1683),
Kẻ Cốc, Bắc Ninh (1684), Lục Thủy, Bùi Chu (1686) và Kẻ Bùi (1773).
Sau này, mỗi địa phận mới được thành lập, lại đi kèm với các chủng viện
mới. Thống kê sau đây cho ta thấy mức phát triển của hàng giáo sĩ Việt
Nam qua các giai đoạn: 43 linh mục năm 1700, 119 vị năm 1800, 385 vị năm
1900, 1158 vị năm 1933 và năm 1963 số linh mục Việt Nam đã lên đến 2018
(393 linh mục Dòng).
b. Các dòng tu Việt Nam (thế kỷ XVII - XIX). “Hội Thánh Việt Nam từ thuở
khai nguyên, đã được Thiên Chúa ban cho một quà tặng quý báu là Dòng Mến
Thánh Giá, như một cánh tay hữu hình của Chúa Kitô, để cộng tác với Hội
Thầy Giảng, hàng giáo sĩ bản quốc, và các quý chức xây dựng nhiệm thể
Chúa Cứu Thế...” Dòng Mến Thánh Giá là hội dòng nữ đầu tiên mang bản sắc
Á Châu và hướng hẳn về việc truyền giáo cho lương dân. Quả thực, ngay từ
đầu năm 1670 (thứ tư Lễ Tro), Đức Cha Lambert đã nhận lời khấn của hai
nữ tu tiên khởi Anê và Paula, tại Kiên Lao; đã soạn thảo và ban hành
hiến pháp Dòng. Năm sau, ngài thiết lập thêm một cộng đoàn tại Quảng
Ngãi. Kể từ đó, dần dần nữ tu Mến Thánh Giá có mặt trên các miền đất
nước, giữ ba lời khấn, sống cộng đoàn và liên kết với nhau: giáo dục
giới trẻ về văn hóa và đức tin, phục vụ bệnh nhân, bảo vệ trẻ thơ và góp
phần thăng tiến nữ giới bằng giáo dục và hướng nghiệp. Năm 1854, Đức Cha
Retord Liêu đã gửi tin về Châu Âu: “Dòng Mến Thánh Giá có 72 nhà, 1600
chị em; và đã rửa tội hơn 51.000 trẻ em hấp hối”.
Tại miền Truyền giáo thuộc dòng Đaminh, ngoài các nữ tu Mến Thánh Giá,
còn có đông đảo các chị em Đaminh Dòng Ba Sống Chung. Kể từ thời cha
chính Bustamante Hy, nhà phước Đaminh đầu tiên được lập ở Trung Linh năm
1715. Về tinh thần, chị em học theo gương Thánh Phụ Đaminh vác các Thánh
Dòng; về tổ chức, chị em như một tu hội có lời khấn tư, còn về hoạt động
thì tương tự các nữ tu Mến Thánh Giá. Thống kê của cha chính Alonso Phê
năm 1780 cho biết trong khu vực Đaminh có 5 nhà Mến Thánh Giá (48 dì) và
12 nhà nữ Đaminh (178 dì). Đến năm 1933, số nữ tu Đaminh tại bốn địa
phận Dòng là 780.
Cuối thế kỷ XIX nhiều Dòng tu mới đã được thành lập tại Việt Nam:
– Dòng Nam gồm có: Kitô Vua, Cái Nhum (1870), Sư huynh Thánh Tâm Huế
(1925), Thánh Giuse Nha Trang (1926), Qui Nhơn (1928), Đức Mẹ Đồng Công
(1953); các tu hội: Nhập Thể Tận Hiến (1969), Thánh Gia Long Xuyên
(1970), Nhà Chúa (1971), Đắc Lộ (1957), Gioan Tiền Sử (1974), Truyền
Giáo Cần Thơ (1963), Gia đình Na-Gia (1964). Riêng Dòng Phước Sơn được
lập năm 1920, đã gia nhập gia đình Xitô năm 1934, được nâng lên thành
chi dòng Thánh Gia năm 1964 (gồm các Đan viện Phước Sơn 1920, Châu Sơn
1936, Phước Lý 1952, Châu Sơn Đà Lạt 1957 và Châu Thủy Bình Tuy 1972).
– Dòng Nữ gồm có: Con Đức Mẹ Vô Nhiễm (1920), Con Đức Mẹ Thăm Viếng
(1937), Con Đức Mẹ Mân Côi (1946), Nữ Tu Ảnh Phép lạ Kontum (1947),
Trinh Vương (1953), Khiết Tâm Nha Trang (1961), Tu hội Nữ Tỳ Đức Giêsu
Linh Mục (1966, thành hội dòng 1987), Con Đức Mẹ Bình Thủy Cần Thơ
(1967), Nữ Vương Hòa Bình (1969, Ban Mê Thuộc), Tu hội Nhập Thể Tận Hiến
(1969). Ngoài ra còn một số tu hội thử nghiệm như: Tôi Tá Thánh Linh, Nữ
Thánh Tâm, Nữ Tá Truyền Giáo, Nữ Tu Lasan, Nô Tỳ Thiên Chúa, Nữ tu Thánh
Thể, Chúa Hài Đồng, và một số các Gia Đình Bác Ái (Foyers de charité).
3. Dấn thân phục vụ con người
Với tỷ lệ nhỏ nhoi trong cộng đồng dân tộc, Hội Thánh thực ra chỉ tham
gia một phần nào với sự nghiệp chung của đồng bào. Thế nhưng, Hội Thánh
vẫn canh cánh bên lòng mối bận tâm phục vụ cho công cuộc con người ngày
càng tươi sáng, tiến bộ và bình an, đã để lại những chứng tá tập thể đặc
biệt về mặt an sinh, giáo dục và bác ái từ thiện.
Góp phần vào sự sống còn của quê hương, đã có không ít tín hữu tham gia
quân đội của Tây Sơn, nhiều người còn giữ những vị trí chỉ huy. Trong
phong trào yêu nước thời cận đại, sử sách ghi lại danh tính nhiều nhân
vật, như linh mục Đặng Đức Tuấn, như Nguyễn Trường Tộ, linh mục Nguyễn
Điều, Đội Vũ, Lãnh Phiên, thầy già Mai, lão Bang, hoặc các linh mục Đầu
Quang Lĩnh, Nguyễn Tường, Nguyễn Thần Đồng... Các vị đã đóng góp phần
tim óc để “Hiến Bình Tây Sách” để “Tế cấp luận”, và đóng góp phần xương
máu trên những chặng đường dài đầy chông gai, để dành độc lập cho dân
tộc.
Trong hướng an sinh, các tín hữu cùng nhịp bước với mọi người trong bối
cảnh kinh tế khó khăn: từ những đoàn người đông đảo theo chân cụ Nguyễn
Công Trứ đến lập cư tại Tiền Hải, Kim Sơn, Thái Bình; cho tới những đoàn
người theo kế hoạch của Chúa Nguyễn, đến an cư lập nghiệp ngay từ giai
đoạn đầu Môi Xuy, Biên Hòa. Rồi qua những năm tháng lịch sử, tương tự
những đan viện thời Trung Cổ làm nên những làng mạc Âu Châu, các linh
mục đã dẫn dân đi “lập trại” biến những khu vực hoang vu thành khu dân
cư đông đảo, sinh hoạt sầm uất.
Trong lãnh vực giáo dục và xã hội, hầu như bất cứ nhà thờ hay tu viện
nào cũng kèm theo trường học và tổ chức bác ái từ thiện, như những lớp
miễn phí, những bệnh viện hoặc trạm xá, xin đan cử một thống kê của các
địa phần miền Trung và miền Nam vào năm 1969 (20). Các nhà thờ và dòng
tu đã đảm nhiệm tất cả:
– 1030 trường tiểu học, với 345.756 học sinh (25% không công giáo).
– 226 trường trung học, 152.928 học sinh (46% không công giáo).
– 41 bệnh viện, với 7.000 giường.
– 239 trạm phát thuốc, 36 nhà hộ sinh, 29 nhà dưỡng lão.
– 9 trại phong, với 2.500 bệnh nhân.
– 82 cô-nhi-viện chăm sóc 11.000 em.
Dĩ nhiên những con số ấy cũng chưa nhiều, nhưng cũng đủ nhắc nhở người
tín hữu hôm nay, theo cách thế của mình, nối tiếp vào truyền thống mục
vụ ấy.
4. Lớn lên trong thử thách
Trước hiểm họa thực dân Pháp, triều đình Nhà Nguyễn phải chọn một trong
hai con đường: hoặc là tiến hành cải cách trong nước, mở rộng bang giao
để bảo toàn chủ quyền; hoặc là chìm đắm trong chính sách thủ cựu, tự cô
lập, cố gắng duy trì chế độ quân chủ chuyên chế lạc hậu. Và triều đình
đã chọn con đường thứ hai: dùng những điều luật hà khắc để trừng trị mọi
hành vi bị coi như là chống đối, và thi hành những chính sách cấm đạo
Giatô ngặt nghèo (21).
Phân tích lý do việc cấm đạo là trách nhiệm của khoa lịch sử, trong khi
đó, 14 chỉ dụ cấm đạo từ 1833-1862 là một thực tế lịch sử (22).
Và, chính giữa bối cảnh khó khăn đó, niềm tin của người Kitô hữu được
thanh luyện. Khi mà việc giữ đạo chẳng đem lại cho họ một lợi tức nào cụ
thể, số Kitô hữu vẫn tiếp tục gia tăng, từ 320.000 năm 1800, lên 426.000
năm 1855. Số địa phận từ 3 nâng lên thành 8 địa phận năm 1850, và 13 địa
phận năm 1933.
Trong số những người đổ máu đào minh chứng cho niềm tin: 117 vị đã được
suy tôn chân phước trong 4 đợt: Đức Lêô XIII suy tôn 64 vị năm 1900; Đức
Piô X suy tôn 8 vị năm 1906, và 20 vị năm 1909; Đức Piô XII suy tôn 25
vị năm 1951. Thành Phần gồm 8 giám mục, 50 linh mục, 1 chủng sinh, 14
thày giảng và 44 giáo dân. Tất cả đã được Đức Gioan Phaolô II suy tôn
Hiển Thánh ngày 19-6-1988.
Các địa phận mới được thành lập trước 1933:
– Tại Đàng Ngoài: Vinh (1864), Bùi Chu (1848), Bắc Ninh (1833), Hưng Hóa
(1895), Phát Diệm (1901), Lạng Sơn (1913), Thanh Hóa (1932).
– Địa phận Đàng Trong: năm 1844 được chia thành 2 địa phận Đông (Qui
Nhơn) và Tây (Sài Gòn) tách ra thêm các địa phận Huế (1950), Nam Vang
(1950) và Kontum (1932). Năm 1933, Hội Thánh Việt Nam có Giám Mục tiên
khởi là Đức Cha J.B. Nguyễn Bá Tòng, khởi sự cho giai đoạn mới, giai
đoạn tiến triển đến trưởng thành.
Nhìn lại chặng đường
lịch sử Giáo Hội Trưởng Thành tại Việt Nam
Việc thành lập hàng giáo phẩm địa phương, vốn là ước vọng của Thánh Bộ
Truyền Giáo ngay từ bản huấn thị 1659, nhưng trong thực tế, phải đến thế
kỷ XX mới thành sự thật. Năm 1846, Đức Piô IX đã đưa ra những chỉ thị
rất cụ thể: “Phải hủy bỏ tập tục chỉ chấp nhận một hàng giáo sĩ bản xứ
phụ thuộc. Những người làm việc Tin Mừng, dù thuộc xứ nào, đều bình
đẳng”. Sau đó, Đức Lêô XIII đã đẩy công việc nhanh hơn bằng cách lập các
Tòa Khâm Sứ, trước tiên là tại Ấn Độ (1884) rồi đến Hoa Kỳ và Canada
(1898). Đến thời Đức Piô XI, Việt Nam có Tòa Khâm Sứ tại Huế năm 1925.
Chính dưới thời Đức Piô XI, nhiều quốc gia thuộc miền truyền giáo có
Giám mục: Ấn Độ (1923), Trung Hoa (1926), Nhật Bản (1927) và Việt Nam
(1933). Đặc biệt kỳ đó, Tòa Thánh không chỉ hỏi ý kiến các thừa sai, mà
cả ý kiến các linh mục Việt Nam tại Sàigòn năm 1925, và tại Huế 1930. Kể
từ đây sinh hoạt của Giáo Hội Việt Nam linh động hẳn lên: đón nhận nhiều
Dòng Tu quốc tế, thành lập và cải tổ các Dòng Tu trong nước, số linh mục
Việt ngày càng đông đảo, số địa phận ngày càng gia tăng. Các địa phận
mới được thiết lập là: Thái Bình (1936), Vĩnh Long (1938), Cần Thơ
(1955) và Nha Trang (1957).
1. Ngày lịch sử 24-11-1960
Qua Tông Hiến Venerabilium Nostrorum, ngày 24-11-1960, Đức Gioan XXIII
đã thiết lập thêm ba địa phận mới là Đà Lạt, Mỹ Tho và Long Xuyên, tuyên
bố thiết lập ba Giáo Tỉnh (Hà Nội, Huế, Sàigòn) và bổ nhiệm các giám mục
chính tòa. Số giáo phận tại Việt Nam lúc này là 20, được phân chia như
sau: Hà Nội 10, Huế 4 và Sàigòn 6. Đứng đầu ba Giáo Tỉnh là ba Tổng Giám
Mục Giuse Trịnh Như Khuê, Phêrô Ngô Đình Thục và Phaolô Nguyễn văn Bình.
Chỉ trừ hai giáo phận Nha Trang (Đức Cha Piquet Lợi), và Kontum (Đức Cha
Seitz Kim), 18 Giáo phận còn lại đều do các giám mục Việt Nam phụ trách.
Việc thiết lập hàng giáo phẩm Việt Nam năm 1960 quả là một bước ngoặt
đáng ghi nhớ. Hạt giống Tin Mừng đã được gieo trồng suốt bốn thế kỷ, nay
đơm bông kết trái trong bối cảnh Công Đồng Vatican II đã đưa người người
tín hữu Việt Nam vào trào lưu chung của Hội Thánh toàn cầu: trở về nguồn
Tin Mừng và canh tân thích nghi với thời đại; cởi mở và đối thoại với
mọi nền văn hóa, cùng chung âu lo và hy vọng với mọi người, để dấn thân
phục vụ xã hội ngày càng đa dạng và phong phú hơn.
2. Nhìn lại một chặng đường ...
Sau 1960, năm địa phận khác được thành lập là Đà Nẵng (1963), Xuân Lộc
(1966), Phú Cường (1966), Ban Mê Thuột (1967), Phan Thiết (1975), và Bà
– Rịa (2005) nâng tổng số giáo phận Việt Nam hiện nay lên 26 địa phận
(Hà Nội 10, Huế 6, Sàigòn 10). Tính đến tháng 6-1992, Việt Nam đã có tất
cả 67 giám mục (32 vị đã được Chúa gọi về). Từ năm 1975, trong bối cảnh
đất nước thống nhất, Hội Thánh Việt Nam ở hai miền Nam Bắc được xum họp
một nhà. Kể từ 1980, Đại hội các Giám mục toàn quốc đã được tiến hành
hằng năm, và Hội Thánh Việt Nam khẳng định ý muốn là “Hội Thánh Chúa
Giêsu Kitô trong lòng dân tộc Việt Nam, để phục vụ hạnh phúc của đồng
bào” (X. Thư chung 1980).
Nhìn lại lịch sử hơn 400 năm, như Mẹ MARIA, người tín hữu Việt Nam cất
cao lời ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa, vì khi quay nhìn quá khứ với cặp
mắt đức tin, ta nhận ra Chúa hằng hiện diện và đồng hành với Hội Thánh
trong từng bước đi, dù khi thành công hay thất bại, dù lúc chan hòa ánh
sáng hay bóng tối đong đầy. Nhìn lại lịch sử hơn 400 năm, người tín hữu
Việt Nam cũng ý thức rằng đức tin mà mình lãnh nhận, đã được gieo trồng
và vun xới bằng mồ hôi và nước mắt; hơn nữa bằng cả máu đào của tiền
nhân. Vì thế, phải hết sức trân trọng, gìn giữ và phát huy đức tin ấy
bằng cả cuộc đời. Hơn thế nữa, nếu đức tin là hồng ân đã lãnh nhận xuyên
qua gian khổ của tiền nhân, người tín hữu Việt Nam hôm nay phải tiếp tục
công trình của cha ông trong nỗ lực truyền giáo, để tinh thần Phúc Âm
được thấm nhập vào mọi thực tại xã hội, và quê hương Việt Nam thân yêu
được phát triển theo hướng đi của Nước Trời, Nước Công Chính, Yêu Thương
và An Bình. MARANATHA, Lạy Chúa GIÊSU, Xin Ngài đến! (Kh 22,20).
“Lạy Chúa,
Chúa muốn dùng các Hội
Thánh địa phương tản mác khắp hoàn cầu
để làm cho mọi người
thấy được
Hội Thánh duy nhất,
thánh thiện, công giáo và tông truyền.
Xin gìn giữ linh mục và
giáo dân hiệp nhất với giám mục của mình.
Xin dùng lời Chúa và
Thánh Thể quy tụ tất cả trong một Thánh Thần,
để Hội Thánh Việt Nam
chúng con
nên hình ảnh của Hội
Thánh toàn cầu
và nên dấu chỉ của Chúa
Kitô đang hiện diện trên thế giới.
Amen.”
|
|