|

Một Vị Tiền Nhiệm
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Biên soạn cho Chương Trình Phát Thanh Tin Mừng Sự Sống 555 Thứ Sáu
29/4/2011
Chúa
Nhật thứ nhất sau Chúa Nhật Phục Sinh, từ năm 2001, được Giáo Hội cử
hành Lễ Kính Lòng Thương Xót Chúa, như được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II thiết lập vào ngày 30/4/2000. Ngày 1/5/2011 là Chúa Nhật Phụng Vụ
Kính Lòng Thương Xót Chúa, cũng là chính ngày hết sức ý nghĩa được Tòa
Thánh chọn để tuyên phong chân phước cho Vị Giáo Hoàng Totus Tuus của
Lòng Thương Xót Chúa Gioan Phaolô II này. Chính Đức Thánh Cha đường kim
Biển Đức XVI sẽ là vị chủ phong cho vị giáo hoàng tiền nhiệm của mình,
một biến cố chưa từng có trong lịch sử hơn 2000 năm của Giáo Hội và có
lẽ sẽ là một biến cố vô tiền khoáng hậu.
Nói đến
nhị vị giáo hoàng này, theo thiên duyên tiền định, chúng ta thấy hai vị
có một liên hệ hết sức mật thiết với nhau trong sứ vụ thừa kế Thánh
Phêrô trong lịch sử Giáo Hội hiện đại, thời điểm kết thúc thiên kỷ thứ
hai và mở màn cho thiên kỷ thứ ba Kitô giáo.
Trước
hết, việc chuyển tiếp giữa vị giáo hoàng Balan và Đức Quốc hình như đã
được le lói từ năm 1997 như thế này. Đó là sự kiện Đức
Hồng Y Joachim Meisner, Tổng Giám Mục Cologne, nơi tổ chức Ngày Giới Trẻ
Thế Giới XX năm 2005, đã tiết lộ trong cuộc họp báo tại Đài Phát Thanh
Vatican 5/7/2005 rằng “Cologne đã làm việc cả 8 năm trời cho biến cố
này”, vì vị hồng y Tổng Giám Mục Cologne tiết lộ Đức Gioan Phaolô II
đã nói với ngài về việc tổ chức Ngày Giới Trẻ Thế Giới ở Đức từ Ngày
Giới Trẻ Thế Giới ở Pháp quốc năm 1997, tức 8 năm trước, nguyên văn lời
vị hồng y như sau:
“Đức
Giáo Hoàng đã nói với tôi rằng ngài cảm thấy một trong những Ngày Giới
Trẻ Thế Giới đầu tiên trong ngàn năm mới cần phải được tổ chức ở
Cologne, vì thế kỷ vừa qua Đức quốc đã chứng kiến thấy một số những thảm
họa kinh hoàng cho nhân loại, và giờ đây nước này cần phải chứng kiến
thấy một dấu hiệu hy vọng cả thể”.
Về việc
chuyển tiếp kỳ lạ giữa hai vị giáo hoàng thuộc về 2 đất nước Balan rồi
Đức quốc này, hai quốc gia đã từng là kẻ thù của nhau trong Thế Chiến
Thứ Hai, cũng đã được Đức Thánh Cha Biển Đức XVI nhận định trong Bài Nói
về Cuốn Phim “Karol, Một Con Người đã Trở Thành Giáo Hoàng” ngày
19/5/2005 như sau:
”Chúng
ta lại không thấy được hay sao dự án thần linh nơi sự kiện là trên Ngai
Tòa Thánh Phêrô vị Giáo Hoàng Balan được kế vị bởi một người công dân
Đức Quốc, nơi chế độ Nazi đã củng cố mình bằng tính chất cực kỳ độc hại,
trước khi tấn công láng giềng của mình, nhất là Balan? Cả hai vị Giáo
Hoàng này, trong thời còn trẻ, mặc dù ở hai bên khác nhau và ở hai
trường hợp khác nhau, đều bị buộc phải trải qua cái dã man mọi rợ của
Thế Chiến Thứ Hai cũng như của tình trạng bạo lực vô nghĩa được con
người và các dân tộc sử dụng để phạm đến nhau”.
Phải
chăng Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II được sai đến để làm sụp đổ chủ nghĩa
và chế độ Cộng sản Âu Châu thì vị Giáo Hoàng Biển Đức XVI được sai đến
để giúp cho Âu Châu hiệp nhất nên một bằng việc hiện thực hóa vấn đề đại
kết Kitô giáo?
Sau nữa,
Đức Gioan Phaolô II được sai đến như một triết gia nhân bản, vị đã đặc
biệt đóng góp vào 2 trong 4 Hiến Chế của Công Đồng Chung Vaticanô II,
đó là Hiến Chế tín lý về Giáo Hội "Lumen Gentium" và Hiến Chế mục vụ về
Giáo Hội "Gaudium et Spes", và trong giáo triều dài 26 năm rưỡi của mình
ngài quả thực đã làm cho Giáo Hội là "Ánh Sáng Muôn Dân" mang "Vui Mừng
và Hy Vọng" đến cho cả Giáo Hội hoàn vũ cũng như chung thế giới tân tiến
qua 104 cuộc tông du của mình và 16 bức Thông Điệp bao gồm đủ mọi vấn đề
thiết yếu hiện đại. Trong khi đó, Đức Thánh Cha Biển Đức XVI là một thần
học gia thánh kinh và phụng vụ, vị cũng đã góp phần vào 2 trong 4 Hiến
Chế còn lại của Công Đồng Chung Vaticanô II, đó là Hiến Chế về Phụng Vụ
Thánh Sacrosanctum Concilium
và Hiến Chế về Lời Chúa Dei Verbum, và trong giáo triều của mình, ngài
đã chủ tọa hai Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới, một về Thánh Thể năm 2005
và một về Lời Chúa năm 2008, ngoài ra, về Phụng Vụ ngài còn cho phép cử
hành Lễ Latinh và về Lời Chúa ngài còn xuất bản bộ sách 3 cuốn về Chúa
Giêsu Nazarét.
Sau hết,
cả hai vị giáo hoàng, trong bài giảng cho lễ đăng quang khai triều của
mình, đều kêu gọi thế giới "đừng sợ" mà hãy tin tưởng vào Đấng Cứu Chuộc
Nhân Trần - Redemptor Hominis. Trong tác phẩm “Tặng Ân và Mầu Nhiệm
– Gift and Mystery”, ấn bản Anh Ngữ 1996, trang 82, Đức Gioan
Phaolô II tiết lộ cho biết cốt lõi của giáo triều ngài là Đấng Cứu Chuộc
Nhân Trần như sau:
“Chúa
Kitô là một vị linh mục vì Người là Đấng Cứu Chuộc của thế giới. Chức
linh mục của tất cả thành phần giáo sĩ thuộc về mầu nhiệm Cứu Chuộc. Sự
thật này về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc và Đấng Cứu Chuộc đã từng là những gì
trọng yếu đối với tôi; sự thật ấy đã luôn tồn tại trong tôi qua tất cả
những năm tháng ấy, nó đã thấm nhập vào tất cả mọi kinh nghiệm mục vụ
của tôi, và nó đã tiếp tục cho tôi thấy những điều phong phú mới mẻ.
Trong 50 năm làm linh mục này, tôi đã nhận thức được rằng, Việc Cứu
Chuộc, cái giá phải trả cho tội lỗi, bao gồm cả một thứ phục hồi
mới, một loại ‘tân tạo’ nơi toàn thể lãnh vực tạo sinh, ở chỗ, nó
là những gì tái phục hồi con người là một ngôi vị, phục hồi con người
được Thiên Chúa dựng nên có nam có nữ, một phục hồi của chân lý sâu xa
nhất về tất cả mọi hoạt động của con người, về văn hóa và văn minh của
con người, về tất cả những gì họ chiếm đạt cùng với các khả năng sáng
tạo của họ. Sau khi tôi được bầu làm Giáo Hoàng, cái động lực thiêng
liêng đầu tiên tôi cảm thấy đó là hướng về Chúa Kitô Đấng Cứu Chuộc. Đó
là nguồn gốc của bức Thông Điệp ‘Redemptor Hominis – Đấng Cứu Chuộc Nhân
Trần’. Như tôi đã chia sẻ về tất cả những biến cố này, tôi thấy rõ hơn
bao giờ hết cái liên hệ chặt chẽ giữa sứ điệp của bức Thông Điệp này với
hết mọi sự ở trong tâm can của con người qua việc họ được thông dự vào
chức linh mục của Chúa Kitô”.
Trong
Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật VII Quanh Năm 19/2/2006, Đức Thánh Cha Biển
Đức XVI đã cảm nhận theo chiều hướng của vị tiền nhiệm mình như sau:
“Ngày
nay nhân loại cũng mang những dấu hiệu tội lỗi là những gì ngăn trở họ
nhanh chóng tiến bộ nơi những giá trị về huynh đệ, công lý và hòa bình,
những giá trị cũng đã được ấn định nơi những bản tuyên ngôn trang trọng.
Tại sao? Cái gì ngăn cản đường lối của họ? Cái gì làm tê liệt đi việc
phát triển trọn vẹn này? Chúng ta quá rõ là, trên bình diện lịch sử,
những nguyên nhân thì nhiều và vấn đề lại phức tạp. Thế nhưng, Lời Chúa
mời gọi chúng ta hãy nhìn bằng đức tin và hãy tin tưởng, như thành phần
khiêng người bị bất toại, con người chỉ có thể được chữa lành bởi một
mình Chúa Giêsu mà thôi. Ước muốn căn bản nơi các vị tiền nhiệm
của tôi, nhất là của Đức Gioan Phaolô II yêu dấu của chúng ta, đó là dẫn
con người của thời đại chúng ta đến với Chúa Kitô là Đấng Cứu
Chuộc, nhờ đó, qua việc chuyển cầu của Mẹ Maria Vô Nhiễm, Người có thể
chữa lành cho họ. Tôi cũng muốn tiến theo con đường này nữa. Nhất
là, bằng bức thông điệp đầu tiên ‘Thiên Chúa là Tình Yêu’, tôi muốn nói
với tín hữu và toàn thế giới rằng Thiên Chúa là nguồn tình yêu chân
thực. Chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới có thể canh tân lòng người, và chỉ
khi nào con tim của nhân loại bị bất toại được chữa lành thì họ mới có
thể đứng lên bước đi mà thôi. Tình yêu của Thiên Chúa thực sự là một
quyền lực canh tân thế giới vậy”.
Trước
biến cố Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đích thân chủ phong chân phước cho vị
vừa tiền nhiệm của mình,
không
còn gì thích đáng và cần thiết bằng việc ôn lại những gì vị giáo hoàng
đương kim cảm nhận về vị giáo hoàng tiền nhiệm của ngài dọc suốt thời
gian làm giáo hoàng của mình mỗi khi có dịp. Sau đây là những trích dẫn
tiêu biểu theo chủ đề được anh Cao Tấn Tĩnh theo dõi, chuyển dịch và
phân loại.
Về gương sống Đức Tin của Vị Tiền Nhiệm
Trong
bài Huấn Dụ Dân Chúng ở Wadowice, Rynek Square, Thứ Bảy 27/5/2006,
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã ôn lại đời
sống Đức Tin
của vị tiền nhiệm nơi quê hương của vị tiền nhiệm thế này:
“Tôi cảm thấy đầy xúc động ở nơi sinh trưởng này của Vị Đại Tiền Nhiệm
tôi là Người Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô II, nơi tỉnh mà ngài đã trải qua
thời thơ ấu và thanh niên. Thật vậy, tôi không thể nào không tới
Wadowice khi tôi hành hương đến Balan theo bước chân của ngài. Tôi muốn
dừng lại chính địa điểm này, nơi ngài đã bắt đầu sống đức tin và trưởng
thành đức tin, để cùng với tất cả anh chị em nguyện cầu cho ngài sớm
được tôn vinh trên bàn thờ. Johann Wolfgang von Goethe, một đại thi hào
người Đức, đã nói: ‘Ai muốn hiểu được một nhà thơ thì cần phải đến viếng
thăm quê hương của nhà thơ ấy’. Điều này cũng đúng với những ai muốn
hiểu được đời sống và thừa tác vụ của Đức Gioan Phaolô II; cần phải đến
thành phố sinh trưởng của ngài đây. Chính ngài đã thú nhận rằng, ở nơi
đây, ở Wadowice này, ‘mọi sự đã được bắt đầu: đời sống, học hành, khấu
trường và linh mục’ (Wadowice, 16/6/1999).
“Đức Gioan Phaolô II, khi quay về với những thuở ban đầu của mình,
thường đề cập tới một dấu hiệu, đó là dấu hiệu bể rửa tội, là dấu hiệu
được chính ngài đặc biệt tôn kính nơi Giáo Hội ở Wadowice. Vào năm 1979,
trong chuyến hành hương đầu tiên của ngài về Balan, ngài đã nói rằng:
‘Nơi bể rửa tội này đây, vào ngày 20/6/1920, tôi đã lãnh nhận ơn được
làm con Thiên Chúa, cùng với đức tin vào Đấng Cứu Chuộc của tôi, và tôi
đã được đón nhận vào cộng đồng Giáo Hội. Tôi đã trịnh trọng hôn bể rửa
tội này vào năm mừng kỷ niệm đệ nhất thiên niên Balan được lãnh nhận
Phép Rửa, vào lúc tôi làm Tổng Giám Mục Kraków hồi ấy. Tôi đã hôn bể rửa
tội này một lần nữa vào dịp kỷ niệm 50 năm tôi được lãnh nhận bí tích
thanh tẩy, lúc tôi làm Hồng Y, và hôm nay đây tôi hôn bể rửa tội này lần
thứ ba, khi tôi từ Rôma trở về như Vị Thừa kế Thánh Phêrô’ (Wadowice,
7/6/1979). Dường như nơi những lời này của Đức Gioan Phaolô II có chất
chứa cái then chốt để hiểu được tính cách nhất trí nơi đức tin của ngài,
tính cách sâu xa nơi đời sống Kitô hữu của ngài, và ước vọng nên thánh
được ngài liên tục bộc lộ. Ở đây, với ý thức sâu xa về ân sủng thần
linh, về tình yêu vô tư của Thiên Chúa đối với loài người, mà thành phần
Dự Tòng, nhờ nước và Thánh Linh được thuộc vào số muôn vàn con cái của
Ngài, thành phần được Máu Chúa Kitô cứu chuộc. Đường lối của đời sống
Kitô hữu chân chính là những gì tương đương với lòng trung thành thực
hiện các lời hứa quyết của Phép Rửa thánh. Câu khẩu hiệu cho chuyến hành
hương này là ‘Hãy đứng vững trong đức tin của anh chị em’ ở nơi đây có
một chiều kích cụ thể có thể được diễn đạt bằng lời huấn dụ như thế này:
‘Hãy cương quyết tuân giữ các lời hứa quyết của phép rửa’. Một chứng
nhân của chính đức tin này là Người Tôi Tớ Chúa Gioan Phaolô II, vị được
nơi chốn này nói tới một cách rất đặc biệt.
“Vị đại Tiền Nhiệm của tôi đã xác nhận là Đền Thờ Wadowice, giáo xứ quê
quán của ngài, là một địa điểm đặc biệt quan hệ tới việc phát triển đời
sống thiêng liêng của ngài cũng như tới ơn gọi linh mục của ngài là ơn
gọi tỏ hiện nơi ngài. Có lần ngài đã nói rằng: ‘Nơi nhà thờ này, tôi đã
Xưng Tội lần đầu và đã Rước Lễ lần đầu. Ở nơi đây tôi đã là một chú giúp
lễ. Ở nơi đây tôi tạ ơn Chúa về tặng ân linh mục, và là Tổng Giám Mục
Kraków, tôi đã cử hành 25 năm lãnh nhận thiên chức linh mục. Chỉ có một
mình Thiên Chúa, Đấng ban phát mọi ơn lành, mới biết được những gì là
thiện hảo và đầy những ân huệ tôi đã nhận được nơi nhà thờ này cũng như
nơi cộng đồng giáo xứ này. Hôm nay tôi xin tôn vinh Ngài, Vị Thiên Chúa
Ba Ngôi, ở ngưỡng cửa của ngôi nhà thờ đây’ (Wadowice, 16/6/1979). Nhà
thờ là dấu hiệu của mối hiệp thông của tín hữu được liên kết nhờ sự hiện
diện của Thiên Chúa là Đấng ngự giữa họ. Cộng đồng
này là Giáo Hội được Giáo Hoàng Gioan Phaolô II yêu dấu. Tình ngài mến
yêu Giáo Hội được xuất phát từ giáo xứ Wadowice đây. Nơi ngôi nhà thờ
này, ngài đã cảm nghiệm được đời sống bí tích, việc truyền bá phúc âm
hóa và việc hình thành một đức tin chín chắn trưởng thành. Đó là lý do,
là một linh mục, là một giám mục và là một Giáo Hoàng, ngài đã hết sức
chăm sóc cho các cộng đồng giáo xứ. Theo tinh thần của mối quan tâm ấy,
trong cuộc viếng thăm ngũ niên Tòa Thánh, tôi đã xin các Vị Giám Mục
Balan hãy làm tất cả những gì có thể để bảo đảm rằng giáo xứ Balan thực
sự là một ‘cộng đồng giáo hội’ và là một ‘gia đình Giáo Hội’.
“Để kết luận, tôi muốn nhắc lại lần nữa một đặc tính về đức tin và về
linh đạo của Đức Gioan Phaolô II, một đặc tính có liên hệ với nơi chốn
này. Chính ngài đã nhớ đến nhiều lần việc dân sự ở Wadowice sâu xa gắn
bó với tấm ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ở địa phương này và thói lệ đọc kinh
hằng ngày trước tượng Mẹ của các em học sinh. Việc hồi niệm ấy giúp
chúng ta tiến tới nguồn mạch của niềm xác tín đã nuôi dưỡng Đức Gioan
Phaolô II – niềm xác tín liên quan tới địa vị ngoại hạng của Người Mẹ
Thiên Chúa trong cuộc đời của ngài, một niềm xác tín mà chính ngài, đầy
lòng sùng mộ, đã bày tỏ qua khẩu hiệu ‘Totus tuus’. Cho đến giây phút
cuối cùng trong cuộc hành trình trần thế của mình, ngài vẫn trung thành
với việc hiến dâng này.
“Theo tinh thần của việc hiến dâng ấy, trước tấm ảnh này đây, tôi xin
dâng lời tạ ơn Thiên Chúa về Giáo Triều của Đức Gioan Phaolô II, và,
cũng như ngài, tôi xin Đức Mẹ hãy trông coi Giáo Hội đã được Chúa muốn
trao phó cho tôi hướng dẫn. Tôi cũng xin tất cả anh chị em, anh chị em
thân mến, hãy nguyện cầu cho tôi như anh chị em đã nguyện cầu cho vị
đồng hương cao cả ấy của anh chị em vậy. Tận đáy lòng của mình, tôi chúc
lành cho tất cả anh chị em hiện diện nơi đây hôm nay cũng như cho tất cả
những ai đến Wadowice để kín múc từ cái bể tinh thần đức tin của Đức
Gioan Phaolô II”.
Về gương theo Chúa của Vị Tiền Nhiệm
Trong
Bài Giảng cho Lễ An Táng ĐTC GPII 8/4/2005, ĐHY chủ tế Joseph Ratzinger,
vị giáo hoàng kế
nhiệm tương lai
đã tưởng
nhớ đến vị giáo hoàng ngài được tiếp tục mời gọi thân cận cộng tác lâu
đời trong vai trò Tổng Trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin như sau:
“Hãy theo Thày! Là một sinh viên trẻ, Karol Wojtyla say sưa với văn
chương, kịch nghệ và thi ca. Làm việc ở một xưởng hóa chất, bị vây bủa
và đe dọa bởi việc khủng bố của Nazi, ngài đã nghe thấy tiếng gọi của
Chúa: Hãy theo Thày! Trong hoàn cảnh ngoại thường ấy, ngài đã bắt đầu
đọc các sách về triết lý và thần học, rồi nhập chủng viện chui do ĐHY
Sapieha thiết lập. Sau cuộc chiến, ngài đã hoàn tất việc học hành của
mình theo phân khoa thần học ở Đại Học Jagiellonian ở Krakow. Nhiều lần,
trong thư gửi cho các linh mục hằng năm cũng như trong các tác phẩm tự
truyện của mình, ngài đã nói cho chúng ta biết về thiên chức linh mục
của ngài, một thiên chức ngài đã được thụ phong ngày 1 tháng 11 năm
1946. Trong các bản văn này, ngài đã cắt nghĩa thiên chức linh mục của
mình đặc biệt liên quan tới 3 câu nói của Chúa: ‘Không phải các con đã
chọn Thày, song Thày đã chọn các con. Và Thày đã sai các con đi để sinh
hoa kết trái, những hoa trái lâu bền’ (Jn 15:16). Câu thứ hai là ‘Vị mục
tử nhân lành bỏ sự sống mình cho chiên’ (Jn 10:11). Rồi câu: ‘Như Cha đã
yêu thương Thày thế nào Thày cũng yêu thương các con như vậy; hãy ở lại
trong tình yêu của Thày’ (Jn 15:9). Nơi 3 câu nói này chúng ta thấy được
tâm can và linh hồn Đức Thánh Cha của chúng ta. Ngài đã thực sự đi khắp
nơi, không ngừng nghỉ, để sinh hoa trái, một thứ hoa trái lâu bền. ‘Hãy
chỗi dậy, Nào chúng ta lên Đường!’ là nhan đề của cuốn sách áp cuối của
ngài. ‘Hãy đứng dậy, nào chúng ta lên Đường!’ – với những lời này, ngài
đã thức tỉnh chúng ta khỏi một thứ đức tin lim dim, khỏi một giấc ngủ
của thành phần môn đệ hôm qua và hôm nay. ‘Hãy đứng dậy, nào chúng ta
lên đường!’ ngài tiếp tục nói với chúng ta cho đến cả hôm nay đây. Đức
Thánh Cha là một vị linh mục cho tới cùng, vì ngài đã hiến dâng sự sống
của mình cho Thiên Chúa vì đàn chiên của mình cũng như vì toàn thể nhân
loại, bằng một cuộc tự hiến hằng ngày để phục vụ Giáo Hội, nhất là giữa
những đớn đau của các tháng cuối đời. Nhờ đó, ngài được nên một với Chúa
Kitô, Vị Mục Tử Nhân Lành đã yêu thương chiên của Người. Sau hết, ‘hãy ở
lại trong tình yêu của Thày’: Vị Giáo Hoàng này đã cố gắng gặp gỡ hết
mọi người, vị đã có khả năng tha thứ và cởi mở tâm hồn với tất cả mọi
người, bằng những lời của Chúa ấy, nói với chúng ta hôm nay đây một lần
nữa rằng, nhờ việc ở lại trong tình yêu của Chúa Kitô chúng ta học được,
nơi học đường của Chúa Kitô, nghệ thuật yêu thương chân thật.
”Hãy theo Thày! Vào tháng 7 năm 1958, vị linh mục trẻ Karol Wojtyla đã
bắt đầu một giai đoạn mới trong cuộc hành trình của ngài với Chúa và
bước theo vết chân của Chúa. Karol đã đi đến hồ Masuri để nghỉ hè như
thường lệ, cùng với một nhóm giới trẻ yêu thích chèo thuyền. Thế nhưng,
ngài đã mang theo bên mình một bức thư mời ngài gặp vị Giáo Chủ Balan là
ĐHY Wyszynski. Ngài có thể đoán được mục đích của cuộc gặp gỡ này: đó là
ngài được bổ nhiệm làm Giám Mục phụ tá ở Krakow. Rời bỏ thế giới văn học,
rời bỏ việc dấn thân thách đố với giới trẻ này, rời bỏ nỗ lực về tri
thức trong việc cố gắng hiểu biết và giải thích mầu nhiệm về tạo vật là
con người cũng như về việc truyền đạt cho thế giới ngày nay vấn đề dẫn
giải của Kitô giáo đối với con người của chúng ta – tất cả những điều ấy
đối với ngài, phải nói rằng, như mất đi chính bản thân ngài vậy, mất đi
những gì đã trở thành chính căn tính con người của vị linh mục trẻ này.
Hãy theo Thày – Karol Wojtyla đã chấp nhận việc bổ nhiệm ấy, vì ngài đã
nghe thấy nơi tiếng Giáo Hội mời gọi tiếng của Chúa Kitô. Và rồi ngài đã
nhận thức những lời của Chúa chân thực biết bao: ‘Những ai cố giữ sự
sống mình sẽ mất nó, còn những ai mất sự sống mình sẽ giữ được nó’ (Lk
17:33). Vị Giáo Hoàng của chúng ta – như tất cả chúng ta đều biết điều
này là – không bao giờ muốn giữ lấy sự sống của ngài, giữ lấy nó cho bản
thân của ngài; ngài muốn hoàn toàn trao tặng bản thân mình, cho đến giây
phút cuối cùng, vì Chúa Kitô và do đó cũng vì chúng ta nữa. Nhờ đó, ngài
đã cảm thấy được rằng hết những gì ngài đã hiến dâng vào bàn tay Chúa đã
trở về với ngài như thế nào một cách mới mẻ. Lòng ngài mộ mến ngôn từ,
thi ca, văn chương, đã trở nên một phần chính yếu của sứ vụ mục vụ của
ngài và cống hiến cho việc giảng dạy Phúc Âm tính cách sinh động mới,
thôi thúc mới, thu hút mới, cho dù có là một dấu hiệu phản khắc chăng
nữa.
”Hãy theo Thày! Vào tháng 10/1978, ĐHY Wojtyla, một lần nữa, đã nghe
thấy tiếng Chúa gọi. Một lần nữa, lại xẩy ra cuộc đối thoại với Thánh
Phêrô được trình thuật trong bài Phúc Âm Thánh Lễ hôm nay: ‘Simon, con
Jonah, con có yêu mến Thày hay chăng?’ Hãy chăn các chiên mẹ của Thày!’
Trước câu hỏi Chúa hỏi ‘Karol, con có yêu mến Thày hay chăng?’, ĐTGM
Krakow đã đáp lại tận đáy lòng mình rằng: ‘Chúa biết hết mọi sự; Chúa
biết rằng con yêu mến Chúa’. Tình yêu Chúa Kitô đã động lực chính yếu
nơi đời sống Đức Thánh Cha thân yêu của chúng ta. Bất cứ ai đã từng thấy
ngài cầu nguyện, những ai đã từng nghe ngài giảng, đều biết được điều
ấy. Nhờ việc ngài sống sâu xa thân mật với Chúa Kitô như thế, ngài đã có
thể mang vác một gánh nặng vượt trên khả năng thuần túy của phàm nhân:
gánh nặng làm mục tử của đàn chiên Chúa Kitô, của Giáo Hội hoàn vũ của
mình. Đây không phải là lúc nói về những gì đặc biệt của giáo triều
phong phú này. Tôi chỉ xin đọc hai đoạn phụng vụ hôm nay nói lên những
yếu tố chính yếu nơi sứ điệp của ngài. Trong bài đọc thứ nhất, Thánh
Phêrô – và cùng với Thánh Phêrô cả vị Giáo Hoàng này nữa – nói rằng ‘Tôi
thực sự hiểu được rằng Thiên Chúa đã không tỏ ra thiên vị, thế nhưng,
nơi hết mọi dân nước, ai kính sợ Ngài và làm những gì chân thực đều đáng
được Ngài chấp nhận. Anh em biết rằng sứ điệp Ngài đã gửi đến cho dân Do
Thái, đó là việc rao giảng hòa bình của Chúa Giêsu Kitô – Người là Chúa
của tất cả mọi người’ (Acts 10:34-36). Và trong bài đọc thứ hai, Thánh
Phaolô – và cùng với Thánh Phaolô, vị cố Giáo Hoàng của chúng ta, đã kêu
gọi chúng ta khi kêu lên rằng: ‘Anh chị em thân mến, những người tôi yêu
thương và mong đợi, là niềm vui và là vinh dự của tôi, anh chị em hãy
đứng vững như thế trong Chúa, hỡi những người tôi quí mến’ (Phil 4:1).
”Hãy theo Thày! Kèm theo lệnh truyền chăm sóc cho đàn chiên của Người,
Chúa Kitô còn báo cho Phêrô rằng thánh nhân sẽ phải chịu một cái chết tử
đạo. Bằng những lời này, những lời kết thúc và tóm tắt cuộc đối thoại về
lòng mến yêu cũng như về lệnh truyền làm chủ chiên hoàn vũ, Chúa Kitô đã
nhắc lại một cuộc đối thoại khác đã diễn ra trong Bữa Tiệc Ly. Bấy giờ
Chúa Giêsu đã phán: ‘Nơi Thày đi các con không thể nào tới được’ Thánh
Phêrô thưa Người rằng: ‘Lạy Thày, Thày đi đâu thế?’ Chúa Giêsu đáp: ‘Nơi
Thày đi hiện nay con không thể nào theo Thày nổi đâu; nhưng sau này con
sẽ theo Thày’ (Jn 13:33,36). Từ Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã tiến tới Thập
Giá, tiến tới cuộc phục sinh của Người – Người đã đi vào cuộc vượt qua
của Người; và Thánh Phêrô chưa thể nào theo được Người. Giờ đây, sau
cuộc phục sinh, thời giờ ấy đã đến, thời điểm ‘sau này’ đã đến. Bằng
việc chăn dắt đàn chiên của Chúa Kitô, Thánh Phêrô đã đi vào mầu nhiệm
vượt qua, thánh nhân đã tiến về phía thập tự giá và về cuộc phục sinh.
Chúa Kitô đã nói về điều này bằng những lời: ‘… khi con còn trẻ, con
thường tự mình thắt lưng lấy và đi đâu tùy ý con muốn’ (Jn 21:18). Trong
những năm đầu của giáo triều mình, những năm còn trẻ trung và đầy nhiệt
huyết, Đức Thánh Cha đã đi đến tận cùng trái đất theo sự dẫn dắt của
Chúa Kitô. Thế nhưng sau đó, ngài càng ngày càng đi sâu vào cuộc hiệp
thông khổ đau với Chúa Kitô; càng hiểu được sự thật của những lời này:
‘Người ta sẽ thắt lưng cho con’. Và trong chính cuộc hiệp thông đau khổ
này với Chúa Kitô một cách liên tục và càng gia tăng hơn, ngài đã loan
báo Phúc Âm, loan báo mầu nhiệm về một tình yêu thương cho đến cùng tận
(x Jn 13:1)”.
Về Linh Đạo Của Vị Tiền Nhiệm
Trong
Bài Giảng Lễ Giỗ 3 năm cho Đức Gioan Phaolô II, ĐTC Biển
Đức XVI chia sẻ cảm nhận của mình như sau:
"Giống như 3 năm trước đây, cả đến ngày hôm nay nữa, mới chỉ sau một
thời gian ngắn sau Phục Sinh. Trung tâm điểm của Giáo Hội đây lại cảm
thấy mình chìm đắm trong mầu nhiệm phục sinh của Chúa Kitô. Thật vậy,
chúng ta có thể giải thích cả cuộc đời của vị tiền nhiện thân yêu của
tôi, đặc biệt là thừa
tác vụ thừa kế Thánh Phêrô của ngài, theo dấu hiệu của Chúa Kitô đã được
phục sinh. Ngài đã cảm thấy một đức
tin phi thường nơi Người, và cùng với Người, ngài đã giữ được một cuộc
trao đổi thân tình, đặc biệt và liên lỉ. Trong số nhiều những tính chất
nhân loại và siêu nhiên của mình, ngài có một cảm quan đặc biệt về tu
đức và thần bí.
"Chỉ cần thấy ngài cầu nguyện là đủ: Bề ngoài ngài chìm đắm trong Chúa
và dường như mọi sự khác trong lúc ấy đều ở ngoài cuộc.
Trong khi cử hành phụng vụ, ngài đã chú tâm tới mầu nhiệm đang diễn
tiến, bằng một khả năng nhận định một cách nhậy bén cái tính chất sống
động của lời Chúa tiến triển qua giòng lịch sử, khi tiến sâu vào dự án
của Thiên Chúa. Như ngài thường hay nói, đối với ngài Thánh Lễ là tâm
điểm của ngày sống và cả cuộc đời của ngài – thực tại 'sống động và
thánh hảo' Thánh Thể này đã hiến cho ngài nghị lực thiêng liêng trong
việc hướng dẫn dân Chúa tiến bước trên con đường lịch sử.
"Đức Gioan Phaolô II đã qua đời vào thời điểm vọng Chúa Nhật Thứ Hai
Phục Sinh, 'ngày Chúa làm nên'. Những quằn quại của cái chết đã xẩy ra
vào 'ngày' này, theo cái thời-không mới thì đó là 'ngày thứ tám', ngày
được Ba Ngôi muốn qua công cuộc của Lời nhập thế, tử nạn và phục sinh.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II vào những trường hợp khác nhau đã cho
thấy rằng, một cách nào đó, ngài đã chìm sâu vào chiều kích linh thiêng
này trước đó, trong đời sống của ngài, nhất là trong việc làm trọn sứ vụ
là Vị Giáo Chủ Tối Cao.
"Giáo triều của ngài, nếu được tổng hợp lại và qua nhiều thời khắc đặc
biệt, cho chúng ta thấy như là một dấu hiệu và chứng từ của việc Chúa
Kitô phục sinh.
Chiều kích vượt qua ấy, một chiều kích làm cho cuộc sống của Đức Gioan
Phaolô trở thành một đáp ứng hoàn toàn cho tiếng gọi của Chúa, không thể
được tỏ hiện mà không tham phần vào những khổ đau và cái chết của Vị Sư
Phụ thần linh và là Đấng Cứu Chuộc. Tông Đồ Phaolô đã nói: 'Đây là điều
đáng tin tưởng, đó là nếu chúng ta đã chết với Người thì chúng ta sẽ
sống với Người; nếu chúng ta kiên trì chúng ta cũng sẽ hiển trị với
Người' (2Tim 2:11-12).
"Từ thuở nhỏ, Đức Karol Wojtyla đã cảm nghiệm được chân lý của những lời
ấy, khi thấy được thập tự giá trên con đường của mình, trong gia đình
của mình, với dân tộc của mình. Ngài đã sớm quyết định vác thập giá bên
Chúa Giêsu, theo bước chân của Người. Ngài muốn là người tôi tớ trung
thành của Người cho đến độ tiếp nhận ơn gọi làm linh mục như là một tặng
ấn và là một cuộc dấn thân suốt cuộc đời của ngài. Với Người, ngài đã
sống, và cùng với Người ngài đã muốn được chết đi. Ngài đã làm tất cả
những điều này nhờ trung gian đặc thù của Mẹ Maria rất thánh là Mẹ của
Giáo Hội, Mẹ của Đấng Cứu Chuộc, người Mẹ đã sâu xa và thực sự liên kết
với mầu nhiệm cứu độ nơi việc tử nạn và phục sinh của Người".
Trong Huấn Từ Truyền Tin Chúa Nhật Lễ Lá 30/3/2008 về Đức Gioan Phaolô
II và Lòng Thương Xót Chúa,
ĐTC Biển
Đức XVI còn thêm về một khía cạnh thiết yếu nữa trong linh đạo của vị
tiền nhiệm thế này:
"Như Thánh Faustina, Đức Gioan Phaolô II cũng đã trở thành một vị tông
đồ của lòng thương xót thần linh. Vào đêm Thứ Bảy 2/4/2005 không thể
quên được ấy, khi ngài vĩnh viễn lìa đời thì chính là thời điểm lễ vọng
Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh đã được cử hành, và nhiều người nhận định
thấy sự trùng hợp đặc thù này, một sự trùng hợp giữa chiều kích Thánh
Mẫu là ngày Thứ Bảy Đầu Tháng và chiều kích lòng thương xót thần linh.
Thật vậy, giáo triều lâu dài và muôn mặt của ngài là ở cái cốt lõi chính
yếu này; tất cả sứ vụ của ngài trong việc phục vụ chân lý về Thiên Chúa,
về con người và về hòa bình trên thế giới đều được tóm gọn trong lời
tuyên bố này, như chính ngài đã nói ở Krakow-Lagiewniki năm 2002, khi
khánh thành Đền Thờ Lòng Thương Xót Chúa: 'Ngoài tình thương của Thiên
Chúa sẽ không có một nguồn hy vọng nào khác cho nhân loại hết'. Sứ điệp
của ngài, như sứ điệp của Thánh Faustina, cho thấy dung nhan của Chúa
Kitô, mạc khải tối hậu của tình thương Thiên Chúa. Hãy liên lỉ chiêm
ngưỡng dung nhan này: Đó là gia sản ngài đã để lại cho chúng ta
mà chúng ta hân hoan đón nhận làm của mình".
·
|
|