Chân Lư Đức Tin: Thày là Đức Kitô... (x Mt 16:16)

 

 

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL

 

 

 

C

ó thể nói và phải nói rằng lời tuyên xưng của vị trưởng tông đồ đoàn Simon: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16:16) là tất cả chân lư đức tin. Lời tuyên xưng này chẳng những là "tảng đá góc tường" cho ṭa nhà Giáo Hội mà c̣n là then chốt cho tất cả các mầu nhiệm đức tin nữa. Tại sao?

 

Bởi v́, nếu nhân vật được gọi là Giêsu Nazarét, con của bác thợ mộc Giuse và bà Maria (x Mt 13:55) vào thời điểm lịch sử ấy của chung loài người và riêng dân Do Thái không phải là "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" th́ tất cả mọi mầu nhiệm đức tin, trong đó có cả mầu nhiệm Giáo Hội, được nhân vật lịch sử được gọi là Kitô giáo tổ này mạc khải đều có thể sai lầm, thậm chí cả biến cố quan trọng nhất của nhân vật ấy và về nhân vật ấy là sự kiện nhân vật ấy sống lại từ trong kẻ chết cũng chỉ là một huyền thoại, hoang đường (x Acts 17:32), hay chẳng qua chỉ là một sự kiện gian lận giả trá gây ra bởi thành phần môn đệ đă giấu xác của nhân vật này đi, cho hợp với những ǵ nhân vật ấy tiên báo trước, chứ không phải nhân vật ấy sống lại thật, đúng như lời truyền tụng trong dân Do Thái (x Mt 28:11-15).

 

Chính sự kiện dân Do Thái chối bỏ nhân vật Giêsu Nazarét "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống", đến độ, nếu ai dám công nhận Người hay theo Kitô giáo sẽ bị loại ngay ra khỏi Hội Đường, (như bên Giáo Hội Công Giáo Rôma bị tuyệt thông khi chối bỏ chân lư đức tin "Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống"), lại trở thành một chứng cớ hùng hồn cho thấy quả thực có nhân vật lịch sử Giêsu Nazarét, chứ không phải là một nhân vật hoang đường, và sự kiện họ chối bỏ nhân vật Giêsu Nazarét này đă sống lại từ trong cơi chết, bằng cách tuyên truyền sai lạc, dầu sao cũng cho thấy quả thực đă xẩy ra sự kiện sống lại từ trong kẻ chết liên quan đến nhân vật Giêsu Nazarét.

 

Thật vậy, theo Kitô giáo nói chung và Phụng Vụ của Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống Giáo nói riêng th́ mầu nhiệm phục sinh là mầu nhiệm quan trọng nhất và là nền tảng của tất cả mọi mầu nhiệm cũng như cho tất cả mọi mầu nhiệm khác trong đạo. Thế nhưng, tự bản chất, mầu nhiệm phục sinh cũng chỉ là một biến cố lịch sử không thể nào không xẩy ra để chứng minh về một sự thật thần linh mà thôi, sự thật đó là nhân vật Giêsu Nazarét, một con người bị dân Do Thái lên án tử và bị thẩm quyền đế quốc Rôma đóng đanh trên thập tự giá, "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". Hay nói ngược lại, chính v́ nhân vật Giêsu Nazarét "là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" mới xẩy ra biến cố phục sinh.

 

 

Đức Kitô

 

Đối với dân Do Thái, Đức Kitô (tiếng Hy Lạp là Khristós), nghĩa là Đấng Được Xức Dầu - The Anointed, và danh hiệu Kitô được dịch từ tiếng Hy Lạp này (nguyên gốc từ tiếng Do Thái là  מָשִׁיחַ) nghĩa là Đấng Thiên Sai - The Messiah.

 

Nói chung, các vị thiên sai đóng một vai tṛ then chốt trong Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái, nhất là trong những lúc họ bị quyền lực ngoại bang thống trị, (điển h́nh nhất vào thời các Quan Án, vào thế kỷ 12-13 trước công nguyên, thời chuyển tiếp sau biến cố vào Đất Hứa và trước thời Các Vua, vào thế kỷ 11 trước công nguyên), để giải cứu họ mỗi khi họ tỏ ra thật ḷng ăn năn thống hối trở về cùng vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, vị Thiên Chúa của cha ông họ là Abraham, Issac và Giacóp, vị Thiên Chúa đă tự thiết lập giao ước với tổ phụ Abraham (vào thế kỷ 17 trước công nguyên), và đă tuyệt đối trung thành với những ǵ Ngài hứa, đặc biệt bằng việc tỏ ḿnh ra cho họ qua việc sai các vị cứu tinh thiên sai đến với họ, trước hết là qua Moisen (vào thế kỷ 13 trước công nguyên) là vị cứu tinh đă được Ngài sai đến để giải cứu họ khỏi t́nh trạng làm tôi ở nước Ai Cập 450 năm (x Acts 13:20).

 

Theo truyền thống Do Thái giáo th́ chỉ có 2 sứ vụ liên quan đến việc được xức dầu, đó là vai tṛ tư tế trong đạo giáo và vương đế về dân sự. Điển h́nh nhất là trường hợp Moisen đă xức dầu cho cha con Aaron thuộc gịng dơi Lêvi làm tư tế (x Ex 30:30), và tiên tri Samuel đă xức dầu chọn Đavít làm vua thay cho Saolê (x 1Sam 16:12).

 

Cũng theo truyền thống Do Thái, kể từ thời Các Vua, thường có 3 vai tṛ đi với nhau, đó là vai tṛ tiên tri, tư tế và vương đế, trong đó, vai tṛ tiên tri được Thiên Chúa trực tiếp tuyển chọn và sai phái, không được xức dầu bởi một ai, trái lại, c̣n có quyền thay Thiên Chúa xức dầu tấn phong cho các tư tế và các vị vương đế. Ba vai tṛ này nơi Lịch Sử Cứu Độ của Dân Do Thái có thể tiêu biểu cho ba yếu tố chính nơi con người, đó là lương tâm (tiếng nói của Thiên Chúa, giữ vai tṛ tiên tri, vượt lên trên con người và chi phối con người), t́nh yêu (phẩm chất của con người, giữ vai tṛ tư tế trong việc trọn hảo hóa tấm vóc con người theo lương tâm), và ư muốn (là tài năng chủ chốt nơi con người, giữ vai tṛ vương đế, làm chủ bản thân con người, nhưng vẫn cần phải tuân theo lương tâm).

 

Trong thời Các Vua, tuy dân Do Thái không bị ngoại bang xâm chiếm hay thống trị như vốn xẩy ra trong thời Các Quan Án trước đó khi mới vào Đất Hứa, tức trong thời Các Vua tuy không có các vị thiên sai đóng vai tṛ Quan Án đầy quyền lực giải phóng dân chúng về chính trị, nhưng vẫn có các vị thiên sai đóng vai tṛ các tiên tri được Thiên Chúa sai đến để cảnh báo về t́nh trạng băng hoại của dân và tiên báo những hậu quả bất khả tránh gây ra bởi thái độ ngoại t́nh bỏ Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất cứu tinh của ḿnh mà quay ra tôn thờ các ngẫu tượng tà thần. Tuy nội dung của các lời cảnh báo và tiên báo xuất phát từ thành phần tiên tri thiên sai thường có tích cách tiêu cực (tội lỗi và hủy diệt v.v.), nhưng không phải v́ thế mà hoàn toàn thiếu vắng những hứa hẹn rạng ngời của Vị Thiên Chúa vô cùng nhân hậu là chủ tể của lịch sử loài người nói chung và Lịch Sử Cứu Độ của Dân Do Thái nói riêng. Chẳng hạn Ngài đă hứa cứu dân Do Thái khỏi cảnh lưu đầy Babylon (từ năm 586 trước công nguyên) 70 năm sau (x Jer 16:15; 25:11-12; 29:10-11; 30:3; 32:36-42), và nhất là hứa sai đến với họ một Đấng Cứu Độ (như sẽ được trích dẫn sau).  

 

Căn cứ vào mạc khải Thánh Kinh Cựu Ước, th́ nhân vật quan trọng nhất trong Lịch Sử Cứu Độ của dân Do Thái chính là Moisen, một nhân vật chẳng những được Thiên Chúa trực tiếp sai đi như là một vị tiên tri của Ngài mà c̣n kiêm cả vai tṛ cứu tinh dân Do Thái khỏi t́nh trạng nô lệ ở Ai Cập nữa, một biến cố phải được muôn đời long trọng cử hành hằng năm (x Ex 12:24-27,42) để tưởng nhớ cùng tạ ơn Thiên Chúa và sống xứng với những ǵ Ngài đă ưu ái thực hiện cho thành phần dân tộc được Ngài nhưng không tuyển chọn như họ. Thật vậy, Moisen chẳng những là nhân vật thiên sai đă đến để cứu dân Do Thái cho khỏi quyền lực trần thế của Vua Pharaon Ai Cập, nhờ đó dân của Chúa có thể tự do tôn thờ Ngài (x Ex 5:1; 10:7-11), mà c̣n đóng vai tṛ tiên tri, ở chỗ không ai xức dầu cho ông, trái lại, ông c̣n xức dầu phong tư tế cho cha con của Aaron. Thậm chí ông c̣n nói tiên tri về biến cố dân Do Thái sẽ bị lưu đầy (x Deut 28:63-67), nhất là về một vị tiên tri giống như ḿnh trong vai tṛ thiên sai để giải phóng dân Do Thái (x Deut 18:15). 

 

Chính v́ thế mà cái tâm thức về một vị thiên sai, như qua Moisen hay qua Các Vị Quan Án, hay như được Các Vị Tiên Tri thiên sai báo trước, một vị thiên sai hầu như chỉ liên quan đến chính trị oai hùng đầy quyền lực về trần thế như vậy đă trở thành một ấn tượng bất khả phai mờ trong ḷng của dân Do Thái, nhất là trong những thời điểm họ bị đô hộ bởi quyền lực của ngoại bang, thậm chí nó c̣n trở thành một đ̣i hỏi bất khả tránh của dân Do Thái đối với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ, Vị Thiên Chúa hằng ở với họ để xứng với danh xưng "hiện hữu - I am who am" (Ex 3:14) của Ngài, Vị Thiên Chúa luôn ở với họ, tỏ ḿnh ra cho họ, bằng cách hằng thủy chung với họ trước sau như một, bất chấp những yếu hèn và lầm lỗi của họ. Đó là lư do trong thời gian họ bị đế quốc Rôma cai trị (từ năm 63 trước công nguyên đến 313 sau công nguyên), họ cũng mong thấy một vị cứu tinh thiên sai từ Vị Thiên Chúa của Lịch Sử Cứu Độ (x Acts 1:6). 

 

Rất tiếc, Đấng Thiên Sai cứu thế đă đến với dân Do Thái vào chính thời điểm đó nhưng họ lại không nhận biết, trái lại, c̣n dùng tay đế quốc Rôma để sát hại Người trên cây thập tự giá vô cùng ô nhục. Chỉ v́ Người không hợp với tâm thức của họ và ḷng mong đợi của họ về một vị thiên sai cứu tinh đầy quyền lực về chính trị, có thể giải phóng họ khỏi quyền lực Rôma, trái lại, Người bất lực đến không thể tự cứu ḿnh, không thể xuống khỏi thập giá (x Mt 27:42-43), cho dù trước đó ít lâu Người đă có thể hồi sinh cho Lazarô đă chết đến xông mùi (x Jn 11:39-44).

 

Thế nhưng, với Kitô giáo, qua thành phần chứng nhân tiên khởi là các tông đồ, th́ Người chẳng phải chỉ là Đấng Thiên Sai của riêng dân Do Thái mà c̣n là Đấng Cứu Thế của chung nhân loại nữa. Biến cố Người sống lại đă chứng thực như thế. Lời tuyên xưng của tông đồ Tôma: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con" (Jn 20:28) đă lập lại lời tuyên xưng của tông đồ Phêrô: "Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16:16) với những danh xưng khác. "Thày là Đức Kitô" đây của tông đồ Phêrô có nghĩa là "Chúa của con" của tông đồ Tôma, và "Con Thiên Chúa hằng sống" của tông đồ Phêrô đây chính là "Thiên Chúa của con" của tông đồ Tôma. Đúng thế, "Thày là Đức Kitô" của tông đồ Tôma trước Đấng Phục Sinh từ trong cơi chết vẫn c̣n các dấu vết tử giá trên thân ḿnh của Người ấy chính là "Chúa của con", một vị Chúa đă chiến thắng tội lỗi và sự chết, đă giải thoát chung nhân loại, bao gồm cả dân Do Thái, nơi bản tính nhân loại của ḿnh, cho khỏi tội lỗi và sự chết là những ǵ ràng buộc con người, biến con người trở thành nô lệ cho tội lỗi (x Jn 8:34) không được tự do để tôn thờ "Thiên Chúa là thần linh trong tinh thần và chân lư" (Jn 4:24), một cuộc giải phóng đă được tiên báo từ cuộc vượt qua của dân Do Thái cho khỏi Ai Cập để có thể tự do tôn thờ Thiên Chúa.

 

Thật vậy, trong tŕnh thuật về biến cố Phục Sinh của Chúa Kitô, Thánh Kư Luca đă lập lại lời của Người phán với các các tông đồ, thành phần đang ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của Người và Người đang chứng thực rằng Người quả thực đă sống lại, chẳng những bằng các dấu hiệu bề ngoài liên quan đến giác quan của các vị (x Lk 24:40-43), mà c̣n cả những yếu tố mạc khải liên quan đến tâm linh của họ nữa: "Các con hăy nhớ lại những lời Thày đă nói với các con khi Thày c̣n ở với các con, đó là hết mọi sự viết về Thày trong lề luật Moisen và các tiên tri cũng như các thánh vịnh đều đă được nên trọn" (Lk 24:44). Qua câu khẳng định này, Đức Kitô cho thấy Người thật sự là tột đỉnh của mạc khải thần linh, của những ǵ đă được tỏ ra trong quá khứ liên quan đến Người, Đấng Thiên Sai sẽ phải đến đúng như Thiên Chúa muốn vào "thời điểm viên trọn / ấn định" (Gal 4:4). 

 

Trong bốn Phúc Âm, căn cứ vào nội dung của từng Phúc Âm, có thể nói, trong khi Phúc Âm của Thánh Kư Gioan có nội dung về Thần Tính hay về vai tṛ "Con Thiên Chúa" của nhân vật Giêsu Nazarét, th́ bộ Phúc Âm Nhất Lăm (bao gồm Phúc Âm của Thánh Kư Mathêu, Marcô và Luca) có nội dung về nhân tính của nhân vật Giêsu Nazarét này, điển h́nh nhất là Phúc Âm của Thánh Kư Mathêu, một phúc âm cố ư viết cho dân Do Thái, chất chứa những lời trích dẫn từ Cựu Ước để chứng thực cho thành phần độc giả này thấy rằng nhân vật Giêsu Nazarét quả thực là "Đức Kitô". Những lời trích dẫn từ Cựu Ước được Thánh Kư Mathêu sử dụng để chứng thực nhân vật Giêsu Nazarét là "Đức Kitô", Đấng Thiên Sai đă đến với dân Do Thái, thứ tự được kể đến ở các câu Phúc Âm sau đây.

 

v     Đoạn 1 câu 23 về sự kiện nhân vật Giêsu Nazarét được thụ thai và hạ sinh bởi một trinh nữ như được báo trước bởi tiên tri Isaia (7:14);

v     Đoạn 2 câu 6 về sự kiện nơi sinh hạ của Người, như được báo trước bởi tiên tri Mica (5:1);

v     Đoạn 2 câu 15 về sự kiện Người từ Ai Cập trở về đất Do Thái, như được báo trước bởi tiên tri Hosea (11:1);

v     Đoàn 2 câu 18 về sự kiện các bà mẹ than khóc con cái thơ nhi của ḿnh bị quận vương Hêrôđê sát hại để tận diệt "Vua dân Do Thái mới sinh", như được báo trước bởi tiên tri Giêrêmia (31:5);

v     Đoạn 3 câu 3 về sự kiện xuất hiện của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả như tiếng kêu trong hoang địa, như được báo trước bởi tiên tri Isaia (40:3);

v     Đoạn 4 câu 4, 7 và 10 về sự kiện Người sử dụng các câu Thánh Kinh để khống chế các chước cám dỗ của Satan (Deut 8:3, 6:16, 6:13);

v     Đoạn 4 câu 15-16 về sự kiện Người bắt đầu rao giảng ở miền đất dân ngoại, như được báo trước bởi tiên tri Isaia (9:1);  

v     Đoạn 8 câu 17 về sự kiện Người trừ quỉ và chữa lành tất cả những ai bệnh hoạn tật nguyền, như được báo trước bởi tiên tri Isaia (53:4);

v     Đoạn 11 câu 10 về sự kiện nhân vật tiền hô Gioan Tẩy Giả, như được báo trước bởi tiên tri Malachi (3:1);

v     Đoạn 11 câu 17 về ḷng thương xót Chúa được tỏ ra qua việc chữa lành, như được báo trước bởi tiên tri Isaia (42:1-4);

v     Đoạn 13 câu 14-15 và 35 về sự kiện Người dùng dụ ngôn mà rao giảng, như được báo trước bởi tiên tri Isaia (6:9) hay bởi Thánh Vịnh (78:2);

v     Đoạn 21 câu 5, 9, 13 và 16 về sự kiện Người vinh hiển vào Thành Giêrusalem và thanh tẩy Đền Thờ, như được báo trước bởi tiên tri Isaia (62:11; 56:7) và bởi tiên tri Zephaniah (9:9), bởi Thánh Vịnh (118:25; 8:2), và bởi tiên tri Giêrêmia (7:11);

v     Đoạn 21 câu 42 về sự kiện Người bị thành phần tá điền là dân Do Thái loại trừ, như được báo trước bởi tiên tri Daniel (2:45), Thánh Vịnh (118:22) và tiên tri Isaia (28:16);

v     Đoạn 22 câu 44 về sự kiện nguồn gốc làm con của Đức Kitô, như được báo trước bởi Thánh Vịnh (110:1);

v     Đoạn 25 câu 46 về sự kiện Người cảm thấy bị bỏ rơi và kêu lớn tiếng lên cùng Thiên Chúa, như được báo trước bởi Thánh Vịnh (22:2).

 

Trong Phúc Âm của Thánh Kư Gioan cũng có những đoạn Thánh Kinh Cựu Ước liên quan đến "Đức Kitô", chứng thực Người là "Đấng Thiên Sai". Chẳng hạn ở những đoạn và câu sau đây:

v     Đoạn 2 câu 17 liên quan đến sự kiên Người sốt sắng với Nhà Chúa ra tay thanh tẩy Đền Thờ, như được báo trước bởi Thánh Vịnh (69:10);

v     Đoạn 19 câu 24 liên quan đến sự kiện y phục của Người bị quân lính bắt thăm chia nhau, như được báo trước trong Thánh Vịnh (22:19);

v     Đoạn 19 câu 36 và 37 liên quan đến sự kiện Người không bị đánh dập ống chân như hai tên trộm hai bên, như được báo trước bởi Sách Xuất Hành (12:46), Dân Số (9:12, 21:9), Thánh Vịnh (34:21), và Tiên Tri Zechariah (12:10).

 

Nếu “Đức Kitô” liên quan đến nhân tính của Người, đến danh xưng “Con Người”, th́ trong bộ Phúc Âm Nhất Lăm, yếu tố nhân tính này của Người được nổi bật trong Phúc Âm Thánh Kư Luca. Thật vậy, Phúc Âm Thánh Luca là cuốn phúc âm được Giáo Hội liệt kê thứ ba trong bộ 4 Phúc Âm. Phúc Âm của vị thánh kư trở lại Kitô giáo từ dân ngoại này, vị thánh kư cũng viết cả cuốn Tông Vụ về công cuộc truyền giáo (nhất là của Thánh Phaolô) cho Dân Ngoại, đă nhấn mạnh đến nhân tính của Chúa Kitô, như Phúc Âm Thánh Kư Gioan chứng thực về thần tính của “Đức Kitô”, về “Con Thiên Chúa” vậy. Bởi thế, chỉ ở Phúc Âm Thánh Luca mới có các đoạn tŕnh thuật về việc “Đức Kitô” được thụ thai, hạ sinh và thời niên thiếu ẩn dật của Người ở Nazarét mà thôi, liên quan đến cha mẹ trần gian của Người.

 

Và v́ yếu tố nhân tính chính yếu và then chốt này nơi “Đức Kitô” mà phúc âm của Thánh Luca cũng bao gồm cả các dụ ngôn và tŕnh thuật về Chúa Giêsu liên quan đến Ḷng Thương Xót Chúa, điển h́nh là 10 chi tiết thứ tự như sau: 1- Người cảm động trước đám tang của một bà góa đă hồi sinh cho đứa con trai của bà ở gần đầu đoạn 7; 2- Người bênh vực người phụ nữ tội lỗi có tiếng trong thành trước mặt gia chủ người Pharisiêu ở đầu đoạn 8; 3- Người nói về dụ ngôn về người Samaritanô nhân lành ở cuối đoạn 9; 4- dụ ngôn về con chiên lạc, về đồng bạc thất lạc, về người con hoang đàng ở đoạn 15; 5- dụ ngôn về người phú hộ và Lazarô ở cuối đoạn 16; 6- dụ ngôn về minh oan cho bà góa và dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện ở đoạn 18; 7- Người tự động đến thăm nhà của người trưởng ban thu thuế Giakêu ở đầu đoạn 19; 8- Người cứu người trộm lành khi Người bị treo trên thập giá ở giữa đoạn 23; 9- Người được vị đại đội trưởng nhận biết "là một con người vô tội" ở gần cuối đoạn 23; 10- sau khi sống lại Người ủy thác cho các tông đồ sứ vụ làm chứng cho Ḷng Thương Xót Chúa ở cuối đoạn 14, khác với ở Phúc Âm Thánh Kư Gioan ở gần cuối đoạn 20 Người ủy thác thừa tác vụ tha tội cho các tông đồ liên quan đến quyền bính của Giáo Hội. 

 

Một trong những biến cố liên quan đến “Đức Kitô” không thể bỏ qua đó là biến cố Người biến h́nh trên núi cao, theo truyền thống gọi là Núi Tabo, một biến cố không có trong Phúc Âm Thánh Gioan th́ bộ ba Phúc Âm Nhất Lăm đă đồng loạt thuật lại (x Mt 17:1-8; Mc 9:1-7; Lk 9:28-36), một biến cố bao gồm cả hai nhân vật chính yếu và tiêu biểu thuộc Cựu Ước đó là Moisen liên quan đến lề luật và Elia liên quan đến các tiên tri.

 

Nếu lề luật và lời các tiên tri đều qui về một điểm chung làm nên tâm điểm của tất cả mạc khải thánh kinh Cựu Ước, đó là chân lư về một Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất, mà, theo lề luật, dân Do Thái phải kính mến hết ḷng muốn, hết linh hồn và hết sức ḿnh (x Deut 6:4-5), và theo lời của các tiên tri, họ không được tà dâm ngoại t́nh với bất cứ một thần linh hay ngẫu tượng nào, (hai thứ tội - ngoại t́nh và tôn thờ ngẫu tượng - là những tội vẫn được các vị tiên tri liên lỉ cảnh giác dân Do Thái và kêu gọi họ trở về với Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất của họ).

 

Về tội ngoại t́nh, đặc biệt có tiên tri Giêrêmia đă nhận thấy rằng: “Dân Ta toàn là một lũ ngoại t́nh, một bọn bất trung” (9:1), và “mảnh đất đầy giẫy những kẻ ngoại t́nh” (23:10). Về tội tôn thờ ngẫu tượng, không phải Thiên Chúa chân thật duy nhâấ của họ, như Ngài đă liên lỉ tỏ ḿnh ra cho họ trong suốt gịng Lịch Sử Cứu Độ của họ, bằng cách họ hiến bản thân ḿnh đă được thánh hiến cho Thiên Chúa qua nghi thức cắt b́, cho các thứ ngẫu tượng ấy, ngoại t́nh với đủ mọi thứ ngẫu tượng giả dối do chính óc tưởng tượng của con người nghĩ ra và bàn tay của con người tạo ra, th́ đặc biệt có tiên tri Êzêkiên đă đề cập đến nhiều nhất, trong đó, vị tiên tri chẳng những ghi lại lời của Thiên Chúa kêu gọi dân chúng rằng: “Hăy thống hối và từ bỏ các thứ ngẫu tượng của các ngươi” (14:6), mà c̣n cả những lời của Ngài hứa sẽ thanh tẩy họ khỏi mọi thứ ngẫu tượng của họ nữa, khi Ngài mang họ từ nơi lưu đầy trở về: “Ta sẽ vẩy nước sạch  trên các ngươi để thanh tẩy các ngươi khỏi tất cả mọi thứ nhơ bẩn của các ngươi, và Ta sẽ rửa sạch các ngươi cho khỏi tất cả mọi thứ ngẫu tượng của các ngươi. Ta sẽ ban cho các ngươi một con tim mới mẻ cùng đặt vào các ngươi một thứ tâm linh mới…” (36:25-26).

 

Đúng thế, chỉ bao giờ dân Chúa có được một quả tim mới, một tâm linh mới như thế, họ mới có thể nhận ra Đấng Thiên Sai tối hậu của Ngài, đúng như lời kêu gọi của Tiền Hô Gioan Tẩy Giả là vị tiên tri cuối cùng của họ: "Hăy cải thiện đời sống! Nước Thiên Chúa gần kề" (Mt 3:2).

 

Con Thiên Chúa

(c̣n tiếp)