Cần phải đưa thêm vào từ điển một từ mới. Thi sĩ Gerald Manly Hopkin đă có lần sử dụng từ inscape (tạm dịch là an trụ), nhưng đến nay đa số người ta vẫn chưa lưu tâm đón nhận. Từ này phản nghĩa với escape (đào thoát). Escape nghĩa là xa lánh nơi hiểm nguy, hy vọng t́m được một nơi khác an toàn hơn. Theo ngữ nguyên Latin: ex = xa khỏi, cappa = áo choàng che phủ. Nghĩa đen của escape là vượt thoát khỏi nơi ẩn náu để t́m tự do.

Nhưng thực ra, thoát được khỏi “nơi che trùm này” (a cape) chưa chắc là đă được tự do: thoát được khỏi điều này để được tư do với điều kia. Như vậy, tự do quả là vô nghĩa. Thế giới ngày nay quá lưu tâm đến thứ tự do tiêu cực nghĩa là thoát khỏi sự ràng buộc, mà chẳng lưu tâm đúng mức đến thứ tự do tích cực là chu toàn thánh ư Thiên Chúa. Có một ông khách sang trọng đến bên một tài xế taxi và hỏi: “Này ông bạn, ông có rảnh không?” (trong tiếng Anh, câu đó cũng có nghĩa là ông có tự do không?) – “Dạ, thưa có”. Ông khách liền bỏ đi, miệng la to: “Hoan hô tự do!” Lần đầu tiên trong đời, người tài xế taxi hiểu ra rằng tự do khỏi bị ràng buộc chỉ có đầy đủ ư nghĩa khi nào ta có một mục tiêu để vươn tới.

Từ “escape” ngày nay được biết đến nhiều hơn nhờ từ “escapism” (tránh né) nghĩa là không chu toàn nghĩa vụ. Ví dụ như rượu chè say sưa là kiểu tránh né của kẻ bị nợ nần chất đống, y cố quên đi bằng cách say sưa bí tỉ. Thuốc ngủ là một phương tiện tránh né của kẻ bị lương tâm dày ṿ suốt đêm dài 5 canh khiến y chẳng thể yên giấc. Những kẻ nào không đủ can đảm từ bỏ các thói hư tật xấu cũng thường tự biện hộ cho thói hư tật xấu của ḿnh bằng cách gọi những ai có ḷng yêu mến Thiên Chúa là “bọn tránh né” (escapist). Tránh né là hèn nhát. Người ta không thể b́nh an trong tâm hồn nếu họ không biết an trụ (inscape). An trụ là an ổn về mặt tinh thần, đạo đức và tâm linh. Ta chỉ an trụ khi biết gắn bó với ư nghĩa và mục đích cuộc sống.

Tennyson có viết: giả như ta hiểu được ư nghĩa của cây hoa mọc kẽ tường hẳn ta sẽ biết được Thiên Chúa là ai và loài người là ǵ. Qua câu này, ông có ư nói: cây hoa mọc kẽ tường giúp ta hiểu được sự an trụ của toàn thể vũ trụ. Bằng cách này hay cách khác, nếu hiểu thấu đáo h́nh ảnh đó, ta sẽ nhận ra rằng nó phản ánh hằng hà thế hệ bông hoa đă xuất hiện trước nó, cũng như mọi cơn mưa từ trời đổ xuống trên nó, hay mọi tia nắng ấm từ mặt trời chiếu trên nó, hoặc mọi hoá chất nuôi dưỡng nó từ bao lâu nay. Nhưng nhất là nó gợi lên ư định của Thiên Chúa là Đấng đă bắt tất cả những thứ ấy qui tụ lại nơi bông hoa kẽ tường này. Không phải ta chỉ thấy nơi bông hoa nhỏ bé này, mà c̣n thấy nơi những sự vật nhỏ bé khác trong hoàn vũ này nữa, chẳng hạn như những bông tuyết li ti sặc sỡ, hay chim chóc trên cành ca vang b́nh minh sớm hơn cả các thầy ḍng nơi tu viện nữa: hết thảy đều cho thấy Trí Tuệ Cao Cả của Tạo Hoá, chúng là kết tụ của những kế hoạch mà vị kiến trúc sư cao cả nhất là Thiên Chúa đă sáng tạo ra.

Vậy an trụ là ǵ? Đó là lề luật, trật tự, nhịp điệu, khuôn mẫu và mục đích. Đó là một triết lư sống để tỏ cho mọi người biết không những ta từ đâu đến mà cả ta đi về đâu nữa. An trụ là khám phá ra trật tự và ư nghĩa cuộc sống, là được bao bọc trong lớp áo của mầu nhiệm Thiên Chúa, khiến ta thấu hiểu và làm cho đời sống ta có ư nghĩa. Đó chính là t́m được chỗ nương tựa nơi Thiên Chúa yêu thương. Sau bất kỳ một cuộc đào tẩu nào ta cũng phải t́m được nơi an trụ. Sau tất cả những lần trốn chạy thực tại, ta cũng đều phải trở về với thực tại ấy. Mỗi lần nhân vị ta bị sứt mẻ, ta đều phải t́m cách phục hồi lại.

Đây chính là điều mà ngành phân tâm học về tính dục không giải quyết được (đừng lầm với môn tâm lư trị liệu). Khoa phân tâm này có thể phân tích và khám phá ra cơn bệnh nhưng không chữa được bệnh, có thể chẩn đoán nhưng không điều trị được, có thể phân tách tâm lư nhưng không thể tổng hợp tâm lư, có thể cho một kẻ nào đó biết y đang mang chứng bệnh tâm thần ưu tư; nhưng cho biết như tế thực ra chẳng ích lợi ǵ. Khoa phân tâm không thể cho bệnh nhân biết tại sao nơi y lại có một nỗi lo lắng sâu xa về căn bản cuộc sống đến như thế.

Đó là v́ những chiếc ly mà y đang cầm uống không chứa đựng t́nh yêu thương mà y đang khao khát. Yêu thích t́nh dục là đào thoát (escape), nhưng yêu mến thiện hảo là an trụ (inscape). Ly dị là đào thoát. Trung thành dù có bị thử thách là an trụ. Cũng vậy, ích kỷ là đào thoát, c̣n bác ái là an trụ. V́ khoái lạc cuộc đời không thoả măn được con người mà c̣n làm cho con người tởm lợm, nên ta thấy cảm giác buông thả chỉ là đào thoát. V́ niềm vui được liên kết với Thiên Chúa sẽ làm ta thoả măn mà không chán chường, nên đó là sự an trụ tuyệt diệu, tức an trụ trong chân lư và t́nh yêu Thiên Chúa để cuối cùng khi chết đi ta sẽ bước vào Cơi Hằng Sống. Đào tẩu là Hoả ngục c̣n an trụ là Thiên đàng.

 

TINH THẦN THA THỨ

Mức độ hận thù ngày càng gia tăng trên thế giới hiện nay phần nhiều là do tội lỗi gây ra: v́ chưng kẻ nào căm hận bản thân ḿnh, không chóng th́ chày y sẽ căm ghét đồng loại ḿnh. Những tội lỗi sâu kín và cố chấp tạo ra tâm trạng bất an cho kẻ phạm tội… và để tái lập sự b́nh an, y phải biết soi xét bản ngă ḿnh bằng một nguồn sáng thích hợp. Đó chính là chấp nhận, thú tội và hối cải. Nhiều người vô phúc lại chọn lấy con đường sai quấy là t́m cách đổ tội cho anh em rồi ra vẻ ta đây là kẻ tốt lành. Kẻ nào làm hại người ḿnh yêu mến thường nhận ra rằng hành động đó của họ đă biến yêu thương thành hận thù. Y to miệng tố cáo những lỗi lầm nghiêm trọng nơi kẻ khác là nhằm mục đích biện bạch rằng ḿnh vô tội. Thực tế cho thấy là để biến yêu thương thành hận thù là chuyện hết sức dễ dàng, nhưng chuyện ngược lại từ hận thù thành yêu thương quả là khó khăn bội phần. Người ta chỉ thực thi được điều này khi phá tan được sự cố chấp và thú nhận được hành vi gây hại của họ.

Một nguyên nhân khác khiến người ta căm thù là v́ sợ hăi: kẻ nào không biết kính sợ Thiên Chúa, kẻ ấy sẽ nhanh chóng đâm ra sợ hăi người phàm. Bản tính loài người là yếu đuối, họ run rẩy khi đối diện với “thế giới thù nghịch” đe doạ ŕnh rập họ. Ḷng kính sợ Thiên Chúa th́ khác hẳn: đó không phải là sự sợ hăi hèn hạ kiểu như nô lệ đối với ông chủ khắc nghiệt, mà là sự tôn kính của người con đối với người cha nhân ái của ḿnh. Ḷng kính sợ Thiên Chúa giúp ta tránh được mọi nỗi lo âu thế tục: ta vững tin rằng Ngài che chở và cứu giúp ta qua mọi cơn nguy biến. Những ai không biết kính sợ Thiên Chúa, họ đâm ra sợ hăi người trần rồi từ đó căm ghét anh em bởi lẽ họ cho rằng anh em là những người đe doạ đến sự an ninh của họ.

Ḷng căm thù là một thứ t́nh cảm rất nguy hiểm. Nó có thể trở thành một thứ độc dược. Một tạp chí y khoa có ghi nhận trường hợp một người mẹ đang nuôi con bú, chỉ v́ căm giận chồng, bà đă làm ngộ độc đứa con bởi v́ sữa của bà đă biến thành chất độc. Tức giận và hận thù làm người ta ăn không tiêu và có thể gây loét dạ dày nữa.

Thật khó mà ngăn chận được ḷng hận thù. Bởi lẽ nếu cứ để mặc, nó sẽ phát triển theo lối dây chuyền. Người đầu chọc giận người thứ hai, rồi đến lượt người thứ hai lại trêu tức người thứ ba… và cứ thế… V́ vậy, Chúa đă dạy ta phải ch́a má kia ra khi má này bị vả, bởi lẽ nhờ nỗ lực ư chí này ta mới dập tắt được sự giận dữ. Phương thế duy nhất để tiêu diệt ḷng hận thù là nhịn nhục rồi biến cải nó thành t́nh yêu thương.

Đối với chúng ta, làm được như thế quả là gay đấy: kho t́nh yêu của con người quá nhỏ bé nếu cứ rút tỉa dần, chẳng mấy chốc nó sẽ cạn kiệt. Vậy ta phải t́m một nguồn t́nh yêu khác để tha thứ và gia tăng t́nh nhân ái.

Có hai lư lẽ giúp ta dễ dàng nài xin Thiên Chúa giúp chúng ta biết tha thứ cho anh em. Ta nên nhớ lại vô vàn lần Thiên Chúa đă thứ tha cho ta. Và ta phải cộng tác với Ngài trong nỗ lực bất diệt là cứu vớt các linh hồn lầm lạc.

Lư lẽ thứ nhất rất hiển nhiên. Thực vậy ta đă làm quá nhiều điều xấu xa đối với Thiên Chúa hơn bất kỳ một anh em nào xúc phạm đến ta. Chúa đă nhắn nhủ ta không nên có thái độ của kẻ thấy được cọng rơm trong mắt anh em mà quên rằng có cả cái xà trong mắt ḿnh. Ta phải nhớ đến những xúc phạm mà ta tự bỏ qua, bấy giờ ta mới nhận ra rằng ḿnh quả chẳng đáng được tha thứ chút nào. Thiên Chúa đă phán: “Ta đă tha nợ cho ngươi, vậy cớ sao ngươi lại chẳng v́ t́nh đồng loại mà tha thứ cho anh em ngươi?”

Lư lẽ thứ hai tóm tắt như sau: giả dụ ta bị một kẻ thù làm trọng thương. Thế rồi cha đẻ y đến và bảo ta rằng đă nhiều năm ông đă dày công uốn nắn con ḿnh theo đường ngay lẽ phải, nhưng chẳng thành công. Tuy vậy ông vẫn không tuyệt vọng. Ông nài nỉ ta cùng chung lưng góp sức với ông để cứu vớt y. Hẳn lời nài nỉ này sẽ làm dịu ḷng ta. Thiên Chúa cũng là một người cha như thế. Ngài hằng đau khổ rất nhiều v́ con cái ngỗ nghịch. Ngài muốn ta cũng phải kiên nhẫn chịu đựng và cố giúp Ngài đưa họ về với yêu thương. Câu chuyện Abraham trong sa mạc đă nói rơ lên cách nh́n này: một đêm kia có một người lạ mặt đến lều Abraham, xin ông tá túc. Abraham dọn thức ăn ngon nhất để thết đăi y, rồi nhường giường cho y nằm, phục vụ y hết ḿnh. Thế nhưng y vẫn phàn nàn, xét nét và mè nheo. Quá tức giận v́ sự vô ơn này, Abraham chuẩn bị đuổi cổ y đi th́ Thiên Chúa phán bảo ông: “Này Abraham, Ta đă chịu đựng y suốt 40 năm rồi, vậy th́ lẽ nào ngươi chẳng thể chịu đựng y một đêm thôi?”

Khả năng tha thứ cho anh em chỉ có thể do Thiên Chúa ban cho ta. Và Ngài sẵn ḷng ban ơn này cho ta nếu ta cầu xin. Ngài đă phán: “Hăy có ḷng nhân từ như Cha anh em trên trời là Đấng nhân từ. Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán. Đừng kết án hầu khỏi bị kết án. Hăy tha thứ để được thứ tha. Ngươi đong cho ai đấu nào th́ sẽ được đong lại bằng đấu ấy”.
Đức cha Fulton Sheen. (Nguyên tác: Way to Happiness)