GIÁO HỘI HIỆN THẾ
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch (kèm theo nhan đề và các chỗ nhấn mạnh tự ý)
xin xem thêm video clips ở cái link sau đây
(5 đoạn trong nửa bài nói đầu ĐTC lập lại vấn đề đối thoại cần thiết và tình hình Trung Đông nhất là ở Syria và Iraq như ngài đã đề cập đến ở bài nói với chính quyền, trong đó ở đoạn thứ 2 ngài nhấn mạnh đến vấn đề đối thoại liên tôn là những gì bất khả thiếu ở mỗi chuyến tông du của giáo hoàng)
Theo truyền thống thì các vị Giáo Hoàng khi viếng thăm các xứ sở khác nhau, như một phần trong sứ vụ của mình, cũng gặp gỡ cả các vị lãnh đạo cùng phần tử của các tôn giáo khác. Không tỏ ra cởi mở với việc gặp gỡ và đối thoại này thì chuyến Viếng Thăm của Giáo Hoàng sẽ không trọn vẹn đáp ứng được mục đích của nó. Bởi vậy mà tôi muốn gặp gỡ quí vị, theo chân các vị tiền nhiệm khả kính của tôi. Theo chiều hướng ấy, tôi hân hoan đặc biệt nhớ lại chuyến viếng thăm của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đến chính chỗ này vào Tháng 11 năm 2006.....
Là các nhà lãnh đạo tôn giáo, chúng ta buộc phải bác bỏ tất cả mọi thứ vi phạm đến nhân phẩm và nhân quyền. Sự sống của con người, tặng ân của Thiên Chúa Hóa Công, có một đặc tính linh thánh. Bởi thế, bất cứ việc bạo động nào nhân danh tôn giáo đều đáng mạnh mẽ lên án nhất, vì Đấng Toàn Năng là Vị Thiên Chúa của sự sống và bình an. Thế giới mong thấy những ai cho rằng mình tôn thờ Thiên Chúa đều trở thành những con người nam nữ của bình an, thành phần có thể sống như anh chị em với nhau, bất kể những khác biệt về sắc tộc, tôn giáo, văn hóa và ý hệ.
Cùng với việc bài bác những thứ vi phạm như thế, chúng ta còn cần phải cùng nhau hoạt động để tìm kiếm các giải pháp thích đáng nữa. Điều này cần có sự hợp tác của tất cả mọi người: chính quyền, các vị lãnh đạo chính trị và tôn giáo, các vị đại diện xã hội dân sự, và tất cả mọi con người nam nữ thiện chí. Các vị lãnh đạo tôn giáo đặc biệt có thể cống hiến một đóng góp quan trọng bằng cách bày tỏ các thứ giá trị nơi truyền thống xứng hợp của mình. Chúng ta, tín đồ Hồi giáo và Kitô giáo, là những người chất chứa những kho tàng thiêng liêng vô giá. Trong những kho tàng ấy chúng ta thấy có một số yếu tố giống nhau, cho dù được áp dụng theo truyền thống của mỗi đạo, như việc tôn thờ Vị Thiên Chúa Vô Cùng Nhân Hậu, như liên quan tới Tổ Phụ Abraham, đến việc cầu nguyện, đến việc làm phúc, đến việc chay tịnh... những yếu tố mà, nếu được sống một cách chân thành, có thể biến đổi cuộc đời và trở thành một nền tảng vững chắc cho phẩm vị và tình huynh đệ. Việc nhìn nhận và phát triển gia sản thiêng liêng chung - qua việc đối thoại liên tôn - là những gì giúp chúng ta phát động và tán đồng những thứ giá trị luân lý là bình an và tự do trong xã hội (cf. John Paul II, Address to the Catholic Community in Ankara, 29 November 1979). Việc cùng nhìn nhận tính chất thánh hảo của mỗi sự sống con người là nền tảng cho các khởi động chung về tình đoàn kết, cảm thương và việc hiệu nghiệm trợ giúp đối với những ai khốn khổ nhất. Về vấn đề này, tôi muốn bày tỏ lòng cảm nhận của tôi về tất cả những gì nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ, cả tín đồ Hồi giáo lẫn Kitô giáo, đang làm để giúp cho hằng trăm ngàn người đang thoát khỏi xứ sở của họ gây ra bởi các cuộc xung đột. Đang có 2 triệu người trong số đó. Đây là mẫu gương rõ ràng về việc chúng ta làm sao để có thể cùng nhau hoạt động để phục vụ người khác, một mẫu gương cần phải được phấn khích và bảo tồn.
(2 đoạn cuối Đức Thánh Cha tỏ ra hài lòng về mối liên hệ tốt đẹp giữa văn phòng tôn giáo vụ này và Hội Đồng Đối Thoại Liên Tôn của Tòa Thánh và ngỏ lời cám ơn một lần nữa cùng xin Thiên Chúa chúc lành)
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch 
(kèm theo nhan đề và những chỗ nhấn mạnh tự ý)
Sinh Hoạt
	
	
	Sau ngày thứ nhất 
	trong 3 ngày tông du Thổ Nhĩ Kỳ, Thứ 
	Sáu 28/11/2014, viếng 
	thăm Thủ Đô Ankara của Thổ Nhĩ Kỳ để viếng thăm dinh tổng thống cùng ngỏ lời 
	với chính quyền và viếng thăm văn phòng tôn giáo vụ cùng ngỏ lời với riêng giới 
	chức về tôn giáo, Đức 
	Phanxicô, sang ngày thứ 2 của 
	chuyến tông du, Thứ Bảy 29/11/2014, vào lúc 9:45 sáng đã đến Istanbul, nơi 
	có thể gọi là thủ đô của Chính Thống Giáo vì 
	là nơi (cùng với Rôma) chính yếu của chung Giáo Hội ở những thế kỷ đầu 
	cũng là nơi có Đức 
	Thượng Phụ danh dự của chung Giáo Hội Chính 
	Thống Giáo này.
	
	Đức Thượng Phụ đại diện cho chung Giáo 
	Hội Chính Thống Giáo toàn cầu ở Constantinople là 
	Bartholomew I đã ngênh đón 
	ngài ở phi trường. Hai vị đã ôm lấy nhau trong tình huynh đệ. Đức Thánh Cha 
	Phanxicô, hay các vị giáo hoàng tiền nhiệm của ngài, thường thực 
	hiện chuyến tông du Thổ Nhĩ Kỳ vào 
	dịp Lễ Thánh Anrê, 30/11, quan thày của chung Chính Thống Giáo, cũng như lễ 
	Thánh Phêrô - Phaolô 29/6 của Giáo Hội Công Giáo Rôma vậy.
	
	Ở Istanbul, Đức Thánh Cha đã được 
	dẫn đến 2 nơi đặc biệt của Hồi giáo, một là "Đền Thờ Xanh - Blue Mosque" và 
	hai là Bảo Tàng Viện. 
	
	Tại Đền Thờ Xanh, như Đức Gioan Phaolô II 
	là vị giáo hoàng đầu tiên đã viếng Đền Thờ Hồi giáo Umayyad ở Damascus ngày 
	6/5/2001, và Đức Biển Đức 
	XVI là vị giáo hoàng đã viếng Đền Thờ 
	Hồi giáo Sultan Ahmed ở Istanbul ngày 30/11/2006, Đức Thánh 
	Cha Phanxicô đã đến viếng 
	thăm Đền Thờ Xanh. 
	Ngài cũng đã bỏ giầy ra và được vị Đại 
	Học Giả (Grand Mufti) Rahmi Yaran hướng dẫn thăm viếng nơi 
	này, cuối cùng ngài đã cúi đầu 
	thinh lặng nguyện cầu hơn 2 phút một chút để tôn thờ Thiên Chúa, sau đó 
	ngài được nhà học giả trao tặng một món quà là tấm vi thạch xanh với hình bông 
	huệ, "một biểu hiệu chung" cho cả 
	tín đồ Hồi giáo lẫn Kitô giáo theo lời của người tặng. ĐTC đã ngỏ lời 
	cám ơn và nói: "Chúng 
	ta cần phải cảm tạ Thiên Chúa, chúc tụng Ngài và tôn thờ Ngài". 
	
	Tại 
	Bảo Tàng Viện Hagia Sophia, nguyên là một Đền Thờ Chính Thống Giáo Hy Lạp 
	nhưng sau đó đã 
	bị biến thành một đền thờ của đế quốc 
	và nay thành một bảo tàng viện. Sau khi được hướng dẫn viếng thăm nơi 
	này, Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết trong Cuốn Sách Dâng Kính Thánh Sophia 
	như sau:
	
	"Quam dilecta tabemacula tua Domine (Lạy 
	Chúa, dễ thương thay nơi cư ngụ của Ngài - Thánh Vịnh 83). 
	Khi chiêm ngưỡng 
	vẻ đẹp và hài hòa của nơi linh thánh 
	này, linh hồn tôi được nâng lên với Đấng Toàn Năng, nguồn mạch và là nguyên gốc 
	của hết mọi vẻ đẹp, và tôi 
	xin Đấng Tối Cao luôn hướng dẫn cõi lòng của nhân loại trên con đường chân 
	lý, thiện hảo và bình an".
	
	Sau khi ký tên vào cuốn sách này, ngài được 
	hộ tống về Tòa Khâm Sứ ở Istanbul để dùng bữa trưa với 50 đại diện cộng đồng 
	Công Giáo địa phương và các vị Giám Mục của họ. 
	Thổ Nhĩ Kỳ có khoảng 90% dân chúng theo Hồi giáo, trong đó và 
	bấy giờ tại chỗ có mấy trăm 
	người đứng ở ngoài Bảo Tàng Viện và trên đường ngài đi qua chào đón 
	ngài bằng những bài hát. Sau đây là 
	bài giảng của ngài về Thánh 
	Linh ở Vương Cung Thánh đường 
	Thánh Linh Istanbul. 
	
	
	
Bài Giảng
	
	
"Trong cuộc hành trình đức tin và đời sống huynh đệ của chúng ta, chúng ta càng để cho mình hướng dẫn bởi vị Thần Linh này của Chúa một cách khiêm tốn, chúng ta sẽ càng thắng vượt được những hiểu lầm, các chia rẽ cùng những bất đồng mà trở thành một dấu hiểu khả tín của hiệp nhất và bình an".
	
	
	Trong Phúc Âm Chúa Giêsu đã chứng tỏ chính 
	Người là suối nước cho những ai khát khao cứu độ kín múc, như là 
	Tảng Đá được Chúa Cha làm tuôn chảy ra mạch nước sự sống cho tất cả những ai 
	tin tưởng vào Người (xem Gioan 7:8). Trong khi công khai tuyên bố về lời 
	tiên tri này ở Giêrusalem, Chúa Giêsu loan báo về tặng ân 
	Thánh Linh, vị mà các môn đệ sẽ lãnh 
	nhận sau cuộc hiển vinh của Người, 
	tức là sau cái chết và phục sinh của 
	Người (xem câu 39).
	
	Thánh 
	Linh là hồn sống của Giáo Hội. Ngài ban 
	sự sống, Ngài phân phát 
	các đặc sủng khác nhau là 
	những gì làm phong phú dân Chúa và nhất là Ngài kiến 
	tạo nên mối hiệp nhất giữa 
	các tín hữu, ở chỗ, Ngài biến nhiều thành một thân thể duy nhất, Thân Thể 
	Chúa Kitô. Toàn thể đời sống và sứ vụ của Giáo Hội đều lệ thuộc vào Thánh 
	Linh; Ngài là Đấng hoàn thành tất cả 
	mọi sự.
	
	Chính 
	việc tuyên xưng đức tin, như Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta trong bài đọc 
	thứ nhất hôm nay, chỉ có thể thực hiện nhờ tác động của Thánh Linh: "Không 
	ai có thể nói 'Giêsu là Chúa' ngoại trừ bởi Thánh Linh" (1Corinto 12:3b). 
	Chúng ta khi 
	cầu nguyện là 
	nhờ Thánh Linh soi động trong lòng chúng ta. Chúng ta khi 
	phá vỡ vòng kiềm tỏa của bản thân tâm điểm của mình mà xuất thân gặp gỡ 
	người khác, lắng nghe họ và giúp đáp 
	họ thí chính Thần Linh của Thiên Chúa đã thúc đẩy chúng 
	ta làm như thế. Chúng ta khi 
	thấy bị gò bó bởi một khả năng vô thức trong việc tha thứ, 
	trong việc yêu thương một ai đó không biết yêu thương lại chúng ta, thì 
	chính Thần Linh này đã chiếm đoạt chúng ta. Chúng ta khi 
	vượt ra ngoài những lời lẽ thuần 
	túy có tính chất tư 
	lợi mà hướng về 
	anh chị em mình một 
	cách dịu dàng làm sưỡi ấm tâm can thì chúng ta thực sự đã được Thánh Linh 
	chạm tới vậy.
	
	Thánh Linh thật sự là Đấng phân phát các đặc 
	sủng khác nhau trong Giáo 
	Hội, những đặc sủng mà thoạt thấy dường như tạo nên những gì là lộn 
	xộn. Tuy 
	nhiên, theo hướng dẫn của Ngài, chúng 
	tạo nên một thứ dồi dào phong phú man vàn, vì Thánh Linh là Vị Thần Linh của 
	hiệp nhất, thứ hiệp nhất không đồng nghĩa với đồng dạng. Chỉ duy 
	Thánh Linh mới có thể thắp lên tính chất đa dạng (diversity), tính 
	chất tăng bội (multiplicity) mà đồng 
	thời mang lạihiệp nhất (unity). Khi 
	chúng ta cố gắng tạo nên những gì là đa dạng, thế nhưng lại khép mình lại 
	một cách chuyên biệt và độc đoán về cách nhìn các sự vật là chúng 
	ta gây chia rẽ. 
	Khi chúng ta cố gắng tạo nên hiệp nhất 
	bằng các dự tính loài người của mình là chúng 
	ta tiến đến chỗ đồng dạng (uniformity) và đồng hóa (homogenization). 
	Thế nhưng, nếu 
	chúng ta được Thần Linh hướng dẫn thì không bao giờ xẩy ra chuyện xung khắc 
	bởi những gì là phong phú, khác biệt và đa 
	dạng, vì 
	Vị Thần Linh này thôi thúc chúng ta tiến đến chỗ cảm nghiệm thấy được những 
	gì là khác biệt ở trong mối hiệp thông của Giáo Hội. 
	
	Tính 
	chất đa dạng của các phần tử và các đặc sủng được hòa hợp trong Vị Thần Linh 
	của Chúa Kitô, Đấng Cha đã sai đến và là Đấng Ngài tiếp tục sai đến để tín 
	hữu đạt tới mối hiệp 
	nhất. Thánh 
	Linh là Đấng mang lại hiệp nhất cho Giáo Hội: hiệp nhất trong đức tin, hiệp 
	nhất trong yêu thương, hiệp nhất trong sự sống nội tâm. 
	Giáo Hội và các Giáo Hội khác cũng như các cộng đồng giáo hội được kêu 
	gọi để mình được hướng dẫn bởi Thánh Linh cũng như hãy luôn tỏ ra cởi 
	mở, dễ dạy và tuân phục.
	
	Chiều 
	hướng của chúng ta là một chiều hướng hy vọng nhưng cũng là một chiều hướng 
	gay go. Chước 
	cám dỗ luôn ở trong chúng ta cưỡng lại Thánh Linh, vì Ngài đem chúng ta ra 
	khỏi cái vùng thoải mái dễ chịu 
	(confort zone) của chúng ta khiến chúng ta bất ổn; 
	Ngài làm cho chúng ta chỗi dậy đưa Giáo Hội tiến tới. Những đường 
	lối bất động và bất dịch của chúng ta bao 
	giờ cũng là những gì dễ 
	dàng hơn và thoải mái hơn. Thật vậy, Giáo 
	Hội cho thấy lòng trung thành của mình với Thánh Linh ở chỗ Giáo Hội không 
	tìm cách kiểm soát Ngài hay thuần thục hóa Ngài. Kitô 
	hữu chúng ta trở nên thành phần môn đệ truyền giáo thực sự, có thể thách 
	thức lương tri, khi chúng ta loại trừ đi tính chất tự vệ của chúng ta và để 
	mình được dẫn dắt bởi vị Thần Linh này. Ngài là những gì tươi trẻ, sáng tạo 
	và mới mẻ. 
	
	Tính chất tự vệ của chúng ta là những 
	gì hiển nhiên khi chúng ta gò bó không chịu thay đổi trong tư tưởng của 
	chúng ta cũng như trong quyền năng của chúng ta - nơi trường hợp này chúng 
	ta rơi vào lạc thuyết Pelagianism (biệt chú của người dịch: lạc 
	thuyết được Đức Thánh Cha đề cập đến ở đây chủ trương bản tính của con người 
	không bị tác hại bởi nguyên tội và vì thế con người vẫn có thể tự mình chọn 
	lựa tốt xấu mà chẳng cần đến ơn Chúa) - hay khi chúng ta tỏ 
	ra tham 
	vọng hoặc huyền hoặc viễn 
	vông. Các khuynh hướng tự vệ này là 
	những gì ngăn cản chúng ta khỏi việc thực sự thông cảm với người khác cũng 
	như khỏi việc cởi mở để chân thành đối thoại với họ. Thế nhưng, Giáo 
	Hội, xuất phát từ biến cố Hiện 
	Xuống, đã được ban cho ngọn lửa Thánh Linh, một ngọn 
	lửa không làm cho trí khôn tràn đầy những tư tưởng cho bằng làm cho cõi lòng 
	bứng nóng lên; Giáo Hội được tác động bởi một hơi 
	thở Thần Linh không truyền đạt quyền lực mà là một khả 
	năng phục vụ trong yêu thương, một thứ ngôn ngữ mà hết mọi người đều 
	hiểu được.
	
	Trong cuộc 
	hành trình đức tin và đời sống huynh đệ của 
	chúng ta, chúng ta càng để cho mình hướng dẫn bởi vị 
	Thần Linh này của Chúa một cách khiêm tốn, chúng ta sẽ càng thắng vượt được 
	những hiểu lầm, các chia rẽ cùng những 
	bất đồng mà trở thành một dấu hiểu khả tín của hiệp 
	nhất và bình an. 
	
	Bằng niềm xác tín hân hoan này, tôi ấp ủ tất 
	cả quí vị, anh chị em thân mến: Đức Thượng Phụ Công Giáo Syro, Chủ Tịch 
	Hội Đồng Giám Mục, Đức Ông Đại Diện Tòa Thánh Pelâtre, 
	các Vị Giám Mục cũng như các 
	Vị Giám Mục Công Giáo Đông Phương, các 
	linh mục và phó tế, tu sĩ, giáo dân và các tín hữu thuộc các cộng đồng khác 
	cùng các lễ nghi khác thuộc Giáo Hội Công Giáo. Với lòng cảm mến huynh đệ 
	tôi xin chào Đức 
	Thượng Phụ Constantinople Bartholomew I, Đức Tổng Giám Mục Chính Thống Syro 
	và Vị Đại Diện Đức Thượng 
	Phụ Armenia, 
	cũng như các vị đại diện cho những 
	cộng đồng Tin Lành, những vị hợp với chúng ta trong nguyện cầu cho việc cử 
	hành này. Tôi xin gửi đến quí vị niềm tri ân của tôi về cử chỉ huynh đệ đây. 
	Tôi cũng muốn bày tỏ lòng cảm mến của tôi với Đức Thượng Phụ Armenia là 
	Mesrob II và hứa cầu nguyện cho ngài. 
	
Thưa anh chị em, chúng ta hãy hướng tâm tưởng của chúng ta về Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Cùng Mẹ là vị đã cầu nguyện với các Tông Đồ trên Căn Thượng Lầu khi các vị đợi chờ Thánh Linh Hiện Xuống, chúng ta hãy cầu cùng Chúa để xin Người sai Thánh Linh của Người xuống lòng chúng ta và làm cho chúng ta thành nhân chứng cho Phúc Âm của Người trên toàn thế giới này. Amen.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch 
(kèm theo nhan đề và các chỗ nhấn mạnh tự ý, trừ những chỗ in nghiêng đúng như 
bản văn nguyên thủy)
http://www.zenit.org/en/
	
	
	
	
	"Niềm hy vọng chung này không phải là những gì lừa dối chúng ta, vì nó được 
	thiết dựng không phải trên chúng ta hay trên các nỗ lực nghèo nàn của chúng 
	ta, mà là trên sự trung thành của Thiên Chúa" 
	
Kính Đức Thượng Phụ, Quí Huynh thân mến,
	
	Mỗi một buổi tối đều mang lại một cảm giác 
	lẫn lộn giữa niềm tri ân cảm tạ về một ngày sống đang kết thúc và niềm tin 
	tưởng đầy hy vọng khi màn đêm buông xuống. Buổi tối hôm nay lòng tôi 
	tràn đầy niềm tri ân Thiên Chúa, Đấng đã 
	cho tôi được ở 
	nơi đây để cầu nguyện với Đức Thượng Phụ và với Giáo Hội chị em đây sau một 
	ngày đầy biến cố trong chuyến Tông Du của tôi. Đồng thời lòng tôi 
	cũng 
	chờ đợi một ngày mà chúng ta đã bắt đầu cử hành về phụng 
	vụ đó 
	là Lễ Tông Đồ Anrê, Quan Thày của Giáo Hội đây.
	
	
	Theo lời của Tiên Tri Zacaria thì Chúa tái 
	ban cho chúng ta trong buổi cầu nguyện này cái nền tảng đang bảo trì việc chúng 
	ta tiến 
	từ ngày này sang ngày khác, một tảng đá 
	vững chắc mà 
	nhờ đó chúng ta đang cùng nhau tiến tới trong hân hoan và hy vọng. Tảng đá 
	nền này là lời hứa của Chúa: "Này đây 
	Ta sẽ cứu dân của Ta khỏi các xứ sở bên đông cũng như khỏi các xứ sở bên 
	tây... trong trung tín và trong chính trực" (8:7.8).
	
	
	Phải, thưa Người Anh 
	Em Bartholomew khả kính thân mến, khi tôi bày tỏ lòng chân thành "cám ơn" 
	của tôi về việc đón tiếp huynh đệ của người anh em thì tôi cảm thấy rằng 
	niềm vui của chúng ta còn lớn lao hơn bởi vì nguồn mạch của nó xuất phát từ 
	bên ngoài; không phải ở trong chúng ta, không phải ở việc dấn thân của chúng 
	ta, không phải nơi các nỗ lực của chúng ta - những gì thực sự là cần thiết - 
	mà là ở lòng 
	tin tưởng chung của chúng ta nơi sự trung 
	thành của Thiên Chúa, những 
	gì đặt nền tảng cho việc tái thiết đền thờ của Ngài là Giáo Hội (xem 
	Zech 8:9); thực sự là một cuộc gieo 
	vãi niềm vui. Nó 
	là một niềm 
	vui và là 
	một bình 
	an thế 
	giới này không thể nào ban phát, mà là những gi Chúa Giêsu đã hứa cho các 
	môn đệ của Người, và với tư cách là Đấng 
	Phục Sinh đã 
	ban xuống trên các vị bằng quyền năng của Thánh Linh. 
	
	
	Tông Đồ Anrê và 
	Phêrô đã nghe thấy lời hứa ấy; các 
	vị đã lãnh nhận tặng ân này. Các vị là anh em ruột thịt, nhưng việc các vị 
	gặp gỡ Chúa Kitô đã biến các vị thành những người anh em trong đức tin 
	và đức ái. Trong 
	buổi tối vui mừng này, vào buổi kinh tối đây, tôi muốn nhấn mạnh đến điều 
	này; các 
	vị đã trở thành những người anh em trong niềm hy vọng. 
	Thưa Đức Thượng Phụ, còn ơn nghĩa nào bằng trở thành những người anh em 
	trong niềm hy vọng của Chúa Phục Sinh! Còn ơn nghĩa nào bằng và còn trách 
	nhiệm nào hơn là cùng nhau bước đi trong niềm hy vọng ấy, niềm hy vọng được 
	bảo trì bởi lời chuyển cầu của các thánh Tông Đồ huynh đệ Anrê và Phêrô! Và 
	nên biết rằng niềm 
	hy vọng chung này không phải là những gì lừa dối chúng ta, vì nó được thiết 
	dựng không phải trên chúng ta hay trên các nỗ lực nghèo nàn của chúng ta, mà 
	là trên sự trung thành của Thiên Chúa. 
	
Với niềm hy vọng hân hoan này, tràn đầy lòng tri ân và niềm mong đợi thiết tha, tôi xin gửi đến Đức Thượng Phụ cũng tất cả những ai hiện diện và đến Giáo Hội Constantinople những lời chúc nồng nàn và huynh đệ nhất của tôi nhân Ngày Lễ Kính vị Quan Thày thánh của quí vị.
	
	Tôi xin quí vị 
	một đặc ân đó là chúc lành cho tôi và Giáo Hội ở Rôma. 
	
	Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch (kèm theo 
	nhan đề và những chỗ nhấn mạnh tự ý)
	
http://www.zenit.org/en/
"Điều duy nhất Giáo Hội Công giáo ước muốn và là những gì tôi tìm kiếm với tư cách
Vị Giám Mục của Giáo Hội Rôma, 'Giáo Hội chủ trì trong bác ái', đó là mối hiệp thông
 với các Giáo Hội Chính Thống".
ĐTC Phanxicô -  Diễn Từ tại Vương Cung 
Thánh Đường Thánh George ở Istanbul Chúa Nhật 30/11/2014
Trọng Kính người anh em Thượng Phụ Bartholomew thân mến,
Khi tôi còn là Tổng Giám Mục ở Buenos Aires, tôi thường tham dự vào việc cử hành Phụng Vụ Giờ Kinh của các cộng đồng Chính Thống giáo ở đó. Hôm nay, Chúa đã ban cho tôi ơn đặc biệt để được hiện diện nơi Thánh Đường Thượng Phụ Thánh George này để cử hành Lễ Thánh Tông Đồ Anrê, vị được gọi đầu tiên, người anh của Thánh Phêrô và là Thánh Quan Thày của Vai Trò Thượng Phụ Toàn Cầu.
Việc gặp gỡ nhau, trông thấy nhau mặt giáp mặt, trao cho nhau cái ôm hôn hòa 
bình, và cầu nguyện cho nhau, tất cả đều là những khía cạnh thiết yếu cho cuộc 
hành trình của chúng ta tiến đến việc phục hồi mối hiệp thông trọn vẹn. Tất 
cả những điều này là những gì đi trước và bao giờ cũng là những gì hỗ trợ cho 
khía cạnh thiết yếu khác của cuộc hành trình này, đó là việc đối thoại về thần 
học. Một 
cuộc đối thoại chân thực, trong mọi trường hợp, đó là một cuộc gặp gỡ giữa những 
con người có tên tuổi, dung nhan, quá khứ chứ không phải chỉ là một cuộc họp về 
các tư tưởng mà thôi.
Điều này đặc biệt là đúng đối với Kitô hữu chúng ta, vì đối với chúng ta sự thật là bản thân Chúa Giêsu Kitô. Mẫu gương của Thánh Anrê, vị đã cùng với một người môn đệ khác chấp nhận lời mời của Vị Sư Phụ Thần Linh "hãy đến mà xem" và "đã ở với Người hôm đó" (Gioan 1:39), chứng tỏ cho chúng ta thấy rõ ràng rằng đời sống Kitô hữu là một cảm nghiệm riêng tư, là một cuộc gặp gỡ biến đổi với Đấng yêu thương chúng ta và là Đấng muốn cứu chúng ta. Thêm vào đó, sứ điệp Kitô giáo được truyền lan nhờ những con người nam nữ phải lòng Chúa Giêsu và không thể nào không truyền đạt niềm vui được yêu thương và được cứu độ này. Cũng ở đây nữa, gương sống của Tông Đồ Anrê là những gì hữu ích. Sau khi theo Chúa Giêsu tới nhà của Người và bỏ giờ ra ở với Người, Thánh Anrê "đầu tiên đi tìm em của mình là Simon mà nói 'Chúng tôi đã gặp được Đấng Thiên sai' (nghĩa là Đức Kitô). Anh dẫn em đến với Chúa Giêsu" (Gioan 1:40-42). Bởi thế, rõ ràng cho dù là các Kitô hữu có đối thoại với nhau cũng không thể coi thường bỏ qua cái lý lẽ hội ngộ riêng tư này.
Không phải là tình cờ mà con đường hòa giải và hòa bình giữa tín hữu Công giáo và Chính Thống giáo, một cách nào đó, đã được tạo nên bởi một cuộc gặp gỡ, bởi một cử chỉ ôm hôn giữa các vị tiền nhiệm của chúng ta đó là Đức Thượng Phụ Toàn Cầu Athenagoras và Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, một cuộc gặp gỡ đã diễn ra 50 năm trước tại Giêrusalem. Đức Thượng Phụ và tôi đều muốn tưởng niệm giây phút đó khi chúng ta gần đây gặp nhau ở cùng một thành phố, nơi Chúa Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại.
May mắn thay, chuyến viếng thăm của tôi rơi vào mấy ngày sau thời điểm kỷ niệm 50 năm ban hành Sắc Lệnh Unitatis Redintegratio về Hiệp Nhất Kitô Giáo của Công Đồng Chung Vaticanô II. Đây là một văn kiện nồng cốt đã mở ra những đại lộ mới cho việc hội ngộ giữa tín hữu Công giáo và các anh chị em của mình thuộc các Giáo Hội khác cùng các cộng đồng giáo hội.
Đặc biệt là trong Sắc Lệnh này Giáo Hội Công Giáo nhìn nhận rằng các Giáo Hội Chính Thống "có các bí tích thực sự, nhất là - nhờ việc thừa kế tông đồ - có chức linh mục và Thánh Thể, bởi thế họ vẫn liên kết với chúng ta một cách thân mật chặt chẽ nhất" (khoản 15). Sắc Lệnh này tiếp tục nói rằng để trung thành canh giữ trọn vẹn truyền thống Kitô giáo cũng như để hoàn thành việc hòa giải giữa các Kitô hữu Đông và Tây, hết sức cần phải bảo trì và nâng đỡ cái gia sản phong phú của các Giáo Hội Đông phương. Điều này liên quan chẳng những đến các truyền thống về phụng vụ và linh đạo của họ mà còn cả về những kỷ cương theo giáo luật nữa, được chuẩn nhận đúng như vậy bởi các Giáo Phụ cũng như bởi các Công Đồng, những gì chi phối đời sống của các Giáo Hội ấy (xem khoản 15-16).
Tôi tin rằng cần phải tái khẳng định việc tôn trọng nguyên tắc này như là một điều kiện thiết yếu, được đôi bên chấp nhận, để phục hồi trọn vẹn mối hiệp thông, hiệp thông không có nghĩa là bên này phục tùng bên kia hay đồng hóa. Trái lại, nghĩa là đón nhận tất cả mọi tặng ân Thiên Chúa ban cho mỗi bên, nhờ đó chứng tỏ cho toàn thế giới thấy mầu nhiệm cứu độ cao cả được Chúa Kitô hoàn thành bởi Thánh Linh. Tôi muốn cam đoan với mỗi người trong anh em ở đây là, để tiến đến đích điểm trọn vẹn hiệp nhất như lòng mong ước, Giáo Hội Công Giáo không có ý định áp đặt bất cứ điều kiện nào ngoại trừ điều kiện cùng tuyên xưng một đức tin. Hơn nữa, tôi còn muốn thêm rằng chúng ta đang sẵn sàng cùng nhau tìm kiếm, theo ánh sáng của giáo huấn Thánh Kinh và kinh nghiệm của thiên niện kỷ thứ nhất, những đường lối nhờ đó chúng ta có thể bảo đảm mối hiệp nhất cần thiết của Giáo Hội trong những hoàn cảnh hiện tại. Điều duy nhất Giáo Hội Công giáo ước muốn và là những gì tôi tìm kiếm với tư cách Vị Giám Mục của Giáo Hội Rôma, "Giáo Hội chủ trì trong bác ái", đó là mối hiệp thông với các Giáo Hội Chính Thống. Mối hiệp thông như thế sẽ luôn là hoa trái của một tình yêu "đã được tuôn đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần là Đấng đã được ban cho chúng ta" (xem Rôma 5:5), một tình yêu huynh đệ thể hiện mối liên hệ thiêng liêng và trổi vượt liên kết chúng ta lại với nhau như là thành phần môn đệ của Chúa.
Trong thế giới hôm nay, có những tiếng nói đang vang lên chúng ta không thể bỏ qua và là những tiếng nói van xin các Giáo Hội của chúng ta hãy sống sâu xa hơn căn tính của mình như là thành phần môn đệ của Chúa Giêsu Kitô.
Tiếng nói đầu tiên trong các tiếng nói này là tiếng nói của người nghèo. Trong thế giới này, có quá nhiều con người nam nữ đang chịu đựng bởi tình trạng trầm trọng dinh dưỡng thiếu thốn và tệ hại, gia tăng vấn đề thất nghiệp, con số giới trẻ thất nghiệp gia tăng, cũng như bởi việc gia tăng loại trừ nhau trong xã hội. Những điều này có thể gây ra hoạt động tội ác và thậm chí có thể giúp vào việc tuyển mộ thành phần khủng bố. Chúng ta không thể nào tỏ ra dửng dưng trước những tiếng kêu la của anh chị em chúng ta. Những người anh chị em này xin chúng ta chẳng những trợ giúp về vật chất - cần thiết trong rất nhiều hoàn cảnh - mà trên hết, việc chúng ta giúp bênh vực phẩm giá làm người của họ, nhờ đó họ có thể tìm được nghị lực tinh thần để lại trở nên những người thủ vai chính trong đời sống của họ. Họ xin chúng ta hãy chiến đấu, theo ánh sáng của Phúc Âm, những nguyên nhân liên hệ gây ra nghèo khổ, như vấn đề bất bình đẳng, tình trạng thiếu công việc và nhà ở xứng đáng, và việc chối bỏ các quyền lợi của họ như là các phần tử của xã hội và như là nhân viên làm viêc. Là Kitô hữu, chúng ta được kêu gọi cùng nhau loại trừ thứ toàn cầu hóa thái độ dửng dưng lạnh lùng mà ngày nay dường như đang ngự trị, đồng thời xây dựng một nền văn mình yêu thương và đoàn kết.
Tiếng van nài thứ hai xuất phát từ các nạn nhân của những cuộc xung đột nơi rất nhiều phần đất trên thế giới của chúng ta. Chúng ta thấy điều vang vọng này ở nơi đây, vì một số xứ sở lân cận đang lo sợ bởi thứ chiến tranh phi nhân dã man tàn bạo. Tôi đặc biệt nghĩ đến nhiều nạn nhân của cuộc tấn công ghê sợ và vô cảm mới đây đã sát hại và gây thương tích cho rất nhiều tín đồ Hồi giáo đang cầu nguyện tại một Đền Thờ ở Kano nước Nigeria. Lấy mất bình an của dân chúng, gây ra hết mọi hành động bạo lực - hay đồng lõa với các hành động như thế - nhất là khi nhắm đến thành phần yếu thế nhất và không thể tự vệ, là một thứ tội hết sức trầm trọng phạm đến Thiên Chúa, ở chỗ tỏ ra khinh khi hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người. Tiếng kêu la của các nạn nhân bị xung đột thôi thúc chúng ta nhanh chóng tiến tới trên con đường hòa giải và hiệp thông giữa tín hữu Công giáo và Chính Thống giáo. Thật vậy, làm sao chúng ta có thể loan truyền Phúc Âm hòa bình xuất phát từ Chúa Kitô một cách khả tín, nếu vẫn còn tiếp tục xẩy ra chuyện đối đầu và bất đồng giữa chúng ta với nhau (cf. Paul VI, Evangelii Nuntiandi, 77)?
Tiếng kêu la thứ ba đang thách đố chúng ta đó là tiếng kêu la của giới trẻ. Ngay nay, thảm thương thay, có nhiều con người nam nữ trẻ trung sống không hy vọng, trở nên ngờ vực và buông thả. Nhiều người trẻ, bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa thịnh hành, đang tìm kiếm hạnh phúc chỉ ở nơi việc chiếm hữu những gì là vật chất và tìm kiếm thỏa mãn những cảm xúc nông nổi của mình. Các thế hệ mới sẽ không bao giờ có thể có được sự khôn ngoan chân thực và có được niềm hy vọng trừ phi chúng ta biết trân quí và truyền đạt nền nhân bản chân thực xuất phát từ Phúc Âm cũng như từ kinh nghiệm già đời của Giáo Hội. Chính giới trẻ là thành phần ngày nay đang van nài chúng ta hãy tiến bộ hơn trong mối hiệp thông trọn vẹn. Chẳng hạn, tôi nghĩ đến nhiều giới trẻ Chính Thống, Công Giáo và Tin Lành cùng nhau đến với các cuộc gặp gỡ được cộng đồng Taizé tổ chức. Họ làm như thế không phải vì họ không biết đến những khác biệt vẫn còn phân rẽ chúng ta, mà vì họ có thể nhìn thấy cả bên ngoài những khác biệt ấy nữa; họ có thể chấp nhận những gì là thiết yếu và những gì đã liên kết chúng ta lại với nhau.
Người anh thân mến, người anh rất thân mến, chúng ta đang hành trình trên con đường tiến đến mối hiệp thông trọn vẹn và chúng ta đã có thể cảm nghiệm thấy những dấu hiệu sống động về một mối hiệp nhất chân thực cho dù chưa hoàn toàn. Điều này tái bảo đảm và phấn khích chúng ta tiếp tục cuộc hành trình ấy. Chúng ta tin tưởng rằng dọc theo con đường này chúng ta được hỗ trợ bởi lời chuyển cầu của Tông Đồ Anrê và người em Phêrô của ngài, hai vị được coi là những người thành lập Giáo Hội Constantinople và Giáo Hội Rôma. Chúng ta xin Thiên Chúa đại tặng ân trọn vẹn hiệp nhất này, và khả năng chấp nhận nó trong đời sống của chúng ta. Chúng ta đừng bao giờ quên cầu nguyện cho nhau.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch 
(kèm theo nhan đề và những chỗ nhấn mạnh tự ý)
http://w2.vatican.va/content/
Nạn nghi kỵ bài trừ Hồi Giáo (Islamophobia)
Thật 
sự là đã từng xẩy ra các phản ứng đối với những hành động khủng bố không phải 
chỉ ở vùng ấy mà còn ở cả Phi Châu nữa. 'Nếu là Hồi giáo thì tôi uất hận!' Rất 
nhiều tín đồ Hồi giáo cảm thấy bị xúc phạm, họ nói rằng: 'Thế nhưng đó không 
phải những gì chúng tôi là, Kinh Koran là một cuốn sách ngôn sứ về hòa 
bình, chủ 
nghĩa khủng 
bố (terrorism) không phải là chủ nghĩa Hồi 
giáo (Islamism). Tôi 
có thể thông cảm được điều này. Và tôi thành thực tin rằng chúng ta không thể 
nói rằng tất cả mọi tín đồ Hồi giáo đều là những tay khủng bố, giống như 
chúng ta không 
thể nói rằng tất cả mọi Kitô hữu đều là thành phần bảo thủ (fundamentalist) 
- trong nội 
bộ của mình chúng 
ta cũng có những con người bảo thủ, tất cả mọi tôn giáo đều có những nhóm nhỏ 
này. Tôi đã nói với Tổng Thống Erdogan rằng nên minh 
bạch 
lên án những thứ nhóm người này. Tất cả mọi vị lãnh đạo tôn giáo, học giả, giáo 
sĩ, trí thức và chính trị đều phải làm như thế. Có thế họ mới nghe thấy điều ấy 
từ miệng lưỡi người lãnh đạo của họ. Cần phải có một cuộc lên án quốc tế từ 
tín đồ Hồi giáo khắp thế giới. Cần phải nói rằng, 'không, đó không phải là những 
gì về Kinh 
Koran!' Bao giờ 
cũng cần phải phân biệt giữa những gì tôn giáo đề ra với việc 
cụ 
thể áp dụng 
những gì được đề ra ấy bởi một chính quyền cụ thể. Đường 
lối quí vị cai trị xứ sở của quí vị có thể không phải là đường lối của Hồi giáo 
hay Do Thái giáo hoặc Kitô giáo. Danh xưng thường được sử dụng nhưng thực tế 
không phản ảnh những gì tôn giáo dạy.
Nạn tẩy chay bài trừ Kitô Giáo (Christianophobia)
Tôi 
muốn nói thẳng rằng Kitô hữu đang bị săn đuổi khỏi Trung Đông. Ở một số trường 
hợp, như chúng ta đã thấy ở Iraq, tại vùng 
Mosul, họ đã phải ra đi hay phải trả một thứ thuế không cần thiết. Đôi khi họ 
săn đuổi chúng ta một cách nhẹ nhàng. 
Đối thoại liên tôn
Tôi 
có lẽ đã 
có được 
một 
cuộc nói chuyện tuyệt vời nhất với vị chủ tịch Tôn Giáo vụ và ban của ông ấy. 
Khi vị tân lãnh sự Thổ Nhĩ Kỳ đến Tòa Thánh để trình ủy nhiệm thư của mình thì 
tôi đã thấy được một con người đặc biệt, một con người sâu xa đạo hạnh. Họ đã 
nói rằng: 'Giờ đây 
dường như việc đối thoại liên tôn đã tới chỗ chấm 
dứt'. 
Chúng 
ta cần phải cất bỏ rào cản. Chúng ta cần thực hiện cuộc đối thoại giữa các nhân 
vật tôn giáo thuộc những niềm tin khác nhau, và đó là điều tốt đẹp, ở 
chỗ, những con người nam nữ này gặp gỡ những con người nam nữ khác để chia sẻ 
cảm nghiệm: nó không phải là thần học đang được nói tới mà là cảm nghiệm.  
Cầu nguyện ở Đền Thờ
Tôi đến Thổ Nhĩ Kỳ như là một người hành hương chứ không phải như 
một kẻ du lịch. Và 
tôi đã đến đặc biệt là vì lễ hôm nay được Đức Thượng Phụ Bartholomew cử hành. 
Khi tôi vào đền thờ ấy tôi không thể nói rằng giờ đây tôi là một kẻ du lịch! 
Tôi đã thấy nơi tuyệt vời ấy; vị Học Giả đã giải thích các thứ cho tôi nghe một 
cách rất rõ ràng, ông tỏ ra hết sức dịu 
dàng; ông đã trích Kinh Koran khi ông nói về Đức Maria và 
Thánh Gioan Tẩy Giả. Lúc bấy giờ tôi cảm thấy cần cầu nguyện. Bởi thế tôi đã hỏi ông 
ta rằng: Chúng ta cầu nguyện một chút được không? Ông đã trả lời: 'Vâng, vâng'. 
Tôi đã cầu nguyện cho Thổ Nhĩ Kỳ, cho hòa bình, cho vị Học Giả này, 
cho hết mọi người và cho chính bản thân tôi nữa... 
Tôi nguyện rằng: lạy Chúa, xin giúp chúng con chấm dứt các cuộc chiến tranh 
này! Đó là một giây phút cầu nguyện chân thành. 
Về Đại Kết
Tháng vừa rồi, Đức Tổng Giám Mục Hilarion đã tham dự Thượng Nghị 
Giám Mục Thế Giới với tư cách là đại biểu, và ngài đã nói với tôi không phải như 
là một đại biểu của Thượng Nghị mà với tư cách là một vị Chủ Tịch của ủy ban đối 
thoại Chính Thống Giáo và Công Giáo. Chúng tôi đã nói chuyện với 
nhau một lúc. Tôi tin rằng chúng ta đang tiến lên nơi các 
mối liên hệ của chúng ta với Chính Thống giáo, họ có các bí tích và cả truyền 
thống thừa kế tông đồ, chúng ta đang trên đà tiến 
tới. Nếu chúng ta chờ đợi các thần học gia đạt được đồng 
thuận thì ngày ấy sẽ chẳng bao giờ xẩy ra! Tôi đặt vấn đề về các thần học gia 
làm được việc, nhưng Athenagoras (biệt chú của người dịch: Athenagoras là một 
triết gia Hy Lạp đã trở lại Kitô giáo vào thế kỷ thứ 2 và đã trở thành một trong 
những vị Giáo Phụ của Giáo Hội) đã 
nói: 'Chúng ta hãy đưa các thần học gia ra ngoài một 
hòn đảo để họ bàn luận với nhau rồi chúng 
ta mới 
tiếp tục vấn đề được!' Hiệp 
nhất là một cuộc hành trình chúng ta cần cùng nhau tiếp tục, nó là vấn đề đại 
kết thiêng liêng, là việc cùng nhau cầu nguyện, cùng nhau hoạt động. Rồi có cả 
vấn đề đại kết về 
máu huyết nữa: khi họ sát hại Kitô hữu thì máu được trộn lẫn. Những vị tử đạo 
của chúng ta đang kêu lên rằng: chúng tôi chỉ là một. Đó là ý nghĩa của việc 
tử đạo về máu. Chúng ta cần phải can đảm theo đuổi đường 
lối này và tiếp tục tiến tới. Có lẽ một số người không thể 
hiểu điều này. Các Giáo Hội Công Giáo Đông 
Phương có quyền được hiện hữu, thế nhưng tình trạng hiệp 
nhất (chữ uniatism ở đây ám chỉ một số Giáo Hội Chính Thống Đông Phương sau 
khi chung Chính Thống Giáo Đông Phương tách khỏi Giáo Hội Công Giáo Rôma năm 
1054 đã trở về tái hiệp nhất với Giáo Hội Công Giáo Rôma nên được gọi là Giáo 
Hội Công Giáo Đông Phương - biệt chú của người dịch) 
là một chữ lỗi thời (a dated word), cần phải tìm một giải pháp khác. 
Tôi muốn gặp Đức Thượng Phụ Mạc Tư Khoa
Tôi đã nói với Đức Thượng 
Phụ Kiril rằng chúng ta có thể gặp nhau ở bất cứ nơi nào, ngài cứ gọi cho tôi là 
tôi đến. Thế nhưng ngài đang có đủ thứ trên mâm của ngài vào lúc này những gì 
liên quan tới chiến tranh ở Ukraine. Cả hai chúng tôi đều muốn gặp nhau và tiến 
tới. Đức Tổng Giám Mục Hilarion đã đề 
nghị ủy ban đối thoại Chính Thống Giáo và Công Giáo tổ chức một cuộc họp học hỏi 
về vấn đề vai trò tối 
thượng quyền. Chúng 
ta cần phải tiếp tục theo bước chân của Đức Gioan Phaolô II: xin giúp tôi 
tìm được một giải pháp cho vấn đề tối thượng quyền để 
làm sao các Giáo Hội Chính Thống cũng 
có thể chấp nhận.
Nguồn gốc chia rẽ giữa các Giáo Hội
Những gì tôi cảm thấy thấm thía nhất về con đường hướng tới hiệp 
nhất này thì tôi đã đề cập đến ở bài giảng hôm qua về Thánh Linh, đó là, đường 
lối của Thánh Linh là con đường thẳng duy nhất, Ngài có đầy 
những gì là lạ lùng, Ngài là Đấng sáng tạo. Vấn đề - như tôi đã nói trong công 
nghị trước Mật Nghị Bầu Giáo Hoàng rằng điều này có thể là 
những gì tự nhận định - là ở 
chỗ Giáo Hội có thói quen xấu xa và lầm lỗi khi quá thấu thị (the 
Church has the bad and sinful habit of being too inward-looking), như 
thể tin rằng mình chiếu tỏa ra ánh sáng của chính mình. Giáo 
Hội không có thứ ánh sáng riêng, mà 
cần nhìn vào Chúa Giêsu Kitô. Các thứ chia rẽ xẩy ra vì Giáo Hội đã tập trung 
vào bản thân mình quá sức. Ở bàn gặp nhau hôm nay, Đức Bartholomew và tôi đã nói 
về giây phút vị hồng y đến báo cho biết việc Giáo Hoàng tuyệt thông Thượng 
Phụ: Giáo Hội đã tập trung vào bản thân mình quá sức trong lúc ấy. 
Khi người ta tập 
trung vào bản thân mình thì họ hóa ra tự qui 
chiếu (self-referential).
Về tối 
thượng quyền trong Giáo Hội
Chính Thống giáo chấp nhận tối 
thượng quyền, ở chỗ, trong kinh cầu hôm nay, họ đã cầu cho vị mục tử và đầu não 
của họ, "vị dẫn đường". Họ đọc như thế trước mặt tôi hôm nay. Chúng ta cần phải 
nhìn lại thiên niên kỷ thứ nhất để tìm kiếm một giải pháp khả chấp. Tôi không 
nói rằng Giáo Hội đã làm sai hết mọi sự (trong thiên niên kỷ thứ hai), không, 
không phải thế! Giáo Hội đã mở ra con đường lịch sử của mình. Thế nhưng giờ đây 
con đường tiến tới đó là theo đuổi điều yêu cầu của Đức 
Gioan Phaolô II.
Thành phần cực bảo thủ (the ultraconservatives) tỏ ra ngờ vực những đường lối cởi mở
Tôi xin nói rằng vấn đề này không phải chỉ của 
chúng ta mà thôi. Đây cũng là vấn đề họ đối diện, Chính Thống giáo, một số đan 
dĩ và một số đan viện. Chẳng hạn từ những ngày khi Chân Phước Phaolô VI còn làm 
giáo hoàng đã liên tục bàn đến vấn đề về ngày Phục Sinh mà chúng ta vẫn chưa 
tiến đến chỗ đồng ý với nhau. Cứ đà này thì cháu chắt của chúng ta dám cử hành 
Phục Sinh vào Tháng Tám mất. Chân Phước Phaolô VI đã đề nghị giành ra một ngày, 
một ngày Chúa Nhật trong Tháng Tư. Đức Thượng Phụ Bartholomew đã tỏ ra 
can đảm, đó là chuyện xẩy ra ở Phần Lan, nơi có một cộng đồng Chính Thống nhỏ, 
ngài đã bảo họ có thể cử hành cùng ngày như những tín hữu Lutherô. Có lần tôi ở 
Via della Scrofa thì việc dọn mừng Phục 
Sinh đã được 
diễn tiến, và tôi đã nghe thấy một phần tử thuộc Giáo Hội Đông phương nói 
rằng: Đức Kitô của tôi sẽ sống lại từ trong kẻ chết trong thời gian một 
tháng. Đức Kitô của tôi, Đức Kitô của bạn. Các vấn đề thực sự là đang xẩy ra. 
Thế nhưng chúng ta cần phải tôn trọng và không ngừng 
dấn thân đối thoại, mà 
không làm nhục người khác, không làm lem lấm chính mình, không xì xèo bàn tán. 
Nếu ai không muốn đối thoại, cũng được... 
Thế nhưng, nhẫn 
nại, nhu mì và trao đổi. 
Tôi muốn đến Iraq
Tôi muốn đi đến một trại tị nạn, như thế có 
nghĩa là phải ở thêm một ngày nữa và vì thế là những gì bất khả bởi nhiều lý do, 
không phải lý do riêng tư. Bởi thế mà tôi đã muốn gặp thành phần tị nạn 
trẻ đang được các tu sĩ Dòng Don Bosco chăm 
sóc. Tôi 
muốn lợi dụng dịp này để cám ơn lòng quảng đại của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ. Họ tỏ 
ra quảng đại với những người tị nạn. Các bạn có biết cần phải làm sao để có 
thể cung cấp việc chăm sóc sức khỏe, lương thực, giường nằm và nhà ở cho cả 
triệu người tị nạn hay 
chăng? 
Tôi muốn đến Iraq. Tôi đã nói chuyện với Đức Thượng Phụ Sako. Hiện nay là chuyện 
bất khả. Nếu tôi đến đó ngay bây giờ sẽ là một vấn đề cho các vị có thẩm quyền, 
cho vấn đề an ninh. 
Tôi không nói với Tổng Thống Erdogan về Khối 
Hiệp Nhất Âu Châu
Không, 
chúng tôi đã không nói về điều ấy. Cũng lạ, chúng tôi đã nói về rất nhiều thứ mà 
lại không phải là điều này.
Thế chiến thứ ba và các thứ vũ khí nguyên tử
Tôi 
tin rằng chúng ta đang trải qua một thứ thế chiến thứ ba phân mảnh, một thứ 
chiến tranh ở các vùng, ở 
khắp mọi nơi. Ở 
hậu trường của tình hình này là những thứ đối chọi tranh giành, những vấn đề về chính 
trị và những vấn đề về kinh tế, trong việc gìn 
giữ một hệ 
thống mà 
tâm điểm ngự trị bởi vị 
chúa được gọi là tiền bạc thay vì 
con người. Đằng sau tình hình này còn có cả các thứ lợi lộc về thương mại nữa: 
việc buôn bán các thứ vũ khí là những gì ghê sợ; nó là một trong những thứ buôn 
bán mãnh liệt nhất hiện nay. Vào Tháng 9 năm ngoái, chuyện được 
nói đến là 
Syria có các thứ vũ khí hóa học: tôi không tin Syria ở trong vị thế sản 
xuất các thứ vũ khí hóa học. Ai đã 
bán cho họ những thứ vũ khí này? Một số người trong 
số những 
ai tố cáo họ có những thứ vũ khí này có lẽ là thành phần đứng đầu bán 
các thứ vũ khí đó cho họ? 
Thật là 
cả một 
thứ đại bí ẩn chung quanh việc buôn bán các thứ vũ khí. Nhân 
loại đã không học được bài học của mình về năng lực nguyên tử. Thiên Chúa đã 
trao cho chúng ta việc tạo dựng để chúng ta có thể kiến tạo nên văn hóa từ tình 
trạng thiếu văn hóa này. Con người đã làm điều ấy và đã khám phá ra năng lực 
nguyên tử là những gì mang lại nhiều hữu dụng tích cực nhưng họ cũng 
sử dụng chúng để 
hủy diệt loài người. Tình trạng thiếu văn hóa này cả ở cách thức khác nữa: tôi 
không muốn nói về ngày cùng tháng tận của thế giới này, thế nhưng nó là một thứ 
văn hóa mà tôi gọi là văn hóa "tận số" 
(terminal); sau đó 
các bạn cần phải bắt đầu lại từ tan tành đổ nát, 
như đã xẩy ra cho các thành phố Nagasaki và Hiroshima. 
Việc diệt chủng dân Armenia
Vào 
dịp kỷ niệm việc diệt chủng này, khi ông Erdogan còn làm thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ, 
chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ đã thực hiện một cử chỉ mà một số người cho là quá yếu. Thế 
nhưng ông đã vươn ra và việc ấy bao giờ cũng là những gì tích cực. Bất 
kể việc 
tôi đưa tay ra ít hay nhiều, thì việc ấy luôn là một điều tích cực. Biên giới 
của người Thổ Nhĩ Ký và Armenia là một vấn đề rất cận kề với lòng của tôi: thật 
là tuyệt vời nếu biên giới này được mở ra! Tôi biết có những vấn đề về địa dư 
không giúp được gì cho lắm, thế nhưng chúng ta cần phải cầu nguyện cho việc hòa 
giải này nơi hai dân tộc. Nhiều biến cố đã được sắp xếp cho năm tới để tưởng 
niệm việc diệt chủng dân Armenia, chúng ta hy vọng rằng đường lối của những cử 
chỉ nho nhỏ sẽ được tiếp tục; những bước tiến nho nhỏ hướng đến 
chỗ hòa giải.
Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới Ngoài Lệ III - 2014 và những sứ điệp đối chọi nơi bản tường trình bán kỳ
Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới là một đường lối, là một cuộc hành trình. Nó 
không phải là một nơi Lập Pháp (Parliament), nó là một nơi được bao bọc để 
Thánh Linh có thể lên 
tiếng nói. 
Bản 
tường 
trình đúc kết sẽ không phải là dấu chấm 
dứt cuộc hành trình. Vì thế chúng ta không thể căn cứ vào ý kiến của một người 
hay của một văn kiện soạn thảo. Theo cá nhân mình, tôi không đồng ý với ai công 
khai nói rằng người này nói thế này thế kia. Chỉ có những gì thực sự đã nói mới 
cần phải được công bố chung, và điều này là những gì đã xẩy ra: Thượng Nghị Giám 
Mục Thế Giới không phải là một nơi Lập Pháp. Cần phải bao bọc để Thánh Linh ngỏ 
lời.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch từ
http://vaticaninsider.
Phụ thêm: Đức Thánh Cha Phanxicô vào giờ chót bất ngờ viếng thăm Vị Thượng Phụ lâm trọng bệnh
Trong bài giảng về Thánh Linh hôm Thứ Bảy 
29/11/2014, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi 
lời thăm Đức Thượng Phụ Armenia vắng mặt qua vị đại 
diện của thượng phụ này hiện diện bấy giờ. Bài giảng này không cho biết lý do 
tại sao vị thượng phụ ấy vắng mặt - thì ra ngài bị bệnh trầm trọng. 
Bởi thế, hoàn toàn bất ngờ, vào giờ chót, trước khi về lại Rôma, Đức Thánh Cha 
Phanxicô đã 
quyết định ghé thăm vị thượng phụ này, đó 
là Đức Mesrob Mutafyan, trong nhà 
thương San Salvatore Armenia ở Istanbul. 
Vào Tháng 7/2008, tin tức cho biết vị Thượng Phụ Armenia ở Constantinople ấy bị alzheimers nên từ đó ngài rời khỏi nhiệm vụ và đời sống công khai, nhưng vẫn tiếp tục chính thức là thượng phụ tổng giám mục, có Đức Tổng Giám Mục Aram Atesyan xử lý thường vụ thay ngài. Vào Tháng Giêng 2011, tin tức còn cho biết thêm về tình trạng sức khỏe cả tinh thần lẫn thể lý càng ngày càng tệ.
Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch 
(kèm theo nhan đề và những chỗ nhấn mạnh tự ý)
http://www.zenit.org/en/